Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 06:56:20 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam  (Đọc 160912 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #160 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:02:30 am »

ĐẶNG ĐOÀN BẰNG

Đặng Đoàn Bằng tức Đặng Hữu Bằng tên chính là Đặng Tử Mẫn, năm 1906 xuất dương lấy tên là Đặng Xung Hồng. Ông là con cụ nghè Đặng Hữu Dương, người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, nay là huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đặng Đoàn Bằng thông minh từ nhỏ, giỏi sáng tác thơ văn, phú, câu đối, tính khí cương cường.

Ông xuất dương sang Nhật, theo học trường Chấn Võ giỏi tất cả các môn quân sự, giỏi chữ Hán, chữ Nhật. Năm 1909, ông đậu Thủ khoa. Minh Trị Thiên hoàng (Mút su Hi tô Meifi) là bậc anh hùng canh tân nước Nhật chủ toạ lễ mãn khoá đã tặng riêng ông một chiếc đồng hồ bỏ túi có khắc tên, chữ ký của nhà vua. Khi thực dân Pháp cấu kết với Chính phủ Nhật trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam, ông trở về Trung Quốc học một trường quân sự.

Thượng tuần tháng 2/1912, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Quốc, ông tham dự và được bầu vào bộ chấp hành có 10 uỷ viên. Ông cùng Mai Lão Bạng phụ trách kinh tế. Ông còn giữ chức cố vấn quốc gia, uỷ viên vận động Bắc Kỳ của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Quang Phục hội thành lập hồi tháng 5 năm 1912. Ông là một yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội.

Năm 1913 Đặng Đoàn Bằng cùng Nguyễn Thượng Hiền vượt biên giới về Lạng Sơn vận động lính dõng quê ở tổng Nhân Lý, châu Văn Uyên nổi dậy tấn công đồn Đồng Đăng. Sau trận giao chiến với quân Pháp ở vùng Pắc Luống, nghĩa quân bị thua, nhiều người bị bắt. Ông cùng Nguyễn Thượng Hiền chạy thoát sang Trung Quốc.

Năm 1913 ông tham gia chế bom, lựu đạn trong tô giói Anh ở Hương Cảng. Lựu đạn nổ, ông bị cụt ba ngón tay. Ông trốn thoát chạy về Quảng Đông, Quảng Tây.

Trong mấy năm nương náu ở Quảng Đông, Quảng Tây, ông đã nghiên cứu, tập trung tài liệu viết cuốn “Việt Nam nghĩa liệt sĩ” năm 1918. Ông ghi chép 50 chí sĩ hi sinh cho đất nước như Đặng Thái Phiên, Trần Văn Bình, Trần Đông Phong, Phan Lại Lương, Nguyễn Quỳnh Lâm, Cao Trúc Hải, Hồ Bá Kiện, Hồ Bá Phiến, Phạm Văn Ngôn... Quyển sách này được Phan Bội Châu sửa chữa kỹ, Nguyễn Thượng Hiền đề tựa, in năm 1918 ở Trung Quốc. Sách đã được dịch ra chữ Quốc ngữ, Nhà xuất bản Văn hóa xuất bản năm 1960. Sau đây là một đoạn trong mục “Chép chung chuyện Nguyễn Đức Công, Nguyễn Thức Đường".

... “Nước mất, giặc hoành hành, nhưng bọn vô liêm sỉ đang đua nhau làm nô lệ, ông rất lấy làm thẹn, lúc 15, 16 tuổi, ông đã nuôi cái chí đánh giặc phục quốc, nhưng chưa biết làm với ai. Một hôm ông đến nhà Sào Nam, Sào Nam đưa ông xem bản “Lưu cần huyết lệ tân thư” Ông rất phấn khởi đem về nhà suốt đêm đọc không ngủ. Từ đó bỏ nghê học cũ, chuyên giao kết với các khách gươm rượu. Ông thân dỏ biết, nhưng cũng không ngăn cấm được...

Sau đây là một đoạn trong mục “Lê Khiết”.

... Nguyễn Thân đã đánh dẹp đảng ở Nam Ngãi nên người Pháp cho Thân là giỏi, mới bổ Thân làm kinh lược tiết chế đợi sứ Nghệ Tĩnh. Thân đem Lê Khiết đi theo làm Tán tương, Lê giúp Thân dẹp đảng Nghệ Tĩnh và được bổ chức Bố chánh quyền việc Tổng đốc. Lúc đó Phan Thị Hán bị tình nghi và theo dõi, ông vì mến phục Phan mà hết sức che chở...

Đặng Đoàn Bằng còn có nhiều thơ Điếu các chí sĩ như: Điếu Tăng Bạt Hổ, Điếu Nguyễn Đức Công, Điếu Đỗ Cơ Quang, thơ điếu Hoàng Văn Kỷ, Hà Thành tuấn nghĩa chư liệt sĩ Điếu nghĩa sĩ dân (các tỉnh Trung Kỳ) chống thuế bị hại.

Mùa hè năm 1923, Đặng Đoàn Bằng cùng với Hồ Tùng Mậu, Lê Văn Phan (Lê Hồng Sơn) Nguyễn Giản Khanh (con nuôi cụ Nguyễn Thiện Thuật) Trương Quốc Uy, Lê Cầu (Tống Giáo Cầu), Nguyễn Công Viễn (Lâm Đức Thụ) cùng có chung một chí hướng, cùng sinh sống, học tập tại Hàng Châu sáng lập ra Tân Việt Thanh niên đoàn (còn gọi là Tâm tâm xã).

Khoảng năm 1924, Đặng Đoàn Bằng bị thổ phỉ ở Nam Ninh giết chết, chặt bàn tay phải thành tật của ông bán cho thực dân Pháp ở Bắc Kỳ.





BÙI CHÍNH LỘ

Bùi Chính Lộ còn có tên là Lê Mai Tử. Ông người xã Thanh Thuỷ, nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sớm tham gia phong trào Duy tân, Đông du do Phan Bội Châu, Nguyễn Thành, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân sáng lập. Khi Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Mãi Lão Bạng xuất dương thì ông làm công tác vận động thanh niên xuất dương và vận động tài chính.

Từ sau vụ "Hà thành đầu độc” thất bại thì các công ty buôn bán, thương quán, nhà hàng do Đông du và Đông Kinh nghĩa thục chủ trương đều bị bọn cầm quyền Pháp triệt phá, nếu không triệt phá được thì bao vây cô lập làm cho phá sản, do đó tài chính gây quỹ cho Đông du càng khó khăn hơn. Song Bùi Chính Lộ đã khôn khéo, mưu trí lọt qua được tất cả sự do thám của giặc, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Trong một chuyến đi quyên tiền vào khoảng cuối năm 1911, đầu năm 1912, kịp chuyển ra Hải Phòng để liên lạc gửi sang Trung Quốc cho Phan Bội Châu chi vào việc nuôi anh em ăn học và mua sắm vũ khí. Phan Bội Châu đã biểu dương Bùi Chính Lộ - Lệ Mai Tử trong “Tái sinh truyện” (sống, trở lại) như sau:

Sự nghiệp kinh doanh của cấc đồng chí tôi, nếu không liên lạc vận động thì không thể nào thành công, nhưng liên lạc, vận động lại là việc rất khó khăn, nguy hiểm. Người gánh vác cái trách nhiệm vô cùng khó khăn gian khổ dó chính là Lệ Mai tử. Vì Lệ Mai là người có nhiệt thành, có học vấn, có đảm lược lại có cơ mưu và sở trường về khoa ngôn luận. Giữa trách nhiệm đó là người của Đảng ngày một tiến bộ, tiếng tăm lừng lẫy, kẻ thù rất khiếp sợ, chỉ muốn bắt bằng được ông mới yên lòng”.

Bùi Chính Lộ bị mật thám bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh. Sau đó ông giả chết để thoát khỏi nhà lao.

Tổ chức quyết định đưa ông sang hoạt động ở Xiêm La. Tới Xiêm La ông đã cùng Đặng Thúc Hứa xây dựng cơ sở Trại Cày Bạn Thầm làm nơi sản xuất ra lúa gạo, nơi dừng chân cho các nhà cách mạng Việt Nam từ trong nước trốn qua để xuất dương.

Bùi Chính Lộ đã tuyên truyền, khích lệ bà con thương yêu, giúp đỡ nhau ở nơi đất khách quê người, luôn luôn hướng về Tổ quốc. Mở trường dạy con em Việt Kiều học tiếng Việt, học lịch sử Việt Nam và cho các cháu biết Tổ quốc đang bị giặc Pháp giày xéo. Lớn lên phải có nghĩa vụ giải phóng Tổ quốc.

Bùi Chính Lộ theo đường Xiêm La sang Trung Quốc gặp Phan Bội Châu và các đồng chí. Khi đó Tổng bộ Việt Nam Quang Phục hội chủ trương tổ chức nhiều cuộc bạo động, gây những tiếng vang kinh thiên động địa để kích thích lòng yêu nước của đồng bào.

Mục tiêu là gây tiếng nổ ở cả ba kỳ: Bắc - Trung - Nam. Khi đó Bùi Chính Lộ vừa vượt biên mới sang Xiêm, ở Xiêm La một thời gian rồi sang Trung Quốc, liền xung phong đi. Phan Bội Châu biết rõ ông là người hiểu tình hình địa dư Nam Kỳ liền chấp nhận cho ông đi.

Bùi Chính Lộ đi đường Xiêm La - qua Cao Miên để về Nam Kỳ. Nhưng ông tới Băng Kốc (Xiêm La) thì bị bọn chó săn bám riết, không sao dứt ra được, không thể thoát được, ông liền rút lựu đạn ném giết chết hai tên mật thám. Bọn chúng xô vào bắt, đưa vào nhà lao thì ông tự sát.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #161 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:07:25 am »

NGUYỄN THỨC CANH

Nguyễn Thức Canh sinh khoảng năm 1884 hay 1885, là con trai Sơn phòng sứ Nguyễn Thức Tự và cụ bà là Lê Thị Huệ. Vì ông là con cả, nên còn gọi là Cả Canh, hiệu là Trần Hữu Công, Trần Trọng Khắc. Ông là anh các ông Nguyễn Thức Đường, Nguyễn Thức Bao và Nguyễn Thức Độ.

Ông tham gia phong trào Duy tân hội, xuất dương sang Trung Quốc rồi sang Nhật học khoa văn chương trường Cao đẳng Sư phạm Tôkyô. Học xong ông trở về Trung Quốc. Em ông là Nguyễn Thức Đường (tức Trần Hữu Lực) và Nguyễn Thức Bao cũng xuất dương sang Nhật.
Vì vậy ngày 7/2/1910, Toà án Nam Nghệ An, Chánh án là Trần Đình Phác (Tổng đốc An Tĩnh), Tôn Thất Đạm (Bố chính), Đào Phan Duẩn (Án sát) đã luận tội các bị cáo chạy ra nước ngoài gồm có: Phan Bội Châu, Đặng Thúc Hứa, Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Thức Đường. Sau khi Nguyễn Thức Đường (Trần Hữu Lực) bị bắt ở Xiêm đưa về Hà Nội xử bắn cùng Hoàng Trọng Mậu ở trường bắn Bạch Mai, tháng 6 năm 1915 thì bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương nhận được tin mật báo từ Nhật về cho biết: “Trần Hữu Công chính là Nguyễn Thức Canh, là anh của Trần Hữu Lực, đã ở Nhật nhiều năm, có nhiều bạn bè trong quan chức Nhật”.

Ngày 19/7/1923, Viện cơ mật Nam triều đã ra lệnh truy nã Nguyễn Thức Canh dẫn về giao cho nhà chức trách để luận tội theo luật của triều đình.

“Năm 1924, mật thám Pháp ở Vinh có được một nguồn tin rằng Trần Hữu Công từ Berlin đã gửi một thư về Quảng Châu bàn về việc giúp đỡ Hồ Tùng Mậu. Phong bì mang tên Đức là Kranzlin, số nhà 2 Guthestrasse, Berlin Licheter - Felde, chính quyền Pháp đã nhờ chính quyền Đức điều tra và được biết đó là nhà một ông cách mạng mang tên là Nuchaellis. Tin này sau được xác nhận có Trần Hữu Công quốc tịch Trung Hoa ở nhà người Đức tên là Kranzlin”.

Việc này cũng được Phan Bội Châu xác nhận trong cuốn Phan Bội Châu biên niên như sau:

Mấy năm nay tôi ở Hàng Châu, vì có gánh một việc, tức là giúp cho ông Trần Hữu Công, tức là Trần Trọng Khắc tiên sinh. Ông lưu học ỏ Béc-lin nước Đức. Tôi phải một năm hai lần tháng sáu và tháng chạp, lén lên Thượng Hải để gửi bạc học cho ông Trần.

Và cũng vì chuyến đi này Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giải về Hà Nội.

Tháng 6/1930, mật thám Pháp ở Vinh biết rõ lai lịch của Nguyễn Thức Canh đã từng học ở Nhật, khi học ở Đức có liên lạc với Hồ Tùng Mậu, sau đó gặp Nguyễn Ái Quốc ở Berlin.

Năm 1932, mật thám Pháp lại được tin Trần Hữu Công là quan chức cao cấp của phái đoàn Trung Quốc tại đã trở về Viễn Đông, hiện hành nghề bác sĩ trong một quân cảng ở Thượng Hải, hiện đang ở Hàng Châu, rồi lại có tin ở Nam Kinh.

Năm 1934 sau khi Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần... tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh hội có ra tờ báo lấy tên là “Việt Nam thanh” (Tiếng nói Việt Nam). Những công tác viên chính của tờ báo là Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Trần Hữu Công, Vi Bình Di, Vi Chính Nam...





NGUYỄN THỨC ĐƯỜNG

Nguyễn Thức Đường, hiệu Càn Kiệm, khi đi du học thì đổi là Trần Hữu Lực. Ông sinh năm 1885 tại làng Đông Chữ, nay là xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông là con cụ Nguyễn Thức Tự, giữ chức Sơn phòng sứ. Khi Tự Đức kí Hòa ước với Pháp, cụ cáo quan về quê dạy học, Phan Bội Châu cũng theo học cụ. Ông là em trai Nguyễn Thức Canh, anh trai Nguyễn Thức Bao, cũng xuất dương sang Trung Quốc, Nhật Bản, Đức du học. Nguyễn Thức Đường từ thuở thiếu niên đã là người tuấn tú, thông minh, một người có bản lĩnh, có ý chí. Ông được Phan Bội Châu, học trò của cha mình dìu dắt. Phan Bội Châu viết về ông có đoạn: "Ông Trần Hữu Lực, người Nghệ An, nguyên tên là Nguyễn Thức Đường, con trai Đông Khê tiên sinh là thày học của tôi. Nhà đời đời nghiệp nho, mà tính chất ông khác một cách, có thái độ như một nhà võ sĩ đời xưa. Lúc ông 15 tuổi, thấy được quyển Lưu cần huyết lệ của tôi làm, bèn lấy trộm về nhà, đọc lén một mình, từ đó bỏ quách văn cử nghiệp, không chịu tập nữa, chuyên theo các anh em du hiệp học những việc múa gậy, đánh gươm, đã từng giết một tên cử nhân mà ăn lương chó săn tức là Nguyễn Điềm”. Giết Điềm chết rồi, ông chuyên làm những chính sách bạo động ở trong nước. Ông Ngư Hải sợ làm mất tiền đồ của ông, mới cưỡng bức ông xuất dương. Ông sang Nhật vào học trường Đồng Văn thư viện, và nhanh chóng trở thành một học sinh xuất sắc. (Nguyễn Điềm là tên năm 1902 đã tố cáo với Pháp việc Phan Bội Châu định lấy tỉnh thành Nghệ An).

Sau khi thực dân Pháp ở Đông Dương thông đồng với Chính phủ Nhật trục xuất Phan Bội Châu và học sinh Việt Nam khỏi Nhật Bản, Trần Hữu Lực cũng như Hoàng Trọng Mậu và nhiều học sinh khác về Trung Quốc, ông vừa lao động kiếm sống, vừa học tiếng bạch thoại, tiếng Hoa Bắc, Hoa Nam.

Đúng lúc đó Thái Tùng Ba ở Quảng Tây đương huyện binh có nhà Lục quân cán bộ học đường (còn gọi là Quảng Tây học hiệu) chiêu sinh. Trần Hữu Lực đổi tên, mang quốc tịch Trung Hoa cùng Nguyễn Tiên Đầu, Nguyễn Thái Bạt ba người cùng đồng thời vào nhà quân hiệu học tập nghề làm tướng. Ba năm ở nhà Học hiệu thường hăng hái như tới giữa chiến trường. Sau khi tốt nghiệp trở về Quảng Đông, được bổ làm thiếu úy, xuất lĩnh một đội nhỏ, hễ đến lúc thao luyện, quân sĩ đều kinh sợ lắm”.


(Nguyễn Tiêu Đầu tức Nguyền Bá Trác, về sau đầu thú giặc, viết báo Nam Phong, cuối cùng ra làm quan đến chức Thị lang của triều đình Huế, tay sai đắc lực của thực dân Pháp).

Cách mạng Tân Hợi (1911) thành công, là cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Phan Bội Châu, Nguyễn Thức Đường và nhiều nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc, ở Xiêm đều trở về Quảng Đông. Năm 1912, Phan Bội Châu tuyên bố giải tán Duy tân hội, thành lập một tổ chức cách mạng mới là Việt Nam Quang Phục hội. Trần Hữu Lực được ủy nhiệm cùng Hoàng Trọng Mậu ủy viên trưởng phụ trách Quân vụ viết Tuyên cáo của Việt Nam Quang phục hội và Thư gửi đổng bào Nghệ Tĩnh trong dịp thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Nhưng bọn cai trị Pháp ở Đông Dương đã cấu kết với Long Tế Quang, Tổng đốc Quảng Đông bắt những nhà cách mạng Việt Nam nộp cho Pháp.

Trước tình hình đó, Trần Hữu Lực tự nguyện sang Xiêm La, tổ chức toán quân Việt kiều quang phục. Phan Bội Châu lấy danh nghĩa Quang Phục hội Tổng lý ủy ông làm Trú Xiêm Quang Phục hội chi bộ bộ trưởng. Ông bôn tẩu trên đất Xiêm, hễ chỗ nào có kiều dân Việt Nam là đến tuyên truyền, vận động. Kết quả ông thành lập được đội quân trên 60 người, trang bị vũ khí đầy đủ, dự định vượt biên giới qua Lào đánh vào Nam Trung Bộ. Chính phủ Xiêm đã thỏa thuận với nhà cầm quyền Pháp bắt các nhà cách mạng Việt Nam. Hai tên mật thám Pháp, một tên là Hùng người Bắc Kỳ, một tên người Trung Kỳ được cảnh sát Xiêm giúp sức lùng sục ông ở khắp nơi. Chúng bắt được ông trên một chuyến tầu và được trao cho chính quyền Pháp để đổi lấy tù chính trị người Ấn Độ ở Sài Gòn. Giặc Pháp đưa ông về Hà Nội, giam ở nhà lao Hỏa Lò, chúng biết ông là một nhân vật quan trọng trong tổ chức Việt Nam Quang phục hội, đang chỉ huy một đội quân ở Xiêm nên ra sức dụ dỗ: "Nếu ông thu phục thì sẽ được tha tội". Ông giữ vững ý chí. Bọn mật thám dùng đủ mọi cực hình tra tấn ông, song ông vẫn bền gan, vững chí, không tiết lộ bí mật của tổ chức không hề khai báo một người nào đã về nước và cơ sở của Hội ở trong nước cũng như ở Xiêm.

Không khai thác được gì ở ông, ngày 20 tháng 12 năm Ất Dậu (22 tháng 1 năm 1916) chúng đưa ông cùng với Hoàng Trọng Mậu vừa là bạn, vừa cùng quê, vừa là đồng chí thân thiết của ông, ra bắn ở trường bắn Bạch Mai.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #162 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:09:35 am »

LÝ LIỄU

Lý Liễu quê ở Tam Bình (Vĩnh Long), từ nhỏ đã được sống trong không khí sôi sục cách mạng của gia đình, lại bẩm tính thông minh, nên được cha cho đi học đến nơi đến chốn.

Năm 1907, Phan Bội Châu cho Bùi Chí Nhuận về Nam Kỳ kêu gọi thanh niên xuất dương du học. Lý Liễu khi đó mới khoảng 14-15 tuổi cùng với Nguyễn Truyện, con cụ xã Trinh tuổi cũng xấp xỉ như vậy xuất dương ngay đợt đầu tiên. Sang tới Trung Quốc, Lý Liễu và Nguyễn Truyện được đưa tới Hồng Kông học tại trường Trung Anh học đường.

Lý Liễu vốn bẩm tính cực kỳ thông minh từ nhỏ, lại say sưa học tập nên ngoài chuyên môn, Liễu còn giỏi tiếng Anh, tiếng Trung và biết tiếng Pháp. Lý Liễu hết sức học tập, chờ ngày về nước Việt Nam độc lập thi thố tài năng giúp nước. Nhưng mơ ước đó vĩnh viễn không thành.
Nguyên là cuối tháng 5 năm 1913, một phái đoàn Nam Kỳ do ông Nguyễn Quang Diêu dẫn đầu sang Hồng Kông với mục đích lãnh tín phiếu, mua vũ khí đưa thêm vài học sinh sang du học. Đoàn ngụ ở nhà ông Huỳnh Hưng ở ven đảo Cửu Long. Hai vợ chồng ông Huỳnh Hưng sang Cửu Long ở rất lâu giữ đầu mối liên lạc giữa các đồng chí ở Trung Quốc với các đồng chí ở trong nước. Vì vậy khi nghe tin phái đoàn đến, Lý Liễu và Nguyễn Truyện sang nhà Huỳnh Hưng hỏi thăm tin tức gia đình.

Ngày 16 tháng 6 năm 1913 do có kẻ chỉ điểm, mật thám Anh ập đến nhà Huỳnh Hưng khám xét, bắt được 13 quả tạc đạn, bắt hết những người có mặt. Lý Liễu vừa đến cũng bị cảnh sát bắt, Huỳnh Hưng nhận mình mua số tạc đạn đó, những người khác không biết. Tòa án Anh ở Hồng Kông xử Huỳnh Hưng án tù, còn những người khác bị cảnh sát Anh giao cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương.

Mùa đông năm 1913, Lý Liễu và các đồng chí bị cảnh sát Anh giao cho cảnh sát Đông Dương. Mọi người bị bọn mật thám tra tấn cực kỳ dã man. Cuối năm 1913, Tòa án Đại hình đặc biệt xử tại Hà Nội, trong đó Lý Liễu bị án nhẹ nhất là 5 năm khổ sai. Nguyễn Truyện tự tử, Nguyễn Thần Hiến nhịn ăn chết. Lý Liễu, Nguyễn Quang Diêu, Đinh Hữu Thuật, Trần Ngọ đều bị đầy đi Guyane (Nam Mỹ). Tại đây, ông là người thông báo tin tức, đấu tranh đòi quyền lợi như quần áo, thuốc men, nhận thư từ từ trong nước gửi sang, và chuyển thư của anh em về nước.

Do Lý Liễu quen biết thân thiết với nhiều kiều dân Hoa sống ở Guyane, ông ngỏ ý vượt ngục và nhờ họ giúp đỡ. Họ đã giúp ông trốn sang Trinidad và được kiều dân Trung Hoa ở đảo Trindad sắp xếp công ăn việc làm ổn định, lo giấy tờ hợp pháp: quốc tịch Trung Hoa.

Lý Liễu ở trong thương hội một thời gian rồi lấy vợ người Anh. Mặc dù sống nơi đất khách song ông vẫn không nguôi nhớ về quê hương. Ông tìm cách trở về Việt Nam Đổi tên là Lý Phùng Xuân. Thực dân Pháp biết ông trở về, sai người chiêu dụ ông ra đầu thú sẽ được làm quan. Ông phản đối, phải trốn về vùng quê hoạt động vẫn vững vàng một lòng tranh đấu.

Khoảng năm 1933 - 1934, ông đang lẩn trốn trong một căn nhà lá nhỏ bên Lộ Kế Ông tỉnh Vĩnh Long, cách quận lỵ An Hóa không xa thì bị lính Pháp đến bao vây bắt được.

Tòa án thực dân Pháp gán cho ông tội gây loạn, phá rối trị an, lại truy cái án vượt ngục ở Guyane ngày trước, kết án tù 15 năm khổ sai, đầy ra Côn Đảo. Lý Liễu không chịu đựng được sự khổ sở nhọc nhằn trong cảnh lao tù, ốm đau trong thời gian dài. Cách mạng tháng Tám ra rước tù chính trị về, ông được cử làm Chủ tịch huyện An Hóa, tỉnh Vĩnh Long.





ĐỘI PHẤN

Đội Phấn tên thật là Hồ Trọng Phấn, còn gọi là Hồ Bá Phấn, Hồ Sỹ Phấn, tên chữ là Càn Thái, ông quê ở xã Nghi Vạn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông xuất thân từ một gia đình nông dân, ít được học hành, nhưng bản tính ông cương dũng, chuộng làm việc nghĩa, giàu lòng yêu nước. Khi giặc Pháp hạ thành Nghệ An, tuy còn ít tuổi nhưng ông đã theo nghĩa quân chiến đấu.

Hồ Trọng Phấn nhận thấy muốn đánh thắng quân Pháp thì phải học cách cầm quân, biết cách sử dụng binh khí hiện đại của quân Pháp thì mới đánh thắng được chúng. Nghĩ vậy ông trở về làng, xin vào lính bản địa (còn gọi là lính khố xanh). Ở lính vài năm, ông lập được nhiều công trạng, quan binh Pháp thấy ông tài giỏi lại có lòng trung thành với mẫu quốc, nên cho làm chức đội trưởng, được chỉ huy một tiểu đội lính tập, tiểu đội thời đó có đến 50 người. Vài năm sau, ông được lên tới chức Chánh đội trưởng, chỉ huy 100 lính tập được học tập, nghiên cứu, tìm tòi chiến lược, lập kế hoạch đánh trận. Ông cùng binh lính gần gũi nhau giúp đỡ nhau trong cuộc sống khi phải xa nhà, vì vậy binh lính quý mến ông, coi ông như người anh cả và nghe lời ông.

Năm 1907 phong trào Duy tân phát triển mạnh mẽ ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Một số nhân vật thuộc phái "Ám xã" như Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thị Thanh biết Hồ Trọng Phấn tuy đi lính cho Pháp, làm tới chức Chánh đội trưởng, nhưng là người yêu nước, xưa đã từng ở hàng ngũ nghĩa quân, chưa gây tội ác với nhân dân, nên đã gặp gỡ tuyên truyền bí mật gia nhập Duy tân hội. Nhằm huấn luyện cho các hội viên hội Duy Tân biết kỹ thuật quân sự và sử dụng vũ khí mới, ông lấy lý do thu nhận ỉính mới để bổ sung cho lính già yếu. Ông tận tâm huấn luyện quân sự cho anh em để anh em nhanh chóng có khả năng chỉ huy một đội nghĩa quân. Anh em cũng hiểu rõ mục đích vào lính của mình nên tất thảy đều cố gắng học tập, tiến bộ rất nhanh.

Tháng 5 năm Mậu Thân (1908) phong trào "Xin xâu”, "Chống thuế" từ Quảng Nam lan ra Nghệ An, Hà Tĩnh khiến cho nhà cầm quyền Pháp và Nam triều phải đối phó. Đội Phấn nhận định thời cơ khởi nghĩa đã đến, ông chỉ huy trên 100 lính phản chiến, phối hợp với quân của Quản Truyền, Quản Lại cũng bí mật gia nhập Duy tân hội như ông nổi dậy cướp thành Hà Tĩnh là nơi ông đóng quân.

Song vào thời điểm 1907, 1908 thực dân Pháp và Nam triều đã ổn định được bộ máy cai trị ở các tỉnh Trung Kỳ, Bắc Kỳ, vì vậy quân khởi nghĩa chiếm thành được vài tiếng đồng hổ thì quân Pháp kéo đến phản công, bao vây, tấn công quân khởi nghĩa quyết liệt. Quân khởi nghĩa ít, trang bị kém nên chỉ cầm cự được vài tiếng, đồng đội của ông một số hy sinh, một số bỏ chạy. Khi quân Pháp tràn được vào thành, Đội Phấn cùng một số quân khởi nghĩa chạy thoát, đến ở một cơ sở bí mật của Duy tân hội ở ngoài thành. Đội Phấn cùng các ông Lê Quyên, Ngô Đảng bí mật chiêu mộ quân. Đội Phấn còn bí mật trở về Hà Tĩnh chiêu tập lính khố xanh, khố đỏ Pháp cho giải ngũ và thanh niên yêu nước về căn cứ Bố Lư ở huyện Thanh Chương để huấn luyện quân sự.

Sau những năm ở trong quân đội Pháp, Đội Phấn đã rút ra bài học là quân không cốt ở đông, mà cốt ở tinh luyện, thành thục các động tác chiến đấu biết lợi dụng địa hình, địa vật để bố trí trận đánh cho phù hợp để lấy ít địch được nhiều, lấy vũ khí thô sơ thắng vũ khí hiện đại, vì vậy ông rất coi trọng việc huấn luyện quân sự cho nghĩa quân. Đội Phấn còn đặc biệt quan tâm đến trang bị vũ khí hiện đại cho nghĩa quân. Trong một trận chiến đấu tại một đồn binh Pháp ở huyện Thanh Chương do Đội Phấn chủ quan nên bị quân Pháp bắt. Song ông đã mưu trí đánh lừa giặc, giết lính canh rồi trốn thoát. Ngày 16 tháng 2 năm 1910, Tòa án binh của thực dân Pháp kết án ông tử hình vắng mặt.

Ông nhận thấy chiến đấu với quân Pháp nếu lực lượng của ta nhỏ không thể thắng được, nên đã bàn với các ông Lê Quyên, Ngô Đảng sáp nhập vào lực lượng nghĩa quân do Đặng Thái Thân lãnh đạo. Ồng đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu với quân Pháp rất nhiều trận. Nghe đến tên Đội Phấn là quân Pháp và quân Nam triều rất kinh hoàng.

Năm 1912, Phan Bội Châu tuyên bố giải thể Duy tân hội, thành lập Việt Nam Quang Phục hội, Hội thành lập Phục quốc quân, Đội Phấn, Đội Quyên chuyển sang hoạt động cho Việt Nam Quang Phục hội. Đội Phấn, Đội Quyên đang tập hợp lực lượng để đánh thành Nghệ An, nhưng súng đạn chưa đủ, còn phải đợi hàng tuần nữa để tìm cách cướp xưởng binh khí của địch. Mật thám Pháp dò biết đem đại binh đến bao vây đồn bắt được ông.

Ngày 3 tháng 7 năm 1916, giặc Pháp chém ông ở quán Thầu Dầu, thành phố Vinh. Lúc ông bị giết có một người lính vệ binh tự tử theo.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #163 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:12:10 am »

HỒ PHI HUYỀN

Hồ Phi Huyền còn gọi là Hồ Phi Thống, ông là cháu năm đời Hồ Phi Tích, là cháu ngoại tiến sĩ Văn Đức Giai, là con cử nhân Hồ Phi Tự - một nhân vật quan trọng trong phong trào Cần vương ở Nghệ An.

Ông sinh năm 1879 tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Phi Huyền sớm nổi tiếng thông minh và cương trực.

Ông đậu cử nhân khoa thi Hương ở Nghệ An năm Canh Tý (1900) khi 21 tuổi, đồng khoa với Phan Bội Châu.

Ông không ra làm quan mà hoạt động trong Duy tân hội và phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi xướng và lãnh đạo. Ông bị thực dân Pháp bắt và kết án tù.

Ra tù, khoảng từ 1910 đến 1915, Hồ Phi Huyền dạy học, làm thuốc và viết sách.

Ông tổ chức các lớp học kiểu mới dạy cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ, toán, vẽ, thể dục, âm nhạc, đánh cờ. Thông qua sách báo của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vy là các nhà cải cách lớn ở Trung Quốc, ông truyền bá tư tưởng dân chủ và tinh thần yêu nước cho học sinh. Hồ Phi Huyền còn là một nhà một nhà trước tác chủ yếu là về triết học, y học, văn học. Trong đó "Nhân đạo quyền hành'' do ông soạn thảo từ năm 1920 bằng Hán văn đăng trên Nam Phong, nãm 1929 dịch ra tiếng Việt đăng trên báo Thanh - Nghệ - Tĩnh năm 1934, in thành sách năm 1936. Quyển sách mỏng có 100 trang nhưng có tầm tư duy cao. Sách ra đời được nhiều người chú ý.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao phẩm chất và tư tưởng cũng như trước tác của Hồ Phi Huyền.

Nhà văn Sơn Tùng đã ghi lại Hồi ký của ông Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Hồ Chủ tịch từ Hội nghị Tân Trào.

Chuyện này xảy ra vào năm 1946 khi đất nước đang bị lâm nguy. Ở phía Bắc thì từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16, 20 vạn quân Tưởng, kéo theo bọn phản động tràn vào với âm mưu lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh; ở phía Nam vĩ tuyến 16 trở vào thì giặc Pháp núp sau quân Anh - Ấn gây hấn ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ. Giữa lúc đất nước đang lâm nguy như vậy, Hồ Chủ tịch tìm đến tận phòng làm việc của ông Huỳnh. Bác bảo: “Lần này có việc ủy thác chú đi mời đón một nhà túc nho thông thiên địa nhân. Bậc nho sĩ này đồng khoa, đồng đạo với các cụ Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế”. Tôi (V.Đ.H) đi đón khách... Bữa cơm đãi khách thật đạm bạc mà ngon lành thanh khiết. Hồ Chủ tịch đón tiếp cụ Hồ Phi Huyền không đơn thuần như một vị nhân sĩ, mà còn là một bậc thân tri cố cựu... Mời cụ ra giúp nước, nhưng cụ biết mệnh phận không còn. Cụ phải thốt ra: "Quốc gia đa cổ, các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng Đoàn đều ra gánh vác việc nước với cụ Hồ, tôi thì mệnh tận”. Tuy mệnh tận, ra gặp Bác Hồ, khi bái biệt, cụ còn thưa: "Xin Chủ tịch lưu tâu, thời mệnh trong thế cực này, chúng ta phải trải qua: thiên đô bảo chủ quốc tôn, độn thổ trường kỳ kháng địch”. Sau đố cụ Hồ Phi Huyền trở về quê và mất ngày 25 tháng 12 năm 1946, lời tiên tri bỏ thủ đô và kháng chiến trường kỳ là đúng".

Ngoài tác phẩm "Nhân đạo quyền hành” Hồ Phi Huyền còn có các tác phẩm "Y học toát yếu", "Đạm Trai văn tập", "Kỳ thuật" (dạy đánh cờ).





TÔN THẤT DOÃN

Tôn Thất Doãn sinh năm 1858. Sau khi học xong trường Quốc Tử giám, ông được bổ nhiệm làm Thông phán ở dinh Tuần vũ Bình Thuận. Năm 1905, Tôn Thất Doãn, Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang mà một số nhà nho khác đã bí mật gặp gỡ Phan Chu Trinh trong chuyến cụ Phan vào các tỉnh phía Nam tìm bạn đồng tâm.

Năm 1906 Tôn Thất Doãn được bổ làm Tri phủ Hòa Đa ở tỉnh Bình Thuận. Cũng năm đó phong trào Đông du do Phan Bội Châu phát động, phong trào Duy tân do Phan Chu Trinh phát động từ Quảng Nam lan tới tỉnh Bình Thuận. Tôn Thất Doãn đã bí mật tham gia cả hai phong trào đó và đã nhanh chóng trở thành một trong những người lãnh đạo phong trào Đông du và Duy tân ở miền Nam Trung Kỳ. Tôn Thất Doãn là người lập danh sách, cũng là người bảo quản danh sách những người tham gia phong trào Đông du và phong trào Duy tân ở các tỉnh Nam Trung Kỳ đồng thời quản lý phân phối các tài liệu bí mật như Hải Ngoại huyết thư, Lưu cầu huyết lệ tân thư của Phan Bội Châu, Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch.

Nắm vững phương châm hành động của phong trào Duy tân là: "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", Tôn Thất Doãn đã cùng các ông Trương Gia Mô, Hồ Sĩ Tạo, Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh đứng ra mở trường Dục Thanh và thành lập công ty Liên Thành ở Phan Thiết.
Năm 1908, Tôn Thất Doãn được Triều đình Huế bổ nhiệm làm tri huyện Ninh Hòa. Cũng vào thời điểm đó, Trần Quý Cáp giáo thụ huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam được điều về làm giáo thụ huyện Tân Định cũng thuộc tỉnh Khánh Hòa. Từ đó hai người quen biết nhau và trở thành đôi bạn thân thiết, thường cùng nhau bàn luận về thời cuộc, kể cho nhau nghe những thủ đoạn áp bức, bóc lột nhân dân của thực dân Pháp và bè lũ tay sai và bàn kế sách vận động nhân dân đấu tranh.

Thực dân Pháp giết hại Trần Quý Cáp, bắt giam các nhà yêu nước, Tôn Thất Doãn vẫn bền bỉ, củng cố, phát triển phong trào Đông du và Duy tân. Bọn cai trị Pháp biết ông vẫn hoạt động trong phong trào yêu nước, song không có chứng cớ để bắt giam, liền buộc triều đình Huế đổi ông đi nơi khác.

Đầu năm Tân Hợi (1911), Triều đình Huế bổ nhiệm ông làm tri phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Tôn Thất Doãn đã ủng hộ nông dân chống cường hào địa chủ bóc lột tô tức. Những hành động bảo vệ dân của ông không lọt qua được mắt chúng, Khâm sứ Trung Kỳ đòi Triều đình Huế cách chức ông để có cớ bắt giam. Song ông nhờ có người em thúc bá là Tôn Thất Hân làm Thượng thư Bộ Hình, phụ chính đại thần can thiệp với tòa Khâm sứ, nên năm 1913 ông bị điều về kinh giữ chức Thừa chỉ Hàn lâm viện. Tại đây ông lại chắp mối liên lạc với Phan Bội Châu đang ở Trung Quốc và các hội viên Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Kỳ.

Năm 1914, Tòa Khâm sứ Trung kỳ buộc triều đình Huế cách chức ông. Trở về sống ở làng Kim Long, Tôn Thất Doãn lại bí mật liên lạc với Thái Phiên, Trần Cao Vân... cùng những yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội ở Nam Trung Kỳ.

Ngày 3 tháng 5 năm 1916, cuộc khởi nghĩa ở kinh thành Huế do Thái Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo, có sự tham gia của vua Duy Tân thất bại, Thái Phiên, Trần Cao Vân và nhiều yếu nhân khác của Việt Nam Quang Phục hội bị xử chém. Vua Duy Tân bị đầy đi đảo Reunion. Tôn Thất Doãn chán nản, âu sầu vì cảnh mất nước, dân làm nô lệ ông lâm bệnh. Ngày 12 tháng Chạp năm Đinh Tỵ (1/2/1918) ông mất ở tuổi 61.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #164 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:15:16 am »

VÕ HOÀNH

Võ Hoành hiệu Ngọc Tiên, sinh năm 1867 thuộc dòng dõi thế gia quê ở làng Thịnh Liệt, tục gọi là làng Quang, huyện Thanh Đàm, tỉnh Hà Đông, nay Thịnh Liệt thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Võ Hoành đi thi mấy khoa nhưng không đỗ. Ông tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục, là hội viên Tán trợ, lãnh trách nhiệm cổ động và quyên tiền cho trường. Ông còn giữ đầu mối liên lạc với các đồng chí ở trong nước với nước ngoài.

Trường Đông Kinh nghĩa thục được thành lập từ chủ trương của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh hai yếu nhân của hội Duy tân, nhưng cũng là thủ lĩnh của hai xu hướng: bạo động và cải cách, nên trường cũng tập hợp người của hai xu hướng đó. Võ Hoành được coi như người đứng đầu phái theo xu hướng bạo động. Các ông không chỉ đơn thuần là dạy học trò nâng cao kiến thức, mở mang dân trí, mà còn khơi dậy lòng yêu nữớc, căm thù giặc hướng quốc dân đồng bào đi vào con đường vũ trang khởi nghĩa

Những hoạt động tích cực của Võ Hoành đối với trường Đông Kinh Nghĩa thục và trong các tầng lớp nhân dân như truyền bá văn thơ yêu nước trong trường Đông Kinh Nghĩa thục, ngoài xã hội; quan hệ mật thiết với những người có xu hướng bạo động, quyên góp tiền cho trường, ngợi ca cuộc chiến đấu của Đề Thám của ông đã bị mật thám Pháp theo dõi. Sách Đông Kinh nghĩa thục của Chương Thâu đã dẫn nhận xét về ông của thực dân Pháp:

"Một phần tài liệu giảng dạy quan trọng ở trường Đông Kinh từ nước ngoài gửi về, trong đó có những tác phẩm của Phan Bội Châu như Hải ngoại huyết thư được nhà trường dịch ra ba thứ tiếng Hán, Nôm, Quốc ngữ phổ biến rộng rãi. Theo dõi hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục, bọn mật thám phát hiện: "Cứ ba, bốn ngày một lần, Võ Hoành bí mật tập hợp một số người tại nhà riêng để đọc tài liệu từ Hải ngoại gửi về và mưu toan hưởng ứng cuộc bạo động của Phan Bội Châu tổ chức”.

Khi trường Đông Kinh nghĩa thục bị Phủ Thống sứ Bắc Kỳ giải tán, Võ Hoành vẫn bí mật phân phát những tài liệu giảng dạy ở trường trong các tầng lớp nhân dân ở Hà Nội. Cuối năm 1907 khi Thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Hoàng Hoa Thám cử Đội Hổ, Chánh Tỉnh, Chánh Song về bắt liên lạc với ông và các ông Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Quyền, Đồ Đàm, Đội Bình, Đội Nhân thành lập đảng Nghĩa Hưng ở Hà Nội thì Võ Hoành có nhiều đóng góp quan trọng.

Khi vụ "Hà thành đầu độc" năm 1908 nổ ra Võ Hoành cũng nhiều yếu nhân của trường Đông Kinh Nghĩa thục tham gia. "Vụ Hà Thành đầu độc” thất bại, giặc Pháp bắt Võ Hoành kết án chung thân khổ sai đầy ra Côn Đảo. Ông được tha trước thời hạn, năm 1909 nhưng bị bọn Pháp an trí ở Sa Đéc. Tuy bị Pháp an trí, nhưng vẫn hăng hái hoạt động cách mạng. Mặc dù bọn cầm quyền Pháp kiểm soát rất ngặt Võ Hoành vẫn liên lạc được với Nguyễn Quyền bị an trí ở Bến Tre, Dương Bá Trạc bị an trí ở Long Xuyên, Lương Văn Can bị an trí ở Nông Pênh. Năm 1914 cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ Hồ Chủ tịch đã tới Sa Đéc gặp Võ Hoành, cùng gặp gỡ các nhà chí sĩ ở Bắc Kỳ bị an trí ở Nam Kỳ để bàn kế hoạch tổ chức lực lượng yêu nước và cũng để hỏi thăm tin tức của Nguyễn Ái Quốc...





HOÀNG TĂNG BÍ

Hoàng Tăng Bí tự là Nguyên Phu, sinh năm Tân Tỵ (1833) tại làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội.
Ông thi đỗ Á nguyên khoa Bính Ngọ (1906), song không ra làm quan mà tham gia phong trào Duy tân, đi các nơi diễn thuyết, hô hào Duy tân.

Ông tham gia Đông Kinh nghĩa thục từ đầu, sung vào ban giáo dục. Ban này chia làm ba môn: Việt văn, Hán văn, Pháp văn. Hoàng Tăng Bí cùng các ông Nguyễn Quyền, Vũ Trác, Hoàng Tích Phụng, Dương Bá Trạc, Lương Trúc Đàm, Đào Nguyên Phổ dạy Hán văn.

Hoàng Tăng Bí còn tham gia giảng bài, bình thơ vàn yêu nước, diễn thuyết ở trường Đông Kinh nghĩa thục, các phân hiệu ở Hà Nội, Hà Đông về văn thơ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền và của nhiều nhà hoạt động cách mạng khác từ Trung Quốc, Nhật Bản gửi về. Các ông cũng đưa những bài văn thơ đăng trên Đăng cổ tùng báo và Đại Việt Tân báo là cơ quan ngôn luận của trường. Ông là một diễn giả nổi tiếng của Đông Kinh nghĩa thục.

Hoàng Tăng Bí cổ động cho việc phát triển công nghiệp thương nghiệp để phát triển kinh tế của đất nước và là người thực liệm đã cùng với Nguyễn Quyền mở cửa hàng Đông Thành Xương ở phố Hàng Gai vừa buôn bán, vừa làm công nghệ. Ông là người đầu tiên dùng những khung cửi rộng dệt xuyến hoa phù dung lớn rồi nhuộm đen. Hiệu buôn của ông còn sao tẩm chế ra trà Tàu, trà mạn, trà hộp ướp sen và giấy hoa tiên để cạnh tranh với hàng của Hoa kiều.

Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, ông thôi dạy học vẫn tiếp tục mở mang thủ công nghệ, buôn bán và vẫn giữ liên lạc với các yếu nhân, giảng viên Đông Kinh nghĩa thục đàm luận thời cuộc.

Khi vụ "Hà Thành đầu độc" nổ ra, thực dân Pháp đã gán cho những yếu nhân của Đông Kinh nghĩa thục có liên quan chủ mưu trong vụ đầu độc và liên kết với nghĩa quân Yên Thế đánh úp Hà Nội để bắt đưa đi đầy ở Côn Đảo, an trí ở các tỉnh thuộc Nam Kỳ, Cao Miên. Hoàng Tăng Bí cũng bị bắt, nhưng nhờ có nhạc gia là Cao Xuân Dục, Thượng thư bộ Hộ bảo lãnh, được tha, chỉ bị an trí ở Huế. Tại đây ông học tiếng Pháp và Toán, trở thành tinh thông.

Năm 1915 ông ra Hà Nội mở trường dạy học Pháp văn, Toán học, Khoa học thường thức. Ông cũng dạy Việt văn ở trường Tư thục Gia Long (sau đổi là Thăng Long).

Năm Canh Tuất, niên hiệu Duy Tân (1910), ông thi Hội, đậu Phó bảng, nhưng không ra làm quan.

Ông viết báo và dịch các tiểu thuyết của Pháp như Paul et Virginie của Bemadin de Saint-Pierri. Le conte de Monte Cristo đăng trên báo Trung - Bắc tân văn mà ông làm trợ bút. Ông còn soạn các vở tuồng Đệ bát tài tử hoa tiên ký (1913), Nghĩa nặng tình sâu (1926), Thù chồng nợ nước (1927). Các vở tuồng của ông đều mượn tích xưa để kêu gọi đồng bào vùng lên đánh đuổi quân thù.

Hoàng Tăng Bí qua đời năm 1939.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #165 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:18:36 am »

TRẦN QUÝ CÁP

Trần Quý Cáp còn có tên là Nghị, tự Dã Hàng, lại tự là Thích Phu, hiệu Thai Xuyên. Ông sinh năm Canh Ngọ (1870), quê ở thôn Đài La, làng Bát Nhị, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông thông minh, học giỏi, nhưng thi Hương ba khóa chỉ đậu Tú tài. Vì nhà nghèo, ông phải đi dạy học thêm ở nhà Bố chính Nguyễn Mại.
Trần Quý Cáp đỗ tú tài liền ba khóa, theo lệ coi như đã đỗ cử nhân, được vào thi Hội. Ông đỗ Tam giáp tiến sĩ khoa Giáp Thìn (Thành Thái 16 năm 1904).

Trần Quý Cáp không muốn làm quan, mà dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng. Thời gian đầu Trần Quý Cáp thuộc nhóm Duy tân hội (bạo động - cầu ngoại viện) của Phan Bội Châu. Song vì ông còn mẹ già nên không theo Phan Bội Châu sang Nhật Đông du được. Trần Quý Cáp hưởng ứng phong trào cải cách do Phan Chu Trinh khởi xướng và trở thành một nhân vật nhiệt thành với sự nghiệp cải cách.

Năm Ất Tỵ (1905), ba nhà ái quốc Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng lên đường vào Nam du để tuyên truyền cách mạng, quyên góp tiền vào quỹ Đông du.

Trường Thăng Bình là nơi Trần Quý Cáp được cử đến làm giáo thụ, ông mở ngay lớp trong trường của nhà nước, mời thày về dạy chữ quốc ngữ, chữ Pháp, học trò có vài trăm. Các hoạt động mở trường, diễn thuyết do Trần Quý Cáp chủ trương diễn ra sôi động ở tỉnh Quảng Nam, khiến cho bọn cầm quyền Pháp lo ngại.

Ngày 15 tháng 12 năm Duy Tân Thứ nhất (cuối tháng 1/1908), Tổng đốc Quảng Nam là Hồ Đắc Trung có trát cho các tổng, xã trong tỉnh là theo lời công sứ, Trần Quý Cáp, giáo thụ ở phủ Thăng Bình thường vận âu phục, đi lại các xã đánh trống, tụ tập dân chúng diễn thuyết, từ nay cấm Trần Quý Cáp không được làm như thế nữa. Đồng thời lệnh cho các tổng lý thông báo cho dân biết từ nay không được đánh trống, tụ tập diễn thuyết, ai trái lệnh sẽ bị nghiêm trị theo pháp luật, những lý dịch không thực hiện nghiêm lệnh này cũng bị xử phạt. Ngay sau đó nhà cầm quyền Pháp đổi Trần Quý Cáp vào Khánh Hòa.

Đầu tháng 5/1908 xảy ra việc chống thuế ở Quảng Nam. Giữa tháng 5/1908, Trần Quý Cáp từ Nha Trang gửí thư về cho bạn ở Quảng Nam, trong đó có đoạn: "Cận văn ngô châu cử nhất, khoái sự ngô văn chi. Khoái thậm! Khoái thậm!” (Gần đây tôi nghe ở tỉnh nhà, có làm được một việc rất thú. Tôi nghe tin lấy làm khoái lắm! Khoái lắm).

Không ngờ thư bị kiểm duyệt, Phạm Ngọc Quát, Án sát Khánh Hòa vốn xuất thân tú tài bị ông khinh miệt, tìm cách trả thù. Hắn báo việc này với công sứ tỉnh Khánh Hòa là Bréda là nhân vụ chống thuế bắt ông. Hắn không trình lên triều đình Huế, muốn nhân dịp này trừ ông để đánh phá phong trào, vừa để trả thù ông khinh miệt hắn. Hắn thông đồng với công sứ Bréda quan thày của hắn cho lính khám nhà ông. Chúng chỉ bắt được một tấm bản đổ thế giới treo trên tường và tìm được bản "Hải ngoại huyết thư" ở trong tráp. Tội trạng như thế cũng chưa đủ để kết án, song tên Việt gian này đã làm án: "Gia trung quốc thế giới địa đồ bức, ý dục hà vi Sương nội tàng Hải ngoại huyết thư nhất phong tịnh kỳ khả biến. Truy bạn trọng vị hình, nhi bạn tâm dĩ súc kĩ. Kỳ y Trần Quý Cáp, nghĩ ưng xử trảm dĩ vi mưu bạn giả giới” (Trên tường treo một bức bản đồ thế giới, ý muốn làm gì? Trong tráp giấu một phong "Hải ngoại huyết thư" tình đà đủ thấy. Tuy việc phản chưa hình thành nhưng lòng phản đã sẵn. Nghĩa nên xử chém, để những bọn mưu phản làm gương).

Trần Quý Cáp bị bắt khiến dư luận phản ứng mạnh mẽ đòi đưa Trần Quý Cáp ra xét xử công khai. Song tên công sứ Bréda và Phạm Ngọc Quát đã vu khống cho Trần Quý Cáp tội "Có hành động tạo phản chống Nam triều và Chính phủ Bảo hộ".

Phạm Ngọc Quát biết rõ với chứng cớ và lời lẽ trong thư, tấm bản đồ và bản "Hải ngoại huyết thư" chưa thể xử chém, thế nào Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, Bộ Hình cũng can thiệp, hắn tính: “Làm sự đã rồi”, ngày 17/5/1908 nghĩa là 2 ngày sau khi Trần Quý Cáp bị bắt, hắn thông báo sẽ xử theo hình thức "yêu trảm" nghĩa là chém ngang lưng ở bãi Sông Cạn bên cầu Phước Thanh, tục gọi là "Gò chết chém", nơi mà 23 năm trước (1885), giặc -Pháp đã chém Đề Phong (Trịnh Phong) thủ lĩnh phong trào Cần vương tỉnh Khánh Hòa.

Trước khi bị chém ông ung dung đọc bài thơ Tuyệt mệnh.

   "Ai mà sợ chết, chết như chơi
   Chết cũng vì vua, chết bởi thời
   Chết hiếu đã đành xương thịt nát,
   Chết trunq bao quản cổ đầu rơi
   Chết nhân tiếng để hiền muôn thuở
   Chết nghĩa danh nêu biết mấy đời
   Thà chết, chết trong hơn sống đục,
   Ai mà sợ chết, chết như chơi.


Hôm đó là ngày 5 tháng 5 năm 1908, khi đó ông mới 38 tuổi.





TRƯƠNG GIA MÔ

Trương Gia Mô hiệu Cúc Nông, tự là Sư Thánh, sau đổi là Sư Quản, biệt hiệu Hoài Huyền Tử, sinh năm 1806. Ông quê ở Gia Định, nhưng sinh tại làng Hương Điểm, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Tuy sinh ở Bến Tre, nhưng từ thời niên thiếu, Trương Gia Mô sống ở Bình Thuận là chính khi cha ông đương chức Tuần vũ Thuận - Khánh.
Trương Gia Mô bẩm tính thông minh, học giỏi từ nhỏ và tìm đọc rất nhiều loại sách, kể cả sách khoa học, công nghệ, ngoại thương của phương Tây được dịch ra tiếng Hán. Nhờ đó ông tinh thông văn thơ, sử địa, kinh tế, quân sự. Chính vì vậy mà nhân dân gọi ông là Nghè Mô.
Năm Nhâm Thìn (1892), Trương Gia Mô ra Huế được bổ làm thừa phái bộ Công.

Tại bộ Công, ông có điều kiện tiếp xúc với các loại sách do các đoàn đi sứ Trung Quốc, Pháp, Xingapo, Hương Cảng, Hồng Kông mang về. Nhân thượng thư Nguyễn Trọng Hợp được cử đi Pháp đàm phán, Trương Gia Mô gửi bản Điều trần lên vua Tự Đức xin triều đinh cải cách 5 việc:

1. Mở trường dạy học chữ Pháp ở các tỉnh. Dịch sách chữ Pháp và chữ Trung Quốc ra chữ Quốc ngữ để phổ biến rộng rãi ra dân chúng.

2. Chấn hưng công nghệ thực nghiệp, mở rộng việc khai hoang, chăm sóc, chữa bệnh cho bệnh nhân nghèo.

3. Cách chức bọn quan lại tham nhũng, sàng lọc bọn vô dụng trong bộ máy công quyền.

4. Lập Nghị viện, mở báo quán để rộng đường dư luận.

5. Chỉnh đốn hương tục, đẩy mạnh việc giáo hóa trong xã hội, ngăn ngừa sự đồi bại.

Để được trực tiếp quan sát, học hỏi kỹ nghệ phương Tây, đưa về ứng dụng ở Việt Nam, ông làm đơn sung vào sứ đoàn đi Pháp, nhưng cả hai việc ông đề xuất đều không được triều đình chấp nhận. Ông bất mãn, trao trả ấn tín, từ quan về sống ở Lục tỉnh, sau đó lại trở ra Bình Thuận. Ông đã cùng với Nguyễn Lộ Trạch mưu tính việc xuất dương nhưng việc không thành.

Năm 1904, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng "Nam du" để liên kết đồng chí chuẩn bị cho ra đời Hội Duy tân đã dừng chân ở Bình Thuận giao kết với Trương Gia Mô, cùng các thân sĩ hô hào Duy tân, cải cách, tổ chức công ty Liên Thành, thành lập trường Dục Thanh.

Năm Mậu Thân (1908), sau vụ chống thuế ở Quảng Nam, ông bị bọn cầm quyền Pháp kết tội, tham gia vào tổ chức bí mật "đảng hội", bị chúng bắt giam ở nhà lao Khánh Hòa. Nhà ông cũng bị lính của Án sát tỉnh Khánh Hòa Phạm Ngọc Quát lục soát. Phạm Ngọc Quát không tìm được chứng cớ buộc tội ông, nên phải thả ông. Ông trở về nhà lúc đã ngoài 40 tuổi, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Song ông vẫn bí mật liên lạc với Tri phủ Tôn Thất Doãn và các đồng chí trong Duy tân hội ngấm ngầm xây dựng lại phong trào.

Bình sinh Trương Gia Mô rất ghét giặc Pháp, ghét triều đình suy tàn. Khoảng năm 1928 - 1929 ông tiếp xúc với Nguyễn Sinh Sắc. Theo nhân dân miền Nam truyền lại thì khi Bảo Đại ở Pháp về làm vua, ông đi sắm súng sáu để đón đường bắn chết. Việc không thành, ông bị giặc Pháp truy bắt, ông ẩn mình ở núi Sam, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc tỉnh An Giang. Ông muốn tự tử, đốt cả thơ mình. Bị mật thám truy bức ráo riết ông không muốn mình lọt vào tay chúng, đã leo lên tháp cao của pháo đài cổ, gieo mình xuống vực sâu tự tử. Sự việc đó xảy ra vào năm 1929. Các báo Thần Chung, Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn đưa tin và bình luận cái chết của ông với sự kính trọng và thương tiếc. Mộ ông chôn ở chân núi Sam.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #166 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:23:24 am »

BÙI LIÊM

Bùi Liêm sinh năm 1881, người làng Giáp Nhị, xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, song ông dự một khoa thi Hương nhưng không đỗ. Họ hàng có nhiều người làm quan, đưa ông vào học ở trường Hậu bổ, nhưng ông từ chối, liên lạc với các nhà nho yêu nước tìm đường cứu nước. Ông kết bạn với Phan Tuấn Phong ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm.

Năm 1907, Phan Tuấn Phong giới thiệu Bùi Liêm tham gia Đông Kinh nghĩa thục. Bùi Liêm nhận thấy Thái Bình là nơi có phong trào Văn thân chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX, phong trào Đông du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục phát triển, nơi có nhiều trường học dạy theo chương trình của trường Đông Kinh nghĩa thục, nên liền về huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình mở một cửa hàng Tạp hóa vừa để kinh doanh sinh sống, vừa là nơi liên lạc với các nhà nho yêu nước ở Thái Bình, Nam Định, vừa lấy tiền ủng hộ những người xuất dương Đông du. Sau khi Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, Bùi Liêm tham gia phong trào Đông du của Phan Bội Châu.

Giữa năm 1912, nghe tin Việt Nam Quang Phục hội thành lập, Bùi Liêm cùng Đinh Trọng Liên, Nguyễn Quang Uyên (tức Hồ Hải Thu)... trốn sang Trung Quốc tham gia Việt Nam Quang Phục hội.

Năm 1913, Trung ương Quang Phục Hội cử Nguyễn Trọng Thường, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Khắc Cần, Phạm Văn Tráng về nước ám sát Toàn quyền Albert Sarraut, Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hàn không đạt kết quả mĩ mãn. Năm 1915 Quang Phục Hội lại cử Hoàng Trọng Mậu (Nguyễn Đức Công), Nguyễn Hải Thần, Trần Hữu Lực (Nguyễn Thúc Đường)... về đánh đồn Tả Lùng. Vì sai lầm của Nguyễn Hải Thần trận đánh thất bại, Trần Hữu Lực bị bắt ở Hương Cảng, Hoàng Trọng Mậu bị bắt ở Băng Cốc, rồi hai ông bị xử bắn ở Bạch Mai.

Sau một số lần thất bại, năm 1916 Việt Nam Quang Phục hội lại cử Bùi Liêm và một số đồng chí về nước gây dựng phong trào, nhưng trên đường về nước Bùi Liêm tới Quảng Châu thì bị mật thám bắt giải về nước.

Tại Tòa án Đại hình ngày 6 tháng 11 năm 1916, Bùi Liêm bị giặc Pháp xử bắn tại thành phố Nam Định - là nơi ông tham gia hoạt động.
Trước khi chết ông có thư tạ tội cùng bố, vì đã không giữ trọn đạo hiếu phụng dưỡng cha già. Trong thư có hai câu nói lên chí hướng của mình:

      "Sinh bất tiêm cừu chung hữu hậu
      Tử nhu đắc sở thị hoàn danh"


Dịch:

      Sống chẳng diệt thù ôm hận mãi
      Chết mà đúng chỗ ấy danh thơm.






LÊ ĐÌNH CẨN

Lê Đình Cẩn còn gọi là Lê Cẩn sinh năm Canh Ngọ (1870), người xã Hòa Vinh, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, nay Hòa Nghĩa thuộc huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi.

Lê Đình Cẩn là người thông minh, hiếu học. Ông đậu cử nhân khoa thi Hương năm Quý Mão, Thành Thái thứ 15 (1903) tại trường thi Bình Định, năm 34 tuổi, cùng khóa với Nguyễn Thụy (Nguyễn Sụy). Ông được bổ làm Huấn đạo huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

Sau ông chán cảnh triều đình Huế ngày càng lệ thuộc vào thực dân Pháp, tiếp tay cho chúng đàn áp các phong trào chống Pháp của nhân dân. Vì vậy ông từ quan trở về kết giao với các nhân sĩ mưu việc cứu nước. Ông hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa do Trần Du lãnh đạo.

Năm 1905, 1906, Lê Đình Cẩn tham gia phong trào Duy tân và Đông Du. Ông là một trong số ít người được Phan Bội Châu bàn bạc về Cương lĩnh chương trình hoạt động của Hội và có nhiều đóng góp tích cực cho sự ra đời của Duy tân hội và phong trào Đông Du.

Năm 1908 nổ ra cuộc chống thuế quyết liệt ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, ông tích cực tham gia, trở thành một trong số người lãnh đạo chủ chốt của phong trào này. Lê Đình Cẩn đã cùng Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan, cử Thụy, Tú Chẩm... đi khắp 6 phủ huyện phát động nhân dân nổi dậy chống thuế rầm rộ ở Quảng Ngãi, trở thành cao trào kéo về vây thành Quảng Ngãi tới 10 ngày và trừng trị bọn tay sai của giặc Pháp.

Khi giặc Pháp đàn áp, ông bị giặc Pháp bắt cùng với các ông Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan, cử nhân Nguyễn Thụy, cử Quảng, tú tài Nguyễn Cao Chẩm... Khi bị bắt, ông vẫn ngang nhiên chửi thẳng vào mặt tên tay sai đầu sỏ Nguyễn Thân. Giặc Pháp đưa ông về giam ở nhà lao Quảng Ngãi cùng với Cử Thụy, Tú Chẩm, Tú Tuyên, Cử Quảng, huyện Mai để chờ đưa đi đầy ở Côn Đảo. Tại nhà lao, Lê Đình cẩn làm bài thơ chữ Hán:

   "Cố quốc sơn hà trọng
   Tân triều thế lực khinh
   Hùng tâm vinh đỉnh hoạch
   Tô mộng đoạn nghê kình
   Dục liệu Cao trường khấp
   Ninh tri Cát bất thành
   Túng nhiên lưu nhiệt huyết
   Đồng loại hấp văn minh"


Cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch và in trong tập Thi tù tùng thoại:

      "Non sông ơn vẫn nặng
      Sóng gió cuộc vừa xoay
      Vạc lửa lòng quên sợ
      Tăm kình mộng đuổi ngay
      Khóc đời Cao chư chán(1)
      Hỏng việc Cát nào hay(2)
      Máu nóng đầu trôi chảy
      Văn minh hấp cả bầy".


   (1) Cao Sơn Chinh Chí
   (2) Cát Điền là nhân vật Duy tân Nhật Bản.


Lê Đình cẩn bị chết ở Côn Đảo năm 1915 (Tú Quang cũng bị chết, Nguyễn Cao Chẩm bị bọn chúa đảo sát hại tại đảo).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #167 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:25:08 am »

HOÀNG XUÂN HÀNH

Hoàng Xuân Hành còn gọi là Giám Hành vì con đầu ông tên là Giám, nhân dân thường gọi là cố Giám Hành. Quê ông ở làng Hoàng Trù tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Thanh, tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hoàng Xuân Hành thông minh, văn thơ hay, nhưng mấy lần lều chõng đi thi đều bị trượt vì phạm quy. Ông làm thày đồ ở các làng Dương Phổ, Phù Long.

Nam Đàn là địa phương đầu tiên ở Nghệ An có tổ chức Duy Tân hội do các ông Hoàng Xuân Hành cùng các ông cử nhân Vương Thúc Quý, Trần Văn Lương, Vương Thúc Nghiêm... thành lập. Hoàng Xuân Hành là người dìu dắt Nguyễn Thị Thanh, con của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh sắc vào tổ chức Duy Tân hội.

Ông được Phan Bội Châu tin cậy cử đi Yên Thế cùng với các ông Phạm Văn Ngôn, Vương Thúc Nghiêm, xây dựng đồn điền Tú Nghệ. Ít lâu sau Phan Bội Châu lại điều ông về Nghệ An cùng với các ông Đội Quyên, Đội Phấn, Thần Sơn Ngô Quảng, Lang Sơn... xây dựng căn cứ chống Pháp ở Bố Lư (Thanh Chương) và Đông Hồ (Tân Kỳ). Hoàng Xuân Hành cùng các đồng chí đã phân phát những lời kêu gọi, những vần thơ ứa máu và nước mắt của cụ Phan như Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Khuyến quốc dân trợ tư dư học... đã khơi dậy lòng căm thù giặc Pháp, lòng yêu nước thiết tha của các nho sinh, thanh niên, nhân dân huyện Nam Đàn.

Hoàng Xuân Hành cùng các yếu nhân khác của Duy tân hội và phong trào Đông du đã vận động được nhiều thanh niên xuất dương như Vương Thúc Thoại, Vương Thúc Oánh, Nguyễn Sinh Khánh, Hoàng Tộ...

Năm 1911 cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thành công, năm 1912, Phan Bội Châu triệu tập các yếu nhân của Duy tân hội và phong trào Đông du ở trong nước, ở Trung Hoa, Xiêm La thành lập Việt Nam Quang Phục hội, Phục Quốc quân xây dựng lực lượng vũ trang ở trong nước và ở Trung Hoa. Hai căn cứ Bố Lư và Đông Hồ được củng cố. Hoàng Xuân Hành tích cực hoạt động trong tổ chức này. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ngày càng quyết liệt, nhất là ở làng Dương Phổ nơi ông ngồi dạy học.

Năm 1914 ở đây đã nổ ra phong trào đánh Tây chống áp bức bất công. Phong trào công khai chống thực dân Pháp và Nam triều ở Dương Phổ được các làng Mỹ Thiện, Vạn Lộc, Xuân La noi gương.

Năm 1915 Hoàng Xuân Hành về hoạt động ở thôn Mỹ Thiện, xã Tràng Cát, nay là xã Nam Cát, giáp xã Kim Liên về phía Đông. Do một học trò cũ phản bội chỉ điểm cho giặc Pháp, Hoàng Xuân Hành bị mật thám bắt giải về Vinh. Khi chúng giải đến địa phận huyện Hưng Nguyên, ông cắn lưỡi tự tử, song không chết. Chúng giải ông đến nhà lao Vinh, ông tuyệt thực luôn 9 ngày đêm. Giặc tra tấn ông bằng những đòn dã man, tàn bạo, cũng không lấy được một lời khai. Ngay kẻ thù cũng phải khiếp phục lòng kiên trinh, bất khuất của ông. Tòa án thực dân kết án ông tù 10 năm, đầy đi Lao Bảo.

Năm 1925 Hoàng Xuân Hành được trả tự do. Nghe tin Phan Bội Châu bị quản thúc ở Huế, ông vào ngay Huế thăm người lãnh tụ của phong trào chống Pháp đầu thế kỷ XX.

Hoàng Xuân Hành đã cùng các ông Huỳnh Thúc Kháng, Trần Hoành, Phạm Nghị, Trần Đình Phiên và hai con trai của ông là Phan Nghi Huynh, Phan Nghi Đệ khâm liệm chôn cất ông Phan chu đáo. Ông còn ở lại chăm sóc phần mộ cho cụ Phan cho đến khi cải táng mới trở về quê. Về tới nhà được ba tuần, đúng ngày rằm tháng 10 năm Nhâm Ngọ (22/12/1942) Hoàng Xuân Hành từ biệt cõi đời.





LƯƠNG VĂN CAN

Lương Văn Can tự là Hiếu Liêm, hiệu Ôn Như sinh năm 1854, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông nay là huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây.

Ông sinh trưởng trong một nhà nho có truyền thống khoa bảng. Gia đình có nhà ở số 4 Hàng Đào, Hà Nội, mặt sau là số 10 phố Hàng Quạt.
Lương Văn Can thông minh từ nhỏ theo học cử nhân làng Vũ Thạch là một trường rất nổi tiếng, có đến hàng ngàn học trò (nay là số 7 Tràng Thi).

Năm Lương Văn Can 17 tuổi đã thi Hương vào Tam trường, năm 1871 đỗ cử nhân. Năm 1872 ông thi Hội không đỗ. Triều đình cử làm giáo thụ phủ Hoài Đức, ông không nhận.

Khi thực dân Pháp ổn định được bộ máy cai trị ở Hà Nội mời ông ra làm uỷ viên Hội đồng Thành phố, ông cũng không nhận, ở nhà dạy học, nuôi chí.

Lương Văn Can thấy đất nước ngày càng suy vong, ông mở trường dạy học ở số 4 phố Hàng Đào. Đây cũng là nơi lui tới của các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Dương Bá Trạc... thường đến xướng hoạ văn thơ, đọc tân thư, tân văn, đàm đạo công việc cứu nước.

Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc... cùng các yếu nhân khác đã tích cực triển khai việc mở trường Đông Kinh Nghĩa thục ở Hà Nội...

Cử nhân Lương Văn Can, 53 tuổi là người nhiều tuổi nhất trong số sĩ phu sáng lập được bầu làm Thục trưởng phụ trách Ban Tu thư, Nguyễn Quyền được bầu làm Giám học.

Tháng 12 năm 1907 Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh đóng cửa trường. Năm sau chúng bắt các ông Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Lê Đại, tịch thu sách vở, tài liệu của trường. Tuy vậy thực dân Pháp không đủ chứng cứ kết tội nên phải thả. Song chúng vẫn cho mật thám giám sát chặt chẽ.

Năm 1908 nhân Vụ Hà thành đầu độc, thực dân Pháp liên tục bắt Lương Văn Can, giám học Nguyễn Quyền cùng các giảng viên khác xét hỏi ở Sở Liêm phóng. Chúng căn vặn Lương Văn Can nhiều vấn đề, nhưng trước sau ông chỉ ôn tồn đáp: "Chúng tôi mở trường Nghĩa thục để giúp Chính phủ khai hóa dân trí và Chính phủ đã cho phép. Từ khi Chính phủ rút phép, thì chúng tôi không hoạt động gì nữa!”'. Không có lý do để bắt giữ ông, hơn nữa trông ông đã già, râu tóc bạc trắng như đã 70 tuổi, chúng buộc phải thả, nhưng vẫn giám sát chặt chẽ.

Năm 1913 sau vụ chiến sĩ Việt Nam Quang Phục hội ném bom vào khách sạn "Con gà vàng’’ (ngày 23 tháng 4), thực dân Pháp bắt giam tới mấy trăm người, chúng cho là do nhóm Đông Kinh nghĩa thục chủ trương, nên bắt giam Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Dương Bá Trạc, Nguyễn Cảnh Lâm và nhiều giảng viên khác. Chúng kết án Lương Văn Can 10 năm biệt xứ, đưa đi an trí ở Phnom Pênh.

Năm 1924, sau 9 năm bị an trí ở ông mới được trở về nước. Trong thời gian trở về Hà Nội, Lương Văn Can để hết tâm lực vào soạn các bộ sách: Quốc sự phạm lịch sử ấu học, Tùng đàm và dịch các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử. Ông còn có mối liên hệ mật thiết với các nhà cách mạng như Nguyễn Mậu Cường ở Thái Bình, Phan Bội Châu bị an trí ở Huế, Huỳnh Thúc Kháng...

Sáu giờ sáng ngày 13 tháng 5 năm Đinh Mão (12/6/1927), Lương Văn Can mất đột ngột.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #168 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:27:11 am »

NGUYỄN QUYỀN

Nguyễn Quyền sinh năm 1869, quê ở làng Thượng Trì, tục gọi là làng Đìa, tổng Thượng Mão, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Hoài Thượng huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông thi đỗ tú tài khoa Tân Mão (1891).

Cuối năm 1905, ông được bổ nhiệm làm Huấn đạo Phủ Lạng. Gọi là Phủ, nhưng chỉ là tỉnh nhỏ Lạng Sơn, vì quan Tổng đốc Lạng Sơn là Vi Văn Lý (con trai Vi Văn Định) tư xin phủ Thống sứ bổ cho một quan giáo chức là dạy học trò bản tỉnh. Vì vậy phủ Thống sứ mới bổ nhiệm ông. Nguyễn Quyền dạy học, nhưng học trò ít lắm, nên có thời giờ đọc Tân thư của Trung Quốc, do chí sĩ Duy tân Trung Quốc soạn hoặc dịch của các nước châu Âu, châu Mỹ như "Trung Quốc hồn”, "Quần kỹ quyền giới luận”. Ông cũng đã tiếp thu được những tư tưởng tân tiến trong Tân thư.

Qua một số lần tiếp xúc của Nguyễn Quyền với Lương Văn Can và một số nhà nho yêu nước khác, các cụ đã quyết định mở trường nghĩa thục tại Hà Nội, đặt tên là Đông Kinh nghĩa thục. Với lòng thiết tha đào tạo nhân tài cho đất nước, Nguyễn Quyền từ chức đốc học Lạng Sơn về Hà Nội tổ chức trường. Lương Văn Can được cử làm thục trưởng, Nguyễn Quyền khi đó 38 tuổi được cử làm giám học. Hai ông là những người đứng mũi chịu sào, chèo lái con thuyền Đông Kinh nghĩa thục.

Những hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục khiến cho thực dân Pháp tức tối.

Vì vậy cuối năm 1907, phủ Thống sứ Bắc Kỳ đã ra quyết định rút giấy phép của Đông Kinh nghĩa thục lấy cớ trường này đã làm náo động lòng dân, cấm các cuộc diễn thuyết bình văn, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục bị tịch thu. Đông Kinh nghĩa thục giải tán ít lâu, Thống sứ Bắc Kỳ buộc Nguyễn Quyền trở lại ty giáo huấn với chức vụ giáo thụ phủ Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Nguyễn Quyền về nhận chức giáo thụ ở Phù Ninh được một tháng thì bị giặc Pháp bắt giải về Hà Nội, giam ở Hỏa Lò. Các ông Lê Đại, Võ Hoành, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí... cũng đều bị bắt. Nguyễn Quyền bị giam ở Hỏa Lò 9 tháng thì cùng các ông trên bị Pháp đưa ra Hội đồng Đề hình (Comission criminelle) xét xử. Hội đồng này khép Nguyễn Quyền vào án "Trảm giam hậu” sau đổi thành án khổ sai chung thân đầy ra Côn Đảo vào năm 1909.

Năm 1930, Nguyễn Quyền được trả tự do được coi là "Cứu xét vô can" (Xét ra không can phạm tội gì) nhưng bị an trí ở tỉnh lỵ Bến Tre, Dương Bá Trạc ở Long Xuyên, Võ Hoành ở Sa Đéc, Hoàng Tăng Bí ở Huế, Phan Chu Trinh ở Mỹ Tho.

Nguyễn Quyền bị an trí, song vẫn nặng lòng yêu nước, vẫn giao du với những nhà chí sĩ yêu nước trong vùng lục tỉnh, mở tiệm may tại thị xã Bến Tre làm nơi giao thiệp, liên lạc với bên ngoài, vận động quần chúng góp tiền bạc gửi sang Nhật giúp Phan Bội Châu.

Năm 1941, Nguyễn Quyền bị bệnh bướu ở cổ. Vào 12 giờ đêm ngày 24-6 năm Tân Tỵ (18-7-1941) ông từ trần. Mộ táng ở làng Tân Xuân gần xã Rạch Vạc, tỉnh Sa Đéc).





PHẠM TƯ TRỰC

Phạm Tư Trực hồi nhỏ có tên là Phạm Đăng Thê, tự Bang Phu, hiệu Trọng Thăng Tử, là con ông Phạm Hải, sinh quán ở làng Hoàng Xá, nay thuộc xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Thuở nhỏ Phạm Tư Trực chăm học, lại chăm lo việc nhà nông. Ông đỗ tú tài liền hai khoa Canh Tý (1900) và Quý Mão (1903). Đến khoa Bính Ngọ (1906) ông đỗ cử nhân thủ khoa. Thấy ông là người tài giỏi, chữ đẹp, Hoàng Cao Khải mời ép ông về tư dinh ở Thái Hà ấp chép hộ tập thơ chữ Hán, nhưng thực ra là dụ dỗ ông là làm quan dưới quyền hắn. Phạm Tư Trực lấy cớ còn mẹ già, kiên quyết từ chối xin về. Phủ Thống sứ Bắc Kỳ bổ nhiệm ông làm huấn đạo huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Vốn sẵn lòng yêu nước, ông đã bí mật liên lạc với cử nhân Lương Văn Can, huấn đạo Nguyễn Quyền, hoàng giáp Đào Nguyên Phổ và một số nhà nho khác thành lập trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Ông được cử vào ban Tu thư viết và dịch sách giảng dạy ở nhà trường và dùng làm tài liệu trong các buổi diễn thuyết cổ súy tân học, bình văn thơ yêu nước. Phủ Thống sứ Bắc Kỳ cấp giấy phép cho trường không thể vừa cấp xong đã thu hồi, để đối phó, phủ Thống sứ cũng thành lập ban tu thư, do ông làm trưởng ban, buộc ông viết một cuốn Lịch sử Việt Nam.

Ông đã làm bài thơ chứa chan niềm tự hào dân tộc trong các cuộc chiến thắng ngoại xâm trong lịch sử, thực dân Pháp bèn cách chức trưởng ban tu thư ở phủ thống sứ của ông trả về làm huấn đạo huyện Thanh Miện.

Trong khi giữ chức Huấn đạo ở huyện Thanh Miện, Phạm Tư Trực vẫn làm nhiệm vụ ở ban tu thư. Ông sáng tác thơ văn theo tôn chỉ của trường là ca ngợi tinh thần bất khuất của Tổ tiên trong sự nghiệp đánh giặc cứu nước, khuyên mọi người đồng tâm đồng sức cứu nước.
Lời thơ của Phạm Tư Trực có những câu cứng như thép, quyết liệt được thể hiện trong bài Cải cách lối học:

   Chí làm trai đứng trong trời đất
   Phải sao cho tỏ mặt non sông
   Kìa kìa mấy bậc anh hùng
   Cũng vì thuở trước học không sai đường
   Cuộc hoàn hải liệt cường tranh cạnh
   Mở trí dân giàu mạnh biết bao
   Nước Nam học vấn thế nào
   Chẳng lo bỏ dại lẽ nào còn khôn
   Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
   Phải đem ra tỉnh trước dân ta
   Sách các nước, sách Chi-na
   Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường.


Nhưng trong bài thơ "Mẹ khuyên con'' thì lời thơ lại nhỏ nhẹ, tâm tình, đúng là tiếng tâm sự thủ thỉ của mẹ hiền:

   Con làm sao cho thù báo nghĩa đền
   Cho yên việc nước kẻo phiền mẹ cha
   Con làm sao cho ích nước lợi nhà
   Nước kia có vẹn thì nhà mới xong
   Con làm sao, cho nổi tiếng Lạc Hồng
   Văn minh đôi chữ đọ cùng Á, Âu.


Phạm Tư Trực còn dịch nhiều sách chữ Hán ra chữ Nôm như sách Đại học, Luận Ngữ, Kinh thi. Ông biên soạn các sách Ấu tân học thư, Nam quốc lịch sử giáo khoa thư, Tu thân, Luân lý giáo khoa thư.

Trong khi tham gia hoạt động ở Đông Kinh nghĩa thục, Phạm Tư Trực vẫn bí mật liên lạc với phong trào Đông du do Phan Bội Châu tổ chức.
Phạm Tư Trực mất ngày 15 tháng 3 năm Tân Dậu (1921) tại quê nhà, thọ 53 tuổi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #169 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2012, 10:29:40 am »

PHAN TUẤN PHONG

Phan Tuấn Phong là anh cả Phan Văn Trường quê ở làng Đông Ngạc (Vẽ) huyện Từ Liêm, Hà Nội, ông cùng là Phan Trọng Kiên tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục.

Sách "Đông Kinh nghĩa thục" của Chương Thâu viết về hoạt động của Phan Tuấn Phong đối với trường Đông Kinh nghĩa thục như sau:

"...Ngoài ra còn có nhiều hội viên tán trợ như: Đào Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Lê Đại, Vũ Hoành, Nguyễn Hữu Cầu, Phạm Tất Tuân v.v...”

Phan Tuấn Phong thường có mặt ở Chèm, nơi có đông đảo nhân dân tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Đề phòng bọn cầm quyền Pháp khủng bố những người tham gia, lập một tổ chức bí mật ở một hiệu thuốc Bắc trên bờ đê sông Hổng, làm nơi hội họp nghe bình thơ văn, diễn thuyết. Phan Chu Trinh, Lương Trúc Đàm thường về diễn thuyết bình văn.

Khi Bùi Liêm về Thái Bình cùng các ông Đào Nguyên Phổ, Ngô Quang Đoan, Phạm Tư Trực mở một trường Đông Kinh nghĩa thục ở Thái Bình, Phan Tuấn Phong cũng hết sức khuyến khích, cung cấp một số tài liệu giảng dạy, học tập.

Để có tiền ủng hộ những người xuất dương Đông Du, Bùi Liêm về huyện Thụy Anh mở cửa hàng Tạp hóa thì Phan Tuấn Phong cũng về giúp ông tiền vốn, kinh nghiệm kinh doanh.

Phan Tuấn Phong là một trong những người phụ trách phân hiệu Chèm-Vẽ. Sách Đông Kinh nghĩa thục của Chương Thâu viết: "Ở làng Chèm (Từ Liêm) nhân dân tham gia phong trào khá đông. Họ tổ chức những buổi bình thơ văn, kích động lòng yêu nước. Ở đây họ lập một tổ chức yêu nước hoạt động bí mật đặt trụ sở ở hiệu thuốc Bắc ngay bờ để làm nơi tụ họp. Phan Chu Trinh, Hoàng Tăng Bí cũng thường về đây diễn thuyết, bình văn".

Phan Tuấn Phong là bạn thân với Bùi Liêm quê ở xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì. Biết Bùi Liêm không vào học trường Hậu bổ để ra làm quan, từ năm 1907, Tuấn Phong đã giới thiệu Bùi Liêm vào Đông Kinh nghĩa thục. Sau Bùi Liêm sang Trung Quốc tham gia Việt Nam Quang Phục hội. Năm 1916 nhận lệnh về nước hoạt động, đến Quảng Châu thì bị mật thám Pháp bắt và xử tử hình ngày 6/11/1916 tại thị xã Nam Định.
Sau khi Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh giải tán Đông Kinh nghĩa thục, hiệu thuốc bắc ở làng Chèm cùng nhà nhiều hội viên bị khám xét.
Sau vụ Hà Thành đầu độc ngày 27/5/1908, thực dân Pháp bắt hết các nhà sáng lập, giảng dạy, ủng hộ Đông Kinh nghĩa thục. Phan Tuấn Phong cùng với anh trai là Phan Trọng Kiên bị bắt.

Lịch sử Việt Nam từ năm 1897 đến 1918 cũng viết: "Hoàng Hoa Thám đã lập ra đảng Nghĩa Hưng gồm những nhân vật chủ yếu như Chánh Tỉnh (tức Chánh Sòng), Nguyễn Viết Hanh, tức Đội Hổ, Lý Nho, Đỗ Hà Nam tức Đồ Đản, Nguyễn Văn Phúc, tức Lang Seo. Họ tản về các tỉnh, nhất là về Hà Nội bắt liên lạc với các nhà yêu nước của Đông Kinh nghĩa thục như Lê Đại, Phan Tuấn Phong, Hoàng Tăng Bí, Vũ Hoành".

Phan Tuấn Phong bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo từ năm 1909, đến năm 1911 thì được tha, đưa về đất liền, xác bị quăng xuống biển.





NGHIÊM XUÂN QUẢNG

Nghiêm Xuân Quảng sinh năm 1869, người xã Tây Mỗ nay là thôn Tây Mỗ, xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Ông đỗ cử nhân khoa Giáp Ngọ (1894), đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Thành Thái 7 (1895) năm 26 tuổi.
Lúc đầu bổ làm tri huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Hai năm sau, năm 1897 ông cáo quan về rồi lại ra Hậu bổ Hưng Hóa, lần lượt giữ các chức đốc học Hưng Yên, Án sát Lạng Sơn. Nghiêm Xuân Quảng là một trong bốn người sáng lập ra Đông Kinh nghĩa thục.

Đông Kinh nghĩa thục thành lập ở Hà Nội, Nghiêm Xuân Quảng đang làm Án sát tỉnh Lạng Sơn, từ quan về Hà Nội cùng Lương Văn Can và các yếu nhân khác xây dựng trường. Các ông chủ trương xây dựng trường nghĩa thục ở Hà Nội thật tốt, rồi mở rộng ra chung quanh. Nghiêm Xuân Quảng thành lập một phân hiệu Đông Kinh nghĩa thục ở Tây Mỗ, làng của mình. Phân hiệu do các ông Tú Kình, Đỗ Đàm, Nguyễn Hữu Đạm, Bá Quýnh, Nguyễn Văn Khuyên phụ trách.

Nghiêm Xuân Quảng xuất thân nhà nho, làm tới Đốc học, Án sát, nhưng do đọc nhiều tân thư, tân báo, tiếp xúc với các nhà nho tiến bộ như Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can, Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền... nên có lòng yêu nước. Ông quan điểm muốn cho dân giầu nước mạnh, thì phải mở mang công nghiệp, thương nghiệp. Đó cũng là mục hàng đầu trong cuốn "Quốc dân độc bản”, tài liệu giảng dạy của Đông Kinh nghĩa thục. Vì vậy mà các yếu nhân của Đông Kinh nghĩa thục, các sĩ phu yêu nước từ Nghiêm Xuân Quảng, Đỗ Quang Cơ, Ngô Quang Đoan, Hoàng Tăng Bí... chẳng những chỉ giảng dạy về phát triển công nghiệp, thương nghiệp mà chính các ông cũng mở xưởng công nghệ, mở công ty thương nghiệp như Nghiêm Xuân Quảng thành lập công ty Nghiêm Xuân Quảng ở Thái Bình, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Quyền mở hiệu Đông Thành Xương.

Gương Án sát Nghiêm Xuân Quảng từ quan về tham gia Đông Kinh nghĩa thục và mở hiệu buôn đã lôi cuốn nhiều nhà nho thức thời như Nguyễn Trác mở hiệu buôn sơn ở Việt Trì. Tại Thanh Hóa, công ty Phượng Lâu có từ trước cũng mở rộng kinh doanh, có chi nhánh ở Vinh, Hà Tĩnh. Ở Quảng Nam - Quảng Ngãi có Liên Thành công ty. Ở Nam Kỳ, Nguyễn An Khương (thân sinh Nguyễn An Ninh) - một thủ lĩnh phong trào Duy tân ở Nam Kỳ mở công ty Chiêu Nam Lầu...

Mặc dù làm chủ công ty kinh doanh tơ lụa, nhưng Nghiêm Xuân Quảng vẫn cùng các nhà yêu nước ở Thái Bình như Nguyễn Hữu Cương, Ngô Quang Đoan, Lý Thoa ở huyện Kiến Xương, Tiền Hải, Tú Phan, Lý Bội, Dương Xuân Ngại ở Đông Hưng, Thái Bình vẫn đứng ra mở trường dạy học chữ quốc ngữ cho thanh, thiếu niên. Nội dung dạy theo chương trình của trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội.

Cũng như những nhà nho yêu nước, tiến bộ khác, Nghiêm Xuân Quảng mở công ty tơ lụa với mục đích làm gương, khuyến khích nhân dân làm theo. Tại công ty của ông cũng là nơi nhà yêu nước bàn đinh kế sách cứu nước. Lợi nhuận của các cửa hàng, công ty trên phần lớn tài trợ cho thanh niên xuất dương Đông du.

Khi trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội bị Thống sứ Bắc Kỳ bắt đóng cửa thì các công ty, hiệu buôn, nhà hàng cũng bị nhà cầm quyền Pháp gây khó khăn, một số phá sản, một số phải tự đóng cửa. Công ty Nghiêm Xuân Quảng cũng nằm trong số phận đó. Sau khi Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, Nghiêm Xuân Quảng nghỉ tới 10 năm, sau đó lại ra làm quan và mất vào ngày 8 tháng 5 năm 1941.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM