Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 09:16:32 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam  (Đọc 160889 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #10 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:49:56 pm »

NGUYỄN VĂN HIỂN

Nguyễn Văn Hiển, tự Doãn Trai, người xã Mỹ Chánh, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nay xã Mỹ Chánh thuộc huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị. Ông sinh năm Đinh Hợi (1827). Năm Bính Ngọ (1846), ông 20 tuổi, đỗ Hương cống, năm Đinh Mùi (1847) ông 21 tuổi, đỗ Tiến sĩ.

Thi đỗ Tiến sĩ, ông nhập ngạch Hàn lâm viện Tu soạn. Năm Mậu Thân (1848), Tự Đức nguyên niên, ông được bổ làm Tri phủ Kiến Tường, rồi đổi làm Tri phủ Điện Bàn.

Ông là người sáng suốt, làm việc có kế hoạch, hết lòng vì dân. Những năm đói kém, ông thực hiện việc phát chẩn cho dân có hiệu quả, nhờ vậy ân trạch của triều đình mới đến được dân nghèo. Tuần phủ Gia Định Phạm Thế Hiển nhận mật chỉ về xét tình hình Quảng Nam, thấy việc ông làm ở đây đúng chính thuật trị dân, đem tâu lên. Vua vô cùng ngợi khen, cho thăng Hàn lâm viện Thị độc, nhưng vẫn giữ chức tại phủ đó để khuyến khích những người hết lòng vì dân. Sau vì bà nội già yếu, ông xin về phụng dưỡng bà. Ngoài giờ chăm sóc bà, ông còn mở trường dạy học. Học trò của ông nhiều người thành đạt. Tổng đốc Bùi Quỹ đề cử ông lên vua, ông được bổ làm Đốc học.

Khi quân Pháp xâm lược, đánh phá bán đảo Sơn Trà vào năm 1858. Chúng bị Nguyễn Tri Phương, Ông ích Khiêm, Phạm Thế Hiển cầm chân tại chỗ, liền rút quân vào Nam Kỳ tiến đánh cửa Cần Giờ, theo sông Sài Gòn đánh chiếm tỉnh thành Gia Định. Triều đình cử ông coi sóc quân vụ ở cửa Thi Nại, là cửa biển quan trọng. Ông đã tích cực xây dựng các vị trí phòng thủ, đặt súng đại bác, huấn luyện quân sĩ sử dụng súng bắn nhanh mua của người Anh tại Hồng Kông.

Việc yên, ông được thăng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, cử làm án sát tỉnh Quảng Ngãi. Ông là người am hiểu việc binh có cơ mưu, có tài thao lược, nên được triều đình cử làm Tán tương ở mặt trận Biên Hòa giúp Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Duy xây dựng và giữ Đại đồn Biên Hòa.

Sau Nguyễn Văn Hiển được Triều đình cử làm Phủ doãn Phủ Thừa Thiên. Ông chưa kịp đi thì triều đình thay đổi, cử ông làm Tuyên phủ sứ Phú Yên.

Ông mất khi tại chức mới 39 tuổi, được truy tặng Phú Yên Tuyên phủ sứ.





BÙI HỮU NGHĨA

Bùi Hữu Nghĩa tên cũ là Bùi Quang Nghĩa, sinh năm 1807  trong một gia đình làm nghề chài lưới. Ông gốc người Trung Kỳ, nội tổ di cư vào Nam ở tại Long Tuyền (Bình Thủy), phủ Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh, nay thuộc tỉnh Cần Thơ.

Năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835) đỗ Giải nguyên ở trường thi Hương Gia Định. Ông đỗ thủ khoa, nên còn gọi là Thủ khoa Nghĩa. Thi Hội hỏng, ông được sơ bổ Tri huyện Phước Long (Biên Hòa), sau ông được thăng Tri phủ Trà Vinh, tỉnh Long Hồ.

Bùi Hữu Nghĩa tính tình cương trực, thẳng thắn, không sợ cường quyền, dù là quan trên, nếu có tội, ông vẫn tố cáo. Bấy giờ em vợ Bố chánh Truyện có thái độ hỗn xược, ông cho đánh đòn. Bố chánh Truyện đem lòng thù oán. Nhân việc ông xử vụ án tranh chấp thủy lợi giữa người Thổ và người Tàu. Người Thổ được kiện bèn đập phá đập của người Tàu. Hai bên đánh nhau. Dân Tàu bị chết 8 người. Nhiều dân Thổ bị Bố chánh bắt, bắt cả Bùi Hữu Nghĩa giải về Gia Định đệ đơn lên triều kết tội Bùi Hữu Nghĩa lạm phép giết người.
Vợ ông là Nguyễn Thị Tồn ra Huế kêu với triều đình minh oan cho chồng. Vua giao cho Tam pháp ty nghị án rồi chính vua trung thẩm bản án như sau: “Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải "quân tiền hiệu lực lập công chuộc tội”.

Bà Từ Dũ mẹ Tự Đức bèn sai mời bà phu nhân Bùi Hữu Nghĩa ban cho tấm biểu chạm bốn chữ vàng: "Liệt phụ khả gia". Bùi Hữu Nghĩa xung vào Tiền quân hiệu lực. Vì có công, ông được phong Phó quản cơ.

Bà Nguyễn Thị Tồn về đến quê hương thì bị ốm rồi qua đời. Vì ở nơi xa xôi lại được thực hiện lệnh của Tam pháp ty, ông không về lo tang ma cho vợ được, Bùi Hữu Nghĩa đã khóc vợ rất xúc động.

Năm 1859, quân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông đã già không có điều kiện trực tiếp đánh giặc như sĩ phu Nam Kỳ nhưng ông vẫn một lòng ủng hộ kháng chiến đi các nơi vận động nhân dân đánh Pháp, sáng tác thơ văn, tố cáo tội ác của thực dân Pháp, ca ngợi các gương chiến đấu hi sinh dũng cảm của nghĩa quân và nhân dân. Nhà ông là nơi các chí sĩ hội tụ bàn bạc kế sách đánh Pháp.

Năm 1868 ông tham gia tích cực vào cuộc bút chiến, vạch mặt tên Việt gian Tôn Thọ Tường, tay sai giặc Pháp.

Ít lâu sau chán nản việc đời, ông từ quan về quê mở trường dạy học, uống rượu với bạn cử nhân là Phan Văn Trị. Ông sáng tác vở tuồng "Kim Thạch kỳ duyên" được coi là kiệt tác sân khấu miền Nam. Vở này khi diễn ở Huế đích thân Tự Đức tới xem.

Khi đã từ quan về ở ẩn mở trường dạy học, nhưng tiếng tăm của ông vẫn lừng lẫy.

Ông mất ngày 21 tháng giêng năm Nhâm Thân (1872) thọ 66 tuổi.

Tác phẩm của ông còn lại có Văn thạch kỳ duyên, Tây du, Mạnh Tòng. Đương thời ông còn là nhân vật xuất sắc ở Nam Kỳ, nên có câu ca:

"Đồng Nai có bốn rồng vàng
Lộc hoạ, Lễ phú, Sang đờn, Nghĩa thi”.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #11 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:00:04 am »

TRƯƠNG ĐỊNH

Trương Định sinh năm Canh Thìn (1820) là con quan Hữu thủy Vệ úy Trương Cầm, sinh tại làng Tư Cung Nam, phủ Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Trương Định có hai người vợ, vợ cả là bà Lê Thị Thưởng là con một nhà giầu quê ở Tân Hòa, Tân An, Long An, vợ hai là bà Trần Thị Sanh quê ở Gò Công.

Trương Định trạng mạo khôi ngô, thông hiểu binh thư và bắn rất giỏi. Năm 1838, cha ông thừa lệnh Triều đình Huế vào Nam Kỳ lãnh chức Lãnh binh Thủy sư Gia Định, trông coi việc khẩn hoang, lập ấp mở rộng và bảo vệ bờ cõi. Khi đó Trương Định 18 tuổi cũng theo cha vào Gia Định. Năm 1850, hưởng ứng chính sách khai hoang của Nguyễn Tri Phương, khuyến khích quan lại, gia đình quan lại chiêu dân lập ấp. Trương Định đứng ra chiêu mộ được 6.000 dân nghèo khai hoang lập đồn điền. Do ông có năng lực, thương yêu hết lòng giúp đỡ những người đến khai hoang, hết thảy mọi người đều cố gắng, nên đồn điền của ông sớm tự túc được lương thực, có dự trữ.

Trương Định vốn là người chuộng võ, nên ông đã huấn luyện quân sự, trang bị vũ khí cho những người trẻ tuổi, trở thành gia binh, còn gọi là “lính đồn điền". Gia binh của ông đánh đuổi giặc cướp, những người theo đạo Thiên chúa gây bạo loạn. Triều đình phong ông chức Phó quản cơ, sau thăng lên Quản cơ.
Tháng giêng năm Kỷ Mùi, Tự Đức 12 (tháng 2/1859) quân Pháp rút đại lộ phận chiến hạm từ bán đảo Sơn Trà vào đánh chiếm tỉnh thành Gia Định. Trương Công Định chiêu mộ quân lập căn cứ tại Gò Công để đánh Pháp. Nghĩa quân của ông rất đông, được sắp xếp thành 18 cơ, 24 liên đội (có 4 liên đội mộ trú ở Biên Hòa). Mỗi liên đội khoảng 400 người trang bị đại bác, súng ống và giáo mác... Ông được đặc cách thăng lên Quản cơ kiêm Chánh tổng Tân Hòa.

Quân Pháp sau khi đã bắn phá 12 đồn binh dọc 2 bờ sông và 3 cảng sông trên sông Sài Gòn liền tấn công thành Gia Định. Đến 10 giờ cùng ngày thành Gia Định vỡ, Trương Định dẫn gia binh đến đóng ở Thuận Kiều, gia nhập quân đội của triều đình. Trong chiến trận, ông thường đi tiên phong, lập nhiều chiến công, cổ vũ quân lính hăng hái giết giặc.

Tháng giêng năm Tân Dậu (1861), quân Pháp tấn công Gia Định lần thứ 2. Trương Định chiến đấu dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương. Ngày 24/2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Trương Định rút quân về đóng ở Biên Hòa chờ dịp đánh xuống Chợ Lớn Gò Công. Ông bí mật liên hệ với nhiều sĩ phu ở Biên Hòa như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị đến bày mưu tính kế. Hồ Huân Nghiệp, Võ Duy Dương, Phan Văn Đạt đến giúp chỉ huy. Thanh thế, lực lượng của ông rất mạnh, ông cho quân đánh phá các nơi, làm cho quân Pháp khốn đốn.

Ngày 01/4/1861, giặc Pháp hành quân tiến về tỉnh thành Mỹ Tho, Nghĩa quân Trương Định cùng các lực lượng nghĩa quân khác chặn đánh quyết liệt, giết chết nhiều tên giặc, trong đó có tên đại tá chỉ huy trưởng Bourdeus. Giặc Pháp phải mất 12 ngày mới tới được Mỹ Tho.

Ngày 15/4/1861, quân Pháp đánh chiếm được tỉnh thành Định Tường. Lãnh phủ Nguyễn Hữu Thành chỉ huy quân triều đình bỏ chạy, chỉ còn các đơn vị nghĩa quân hoạt động, trong đó nghĩa quân Trương Định là mạnh hơn cả.

Tháng 9 năm 1861, khi đó Trương Định giữ chức Phó quản cơ Gia Định, ông đã cùng với Tri huyện Lưu Tuấn Thiện và Bát phẩm thơ lại Lê Quang Quyền tích trữ lương thực, rèn đúc súng đạn, chiêu mộ hơn 6000 nghĩa quân. Nhân lính Tây không am hiểu đường xá, ông thường đem quân đi phục kích, thu nhiều thắng lợi nhỏ. Triều đình Huế nghe tin thăng ông lên Phó lãnh binh tỉnh Gia Định. Tháng 11 năm ấy, quân Pháp hãm thành Biên Hòa, Triều đình có chỉ nghiêm trách Hiệp tán quân vụ Thân Văn Nhiếp và Khâm phái quân vụ là Nguyễn Túc Trưng phải tìm đường tới hội ở Tân Hòa mưu tính thu phục lại thành Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang trước đó đã đi đường khác tới hợp lực với Trương Định. Lúc ấy Trương Định đã chiếm cứ Quy Sơn, quân đông quá 5000 người. Ông nghĩ rằng Nguyễn Túc Trưng là vị quan to của triều đình, nên tôn làm chỉ huy. Thấy thế giặc mạnh Túc Trưng không dám tiến, chỉ ngồi yên cố thủ ở hạt Tân Hòa mà thôi.

Ngày 16/12/1861 (rằm tháng 11 năm Tân Dậu), Thủ lĩnh nghĩa quân Tân An - Cần Giuộc1 là Đốc binh Là (còn gọi là tổng Là) chỉ huy đón đánh quân Pháp tấn công Cần Giuộc, Thủ lĩnh Gò Công là Trương Định đem quân tới phối hợp cùng nghĩa quân của Cai tổng Là chủ động tấn công quân Pháp ở đồn Cần Giuộc trước. Trong trận này nghĩa quân và quân Pháp đều bị thiệt hại nặng nề.

Ngày 17/2/1861, Trương Định chỉ huy nghĩa quân tiến công đồn Rạch Tra thắng lợi . Đêm 17 rạng ngày 18/2/1861, nghĩa quân Trương Định có 1200 người chia làm hai mũi tấn công đồn Đồng Môn (Long Thành) gây thiệt hại nặng nề cho quân Pháp.

Ngày 18/12/1861 Trương Định tấn công đồn Thuận Kiều (Gia Định), tiêu diệt nhiều sinh lực địch, Bonnard phải xin viện binh từ Thượng Hải để tấn công Gò Công, căn cứ của Trương Định. Một mặt chúng yêu cầu triều đình phải giải tán quân đội Trương Định.

Tháng 3/1862, Tự Đức cho Trương Định kiêm chức Tổng chỉ huy Đầu mục ở Gia Định (tức toàn bộ số quân mộ ở Gia Định). Trương Định đóng quân ở xứ Gò Công Thượng thuộc huyện Tân Hòa, Nghĩa quân được phiên chế thành 18 cơ. Từ căn cứ Trương Định điều động quân tấn công các doanh trại, đồn binh Pháp thu vũ khí. Ông còn lập xưởng đúc súng theo mẫu súng của Pháp.

Tháng 5/1862, Bonnard sai trung tá Hải quân Simon đem chiến thuyền tiến vào cửa biển Thuận An hoạt động quân sự, gây sức ép buộc triều đình Huế giảng hòa. Ít ngày sau Simon trở lại Thuận An mang theo tối hậu thư của Bonnard buộc triều đình Huế phải phái ngay sứ thần có đầy đủ thẩm quyền vào Sài Gòn bàn định, lập Hiệp ước.

------------------------------------------------------
(1) Quận Cần Giuộc nay thuộc Chợ Lớn. Sau khi bị quân Pháp chiếm, ngày 14/12/1861. Thống quân Bùi Quang Diệu chỉ huy đánh trận Cần Giuộc.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #12 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:02:48 am »

Tự Đức hoảng sợ, ngày 26/5/1862, Triều đình cử Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, Lâm Duy Hiệp làm phó sứ vào Sài Gòn. Ngày 5/6/1862, Triều đình Huế ký Hiệp ước "Hòa bình và Hữu nghị" với Pháp và Tây Ban Nha. Đại diện Pháp là Bô na. Thiếu tướng Hải quân Phó Đô đốc - Tổng chỉ huy quân Pháp - Tây Ban Nha, Đại tá Guttirie (Guitterez) chỉ huy quân viễn chinh Tây Ban Nha tại Nam Kỳ. Triều đình Huế nhu nhược đã ký Hòa ước Nhâm Tuất nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Gia Định, Định Tường, Biên Hòa. Tự Đức cho Phan Thanh Giản vào truyền dụ của Tự Đức thăng chức Lãnh binh An Giang cho Trương Định, đồng thời ra lệnh cho ông bãi binh. Trương Định chống lệnh của Triều đình tiếp tục đánh phá các đồn binh Pháp mạnh mẽ, khiến chúng bị thiệt hại nặng nề. Triều đình Huế khép ông vào tội phản nghịch, song ông vẫn giữ vững ý chí chiến đấu.

Tháng 8 năm 1862, triều đình lại một lần nữa hạ lệnh cho nghĩa quân đình chỉ mọi cuộc tấn công và điều Trương Định về Phú Yên. Bọn Nguyễn Túc Trưng giải tán nghĩa binh rồi gửi thư bảo ông Trương Định mau theo đường tắt đi ngay. Trương Định cho vợ con đi trước, một mình ở lại kiểm điểm quân số sẽ đi sau. Nhưng những người ứng nghĩa ở Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, không muốn giải binh, cố lưu ông Định lại. Họ nói với nhau rằng: "Bọn Tây bị dân ta nhiều lần đánh lui, nay chúng được triều đình giảng hòa, chắc chắn chúng sẽ giết hại bọn ta. Vả lại bọn Tây lấy binh lực uy hiếp, bắt ta hòa, nhưng chúng không thành thực, nay Triều đình giảng hòa với chúng, bọn ta không nơi nương tựa, sao bằng hợp lực đánh lại chúng, giữ lấy một mảnh đất để cùng nhau bảo toàn tính mạng”.

Mọi người đều cho là phải, liền cử Trương Định giữ binh quyền. Lúc ấy có Phạm Tuất Phát ở Tân Long đem thư các nghĩa hào đến tỏ ý muốn cử Định làm chủ soái để ra sức trừ giặc. Tức thì mọi người xây đàn tôn Trương Định làm Chủ soái. Ông tự xưng là "Bình Tây Đại nguyên soái" cử Trịnh Quang Nghị làm Tham tán quân vụ và bố trí các cơ quan viên chức mặt đông nam ra tới biển, mặt tây lên đến Hoa Cương. Tại các nơi hiểm yếu đều sai quân lính phòng giữ. Trương Định tự đem đại quân đóng ở Gò Công. Từ Động Cây Đa đến đập Ông Canh, từng đoạn một, đều đắp lũy để cản quân Tây đột nhập. Trương Định lại đúc thêm đại bác, kén chọn quân lính các huyện, bổ sung vào các đồn thuộc Tân Hòa, phòng thủ chắc chắn để làm kế lâu dài. Sau đó Trương Định truyền Hịch cho nhân dân kêu gọi kháng chiến, ông viết:

“Tưởng có lời ca rằng:
Nước có nguồn, cây hoa có gốc
Huống chi người sinh ra có da, có tóc
Mà sao không biết chúa, biết cha,
Huống chi người sinh có nóc, có gia
Mà sao không biết trung; biết hiếu...
Hai vai nặng trĩu: gánh chi bằng gánh cương thường!
Tấc dạ trung lương; gồng chi bằng gồng xã tắc
Làm người sao khỏi thác
Thác trung thần thác cũng thơm danh
Làm người ai chẳng ham danh
Lòng địch khái xin cho rõ hết”.


(Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, trang 367).

Các nghĩa hào đều theo mệnh lệnh của ông; các phủ huyện cũng vận tải tiền gạo đến cung cấp. Trương Định thường mổ trâu bò khao thưởng tướng sĩ, ai có công khen thưởng biểu dương kịp thời, nên ai cũng đồng lòng gắng sức. Quân do Trương Định trực tiếp chỉ huy và quân của Phạm Tuấn Phát đóng ở Hắc Khẩu, quân của Bùi Huy Diện đóng ở Cần Đước, quân của Tuyên úy phủ sứ Nguyễn Văn Trung đóng ở Tân Thành là khá nghiêm chỉnh, thanh thế.

Vì hòa ước đã thành, nên Tây soái không động binh và nhiều lần thúc giục quan tỉnh Vĩnh Long gửi thư cho Trương Định khuyên bãi binh. Thư qua lại ba lần Trương Định vẫn không nghe. Đình thần hội bàn cho rằng việc miền Bắc đương còn khó khăn, miền Nam chưa có cơ hội, cử Phan Thanh Giản vào "hiểu dụ”, Trương Định và nghĩa quân. Trương Định nhất quyết không chịu về Phú Yên nhận chức mới. Triều đình liền cách chức hàm Phó lãnh binh của ông.

Tháng 10/1862, Phan Thanh Giản lại xin Tự Đức ra sắc chỉ gọi Trương Định về và giải tán nghĩa binh của ông. Trương Định cương quyết chống lệnh triều đình và cùng với dân binh ứng nghĩa của Nam Kỳ Lục tỉnh tiếp tục kháng chiến chống giặc Pháp.

Khởi nghĩa của Trương Định gây cho quân Pháp rất nhiều khó khăn, báo chí Pháp khi đó đã phản ánh: "Đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến, có bao nhiêu người An Nam thì bấy nhiêu trung tâm kháng chiến".

Trương Định càng ý thức được sâu sắc sứ mạng của mình trước nguy cơ đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Ông được nghĩa quân kính trọng, nhân dân mến mộ, tin tưởng, nên ông dã tự khẳng định: "Từ ngày lòng dân đã muốn ta lên làm Nguyên nhung ba tỉnh, trước hết ta cố gắng điều khiển Tân Hòa chống quân cướp nước, để cuối cùng, sau dứt một tiếng trống, dân chúng đều thở không khí thong thả". (GS Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định. NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1989)

Trong lúc ấy Trương Định giả lệnh vua, truyền đi các nơi để cổ động dân chúng, Bonnard ngờ triều đình có lệnh thật, nên sai quân tấn công Quy Sơn. Trương Định lập kế dụ quân Pháp vào chỗ lầy, giết chúng rất nhiều.

Tháng 12/1862, quân Pháp tập trung chiến thuyền ở Dung Giang (tức sông Gò Công) cho lính đổ bộ vây đánh. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề, song quân Pháp cũng bị thương vong lớn.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #13 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:07:33 am »

Đô đốc Bonnard viết thư dụ dỗ ông đầu hàng ngay sau trận đánh, trong thư trả lời, ông tuyên bố: “...Triều đình Huế không công nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta”. (Tuyên bố của Trương Định trả lời thư dụ hàng của Bonard tháng 12/1862).

Quân Pháp huy động toàn bộ binh lực cùng quân triều đình với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại như súng bắn nhanh liên thanh, đại bác, tầu chiến bao vây, liên tục tấn công nghĩa quân, nên nghĩa quân không giữ nổi các đồn lũy, nhiều tướng lĩnh hy sinh, một số bỏ chạy. Trương Định lâm vào cảnh thế cô. Tháng 12/1862 quân Pháp tập trung quân đánh vào Tân Hòa, chia làm ba đạo. Một đạo do đường biển đánh vào Lảng Lộc, một đạo đi theo Kỳ Man Giang, dùng tầu chiến chở quân đánh vào đồn Hoa Cương, còn đạo binh đánh thẳng vào Quy Sơn. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt, Trương Định thân chỉ huy quân sĩ đánh liền ba ngày, ba đêm không nghỉ.

Phan Thanh Giản đã bốn lần làm trung gian đưa thư của Pháp dụ Trương Định ra hàng, ông đều cự tuyệt và cương quyết chống Pháp. Triều đình Huế cách chức ông, bọn Pháp tìm cách giết ông, ông vẫn vững vàng quyết tâm kháng chiến.

Ngày 17/1/1863, Trương Định ban Hịch đánh Tây “Sẵn sàng chiến đấu ở miền Đông cũng như ở miền Tây”, Tuyên cáo với các quan lại Vĩnh Long.

Ngày 25/2/1863 (7 tháng Giêng năm Quý Hợi) quân Pháp đánh úp Lý Nhơn. Thuốc súng hết, Tây binh trèo lũy đánh vào đồn, nghĩa quân tan vỡ, Trương Định thoát chết bị Tây đuổi theo, phải cùng bộ ba trốn vào một rừng cây gần bờ biển. Con ông là Trương Quyền thường gọi là "Nhị lang quân” (Cậu Hai) tiếp tục cùng cha thu thập tàn quân tính việc khởi binh lại. Quân các nơi tụ hội về. Khi đã có lực lượng, Trương Định đưa quân ra đóng ở Phước Lộc tính việc khởi binh lại.

Tháng 2/1863, quân pháp tổng công kích vào đại bản doanh của Trương Định ở Gò Công. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt ba ngày liền. Ông cùng các tướng chỉ huy quân sĩ đánh trả quyết liệt. Song nghĩa quân bị tiêu hao lực lượng, Gò Công thất thủ lần thứ hai, ông buộc phải rút về Rừng Sát gần biển tiếp tục kháng chiến.

Với khí phách anh hùng và lòng yêu nước, thương dân nồng nàn, trong lúc thất thế ông vẫn được toàn thể nghĩa quân và nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Mọi người suy tôn ông là “Bình Tây Đại nguyên soái, Trung Thiên tướng quân".

Ngay trong tháng 2 năm 1863 khi rút ra Rừng Sát ông đã nhân danh toàn thể dân chúng Gò Công gửi Tuyên bố cho giặc Pháp, trong đó có đoạn: “...Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất cả, ta sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”.

Sau lời Tuyên bố thể hiện quyết tâm kháng chiến đến cùng trên “Bình Tây Đại nguyên soái, Trung Thiên tướng quân" Trương Định đã gửi “Hịch đánh Tây” cho các đạo nghĩa quân từ Tân Long, Bình Dương, Bình Long cho tới Biên Hòa đồng ngày tấn công Mai Sơn, phía tây Thuận Kiều. Lại truyền các đồn ở Thác Phúc, Tuy Bình, An Long đến đánh để chia sức giặc. Trong "Hịch đánh Tây” có đoạn:

“Đêm năm canh thương người chính liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trunlg thần
Chốn biên thùy lãnh ấn Tổng binh
Cờ đề chữ "Bình Tây Đại tướng”.


Trong 2 năm xây dựng căn cứ ở Rừng Sát, lực lượng nghĩa quân phục hồi nhanh chóng, liên tiếp đánh quân Pháp ở khắp nơi. Nghĩa quân Trương Định chiến đấu khắp ba lỉnh miền Đông Nam Bộ rồi đánh sang cả vùng Đồng Tháp Mười. Nhiều trận đánh như trận tấn công thành Gò Công và Gò Đen (Tây An), vây đánh đồn binh Thuộc Nhiêu buộc quân Pháp phải bỏ thành tháo chạy. Quân Pháp ở Nam Kỳ không chống nổi các đòn sấm sét của nghĩa quân Trương Định, chúng phải cầu viện binh từ Pháp, Trung Quốc, Philippin tới. Khi có viện binh, quân Pháp mở những trận phản công lớn, ác liệt vào các cứ điểm của nghĩa quân.

Ngày 26/2/1863 , quân Pháp huy động lực lượng lớn bao vây căn cứ Gò Công. Cuộc chiến đấu diễn ra gay go quyết liệt, nhiều chiến hữu của Trương Định hy sinh, trong đó có hai phó tướng là Đặng Kim Chung và Lưu Hải Đường. Trương Định phải phá vây chạy về lập căn cứ mới ở làng Lý Nhân, tỉnh Biên Hòa, nay thuộc Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh, âm thầm củng cố lực lượng, chờ thời cơ phản công.

Đầu tháng 8/1864, Trương Định một lần nữa gửi "Hịch đánh Tây", sau này sử sách gọi là "Hịch Trương Định" cho khỏi nhầm lẫn với "Hịch đánh Tây" của ông tháng 2 năm 1863. Trong Hịch có đoạn: "Lòng dân đã muốn ta đi lên làm Nguyên nhung ba tỉnh, ta trông vào lòng yêu thương không phai nhạt của mọi người đối với ta. Thế là xong, bất dung tha cho giặc cướp...”.


Giặc Pháp không đánh bại được Trương Định trên chiến trường, và thư dụ hàng. Chúng mua chuộc Huỳnh Công Tấn (Đội Tấn) là một nghĩa quân thân tín của ông. Năm 1862, Đội Tấn về hàng pháp, theo đạo Thiên Chúa. Đêm 19 rạng ngày 20/8/1864 , Tự Đức thứ 17 (1864) theo kế hoạch của Pháp, Đội Tấn khuyên Trương Định trở lại thôn Phước Lộc để đánh úp Tân Hòa làng Tân Phước. Trương Định tin lời hắn, đưa quân về thôn Phước lộc. Tên Tấn đã báo trước cho Pháp, nên khi Trương Định đưa quân tới bị lọt vào ổ phục kích của quân Pháp. Trương Định bị thương nặng, biết khó thoát, ông liền rút dao găm trong người tự vẫn. Hôm đó là ngày 20 tháng 8 năm 1864, khi ông mới 44 tuổi.

Năm Tự Đức 27, triều đình hiểu công lao của ông đã ban thưởng ruộng đất, tiền bạc cho vợ con ông để sinh sống.

Ngôi mộ của ông hiện còn ở Gò Công, được xây dựng bằng đá vôi rất lớn, xung quanh có vòng thành rộng, thấp. Trước bia mộ có khắc dòng chữ “ĐẠI NAM LÃNH BINH KIÊM BÌNH TÂY ĐẠI TƯƠNG QUÂN TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH CHI MỘ”.

Tại ấp Núi Đất, khu phố 1, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa nhân dân xây dựng ngôi đình thờ ông từ năm 1966.

Nhân dân Nam Kỳ lập đền thờ ông ở nhiều nơi như Gò Công, Tân An, Mỹ Tho... Bà Lê Thị Thưởng vợ cả của ông về làng Từ Cung Nam ở phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi thờ phụng ông ở từ đường dòng họ. Về phần mộ của ông, ngay sau khi ông hy sinh, bà Trần Thị Sanh, vợ thứ của ông đã cùng nhân dân làm lễ an táng trọng thể, bà đứng ra xây mộ cho ông. Trên mộ có bia khắc: “ĐẠI NAM AN HÀ LÃNH BINH KIÊM BÌNH TÂY ĐẠI TƯỚNG QUÂN TRƯƠNG CÔNG HÚY ĐỊNH CHI MỘ”. Thấy nhân dân đến lễ bái đông, bọn cầm quyền Pháp ra lệnh đục chữ "Bình Tây Đại tướng quân" và phạt tiền bà Trần Thị Sanh.

Công lao, sự nghiệp đánh giặc của ông chẳng những được nghĩa quân và nhân dân ngưỡng mộ, mà vua Tự Đức là người đã khép ông vào tội phản nghịch khi ông chống lệnh bãi binh của chính nhà vua đã chuẩn cho ban cấp 5 mẫu ruộng và sai lập đền thờ ông. Đại Nam thực lục chính biên tập 34 và tập 35 đã chép như sau: "Cho ruộng thờ cúng Lãnh binh quan đã chết là Trương Định. Khi bấy giờ Bố chính xứ Quảng Ngãi là Trà Quý Bình tâu lên nói một nhà Trương Định cha con trung nghĩa trên đều soi xét đều hết từ lâu, xin cấp cho công thờ cúng, để xung vào đèn hương. Viện Cơ mật xét lại và cho rằng người trong Nam mộ nghĩa như Trương Định thì có nhiều, chỉ thành tích chưa được hoàn toàn, nên đều chưa được xét đến, nghĩ nên đợi sẽ thi hành sau. Vua không nghe, chuẩn ban cấp ngay cho 5 mẫu ruộng thờ cúng... nhưng trích ruộng ở nơi cận, tiện chỗ để cấp, lấy người họ ấy là Văn Hổ làm thừa tự, trông coi cầy cấy để thờ phụng”.2

Năm sau vua Tự Đức lại sai làm đền thờ cúng Trương Định: “Vua thương Trương Định là người trung, năm trước đã cấp 5 mẫu ruộng thờ cúng, đến nay lại sai làm đền thờ ở xã Tư Cung, tỉnh Quảng Ngãi để thờ" (sách Đạt Nam thực lục chính biên, tập 35 (1881-1883), NXB Khoa học xã hội. Hà Nội. 1974. tr 16).
Đền thờ ở làng Tư Cung, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, nay chỉ còn dấu tích là cái nền. Tại Gò Công Đông, năm 1964, chính quyền Sài Gòn dựng lại đền, năm 1972 nhân dân Gò Công Đông xây lại đền thờ. Đền được tôn tạo từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, được bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1989.

Ngày 20/8/2004, nhân dân tỉnh Quảng Ngãi - Gò Công (Tiền Giang) long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 140 năm ngày mất của Trương Định. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định đầu tư kinh phí xây dựng lại đền thờ Trương Định ngay tại làng Tư Cung, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

-------------------------------------------------------
(2) Sách Đại Nam Thực lực chính biên, tập 34.
- Số ruộng trên: bị Nguyễn Thân người quê Mộ Đức khi mới làm Quyền Tiễu phủ sứ Sơn phòng Nghĩa Định đã chiếm trên 1.000 mẫu ruộng ở Quảng Ngãi (khi hắn đàn áp phong trào Cần Vương những năm 1885-1887) trong đó huyện Sơn Tịnh bị chiếm hơn 50 mẫu, thì có 5 mẫu ruộng thờ cúng Trương Định.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #14 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:08:58 am »

NGUYỄN ĐỨC ỨNG

Ngày 24 tháng 2 năm 1861, tại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Duy tử trận, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương phải rút về Biên Hòa dựng đồn lũy chống giặc.

Để ngăn chặn quân Pháp đánh chiếm toàn tỉnh Biên Hòa, Triều đình Huế cử Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng vào Biên Hòa chỉ huy, xây dựng tuyến phòng ngự Bá Ký, sông Kỳ Giang, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng đã thu nạp tàn quân sau trận đại đồn Chí Hòa, chiêu mộ nghĩa quân người địa phương, ngăn chặn bước tiến của quân Pháp từ Biên Hòa xuống.

Ngày 13 tháng 12 năm 1861, tướng Bonard ký huấn lệnh đánh chiếm Biên Hòa do đích thân tướng Bonard cùng các đại tá Foucault, đại tá Domenech Diego, thiếu tá Lecbris chỉ huy với 1000 quân Pháp, Tây Ban Nha và 2 chiến hạm. Ngày 15 tháng 12 năm 1861, quân Pháp tấn công tỉnh Biên Hòa. Quân triều đình ở đồn Mỹ Hòa rút chạy. Khi chúng tới phá cản đá ở sông Đồng Nai, quân triều đình và nghĩa quân chống trả quyết liệt, bắn trúng 54 phát thần công vào tàu Alarne, nhưng đạn công phá kém, chỉ làm gẫy cột buồm. Quân Pháp phá được cản. Ngày 18  tháng 12 năm 1861, quân Pháp chiếm được tỉnh thành Biên Hòa. Quân Pháp đánh chiếm các pháo đài ven sông một cách dễ dàng.

Khoảng 9 giờ sáng ngày 26 tháng 12 năm 1861, đại tá Domenech Diego chỉ huy một cánh quân đánh chiếm huyện lỵ Long Thành. Khi chúng tới gần ngã ba Nha Mát, ấp Bà Ký thì bị Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy quân triều đình và nghĩa quân đánh trả quyết liệt, quân ta chỉ có súng trường khai hậu, bắn phát một và giáo mác, song đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc Pháp, giết và làm bị thương nhiều tên. Cuộc chiến đấu kéo dài đến tận 14 giờ, quân ta bị tổn thất nhưng vẫn giữ vững trận địa. Quân Pháp đã phải rút về phía sau củng cố đội hình. Đúng lúc đó thì đại tá Lepperut đã vượt sông Đồng Nai đến tiếp viện cho đại tá Diégo. Cuộc chiến đấu giữa quân ta và quân Pháp trở nên gay go quyết liệt. Nguyễn Đức Ứng bị trọng thương và hy sinh vào ngày 26 tháng 12 năm 1861.

Quân sĩ và nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu, cho tới khi quân Pháp hoàn toàn chiếm được Long Thành.
Mặc dù bị giặc Pháp ngăn cấm, nhân dân vẫn đấu tranh, an táng lãnh binh Nguyễn Đức Ứng cùng 27 quân triều đình và nghĩa quân trong một ngôi mộ chung.

Nhớ ơn những người đã dũng cảm hy sinh vì nước, nhân dân từ đời nọ đến đời kia vẫn chăm sóc, hương khói của ngôi mộ chung của 28 liệt sĩ.

Ngày 15 tháng 10 năm 1994, Nhà nước đã xếp hạng Di tích lịch sử ngôi mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh huyện Long Thành.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #15 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:12:36 am »

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 01 tháng 7 năm 1822 trong một gia đình quan lại. Ông là con ông lại viên Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, làm lại viên Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định. Năm ông 12 tuổi được gửi cho một người bạn ở Huế để ăn học. Tám năm sống và ăn học ở Huế đã giúp Nguyễn Đình Chiểu tiếp thu được nền văn hóa dân tộc hội tụ về Huế, và cũng thấy rõ triều đình Huế thối nát bạc nhược.

Khoảng năm 1840 ông trở về quê mẹ, và thi đậu tú tài khoa Quý Mão (1843) ở trường thi Gia Định.

Năm 1846 ông ra Huế chờ thi Hội vào năm Kỷ Dậu (1849) thì được tin đột ngột mẹ mất, ông bỏ thi quay về Nam chịu tang mẹ. Dọc đường bị bệnh, ông phải ở lại Quảng Nam vừa chữa bệnh vừa học nghề thuốc. Vì đường sá xa xôi, hiểm trở, đi lại khó khăn, tốn công sức mà chủ yếu là đi bộ, đi thuyền, lại thương mẹ, khóc quá nhiều, nên bệnh càng nặng, đôi mắt bị mù. Năm ấy Nguyễn Đình Chiểu mới có 26 tuổi.

Không thực hiện được ước mơ “phò đời giúp nước”, Nguyễn Đình Chiểu liền mở trường dạy học, làm thuốc, chữa bệnh và sáng tác thơ văn. Truyện thơ Lục Vân Tiên là sáng tác đầu tay của ông và ông đã hóa thân vào tác phẩm Lục Vân Tiên mang tính nhân văn, nặng lòng yêu nước, thương dân, chính thắng tà.

Mặc dù bị mù, song ông không thể ngồi yên, lòng sôi sục căm thù khi năm 1858, giặc Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà- Đà Nẵng.

Quân Pháp bị thua ở Đà Nẵng, năm 1859 chúng đổ bộ vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, rồi đánh chiếm Đại đồn Phú Thọ. Nguyễn Đình Chiểu lui về Bến Tre, vẫn cùng các bạn học như Phan Văn Trị, Hồ Huân Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa đi lại bàn luận công việc cứu nước.

Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đóng góp vào cuộc kháng chiến đo Trương Định lãnh đạo, Trương Định vẫn thường đến hỏi ý kiến ông, coi ông là người tham mưu của mình. Sau khi quân Pháp chiếm được Cần Giuộc, nay thuộc Chợ Lớn, Nguyễn Đình Chiểu liên hệ với Đốc binh Là, tích cực giúp đỡ nghĩa quân nhiều mặt.
Ngày 14 tháng 12/1861, Thống quân Bùi Quang Diệu kéo quân về đánh quân Pháp ở Cần Giuộc. Trong trận này nghĩa quân hy sinh 27 người, trong đó có Đỗ Trình Thoại là bạn của Đồ Chiểu. Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang sai Bùi Quang Diệu làm lễ truy điệu và thay mặt ông đọc "Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” do Nguyễn Đình Chiểu viết. Đây là Văn tế gây xúc động lòng người trong đó có đoạn:

Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn,
Chín chục trận binh thư không hề bày bố,
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo lủng lẳng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào thót tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní kinh hồn;
Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tầu thiếc tầu đồng súng nổ.


Và kết thúc bằng đoạn:

Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh,, muôn kiếp nguyện được trả thù kia,
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.


Trước âm mưu thâm độc của thực dân Pháp kích động những phần tử quá khích trong đạo Thiên chúa gây ra nhiều vụ cướp bóc, phá đình chùa của người bên lương, gây nên mối hận thù dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu viết tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu, dài 3.448 câu thơ phê phán âm mưu lợi dụng tôn giáo của địch để phá vỡ khối đoàn kết dân tộc. Tác phẩm cũng lên án những kẻ thờ ơ, vô trách nhiệm đối với vận mệnh suy vong của đất nước.

Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, ông đưa gia đình về làng An Đốc, Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục mở trường bốc thuốc trị bệnh cho dân và giữ mối liên hệ chặt chẽ với các sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị và các lực lượng kháng chiến Trương Định.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #16 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:14:20 am »

Nguyễn Đình Chiểu là người tích cực hưởng ứng và cổ vũ cho phong trào "tỵ địa" do Phan Văn Trị và một số sĩ phu đương thời khởi xướng. Thực dân Pháp biết ông có uy tín lớn trong nhân dân và nghĩa quân Trương Định và nghĩa quân các cuộc khởi nghĩa khác, tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc. Nhưng danh lợi, bổng lộc không làm nhà thơ mù yêu nước thiết tha xiêu lòng. Giặc Pháp hứa trả lại ruộng đất cho ông. Ông trả lời: "Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”.

Trước cảnh mất nước, thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang màu sắc bi tráng. Văn tế Nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh là một thí dụ. Đoạn kết của bài Văn tế ông viết:

Ôi!
Trời xuống nàn quỷ trắng mây năm;
Người uống giận suối vàng lắm bực.
Cảnh Nam thổ phôi màu hoa thảo, động tình oan nửa úa nửa tươi;
Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơn oán trăng thưa, chăng nhặt.
Ngày gió thổi lao xao tinh dã mã thoạt nhóm, thoạt tan, thoạt lui, thoạt lới, như tuồng rạng bóng tinh binh
Đêm trăng lờ réo rắt tiếng đề quyên, dường hờn, dường mếu, dường khóc, dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.
Xưa nghe có bên sông Vị Thủy, lấy lễ nhân đầu tế đảng hồn oan;
Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức
Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong
Đọc bài văn tế quỷ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất


(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX).


Đồng bào ở Ba Tri kể lại, chính Nguyễn Đình Chiểu đứng ra làm chủ tế những nghĩa sĩ lục tỉnh ngay tại chợ Ba Tri. Khi đọc xong bài điếu, ông quá xúc động, nước mắt đầm đìa rồi ngã nằm bất tỉnh nhân sự, mọi người phải đưa đi cứu chữa.

Cuối đời Nguyễn Đình Chiểu vẫn sống ở Ba Tri dạy học và làm thuốc, nhưng ông vẫn lên án triều đình Huế cắt đất đầu hàng, ngăn cấm nhân dân chống Pháp, để đến nỗi mất lục tỉnh vào tay giặc Pháp.

Nguyễn Đình Chiểu giãi bày tâm sự trong “Ngư tiều ư thuật vấn đáp”, đây là tác phẩm cuối cùng của ông với lời văn xót xa trước cảnh đất nước bị “chia dưa”, “khăn xé” trong đó có đoạn:

“Cây đa đua nhánh đón đường
Như tuồng đón hỏi: Đông hoàng ở đâu ?
...Gió tru hưu hắt theo sau
Như tuồng xúi giục đi may tìm thày.
Dưới non suối chảy kêu ngày
Như tuồng nhắn hỏi: “ Sự này bởi ai?”


Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu bao gồm nhiều thể loại thơ, văn tế, câu đối, trướng, truyện thơ, văn đều sâu sắc thiết tha căm thù giặc Pháp cướp nước, yêu chính nghĩa, ghét gian tà, lên án vua quan nhà Nguyễn hèn nhát đầu hàng giặc Pháp, tiếp lay cho giặc đàn áp các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân.

Nguyễn Đình Chiểu mất ngày 3 tháng 7 năm 1888. Đến này đồng bào còn kể lại rằng ngày đưa đám ông cả cánh đồng An Bình Đông nay là xã An Đức trắng xóa khăn tang của bạn bè, đồng chí, của học trò của những người bệnh được ông cứu sống và nhân dân cảm phục một nhà thơ lớn, một chiến sĩ cách mạng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #17 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:16:02 am »

PHAN VĂN TRỊ

Phan Văn Trị sinh năm 1830 tại làng Hưng Thành, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Thành Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Cha là Phan Văn Tấn làm quan Khâm sai chưởng Tiền dinh Đông Thống chế; vợ là Đinh Thị Thanh.

Ông đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849) tại trường thi Gia Định cùng với Nguyễn Thông. Ông không làm quan mà dời về ở làng Phong Điền, tỉnh Cần Thơ, nay là xã Nhân Ái, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ dạy học, làm thơ, bốc thuốc.

Kể từ khi giặc Pháp xâm lược Việt Nam, Phan Văn Trị đứng hẳn về phe chủ chiến. Ông cùng với các bạn bè chung chí hướng như Nguyễn Thông, Bùi Hữu Nghĩa bàn bạc kế sách cứu nước và giúp đỡ phong trào kháng chiến. Phan Văn Trị làm rất nhiều văn thơ chống Pháp, có thể nói đó là những bài văn thơ chống Pháp đầu tiên.

Năm 1862, quân Pháp gây hấn ở Gia Định, ông tránh xuống Vĩnh Long cùng Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt ủng hộ phong trào kháng chiến. Trong những bài thơ chống Pháp, ông căm thù giặc Pháp đến tột độ và biểu lộ sự phẫn uất của các dân tộc lên án triều đình Huế hèn nhát đầu hàng. Trong đó có bài:

GIA ĐỊNH THẤT THỦ PHÚ

Thương thay đất Gia Định, tiếc thay đất Gia Định
Vực hóa nên cồn; Đất bằng dậy sóng
Tàu khói chạy máy tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến Trâu
Dây thép dăng nhấp nhoáng, đất ngàn trùng ngàn thành Phụng
Bờ cõi phân chia khác mặt, trông xa như quáng như mờ, Non sông dời đổi họa mi, tưởng tới dường si dường tủng.
Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, dọc ngang xe ngựa đất gò bằng, Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát chợ nhà trời sấm động.
Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt câu ca,
Tò le kèn thổi tối trời Nam, ngơ ngác năm canh không tiếng trống.
Hào kiệt tìm phương lánh, sa cơ giá hạc lúc hư kinh, Anh hùng kiêm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.
Tới Bến Thành trải qua Chợ Đũi, loài tinh chiên loạn xạ biết bao nhiêu, Nơi Chợ Lớn sắp đến Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng khôn xiết những.
Tầu Bà Nghè cùng nơi Chợ Quán, quỷ hung tàn đắc ý vểnh râu; - Chùa Cầm Thảo trải tới Cây mai, Phật Bồ tát chịu nghèo ôm bụng.
Nơi nơi nổi xóm mới nhà Tây, Chốn chốn lập đồn cạnh ụ súng.
Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô thân thế đều khô; Đau xót lẽ mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng người đời cũng rụng.
Mấy dặm: Gò Đen, Rạch Kiên, ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không, Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trông rỗng.
Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nhân dân biết dựa vào đâu; Thân liều chết, chết cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà nên đống.
Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay người thác chẳng an hồn; Đường xá đắp cửa nát nhà tan, cực bấy kẻ cồn không nổi sóng.
Sau trước vầy đoàn xâm lược, dân ta đòi bữa đòi suy, Đêm ngày ỏi tiếng Lang Sa, thế nó càng ngày càng lộng.
Cờ Thành Thang sao không thấy phát, bỏ liều con đỏ trước chông gai; Áo Vũ Vương sao chẳng thấy gây, nỡ để dân đen trong bùn vũng
Đầu Trung Nguyên tóc hãy còn dài, ơn này nhờ có Bá, học Xuân Thu xin chớ biếm Hoàn Công, Tay tả nhẫm áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, đọc Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng.
Bóng xế dặm ngàn trông man mác, nước non này ai thấy cũng buồn; Trời chiều chim chóc nhảy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động.
Ta nay nhân cảm với cuộc đời, Vậy nên tả một bài đề chúng!


Năm 1857, Vĩnh Long rơi vào tay quân Pháp, Phan Văn Trị thốt ra những lời thơ đau đớn, chua cay vì sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn. ông làm bài thơ:

MẤT VĨNH LONG

Tò le kèn thổi tiếng lăm, ba
Nghe lọt vào tai dạ xót xa
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói
Vàng hoe thành Phụng ủ sầu hoa
Tan nhà căm nỗi câu ly hận
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hòa!
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.


(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX: trang 79).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #18 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:17:08 am »

Phan Văn Trị coi bọn chó săn làm tay sai cho giặc Pháp giết hại đồng bào, bán rẻ Tổ quốc như loài muỗi hút máu người, ông làm bài thơ:

CON MUỖI

Muỗi hỡi, thân mi sướng mọi điều
Thiếu chi chi nữa lại còn kêu
Gương ngà, chiếu ngọc từng nương dựa
Má phấn môi son cũng ấp yêu
Béo miệng chẳng thương con trẻ dại
Cành hông nào đoái chúng dân nghèo
Ngày sao miễn gặp cây xơ quất
Xử tội nhà người mắt chẳng nheo!


Phan Văn Trị là một trong những sĩ phu đề ra phong trào "tỵ địa" được đông đảo các sĩ phu và nhân dân ba tỉnh miền Đông bị giặc chiếm đến ở các tỉnh còn thuộc triều đình quản lý, gây cho giặc Pháp nhiều khó khăn trong việc quản lý nhân khẩu, ổn định tình hình kinh tế chính trị ở vùng chúng vừa chiếm đóng.

Phan Văn Trị cũng là người khởi xướng, tiên phong trong cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường, một tên bồi bút tay sai đắc lực cho bọn xâm lược Pháp. Tôn Thọ Tường đã múa mép, khua môi, khoe khoang công nghệ chiến tranh hiện đại của giặc Pháp như súng trường bắn nhanh, đại bác, tàu chạy bằng hơi nước, khinh khí cầu; và giải thích rằng lực lượng quân sự của ta lạc hậu, tinh thần dân ta kém cỏi không tài nào địch nổi quân Pháp. Lời thơ của ông tố cáo tội phản quốc của tên bồi bút Tôn Thọ Tường rất gay gắt. Ông nhiếc móc Tôn Thọ Tường là “đứa ngu” “kẻ đáy giếng trông trơ mắt ếch”, “loại tanh nhơ”.

Trong cuộc bút chiến bằng thơ, có thể nói đây là cuộc bút chiến vạch tội bọn bán nước đầu tiên ở Việt Nam đã thu hút được các nhà thơ yêu nước ở Nam Kỳ như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt tham gia, dấy lên một phong trào chống Pháp trong thơ văn quyết liệt, sôi động ở Nam Kỳ. Đến nay các nhà nghiên cứu thơ văn yêu nước Việt Nam mới tập hợp được khoảng trên 50 bài.

Trong trận bút chiến này Phan Văn Trị đã huy động được đông đảo sĩ phu có tên tuổi như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu tham gia, nhưng Phan Văn Trị là cây bút xông xáo, tiêu biểu nhất.
Cuộc bút chiến do Phan Văn Trị khởi xướng còn kéo dài tới mấy chục năm sau, khi Tôn Thọ Tường đã chết, vì còn có nhiều tên "Tôn Thọ Tường" khác theo giặc.

Giặc Pháp thấy Phan Văn Trị có uy tín lớn trong giới sĩ phu và nhân dân lục tỉnh tìm cách dụ dỗ, mua chuộc ông ra làm quan và thôi không viết những bài đả kích người Pháp và những người làm việc cho Pháp. Phan Văn Trị đã kiên quyết từ chối, sống thanh cao trong cảnh nghèo nàn. Ông mất năm 1910, thọ 80 tuổi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #19 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2011, 10:49:37 am »

TRẦN TRỌNG KHIÊM

Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821) quê làng Xuân Lũng, tên Nôm là làng Dòng, nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Ông sinh trưởng trong một gia đình nho học nên thông thạo chữ Hán và chữ Nôm. Vợ ông ở nhà bị tên chánh tổng giở trò cường bức, bà chống lại, bị nó bóp cổ đến chết. Nhận được tin, ông về làng đâm chết tên Chánh tổng rồi bỏ làng đi.

Ông tới Phố Hiến làm thuê cho các tầu buôn nước ngoài. Từ năm 1843, ông là thủy thủ trên các con tàu viễn dương, từ Hồng Kông tới Malaixia, vượt biển Ấn Độ Dương, tới các nước nam Châu Phi. Sau đó ông tới Hà Lan học nghề đóng tầu, rồi sang sinh sống ở Pháp, Anh. Trong quá trình bôn ba ở các nước, ông vốn giỏi chữ Hán, nên học tiếng Quảng Đông, Quảng Tây rất nhanh, riêng tiếng Anh ông nói giỏi và viết thạo.

Năm 1847 ông đổi tên là Lê Kim (tiếng Anh viết là Lee Kim) trà trộn vào dòng người Tàu nghèo khổ di cư sang Mỹ. Vốn thông thạo tiếng Anh, ông Lê Kim làm bỉnh bút ngoại ngạch cho các tờ báo Alisa Caliornia, Morning Post, Daily Heraid... Sau đó ông vào làm biên tập cho tờ báo Daily Evering và viết bài có nhiều tờ báo khác.

Khoảng năm 1854, Lê Kim rời bỏ nước Mỹ, xuống tầu vượt Thái Bình Dương rồi rời Hồng Kông rồi theo tàu buôn về Việt Nam. Vì trước đây ông đã giết tên Chánh tổng, nên không dám về Bắc Kỳ mà vào Nam Kỳ với giấy tờ của người Minh hương. Ông xin cư trú ở làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang khai phá đất hoang làm ruộng. ông lấy vợ người Nam Bộ, sinh được 2 con trai là Lê Xuân Lâm và Lê Xuân Lương.

Ông tìm được cách liên lạc về quê và nhận được tin nhắn: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng nên vội về quê cũ”. Trần Văn Khiêm hiểu rõ cần phải tiếp tục giấu lai lịch của mình để sống ở nơi hoang vu ngút ngàn lau sậy ven sông Tiền Giang.

Tháng 9/1861, Trương Định giữ chức Phó quản cơ Gia Định chiêu mộ hơn 5.000 quân đánh Pháp. Võ Duy Dương đã cùng Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn Đạt đến giúp ông chỉ huy nghĩa quân.

Trần Trọng Khiêm tức Lê Kim dã đem một số trai tráng và lương thực, tiền bạc giúp nghĩa quân Võ Duy Dương. Song ông vẫn không dám để lộ tung tích, họ tên thật, quê quán, cùng tên khi di cư sang Mỹ và quê lương, bản quán của mình, mà chỉ giới thiệu chung chung là "Người Minh Hương". Võ Duy Dương và các tướng cũng tôn trọng, không gặng hỏi rõ tên tuổi, quê quán, mà cũng chỉ gọi là "Người Minh Hương". Vì vậy một số tư liệu lịch sử viết về cuộc khởi nghĩa Võ Duy Dương cũng chỉ viết ông - một bộ tướng xuất sắc của Thiên hộ Dương là “Người Minh Hương”.

Theo gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá viết về cụ tổ Trần Trọng Khiêm: “... Ngoài 20 tuổi, cụ cải danh họ Lê (húy Kim) khảng khái rời quê cha đất tổ, xuống một tầu buôn ngoại nhân, suốt mấy năm lênh đênh từ Á sang Âu, năm châu, bốn biển không ở đâu không lưu dấu tích. Tới xứ đạo cụ cũng tìm hiểu văn minh, phong tục, cái hay, cái dở đều nhân định phân minh, ý hẳn muốn thâu tháo để sau này kinh bang tế thế. Cụ thật có nhãn quan thiên lý, nhìn suốt cổ kim, có chí kế vãng khai lai, đáng làm gương cho hậu thế vậy... Coi khắp các kỳ quan, dị cảnh trên hoàn vũ rồi năm Giáp Dần (triều Tự Đức) cụ về Tổ quốc lập nghiệp ở làng Hòa An, tỉnh Định Tường. Noi đó còn hoang vu, toàn lau cùng sậy, tràm với lat (cỏ lác), cụ quy tụ một số người khai phá thành ruộng nương tươi tốt... Cư khai phá làng lập Hoài An chưa được 10 năm, làng xóm vừa mới phong túc, thì nước nhà bị nạn ngoại xâm. Năm Giáp Tý (1864), cụ khảng khái bỏ nhà cửa ruộng đất cùng với cụ Ngũ Linh Thiên bộ (hiệu của cụ Thiên hộ Dương) mộ được mấy ngàn nghĩa binh, phất cờ khởi nghĩa ở trong Đồng Tháp Mười. Các có tài bắn súng, bách phát, bách trúng, xây cất đồn lũy (theo mô hình, kinh nghiệm của tướng Mỹ Jolin A Sutter - chú thích của MTH), cầm đầu một nhóm lính đào ngũ Pháp (vì thông thạo ngoại ngữ, nên ông Kim đứng đầu địch vận lính Lê dương - chú thích của MTH) tấn công (các đồn Pháp) ở Cái Bè, Mỹ Quới, quân Pháp trăm phần điêu linh. Cụ bà cũng dắt con theo (cụ bà họ Phan), thật đáng mặt cân quốc anh hùng. Năm Bính Dần quân Pháp dèm quân bao vây ba mặt, tấn công đồn Tiền, cụ tổ chúng ta chống cự không nổi, tuẫn tiết. Trước khi mất, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá, gắng sức nuôi con, dạy chúng giữ đạo trung hiếu, làm ruộng mưu sinh, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ dưới chân Giềng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) năm đó cụ chưa được ngũ tuần”.

Trên mộ ông có đôi câu đối của các đồng chí xưa, cũ. Tạm dịch:

Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh.
Chính khí nêu cao tinh thần Hùng Nhị còn truyền hậu thế.


(Bản gia phả do ông Lê Xuân Lăng, cháu nội cụ Lê Xuân Lương viết bằng chữ quốc ngữ khoảng năm 1930 dựa theo lời trăng trối, dặn dò của các bậc tiền nhân kể từ cụ Lê Xuân Lâm, con trai cả cụ Lê Kim. Ông Lăng truyền cuốn gia phả trên cho con trai là Lê Xuân Liêm, truyền cho cháu nội là Lê Xuân Lưu. Ông Liêm có học chữ Tây, tự tay ghi dòng chữ Bilio thèque familiale - Lê Xuân Liêm - Vilacfe de Mỹ Quới. Rạch Giá - Mai Thanh Hải (Theo bài “Từ giữa thế kỷ XIX đã có một người Việt Nam làm báo ở Mỹ, Văn nghệ Công an số 18 (118 tháng 6/2005).
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM