@bác HuuLuan:
Tôi nhớ các bác đã kể về điều đặc biệt sau 81 ngày đêm Thành cổ ở sông Thạch Hãn là mọi chỗ quân ta đều bị đẩy sang bờ Bắc, nhưng riêng chỉ có Tích Tường - Như Lệ là ta vẫn bám trụ cả bên bờ Nam và giữ được cho đến Hiệp định Pari.
Bác kể chuyện C17 lập bến vượt ở TT-NL trong giai đoạn này, theo tôi hiểu thì hai bờ đều là quân ta, sao phải chọn bến cẩn thận vậy. Địch nó nằm ở đâu, cách bao xa mà quan sát được bến vượt của ta để nã pháo.
Thêm nữa: thuyền các bác vượt sông khi đó là thuyền caosu, không có máy nổ đẩy thì phải. Vậy các bác chèo tay à? Không nghe nói các bác phải tập chèo lúc nào nhỉ. Tôi nghe nói chèo thuyền (thuyền nan) không dễ, vì có chèo lái và chèo mũi. Không thạo thì thuyền có khi quay tròn.
Chúc bác luôn khỏe và phong độ.
@Trongc6,
1- Sau chiến dịch Bảo vệ thành cổ Quảng trị ( 81 ngày đêm) ta rút ra khỏi khu vực TX Quảng trị . Vậy nên chỉ
Khu vực đối diện TX Quảng trị và vùng phụ cận TX ta phải rút qua sông và lập phòng tuyến bên bờ Bắc . Phần còn lại :
Phía Tây, từ Tích tường đến các cứ điểm trên dãy núi Tây ( Động Ông Đô, chùa Nga... ) Nam THẠCH HÃN sư 308 và 304 vẫn giữ và tranh chấp . Sau tháng 10/72 bàn giao lại cho sư 312 như dưới đây:
Khảo cứu tình hình phòng thủ của sư đoàn 312 thời gian từ T10 -12/72 :
( Trích Lịch sử sư đoàn 312 )
Cuối tháng 10 năm 1972, các Sư đoàn 308, 304 được lệnh rút khỏi Quảng Trị. Bộ tư lệnh Mặt trận giao cho Sư đoàn 312 vào thay thế các ĐVị Sư đoàn 308, 304, phòng ngự kết hợp với tiến công, giữ bằng được tuyến Động ông Do - Chùa Nga - điểm cao 132 -Tích Tường - Như Lệ. Bằng giá nào cũng phải bám trụ được ở Nam sông Thạch Hãn.
Toàn bộ khu vực từ Tích Tường, Như Lệ đến Đối Đá, Động ông Do rộng khoảng 35 ki-lô-mét vuông do Sư đoàn 312 đảm nhiệm. Xác định các khu vực phòng thủ quan trọng gồm: Tích Tường, Như lệ, Đá Đứng,Thạch Lệ cụm điểm cao 15-29-52. cụm điểm cao 134-165 - Khe Trại, cụm điểm cao 132-105, đồi Giang và Động Tiên. Sư đòan 312 tổ chức lực lượng chiến đấu và bố trí các cụm phòng ngự từ Tích Tường - Như Lệ đến các điểm cao 52-29-15, trong đó cụm điểm cao 52-29-15 là cụm trận địa then chốt trong thế trận phòng ngự của sư đoàn. Trung đoàn 141 chuyển từ khu vực Tân Tẹo về phòng ngự trận địa ở cụm điểm cao 105-132, đồi Giang, đồi Ba Cây. Đứng sau trung đoàn 141 là trung đoàn 165 phòng ngự trên các cụm điểm cao 165- 134.
Phía Đông : từ AN TIÊM , chợ Sãi , Nại cửu , Triệu Phong tiếp xuống Long quang, Thanh hội , Cửa Viêt - Nam Thạch hãn ta vẫn giữ và tranh chấp với địch như sau:
Tinh hinh phòng thủ của F325 trong thời gian từ T10 - 11/72 :
1- E 101 T10/72 phòng thủ từ An Tiêm, Chợ Sãi, Nại Cửu. Cuối T10/1972 e101 bàn giao cho e27/ B5 rút ra bắc Cửa Việt (Gio Linh) để củng cố trong thời gian ngắn, đến cuối T11/1972 lại vượt sông Thạch hãn sang bờ nam chốt tại Long Quang, Thanh Hội tới cảng Cửa Việt.
2- E 18 T10 -11 phòng thủ từ Ái tử đến Xuân An, Giang Hến , Nhan biều đến An đôn.
3- E 95 T10 - 11 phòng thủ từ An đôn đến Tích tường - Như lệ đến Đá đứng. Thời gian đầu T10 -11 chủ yếu chốt bên bờ Bắc sông Thạch hãn Phòng thủ chia như sau : K5 chốt giữ khu vực từ An đôn đến Tích tường, K4 chốt Như lệ đến Đá đứng.
K6 cùng BCH tiểu đoàn cùng các đơn vị phối thuộc là thê đội 2, trực chiến và bảo vệ bọc lưng toàn tuyến từ An đôn – Tích tường – Như lệ đến Đá đứng.
Bản đồ phòng thủ của tại Quảng trị T10-12/72 . ( Những điểm đánh dấu đỏ là nơi đã chốt của Ta - ) Bác " Dòm " tý cho biết
Tuyen phong thu E95/ F325 cuoi 72
2- Bến Vượt luôn nằm trong vùng quân ta quản lý nhưng có 2 lý do chọn bến : Pháo tại Quảng trị bắn cả ngày lẫn đêm : bắn cầm canh theo tọa độ, bắn vào khu vực nghi ngờ, bắn vào mục tiêu phát hiện được ... - Mà không chỉ trinh sát pháo, bộ binh NGỤY mà thấy động tĩnh ban đêm là gọi pháo bắn không tiếc đạn. Sát thương tại QT do pháo địch tỷ lệ rất lớn. Còn đạn bắn thẳng, tại NHƯ LỆ lính hai bên chỉ cách con sông, mắt thường ngày nhìn nhau rất rõ.
Bến sông đi ban đêm mà để lại vết, nó quan sát được thì Đêm sau " ĂN ĐỦ " luôn
3- Lính CB chèo thuyền Cao su bằng mái chèo gỗ như Bác nói là ; Chèo và Lái. Chèo thì ai cũng được, qua bờ Nam thì quạt mạnh cho sang nhanh, còn Lái dùng một một chèo thì phải biết phối hợp hai động tác của dân chài là - BÁT và CẬY - để vừa đưa thuyền đi theo hướng định trước. Lính Cũ bọn tôi có học nên tôi bao giờ cũng ngồi LÁI phía sau, còn lính chưa biết thì chỉ Chèo, còn chẳng may còn một mình mà không Lái được thuyền qua sông thì Lính này cũng không tồn tại được, giữa sống và chết con người học được nhanh lắm .
Nói vui có lính bỏ thuyền nhảy xuống sông bơi vì đạn nó bắn dữ quá mà không lái nổi đấy
Còn tôi bị dính một vụ : thuyền quay tròn giữa sông trong khi đạn pháo hai bờ bắn như hoa cải do chở lính thông tin rải dây qua sông sợ quá làm rối dây nên thành cái dây neo thuyền
- May mà cũng thoát ( Tôi đã kể trong câu chuyện đầu tiên ; Người lính công binh bến vượt TÍCH Tường )