Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 03:59:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam  (Đọc 160905 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:23:04 pm »

284 ANH HÙNG HÀO KIỆT CỦA VIỆT NAM

Tác giả : Vũ Thanh Sơn
Nxb Công an Nhân dân 01/2009
Số trang : 180. Kích thước : 14.5 x 20.5cm

Số hóa : hoi_ls








NGUYỄN TRI PHƯƠNG
ÔNG ÍCH KHIÊM
PHẠM THẾ HIỂN
NGUYỄN DUY
ĐÀO TRÍ PHÚ
NGUYỄN TƯ GIẢN
VŨ DUY THANH
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
PHẠM VĂN NGHỊ
NGUYỄN VĂN HIỂN
BÙI HỮU NGHĨA
TRƯƠNG ĐỊNH
NGUYỄN ĐỨC ỨNG
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
PHAN VĂN TRỊ
TRẦN TRỌNG KHIÊM
VĂN ĐỨC GIAI
VÕ DUY DƯƠNG
TRƯƠNG QUỐC DỤNG
ĐỖ QUANG
TRẦN XUÂN HÒA
ĐỖ THÚC TĨNH
NGUYỄN NGỌC THĂNG
THÂN VĂN NHIẾP
HỒ HUÂN NGHIỆP
PHAN VĂN ĐẠT
ĐẶNG VĂN TÒNG
PHẠM PHÚ THỨ
VŨ ĐỨC KHUÊ
NGUYỄN TRUNG TRỰC
PHAN TRUNG
TRỊNH VIẾT BÀNG
NGUYỄN HỮU HUÂN
HUỲNH MẪN ĐẠT
PHẠM VĂN CHÍ
TRƯƠNG QUYỀN
LINH MỤC KHÂM
TÁN KẾ
NGUYỄN KHẮC TRẠCH
VŨ PHẠM KHẢI
ĐẶNG HUY TRỨ
TRẦN TẤN
ĐẶNG NHƯ MAI
ĐOÀN HỮU TRƯNG
PHAN TÒNG

« Sửa lần cuối: 25 Tháng Giêng, 2021, 03:06:40 pm gửi bởi ptlinh » Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #1 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:24:41 pm »

LỜI GIỚI THIỆU

Bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam” bao gồm 5 tập với tổng cộng gồm 1000 trang của tác giả Vũ Thanh Sơn viết về chân dung các nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà văn, nhà báo Vũ Thanh Sơn đã tập trung khắc họa lại tương đối đầy đủ và toàn diện về chân dung của 284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam từ cuối Thế kỷ XIX đến đầu Thế kỷ XX. Trong đó nhiều nhân vật mà các cuốn sách đã xuất bản từ trước đến nay chưa hề được đề cập đến. Bằng công trình của mình không những tác giả đã đóng góp phần bổ sung cho những thiếu vắng của lịch sử nước nhà (đặc biệt là về nhân vật và sự kiện) mà còn góp phần tuyên truyền, giáo dục những tấm gương tiêu biểu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc - đó là sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.

Chân dung các nhân vật lịch sử Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận đại được tác giả Vũ Thanh Sơn tập trung khắc họa ở 3 nhóm chính tương ứng với ba thời kỳ sôi động của lịch sử Việt Nam, đã có biết bao anh hùng, nghĩa sĩ hô hào nhân dân vũ trang đánh đuổi giặc Pháp:

Đó là thời kỳ đầu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX (từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tại bán đảo Sơn Trà, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 1/9/1858).
Là phong trào Cần Vương với nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của văn thân chông Pháp (1885-1896) phát triển rộng khắp từ Nam ra Bắc.

Và còn là phong trào đấu tranh chống Pháp đầu thế kỷ XX với ý thức của hệ tư tưởng mới với các phong trào chống thuế ở Quảng Nam, phong trào Duy tân, Đông du dưới sự lãnh đạo của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh...).

Trong cuộc kháng chiến không cân sức này có biết bao anh hùng, hào kiệt đã ngã xuống, nhưng ý chí quật cường chống giặc Pháp, cùng những lời tuyên bô đanh thép trước giây phút bị hành hình vẫn mãi sáng chói, rạng ngời lên chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là những câu nói đến nay ta đọc lại vẫn rung động như Tổng đốc Nguyễn Tri Phương tuyên bố: “Bây giờ nếu ta chỉ miễn cưỡng lay lắt mà sống, sao bằng thung dung chết vì việc nghĩa”; Bình Tây đại nguyên soái Trương Định tuyên bố: “Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất cả ta sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”; hay Nguyễn Trung Trực trước giờ giặc hành hình vẫn dõng dạc tuyên bố: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”... và còn rất nhiều, rất nhiều lời tuyên ngôn đanh thép khác.

Nhìn chung, các nhân vật lịch sử tác giả đề cập đến trong bộ sách đều xứng đáng được tôn vinh. Họ có thể là những quan lại, hay những nhà chí sĩ có tinh thần yêu nước. Mặc dù, mỗi người ở cương vị khác nhau, vị thế xã hội và hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng tất cả những con người ấy đều có chung mục đích cao cả nhất là không quản ngại hy sinh gian khổ, kiên quyết đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập cho đất nước.

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam” với quý vị độc giả.


NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #2 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:28:22 pm »

NGUYỄN TRI PHƯƠNG

Nguyễn Tri Phương tên thật là Nguyễn Văn Chương tự là Hàm Trinh, hiệu Đường Xuyên, sinh năm 1800, quê làng Chi Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Do cha mẹ sống bằng nghề làm ruộng, thợ mộc nghèo, nên ông không được học hành, nhưng ông là người có chí tiến thủ.

Khởi đầu ông làm lại viên ở huyện Phong Điền, sau lên làm lại viên ở bộ Hộ. Do có tài giải quyết công việc sự vụ nhanh, đúng luật lại mẫn cán, ông được thăng dần lên tới chức Tham tri bộ Lễ kiêm tuần phủ Nam - Ngãi dưới triều Minh Mệnh(1820-1840).

Đầu triều Thiệu Trị(1841 - 1847), ông củng cố hệ thống phòng thủ bờ biển Quảng Nam - Quảng Ngãi, sau thăng Tham tri bộ Công, Tổng đốc An- Hà (An Giang - Hà Tiên). Ông là viên tướng dũng cảm, mưu lược có công đánh đuổi quân Chân Lạp và quân Xiêm, được thăng Hiệp biện đại học sĩ được nhà vua ban danh hiệu “An Tây dũng tướng”.

Dưới triều Tự Đức, ông làm Phụ chính Đại thần. Năm 1850, ông được vua Tự Đức cho đổi tên là Nguyễn Tri Phương, vì trong chiến trận ông dũng mãnh và mưu lược.

Năm 1853, ông được thăng chức Đông các Đại học sĩ, sung chức Tổng thống quân vụ đại thần, kiêm Kinh lược sứ Nam Kỳ.

Dã tâm xâm lược Việt Nam của đế quốc Pháp ngày càng bộc lộ rõ. Sau khi Pháp ký với triều đình Mãn Thanh. Hiệp ước Thiên Tân ngày 27/6/1858 thì tàu chiến Pháp thường xuyên uy hiếp vùng biển Đà Năng. Triều đình cử Nguyễn Tri Phương, Ông Ích Khiêm tới Đà Nẵng chuẩn bị chiến đấu. Bộ thuộc địa Hải quân Pháp điều động Thiếu tướng Hải quân Rigônđờ Giơniơ (Rigauld de Gerromille) Tổng chỉ huy lực lượng Hải quân Pháp ở vùng biển Đông làm Phó Thủy sư Đô đốc, giữ chức Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Ngày 30/8/1858, chiến hạm Pháp đóng ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) để hội quân với chiến hạm Tây Ban Nha. Ngày 31/8/1858, 13 chiến thuyền của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha thả neo ở vịnh Đà Nẵng, ngày 01/9/1858 chúng bắn đại bác vào đồn lũy của quân triều đình ở bán đảo Sơn Trà, chiếm bán đảo Sơn Trà. Nguyễn Tri Phương thực hiện kế hoạch "nửa thủ, nửa công" bằng cách dựng chiến lũy để quân ta ẩn nấp và bao vây quân Pháp. Ông cùng các tướng Phạm Thế Hiển, Nguyễn Duy, Đào Trí đã chặn đứng các mũi tấn công của quân Pháp từ bán đảo Sơn Trà vào sâu trong đất liền.

Quân Pháp đưa tàu chiến vào sông Nại Hiên đã bị Nguyễn Tri Phương đánh bại, phải tháo chạy về bán đảo Sơn Trà. Giơniơ thay đổi chiến thuật, ngày 22/2/1859, hắn kéo đại quân theo đường biển vào đánh chiếm Sài Gòn, chỉ để lại đại tá Toay-ông (Toyon) giữ bán đảo Sơn Trà. Trong 2 ngày 6 và 7/211859, Nguyễn Tri Phương sai Nguyễn Duy và Đào Trí tấn công nhiều lần vào bán đảo Sơn Trà, nhưng không thành.

Từ ngày 10/2/1859 quân Pháp liên tiếp tấn công thành Sài Gòn và các đồn lũy chung quanh, ngày 17/2/1859, thành Sài Gòn vỡ.

Tháng 8/1960, triều đình cử Nguyễn Tri Phương giữ chức Tổng thống quân vụ, vào Nam chỉ huy quân thứ chống giặc.

Ngày 23/2/1861, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở đợt tấn công quy mô lớn vào Đại đồn Chí Hòa, Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân đội chiến đấu quyết liệt suốt hai ngày đêm. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha bị tổn thất nặng nề: 1 quan năm Tây Ban Nha, 4 sĩ quan cao cấp, 121 hạ sĩ quan, 1805 binh lính liên quân chết trận. Song quân ta cũng tổn thất nghiêm trọng: Tán tương Nguyễn Duy tử trận, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, ngày 25/2/1861 đại đồn Chí Hòa thất thủ.

Cuối tháng 12/1861, Triều đình cử Thượng thư Bộ binh Nguyễn Tri Phương làm Đổng suất quân vụ Biên Hòa và Thị lang bộ binh Tôn Thất Cáp làm phụ tá quân vụ Biên Hòa trực tiếp vào Nam Kỳ tổ chức đánh giặc.
Tháng 9/1862 , tình hình các tỉnh vùng núi Bắc Kỳ biến động, triều đình điều động tướng lĩnh ra Bắc, trong đó có Nguyễn Tri Phương, giữ chức Tổng thống quân vụ Tây bắc. Sau khi Nguyễn Tri Phương dẹp yên loạn lạc ở vùng biên giới Bắc Kỳ, cuối tháng 9/1866, Tự Đức triệu ông về Huế, giữ chức Thượng thư bộ Binh, kiêm Kinh lý Hải phòng chánh sứ, bổ sung vào Viện Cơ mật lo việc đánh dẹp giặc dã nổi lên ở khắp nơi.
Các năm 1871, 1872 tại các tỉnh Bắc Kỳ bị giặc Khách, giặc Cờ Trắng, Cờ Vàng, Cờ Đen quấy nhiễu, Triều đình lại cử ông giữ chức Tuyên sát Đổng sức đại thần ra sức đánh dẹp. Ông cùng Hoàng Kế Viêm thu phục được tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, phá xong các bọn giặc khác.

Giữa năm 1873, Nguyễn Tri Phương về làm Tổng đốc Hà Nội, đối phó với tên Jean Dupuis ngang ngược. Từ ngày 12/11  đến 19/11/1873 Garnier gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, buộc ông phải hạ khí giới, giao nộp thành Hà Nội cho chúng. Song ông vẫn quyết tâm chiến đấu.

Ngày 10/11/1873, Nguyễn Tri Phương ra lời Hiệu triệu toàn quân, toàn dân Hà Nội chống Pháp cho niêm yết khắp nơi.

Nhưng lời đe dọa của giặc Pháp không làm Nguyễn Tri Phương khuất phục, ông cùng con trai là phò mã Nguyễn Lâm ra Hà Nội thăm cha và các tướng sĩ kêu gọi quân sĩ và nhân dân Hà Nội sẵn sàng đánh giặc Pháp, tăng cường phòng thủ. Nguyễn Tri Phương cũng liên kết với Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản, Tổng đốc Sơn Tây Hoàng Kế Viêm sẵn sàng ứng cứu cho nhau.

Song Nguyễn Tri Phương giữ thành Hà Nội trong điều kiện phe chủ hòa mà cầm đầu là Tự Đức, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp... thắng thế. Tại Hà Nội, trước khi Nguyễn Tri Phương tới nhậm chức thì triều đình đã điều động các tướng giỏi như Hoàng Kế Viêm đi Sơn Tây, điều Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy quân Cờ Đen lên mạn ngược. Quan lại trong thành Hà Nội có tư tưởng chống Pháp cũng bị điều đi nơi khác thay thế bằng quan lại thuộc phe chủ hòa. Triều đình còn ngăn cấm không cho nhân dân vũ trang đánh Pháp.

Quân phòng thủ Hà Nội quá mỏng, chỉ có 5.000 quân, trang bị quá kém, từ lâu không được luyện tập, tinh thần chiến đấu xa sút. Khi giặc Pháp tới đóng ở Trường Thi, Nguyễn Tri Phương chỉ huy động được 2.000 quân, nhưng tinh thần hoang mang, trang bị quá kém. Trong khi đó quân Pháp có 300 quân thiện chiến, trang bị hiện đại, có tầu chiến, súng đại bác. Bọn Pháp còn cấu kết với những tên gián điệp đội lốt cha cố Tây Ban Nha, Pháp đến Hà Nội truyền giáo từ trước tổ chức màng lưới gián điệp do thám các hoạt động của quân ta; chúng vũ trang cho đám giáo dân quá khích quấy rối hậu phương ta. Chín nhà buôn Trung Hoa có lực lượng vũ trang cũng cấu kết với giặc Pháp. Hơn 3.000 quân của dư đảng Tạ Văn Phụng đang nổi loạn ở Hải Dương, Quảng Yên đem quân đến giúp quân Pháp sẵn sàng đánh thành.

Mặc dù lực lượng chênh lệch, phải chiến đấu đơn độc, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương vẫn kiên quyết chiến đấu.

Bốn giờ sáng ngày 1 tháng 10 năm Quý Dậu tức ngày 20/11/1873, quân Pháp do thiếu tá Francis Garnier và tên lái buôn Jean Dupuis đem 180 quân tấn công thành, chúng nã đại bác vào khu Cột Cờ là Tổng hành dinh của Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Phương thân lên mặt thành chỉ huy quan quân đánh quân Pháp ở cửa Nam. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt. Quân Pháp tiến tới sát tường thành, đạn đại bác của ta đặt trên mặt thành rơi vượt quá đầu địch. Quân Pháp chiếm được lợi thế phá vỡ cửa Nam nơi Nguyễn Tri Phương và con trai là Nguyễn Lâm chỉ huy. Ở các nơi khác Ngô Triều vẫn hăng hái xông lên mặt thành vung gươm chém những tên giặc đang dùng thang leo vào. Cả hai người đều hi sinh anh dũng trên đống xác giặc. Khi thấy nguy cơ thành bị mất, Thự đốc Bùi Thúc Kiên, án sát Tôn Thất Trác bỏ chạy về cửa Bắc, mặc dù quân sĩ vẫn đang kiên cường chiến đấu. Khâm phái Phan Đình Bình, Bố Chính Võ Dương, Đề đốc Đặng Siêu đều sa vào tay giặc.

Quân sĩ khiêng ông vào nằm trong dinh. Quân Pháp băng bó cho ông, ông dứt ra, chúng đổ thức ăn vào miệng ông nhổ ra, nói: "Bây giờ nếu ta chỉ miễn cưỡng lắt lay mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”.

Nguyễn Tri Phương bị trọng thương không chịu để giặc buộc thuốc, nhịn ăn uống, người Pháp đổ thuốc và cháo ông phun ra cả. Sau một tháng buồn rầu vì thành mất, vua quan bạc nhược, sợ giặc, buồn cho vận nước, thương em và con đều hy sinh và đau đớn vì bị thương, ngày 20 tháng 12 năm 1873 (ngày 1 tháng 11 năm Quý Dậu), Nguyễn Tri Phương mất tại dinh Tổng đốc Hà Nội. Lúc đó ông là Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Lại bộ Thương thư, sung Khâm mạng tuyên sát Đổng sức Đại thần.

Ông được các sĩ phu và nhân dân Hà Nội an táng trọng thể, rước bài vị về thờ ở miếu Trung Liệt. Khi ông tuẫn tiết các tướng lĩnh, sĩ phu trong phe chủ chiến và dân Hà Thành vô cùng thương cảm, gửi rất nhiều đối trướng, thơ phúng viếng.

Ngay sau khi nhận được tin ông mất, nhân dân Nam Kỳ vô cùng thương tiếc. Người dân Mỹ Khánh nay thuộc phường Biên Hòa, thành phố Biên Hòa đã rước bài vị Nguyễn Tri Phương vào thờ ở đình này trước chỉ là ngôi miếu nhỏ thờ Thành hoàng bản cảnh làng Mỹ Khánh. Từ đó đình mang tên đền thờ Nguyễn Tri Phương. Di tích nằm trên một khu vực rộng lớn của sông Đồng Nai. Trong đình có nhiều hiện vật quý bằng gỗ, bằng đồng, bằng vải và giấy như bát biểu, bộ áo mão tương truyền vua ban khi ông đi kinh lược Nam Kỳ. Tượng ông tạc bằng gỗ thể hiện sắc diện uy nghi, lẫm liệt với chiếc ngai khảo tả long vân.

Hàng năm có tổ chức lễ hội ở đình từ 16 đến 17 tháng 10 .

Đình đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa quốc gia”.

Nhân dân Hà Nội thờ ông cùng Tổng đốc Hoàng Diệu ở đền Trung Liệt và trên lầu cửa Bắc thành Hà Nội.
Nhiều nhà sử học ca ngợi Nguyễn Tri Phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi viết “Lịch sử nước Nước ta” đã ca ngợi ông:

“Nước ta nhiều kẻ tôi trung
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương
Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương
Cùng thành còn mất, tấm gương muôn đời”.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #3 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:30:31 pm »

ÔNG ÍCH KHIÊM

Ông Ích Khiêm tên tự là Mục Chi, sinh năm Tân Mão (1831), thân phụ là ông Văn Điều người huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Lúc nhỏ, ông là người có trí tuệ theo học người chú là Ông Văn Trị.

Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), đỗ Tú tài khi mới 15 tuổi. Năm Tự Đức thứ 4 (1852) ông đỗ Cử nhân, được bổ chức Tri huyện Kim Thành (Hải Dương). Ông không a dua theo bọn tham quan, ô lại ở địa phương, bị bọn chúng gièm pha, vu cáo, ông bị mất chức. Chán cảnh làm quan văn, ông xin chuyển sang ngạch võ, được thu dụng lại.

Năm Tự Đức thứ 15 (1862) dẹp yên các toán phỉ Ước, phỉ Độ ông lập được công nên được phục lại hàm tri huyện sung Hiệp quản vệ chiến sai. Lâm trận đốc chiến có công được bạt bổ Tri phủ sung Đốc binh.
Năm Tự Đức thứ 18 (1865), giặc biển phạm các đồn Quỳnh Lâu, Yên Trì, Ông Ích Khiêm cả phá được bắt và chém được hơn một trăm tên, được thăng Thị độc sung Tán tương, sau được cất lên chức Hồng lô Tự khanh biện lý Lễ bộ.

Năm Tự Đức thứ 20 (1807) vua thấy Ích Khiêm trước ở Hải Dương mộ thủ hạ trên 600 tên lập thành Thành Dũng cơ tiễu phỉ có công cho bạt bổ Thị lang Binh bộ và ban cho một tấm Hiếu nghĩa tử kim khánh. Gặp lúc tên phạm trốn bên đất nhà Thanh là Vi Tái Thọ tụ đảng ở Bắc Ninh gây việc, vua sai Khiêm sung Khâm phái Bắc Ninh tiễu phủ Sứ, ban cho quần áo, 20 lạng bạc rồi cho đi đánh. Ích Khiêm đến quân thứ, chia phái quan quân đi bắt được 65 tên phạm. Ít lâu, bọn phỉ ở Thái Nguyên trở nên hung dữ, quân bộ biên bị thua. Tổng đốc Ninh - Thái Phạm Chi Hương tâu xin cho Khiêm coi hạt Thái. Ít lâu vì tiến đánh bất lợi, bị thương. Việc tâu lên, vua cho là quan văn như thế cũng hiếm có, cấp cho 10 lạng bạc chữa thuốc. Lại dụ rằng chữa mau để đi đánh, để thu lấy cái thành hiệu đã hăng hái đánh giặc, đừng thấy thua một trận mà chán nản.

Năm thứ 21 (1868), bọn phỉ tiến đánh ở Cao Bằng lại nổi lên. Vua sai Chi Hương đi Cao Bằng trù tính đánh dẹp, Ích Khiêm thời quyền giữ ấn Tổng đốc quan phòng. Chưa bao lâu, Khiêm đổi sang Tán lý quân thứ Lạng Bình, cùng với đề đốc Nguyễn Viết Thành hội họp với phó tướng Tạ Kế Quý nước Thanh đánh phỉ ở Thất Khê, cả phá được, có trong nửa ngày đốt luôn được hơn 30 đồn giặc. Khiêm được thưởng các hạng nhẫn vàng khảm pha lê lóng lánh. Sau bị việc để cho quân bộ biên đi đốt nhà cướp của, khép vào tội đồ, vẫn cho phép mộ lính dõng theo đi đánh giặc.

Năm thứ 22 (1869) bọn phỉ nước Thanh là Ngô Côn đem đồ đảng đánh vây tỉnh thành Bắc Ninh, khí thế rất hăng. Bọn khâm sai Nguyễn Văn Phong, đình thần Bùi Tuấn bám chặt thành cố giữ. Ích Khiêm được tin, từ huyện Kim Anh ban đêm binh voi gấp đường xông tới đánh. Trong ngoài giao nhau bắn, Côn bị trúng đạn lạc, bèn giải được vây, được phục hàm bố chính sung tán lý, và thưởng thêm 1 đồng kim tiền “Vạn thế vĩnh lại” hạng lớn, 1 tấm bội bài bằng ngọc quý và 50 lạng bạc. Khiêm lại đốc suất đi với lãnh binh Hà Nội Trương Trường Hợp và quyền đề đốc quân thứ Thái Nguyên Nguyễn Văn Nhuận đánh phỉ ở xã Thanh Tước bắt và chém được rất nhiều. Phỉ sợ, rút lui. Ích Khiêm đời quân về quân thứ Sơn Tây. Gặp lúc bọn phỉ chia nhau đóng giữ Phú Bình, Đại Từ, chẹn lối sau của Thái Nguyên, Ích Khiêm liền đem quân bản bộ và quân đạo Sơn Tây, hợp tiễu để giải nguy cấp cho tỉnh Thái.

Năm thứ 23 (1870) Khiêm cùng với tham tán Lê Bá Thận đánh phá đảng lũ của Hoàng Văn ở trong rừng Lục Ngạn, được cất bổ lên tham tri Binh bộ và đổi sang tán lý Lạng - Bình, ít lâu thăng lên tham tán. Bấy giờ bọn phỉ Tô lại chiếm cứ thành Lạng. Ích Khiêm sai bắn đại bác vào cửa đông thành, bỗng bị phỉ bắn trả lại làm chân trái bị thương, bèn mang lính tùy tòng trở về Hải Dương. Vua thấy luôn lập chiến công, ban cho sâm quế, sâm tam thất, bạc cùng đồ vật và gia ơn cho được cách chức lưu dụng, nghỉ giả hạn rồi lại tới quân thứ. Nhưng thứ thần tâu rằng hôm bị thương, Khiêm đã chọn lấy 200 lính giỏi ở đồn để hộ vệ mình (trở về), Khiêm lại bị giáng xuống Quang lộc Tự khanh vẫn sung Tán lý.

Năm thứ 24 (1871) Ích Khiêm đóng quân thứ ở Đông Triều dẹp phỉ được thắng lợi luôn. Mùa hè năm ấy, bọn phỉ lại cướp Sơn Tây. Khiêm được thăng thự Thị lang gia hàm Tham tri đổi Tham tán quân thứ Sơn Tây, chuyển đốc lạo quân Sơn, phàm việc quân cơ được làm tập tâu riêng phát đệ.

Năm thứ 25 (1872), tháng 2, Khiêm cùng tán tương Nguyễn Dy phá tan sào huyệt phỉ ở Quán Tư, lấy lại huyện Trấn Yên, được thưởng thêm 1 tấm kim bài. ích Khiêm lại họa địa đồ Sơn Hưng Tuyên dâng vua. Vua xem, nói rằng: "Nay hãy trù tính Hưng trước, Tuyên sau”. Ít lâu, vì trận đánh ở Đại Đồng thua, rút lui, bị cách chức lưu dụng.

Năm Tự Đức thứ 26 (1873), Ông Ích Khiêm là bộ tướng của Tôn Thất Thuyết, bọn phỉ do Lý Dương Tài chỉ huy gây ra nhiều vụ cướp phá ở biên giới. Đề đốc Phùng Tử Tài có gửi thư cho Tôn Thất Thuyết cùng hội quân đánh giặc. Hai bên hợp sức đánh, quân giặc lùi về cố thủ ở vùng Ba Bể (Bắc Cạn), quan quân đánh mấy tháng không phá được, Tôn Thất Thuyết giao cho ông Ích Khiêm 15 ngày phải phá xong, nếu không bị quân luật. Ông Ích Khiêm chọn 80 lính khỏe mạnh, biết võ thuật, giỏi côn kiếm, trang bị gươm, đoản đao, bốn chiếc thanh la. Cuối tháng giêng, ông xuất phát từ Thái Nguyên lên tới nơi phỉ đóng quân phải mất hơn 10 ngày. Ông dẫn quân trèo lên ba đỉnh núi mà bọn phỉ đóng ở dưới chân núi. Nửa đêm, ông cho quân cởi trần, mặc quần đùi cầm đoản đao cùng 4 chiếc thanh la, buộc dây từ đỉnh núi tụt xuống. Ông lệnh cho 4 chiếc thanh la cùng gõ, rồi 80 quân đột nhập vào doanh trại giặc khi chúng đang ngủ, chém giết trên 1000 quân phỉ kể cả tên tướng giặc Lý Dương Tài. Quân của ông nguyên vẹn thu chiến lợi phẩm trở về. Trận thắng dũng mãnh này khiến Đề đốc Phùng Tử Tài cũng phải khâm phục.

Năm thứ 35 (1882) vua nghĩ tình vất vả, giỏi giang, dùng lại làm Hồng lô Tự khanh biện lý Hộ bộ. Ích Khiêm tâu bày về kế sách nước mạnh dân giàu, vua đều cho là phải, nhưng việc biên giới chưa rồi nên không quả quyết lắm. Rồi Khiêm được bổ Thị lang sung tham lược kinh kỳ hải phòng coi đắp các đồn Thái Dương, Lộ Châu, ý muốn làm mau xong, có vẻ nghiêm khắc, tàn bạo. Vua hạ dụ khiển trách, giáng xuống Chủ sự, cho đời đi phòng thủ đồn Hòa Quân.

Chưa bao lâu được phục hàm thị giảng tham biện phòng vụ. Đến khi đồn cửa Thuận không giữ được, Ích Khiêm thu hơn 700 quân về đến bến Nam Phổ vẫn chưa thôi tiếng trống hiệu. Việc tâu lên, vua quở, đổi sang chức biện lý Lễ bộ. Sau đó Nguyễn Văn Tường, Lê Thuyết mưu với nhau phế lập, giả cách thuận cho phế để nhượng ngôi, lui về phủ cũ, rồi mật báo Ích Khiêm và Trương Đăng Thê mời vua đến nha Hộ Thành cho uống thuốc độc giết chết.

Đầu niên hiệu Kiến Phúc (1854) thăng thự Thị lang tấn phong tước Kiên Trung Nam. Tháng 5 ấy, ông mang 50 lính đi thẳng về quê ở tỉnh Quảng Nam. Bọn Ngự sử Đào Hữu Ích đàn hặc là tự tiện bắt binh mã giao thông với phủ đệ, Khiêm lại bị cách chức phát đi an trí ở Bình Thuận rồi mất ở trong ngục, bấy giờ 55 tuổi. Hồi đầu niên hiệu Hàm Nghi (1885) truy phục hàm Thị độc.

(Theo Đại Nam chính biên liệt truyện,
quyển 35 từ trang 276-282 Nxb Thuận Hóa.-
T.C Tri Tân (1941-1946).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #4 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:33:30 pm »

PHẠM THẾ HIỂN

Phạm Thế Hiển sinh ngày 14 tháng 12 năm Quý Hợi (1803), ông quê ở làng Luyến Khuyết, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Từ nhỏ, Phạm Thế Hiển đã nổi tiếng thông minh. Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), ông đỗ Hương cống, năm sau thi Đình, ông đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ. ông được bổ làm tri phủ.

Từ năm 1831, ông trải qua nhiều chức vụ, đến năm 1851  ông được triệu về Kinh giữ chức Lễ bộ Hữu tham tri.

Khi ông làm Lễ bộ Hữu Tham tri đang sung chức Khâm sai đi tra xét Tuần phủ Hưng Yên Lê Chân, án sát Hưng Yên Tôn Thất Loan, Bố chính Hải Dương Nguyễn Hữu can tội tham nhũng và suy thoái đạo đức. Ông đã điều tra rõ ràng tội trạng của ba viên quan tham nhũng đó tâu vua trị tội.

Tháng 8 năm Tân Hợi (1851), Phạm Thế Hiển được vua Tự Đức khen là: "Cảm kích, siêng năng, cẩn thận, cần kíp công việc”, thưởng rất hậu và thăng Tuần phủ Gia Định. Sau đó lại được thăng Thự Tổng đốc Gia Định - Biên Hòa, kiêm Tham hiệu kinh lược, cùng Nguyễn Tri Phương lo việc lớn ở Lục tỉnh Nam Kỳ.

Để chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến, Phạm Thế Hiển cùng Nguyễn Tri Phương tâu với Tự Đức khai hoang, lập ấp ở Lục tỉnh. Ngay tháng 9 năm đó ông cùng Nguyễn Tri Phương thực hiện việc khẩn hoang, hình thành ra hai huyện mới là Kiên Giang, Long Xuyên. Các phủ huyện cũng khai hoang, lập được 23 ấp mới. (Đại Nam thực lục chính biên. Đệ tứ kỷ)

Để bảo vệ an ninh khi giặc Pháp xâm lược, ông cùng Nguyễn Tri Phương, Tổng đốc An Hà là Cao Hữu Sung đắp thành lũy ở sau núi Ngũ Hổ gần tỉnh lỵ tạm thời Hà Tiên. Các ông cho xây doanh trại lính thủy Hà Tiên, doanh trại lính thủy Long Tường, xây dựng chiến lũy phòng thủ ở cửa biển Cần Giờ và cửa biển Tiểu ở Định Tường. Ông cùng Nguyễn Tri Phương xây dựng đại đồn Chí Hòa, xây dựng phòng tuyến từ chợ Lớn đến xã Bình Hải dài 12 cây số, xây 6 đồn trên chiến lũy đó.

Ngày 01/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Triều đình điều Phạm Thế Hiển ra Quảng Nam với chức vụ mới: Tham tán binh nhung đại thần Quảng Nam để đánh giặc.
Sau đó, Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển cho đắp đồn Liên Trì vô cùng kiên cố, phía ngoài có hầm chông, cạm bẫy được ngụy trang kín đáo.

Tháng 2 năm Kỷ Mùi (1859), quân Pháp tiến đánh Thạch Thán, Phạm Thế Hiển cùng Nguyễn Tri Phương chỉ huy các tướng đánh trả mãnh liệt, giặc Pháp thua phải tháo chạy.

Ngày 17/2/1859, liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở đợt tấn công lớn vào thành Gia Định và các pháo đài bảo vệ, Hải quân Pháp - Tây Ban Nha cũng đánh phá cảng Cần Giờ. Ngày hôm sau, 18/2/1859, liên quân Pháp - Tây Ban Nha vào đóng ở thành Sài Gòn và cảng Cần Giờ.

Vua Tự Đức triệu Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển hỏi kế sách nên đánh, nên hòa hay nên giữ. Cả hai ông đều bàn "Đánh là tiện hơn cả”. Hai ông kiến nghị xây dựng đồn lũy phòng thủ, tăng quân số lên 1 ,5 - 2 vạn người, trang bị nhiều súng lớn đường kính "hai tấc chín phân trở lên mới đắc lực”. Tự Đức cho là phải, nhưng chưa quyết vì Tự Đức chủ trương thương lượng với quân Pháp.

Tháng 12/1860, Tham tán quân thứ Quảng Nam kiêm Tổng đốc Định Tường, Biên Hòa Phạm Thế Hiển được vua Tự Đức cử giữ chức Tham tán quân thứ Gia Định để cùng với Nguyễn Tri Phương mưu việc chống đánh giặc Pháp. Vừa vào tới nơi, Tham tán Phạm Thế Hiển được Nguyễn Tri Phương cử về các phủ huyện tổ chức dân binh, huấn luyện quân sự, trang bị vũ khí cho họ để họ hỗ trợ, tiếp ứng cho quân Triều đình khi quân Pháp tới đánh. Phạm Thế Hiển đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Nguyễn Tri Phương giao cho.

Đại đồn Chí Hòa do Phạm Thế Hiển và Nguyễn Tri Phương xây dựng từ mấy năm trước, khi hai ông được triều đình điều ra Quảng Nam thì Tôn Thất Hiệp trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng, củng cố chiến lũy. Quân Pháp đã mở nhiều đợt tấn công từ tháng 4/1860, song đều bị quân triều đình do Tôn Thất Hiệp chỉ huy đánh lui. Phạm Thế Hiển vừa đi xây dựng lực lượng dân binh trở về thì liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã tập trung quân.

Ngày 23/2/1861, Kharne chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha đưa toàn bộ lực lượng mạnh tấn công đại đồn Chí Hòa. Suốt hai ngày hai đêm, quân ta chiến đấu dũng cảm, gây nhiều tổn thất cho giặc: quan 5 Tây Ban Nha Planca, 4 sĩ quan cao cấp, 30 sĩ quan, 121 hạ sĩ quan và 1805 liên quân xâm lược bị giết tại trận (Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I, trang 32-33). Song bên ta cũng bị tổn thất nặng nề; Tán lý Nguyễn Duy, Tán tượng Tôn Thất Trĩ trúng đạn chết, Nguyễn Tri Phương bị thương, Phạm Thế Hiển phải lo đốc chiến.

Cuộc chiến sáng ngày 24/2/1861, quân ta bị thương vong nặng nề, được sự đồng ý của Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển lệnh cho Lê Tố, Lê Hóa ở tiền đồn mở đường rút quân về thôn Tân Tạo, huyện Tân Long, phủ Tân Bình là tỉnh lỵ lâm thời của tỉnh Gia Định. Quân Pháp đưa 400 lính, xe ngựa chở súng đến đánh phía trái đồn, Phạm Thế Hiển chỉ huy quân sĩ bắn trả ác liệt, quân Pháp phải rút lui về căn cứ.

Ngày 25/2 quân Pháp tập trung 300 quân đánh vào phía sau và bên trái đồn. Quân ta chiến đấu vô cùng dũng cảm nhưng hết đạn, hy sinh nhiều. Phạm Thế Hiển lo cứu chữa cho chủ tướng Nguyễn Tri Phương cùng quân lính bị thương chuyển về nơi an toàn. Sau đó Phạm Thế Hiển lệnh cho các quan quân thứ lui về Biên Hòa để củng cố lực lượng, tiếp tục đánh quân Pháp.

Tự Đức triệu Phạm Thế Hiển về kinh nhưng tới tỉnh Phú Yên ông lâm bệnh nặng, chữa không khỏi, mất ngày 11 tháng 7 năm Tân Dậu (1861) thọ 58 tuổi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #5 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:36:42 pm »

NGUYỄN DUY

Nguyễn Duy sinh ngày 21 tháng chạp năm Kỷ Tỵ (1809) niên hiệu Gia Long thứ 8. Ông là em ruột Tổng thống Quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương. Ông người Chi Long, xã Đường Long, tổng Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Năm Thiệu Trị nguyên niên (Tân Sửu - 1841) ông đỗ Hai cống. Năm sau, Thiệu Trị thứ 2 (Nhâm Dần - 1842), ông thi Hội, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ông được sơ bổ làm viện tu soạn Nội các, rồi năm sau (1844), được thăng Hàn Lâm viện tu soạn. Niên hiệu Thiệu Trị thứ 5 (1845), ông làm Tri phủ phủ Tây An. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), ông được cải bổ làm Tri phủ Quảng Ninh (Quảng Bình).

Quan Bố chánh tỉnh ấy là Trương Đăng Đệ, phụng chỉ sát hạch các quan lại tỉnh Quảng Bình, ghi vào lý lịch của ông lời khen “ở với dân thì khoan hòa, làm việc rất thanh liêm, gìn giữ”. Ông Đệ tâu lên xin đặc cách thăng ông Duy làm chức Biện lý (án sát). Tự Đức tiếp được tờ tâu ấy, đòi ông Duy về kinh bệ kiến ban khen và cho thăng lên Thị độc ở Nội các. Đến năm Tự Đức thứ 5 (1852), ông được thăng Thị giảng học sĩ và cử đi sứ nhà Thanh. Khi ấy ở ngoài khơi có giặc Tàu Ô, cướp phá thuyền bè dọc bờ biển Trung Hoa, thành ra thuyền sứ Nguyễn Duy không về được. Mãi đến năm Tự Đức thứ 8 (1855) ông mới về phục mạng, Vua Tự Đức phán rằng: “Khanh đi muôn dặm xa xôi, ba năm khó nhọc, trở về bình an đã làm trọn việc nước”. Rồi nhà vua thưởng trung hạng kim khánh, 50 lạng bạc và ban cho một bài thơ khen tặng úy lạo. Sau chuyến đi sứ, ông được thăng hàm Đại lý Tự khanh biện lý bộ Lại.

Các triều đình Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức đã nhượng bộ cho Pháp nhiều đặc quyền, đặc lợi về kinh tế (nội thương, ngoại thương), truyền đạo, nhưng dã tâm của chúng ta cướp nước ta, nên năm 1847 tàu chiến của Pháp nổ súng khiêu khích ở Đà Nẵng. Năm 1856 , tầu chiến của Pháp lại đến cửa biển Đà Nẵng diễu võ dương oai, vua Tự Đức cử ông và Đào Trí Phú vào đắp đồn lũy phòng ngự. Làm xong, ông về kinh phụng chỉ.

Chính phủ Pháp sau khi cùng Triều đình Mãn Thanh ký Hiệp ước Thiên Tân, ngày 27/6/1858 bộ Thuộc địa - Hải quân Pháp điều động Thiếu tướng Hải quân Rigôn Đờ Giơnuiy (Rigauld De Genouilly), Tổng chỉ huy lực lượng Hải quân Pháp vùng biển Đông làm Phó Thủy sư Đô đốc giữ chức Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Ngày 30/8/1858, chiến hạm Pháp đến đóng ở đảo Hải Nam để hội quân với chiến hạm Tây Ban Nha (do đại tá Lan da rết (Lazarois) chỉ huy. Ngày 31/8/1858, 13 chiến thuyền của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đến ngoài biển vịnh Đà Nẵng thả neo. Về phía triều đình đã cử Nguyễn Tri Phương vào Đà Nẵng. Nguyễn Duy tình nguyện đi quân thứ Đà Nẵng cùng với Đào Trí Phú lập đồn Trấn Đông trên núi Sơn Trà.

Ngày 01/9/1858, chiến hạm liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà. Hai ông đã chặn đánh quyết liệt, không cho chúng tiến sâu vào đất liền. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công vào các vị trí phòng thủ của quân ta. Tình thế rất nguy nan, quan quân hoảng loạn bỏ hàng ngũ, Nguyễn Duy kiên quyết ở lại và tuyên bố: "Đã là yêu nước thì không luận văn hay võ”.

Trong tháng 9 và tháng 10 , Nguyễn Duy trực tiếp chỉ huy quân dân Quảng Nam dùng sọt tre, thùng gỗ chứa đất đá lấp dòng sông Vĩnh Điện để ngăn chặn tầu chiến của giặc Pháp. Dòng sông bị lấp, thế nước sẽ dồn vào cửa biển Đại Chiêm, do đó mạn hạ lưu sẽ cạn, tàu giặc không thể vào được, quân ta chỉ lo phòng thủ mặt bộ.

Tháng 11/1858, thuyền chiến Pháp tiến vào Sông Hàn và Sông Nại Hiên (Quảng Nam) bắn trái phá dữ dội vào các đồn lũy và làng xóm hai bên bờ sông. ông đã cùng Đào Trí Phú bố trí trận địa đánh tầu chiến và bộ binh giặc, khiến cho chúng bị thương vong nặng nề, cả 8 chiếc thuyền phải tháo chạy.

Ngày 2/2/1859, Giơniy, kéo đại quân theo đường biển vào đánh chiếm Sài Gòn, chỉ để lại Đại tá Toayông (Toyou) giữ bán đảo Sơn Trà. Ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1859 , Nguyễn Duy và Đào Trí Phú tổ chức nhiều trận tấn công vào bán đảo Sơn Trà, nhằm tiêu diệt lực lượng quân chiếm đóng Pháp, nhưng việc không thành.

Tháng 8/1860 , Triều đình cử Nguyễn Tri Phương giữ chức Tổng thống quân vụ vào Nam chỉ huy Quân thứ Gia Định tổ chức đánh Pháp. Nguyễn Duy được cử giữ chức Quân thứ Tán lý đại thần Gia Định, cùng Tôn Thất Cáp, Phan Tịnh vào Gia Định ứng cứu cho Nguyễn Tri Phương. Các ông về giữ Đại đồn, Chí Hòa thay cho Tôn Thất Hiệp. Từ tháng 4/1860 , Tôn Thất Hiệp đã đánh thắng liên quân Pháp - Tây Ban Nha nhiều trận khi chúng tấn công Chí Hòa. Các ông đã củng cố xây dựng chiến lũy Chí Hòa vô cùng vững chắc.

Đêm 23/2/1861, quân Pháp mở trận tấn công quy mô vào đồn Chí Hòa. Nguyễn Duy cùng Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân sĩ chiến đấu liên tục hai ngày, hai đêm, gây nhiều tổn thất cho giặc: quan 5 Tây Ban Nha là Palancce, 4 sĩ quan cao cấp, 30 sĩ quan, 121 hạ sĩ quan, 1805 lính liên quân bị giết chết tại trận.

Song ngày 25 tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, Tán lý Nguyễn Duy, Tán tương Trí tử trận. Riêng Nguyễn Duy bị trúng đạn đại bác, xác ông biến dạng, không nhận ra hình người nữa. Có người biết được cái đai áo và gấu áo ông thường mặc liệm xác về chôn ở Cửa Đông thành Biên Hòa sau khi cải táng mới đưa về quê. Nhưng theo Nguyễn Thông, tác giả bài thơ “Viếng ông Nguyễn Duy, Tán lý quân vụ Định - Biên” thì đây là mộ giả, chỉ có chiếc áo, gọi là “Hư trùng”.

Ông được thờ ở miếu “Tam Trung” cùng với anh là Nguyễn Tri Phương và cháu là Nguyễn Lâm ở quê nhà.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #6 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:38:56 pm »

ĐÀO TRÍ PHÚ

Đào Trí Phú quê ở tỉnh Đồng Nai, ông làm quan Thương bạc lo việc ngoại giao với các nước. (Đại Nam thực lục; Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 - 1945) tập I của Dương Kinh Quốc, Nxb khoa học xã hội và nhiều tài liệu, sách báo đều viết là Đào Trí. Chúng tôi căn cứ vào cuốn "Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm trình thành và phát triển” viết là Đào Trí Phú).

Năm 1832, Tổng thống Hoa kỳ là Andren Jackson cử Edmund Robert làm trưởng đoàn phái bộ ngoại giao Hoa Kỳ đem quốc thư đến Vũng Lắm, vịnh Xuân Đài (nay thuộc tỉnh Phú Yên) tìm cách trình quốc thư lên triều đình Huế đề nghị thiết lập bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nhưng Minh Mệnh từ chối (Dưới thời Gia Long (1819) một du khách người Hoa Kỳ đầu tiên là Jonhn White đặt chân lên Đồng Nai từ thuyền Úc (Vũng Tầu) để đến Gia Định, Tổng trấn Gia Định Thành là Nguyễn Vãn Nhâm đón tiếp. Với tính chất một cuộc giao lưu văn hóa cá nhân với người ngoại quốc). Bốn năm sau, năm ngày 20/4/1836 , phái đoàn do Robert trở lại, cùng đi còn có thuyền trưởng, sĩ quan Hải quân là E.P. Kennedy, bác sĩ Ruschen Berger đến xin thương thuyết để ký Hiệp thương. Vua hỏi ý Đào Trí Phú, Phú trả lời là nên nghênh tiếp, đưa họ về Kinh, để ở Thương Bạc, tiến mà dò xét. Vua liền cử Đoàn Trí Phú cùng Thị lang bộ Lại Lê Bá Tư dẫn đầu phái đoàn của triều đình đến Vũng Trà Sơn (thuộc vịnh Đà Nẵng) gặp phái đoàn Hoa Kỳ. Nhưng đoàn đến nơi thì Robert cáo bệnh không tiếp. Ngày 21/5/1836 họ ra đi, tới Ma Cao thì E Robert chết vào ngày 12/6/1836. (Theo Đại Nam thực lục chính biên - quyển 168. trang 3).

Đến đời Thiệu Trị, năm 1847, vua ra Sắc lệnh cấm đạo Gia Tô. Pháp sai trung tá Rigault de Genouilly dùng thư can gián, mặt khác uy hiếp bằng vũ lực. Vua phái Đô thống Mai Công Ngôn và Tham tri ngành võ bị quân sự Đào Trí Phú đem theo ba vệ binh Vũ Lâm, Hổ Uy, Hùng Nhuệ vào Cửa Hàn tăng cường cho lực lượng Hải quân. Ngày hôm sau chiến thuyền của Pháp rút.

Giữa năm 1856  dưới triều Tự Đức, Pháp đã thực hiện mưu đồ đánh chiếm Việt Nam, tầu chiến Pháp diễu võ dương oai ở vùng biển Đà Nẵng. Vua cử Đào Trí Phú và Nguyễn Duy vào Quảng Nam nghiên cứu cách bố trí phòng chống quân Pháp. Hai ông đã chỉ huy quân lính và nhân dân đắp đồn lũy phòng ngự.

Ngày 01 tháng 9 năm 1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đưa tầu chiến đến bắn phá đồn Trà Sơn. Đào Trí Phú tăng cường phòng thủ cho hai thành An Hải và Điện Hải. Vua Tự Đức phong Đào Trí Phú là đặc phái viên và Trần Hoàng, Tổng đốc Nam Ngãi chống giữ thành. Khi hai ông tới nơi thì hai thành đã mất, Triều đình cử Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thế Hiển sau lại sai Nguyễn Duy vào lập phòng tuyến chống Pháp. Đào Trí Phú cùng Nguyễn Duy lập đồn Trấn Đông trên núi Sơn Trà.

Sau Trần Hoàng có lỗi bị cách chức, Đào Trí Phú được cử làm Tổng đốc Nam Ngãi. Tháng 11 năm 1858, tầu chiến của quân Pháp theo sông Hàn, sông Nại Hiên tấn công sâu vào đất liền, bị Đào Trí Phú và Nguyễn Duy đón đánh. Súng thần công của ta nổ rầm trời, bắn gẫy nhiều cột buồm và nhiều thuyền giặc, chúng phải tháo chạy. Sau trận thất bại này, quân Pháp chỉ để lại đại tá Toay ông ở lại giữ Sơn Trà còn đem binh thuyền vào tấn công tỉnh thành Gia Định.

Trong 2 ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1859 , Nguyễn Tri Phương sai Nguyễn Duy, Đào Trí Phú tấn công nhiều lần vào bán đảo Sơn Trà, nhưng không thành.

Do chính sách bạc nhược của Tự Đức không dám chủ trương chống Pháp, lại đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, tập trung tiền bạc, quân lính xây lăng Vạn Niên, Đào Trí Phú bỏ quan, trốn khỏi nhiệm sở cùng gia đình vào Quảng Nam để xuôi thuyền vào Nam Kỳ. Song Tự Đức đã nghi ngờ Đào Trí Phú có liên quan đến vụ Hồng Bảo là con vua Thiệu Trị, anh vua Tự Đức tổ chức cuộc chính biến năm 1864 không thành, nên cho quân đuổi theo, bắt giết ông lại Diên Khánh, xác hỏa thiêu. (Theo Đại Nam thực lục chính biên;  Biên Hòa - Đồng Nai. 300 năm hình thành và phát triển).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #7 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:40:49 pm »

NGUYỄN TƯ GIẢN

Nguyễn Tư Giản trước tên là Nguyễn Văn Phú, tự Tuân Thúc, hiệu Vân Lộc và Thạch Nông, sinh năm Nhâm Ngọ (1822). Ông người xã Du Lâm, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay Mai Lâm thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Nguyễn Tư Giản thông minh từ nhỏ. Năm Quý Mão (1843), ông 22 tuổi, đỗ Hương cống, năm Giáp Thìn (1844), ông đỗ Hoàng giáp khi 23 tuổi.

Ban đầu ông giữ chức Tu soạn ở Hàn lâm viện sau bổ làm Tri phủ Ninh Thuận. Năm Mậu Thân (1848), Tự Đức nguyên niên, ông được bổ Cấp sự trung, ít lâu sau được bổ làm Thị độc ở viện Tập Hiền rồi sung làm Kinh diên Khởi cư chú. Ông được thăng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ sung vào Nội các. Năm 1857, sau khi làm bản Điều trần trị thủy, ông được Tự Đức bổ làm Biện lý rồi Hiệp hiệu Đê chính Bắc Kỳ.

Năm 1858 và 1859 quân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà và Gia Định, triều đình chia làm hai phái chủ hòa và chủ chiến. Ông đứng về phái chủ chiến.

Ngày 8/5/1859, quân Pháp tấn công các phòng tuyến trên sông Hương, quân triều đình tan vỡ phải rút vào phòng tuyến thứ 2. Tháng 7/1859, ông đang làm quan Đê chính đã dâng sớ nói không hòa với Tây dương. Sớ đề là "Sớ Đánh Tây”. Song không được Tự Đức và Viện Cơ mật chấp nhận.

Năm 1861, Tự Đức thứ 14, nhân ông xin phép về thăm cha mẹ, tế tổ tiên. Vua dụ ông nhân đó lo xem xét tìm phương cách trị thủy ở riêng Nhị Hà. Quan Đê Chính Nguyễn Tư Giản sau khi đi khám xét đê ở Bắc Kỳ, chủ yếu là đê sông Hồng, ông đã làm một số việc như sau: xây cửa cống, đắp sửa đê... Ông kiến nghị nhiều lần không được. Tháng 2 năm 1862 , Tự Đức ra lệnh bãi bỏ nha Đê chính, chuyển giao công việc trông nom, sửa đê cho quan sở tại. Nguyễn Tư Giản được phong Thị lang bộ Lại.

Cũng năm Nhâm Tuất (1862), Tự Đức 15, thổ phỉ hoành hành ở vùng Đông bắc, ông được giao làm Tham biện, lo việc quân ở Hải - Yên. Có trận ông đánh bại giặc, nhưng để giặc lan tràn không dẹp yên, ông bị cách chức rồi cáo bệnh xin về quê.

Năm Ất Sửu (1865), Tự Đức 18, ông được khởi phục Hàn Lâm viện tu soạn rồi thăng Thị độc tại Tập biên viện, sau đổi qua Hồng lô Tự khanh, làm việc tại bộ Hộ.

Năm Mậu Thìn (1868), Tự Đức thứ 21 ông được thăng Hồng lô Tự khanh ở Quang Lộc tự, lại giữ chức Tả thị lang bộ Lại, sung làm việc ở Nội các. Năm Nhâm Thìn (1872), Tự Đức 25, ông được bổ làm Tham tri, nhưng lĩnh việc của Thượng thư bộ Lại, sung làm phó Tổng tài quốc sử quán, kiêm trông coi Quốc tử giám. Năm sau thăng Thượng thư, sung làm đại thần viện cơ mật.

Mùa đông năm 1872 , đề phòng quân Pháp đánh Bắc Kỳ, ông cùng Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ ngày đêm bàn tính việc cơ mật. Sau đó ông bị giáng chức, phải đi sơn phòng ở Chương Đức khai khẩn đất hoang. Năm Mậu Dần (1878), Tự Đức 31 khôi phục chức Hàn lâm viện Thị độc sung cai quản Hàn lâm viện cho ông.

Hậu quả của việc Tự Đức bãi bỏ chức quan Đê chính trong nhiều năm, đê không được tu sửa, xây cửa cống, cửa cống, cửa sông không được nạo vét. Vì vậy, năm 1862 mưa liên tục, nước không tiêu làm hỏng vụ chiêm. Năm 1865 đê ở các  tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ nhiều nơi bị vỡ. Năm 1871, vỡ đê Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Nội, Nam Định, dân chết đói nhiều vô kể. Năm 1872, đê Văn Giang vỡ 20 trượng. Các tỉnh thần đề xuất việc đắp đê, Tự Đức phán: "Hiện nay đương bận việc quân ở vùng biên giới, nên chưa bàn đến trị thủy". Năm 1873 vỡ đê 5 huyện ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trong các năm 1874, 1875, 1876, 1877 năm nào đê Phi Liệt (Văn Giang, Bắc Ninh) cũng vỡ. Năm 1878, đê Phi Liệt, đê Ân Thi (Hưng Yên) vỡ. Trong các năm 1880, 1881, 1882 đê Phi Liệt vỡ. Năm 1885, các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ hạn hán nặng, các cửa cống lấy nước đều bị phù sa bồi lấp, không lấy được nước vào đồng. Năm 1889 đê sông Đuống (Bắc Ninh) vỡ... Nạn vỡ đê ngập lụt hạn hán, dịch bệnh tàn phá đồng ruộng, xóm làng khiến cư dân vô cùng điêu đứng.

Nguyễn Tư Giản làm quan từ khi còn trẻ, mãi gần 40 năm giữ những chức vụ trọng yếu. Mỗi khi triều đình cần bàn luận những vấn đề khó khăn đều cần có ông. Ông chẳng những là một trọng thần của triều Nguyễn, là nhà chính trị, ngoại giao, nhà trị thủy, nhà sử học, địa lý học, mà còn là nhà văn, nhà thơ xuất sắc. ông còn có nhiều tác phẩm có giá trị để lại đến nay là:

- Thạch nông chi văn
- Văn Diễm Du Lâm Nguyễn tộc hợp phả
- Yên Thiều Thi văn tập
- Thạch nông thi văn
- Như Thanh Nhật ký
- Tiểu thuyết sơn phòng tập
- Trung Châu Quỳnh Dao tập
- Tiểu thuyết sơn phòng cổ lục.


Nguyễn Tư Giản mất năm (1890) hưởng thọ 67 tuổi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #8 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:44:19 pm »

VŨ DUY THANH

Vũ Duy Thanh sinh giờ Tý ngày 9 tháng 8 năm Đinh Mùi, Gia Long 6 (1807). Ông quê ở làng Kim Bồng, tên Nôm gọi là làng Bồng, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Ông là người thông minh từ nhỏ, sách chỉ đọc một lần là nhớ. Năm 14 tuổi đã thông làu kinh sách, xuất khẩu thành thơ. Nhưng số ông lận đận trên con đường khoa cử, năm 35 tuổi mới đỗ tú tài Thi Hội mấy lần đều hỏng. Mãi đến năm Tự Đức thứ 4 (1852), Tự Đức mở chế khoa, ông đỗ đầu, nhưng triều đình không lấy Trạng nguyên nên ông chỉ đỗ Bảng nhãn. Song nhân dân yêu mến vẫn gọi là Trạng Bồng.

Ông được bổ nhiệm làm Tế tửu Quốc tử giám.

Vũ Duy Thanh chỉ là quan Tế tửu Quốc tử giám không có trách nhiệm gì về đê điều, về đời sống của nhân dân, về an ninh của đất nước, nhưng với lòng yêu nước, thương dân cháy bỏng đứng trước thảm cảnh từ năm 1851 đến năm 1855 , Thanh Hóa và Bắc Kỳ bị vỡ đê liên tiếp, ông đã dâng biểu xin vua phát 10.000 hộc thóc trong kho dự trữ để bán, và cho dân Thanh Hóa, Bắc Kỳ vay.

Vũ Duy Thanh trong công việc thì ngay thẳng, công minh và thanh liêm. Nhưng đối với đồng sự và mọi người, ông cư xử rất giản dị, vui vẻ.

Tháng 9/1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha tấn công vào bán đảo Sơn Trà ông cảm khái nói: “Tương lai, sự thể chỉ có tranh (luận) về hòa với chiến”.

Đồng thời ông dâng sớ đề nghị triều đình tăng cường lực lượng quốc phòng và cải cách nội trị, cụ thể là tổ chức lại việc học, chỉnh đốn việc phòng bị hải phận và khuyếch trương nền kinh tế trong nước.
Vũ Duy Thanh còn đề nghị Triều đình phải cử người đi học sản xuất vũ khí, đóng tầu biển của phương Tây, phải mua vũ khí của phương Tây trang bị cho quân đội. Ông còn dùng tiền riêng của mình để đóng tầu chiến kiểu “Thủy chiến hỏa công”. Ông cũng là người đề nghị tổ chức khai thác than đá ở Đông Triều, Hòn Gai và nhiều cải cách về việc học, về nội thương, ngoại thương.

Song những kiến nghị của ông bị Tự Đức xếp lại, không thảo luận, không thực hiện. Trước cảnh nước mất nhà tan, Vũ Duy Thanh đau buồn lâm bệnh nặng. Trước khi chết ông còn gửi lên vua Tự Đức bảy phương sách cứu nước. Đến nay bản điều trần này đã bị thất lạc.

Vũ Duy Thanh sáng tác nhiều thơ ca, trong đó có những bài như:

TIỄN NGUYỄN TRI PHƯƠNG

Non nước vì đâu đến nỗi này?
Đủ tài kinh tế dễ ai hay
Bắc Nam phận cả không từ chối,
Sương tuyết lòng xưa chẳng đổi thay,
Một ngọn cờ đào dong thẳng nẻo ,
Chín lần gươm báu đã trao tay
Sóng kình mong mỏi đều im lặng
Tiệc rượu hoàn quân ắt có ngay.


(Theo thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học).

Khi các sĩ phu Nam Kỳ cùng nhân dân đánh Pháp, Vũ Duy Thanh làm bài thơ “Gửi sĩ phu Nam Kỳ” để khích lệ, biểu dương các sĩ phu Nam Kỳ.

GỬI SĨ PHU NAM KỲ

Nam Bắc đâu đâu cũng một trời,
Tấc lòng, tấc đất hỡi ai ơi!
Trăm năm công đức nên ghi dạ,
Một gánh cương thường phải ghé vai,
Sự thế ngán thay cơn gió bụi,
Anh hùng bao quản bước chông gai
Hoài nam khúc cũ ai còn nhớ
Còn nhớ cùng nhau hóa mấy bài.


(Theo Tài liệu của Đào Trình Nhất trong báo
Trung Bắc Chủ nhật số 227 ngày 5/11/1944
).

Hiện nay Vũ Duy Thanh còn lại một số tập thơ văn như "Bổng Châu thi văn tập", "Bổng Châu Vũ tiên sinh thi văn".

Ông mất năm Quý Hợi (1863).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #9 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2011, 04:46:51 pm »

NGUYỄN ĐĂNG HÀNH

Nguyễn Đăng Hành sinh năm Quý Mùi (1823) quê ở xã Phù Khánh, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình, nay là thôn Phù Khánh, xã Hương Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông thi đỗ Hương cống khoa Quý Mão (1843). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, ân khoa Mậu Thân, niên hiệu Tự Đức 1 (1848) năm ông 26 tuổi.

Ban đầu ông được bổ chức Biên tu ở Tập hiền viện, thăng Thị độc án sát tỉnh Quảng Ngãi.

Năm Tự Đức thứ 14 (1861) thăng Hồng lô Tự khanh, lĩnh chức Bố chính Khánh Hòa. Năm Tự Đức thứ 15 (1862) sung chức Thương biện quân vụ Nam đạo chuyển sang Bắc đạo.

Từ đầu năm 1862, đất nước cực kì rối ren, tháng giêng, quân Pháp đánh tỉnh thành Bà Rịa; tháng 3 chúng chiếm tỉnh thành Vĩnh Long. Đến tháng 5, Bôna sai trung tá Ximông (Simon) đem chiến thuyền ra cửa biển Thuận An uy hiếp triều đình Huế đòi phải vào Sài Gòn kí Hiệp ước giảng hòa. Triều đình Huế nhu nhược, tháng 6 năm 1862 sai Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn kí Hòa ước "Hòa bình và hữu nghị”, với Pháp và Tây Ban Nha và phải bồi thường chiến phí cho Pháp. Trong khi đó thì ở miền Bắc, Triều đình Huế bãi bỏ nha Đê chính trông coi việc đê điều. Kết quả là ngay năm đó, nhiều đoạn đê ở Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Yên vỡ.

Do dân đói khổ và bất mãn với triều đình Huế, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ. Nạn giặc Tàu Ô, giặc biển, thổ phỉ từ Trung Hoa tràn sang cướp phá các tỉnh ven biển và châu thổ sông Hồng. Đến tháng 9 thì hầu hết các tỉnh miền Bắc đều có loạn, triều đình phải cử Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Tuyển bình định miền Tây bắc, Trương Quốc Dụng bình định miền Hải Yên (Hải Dương - Quảng Yên) Nguyễn Đăng Hành bình định Bắc Ninh (gồm cả Bắc Giang ngày nay). Vừa nhận lệnh Nguyễn Đăng Hành lập tức lên đường cùng quan quân ở Bắc Ninh tiễn trừ giặc cướp. Cả một vùng phía đông giáp Quảng Yên và phía Nam giáp Hải Dương, Hưng Yên sạch bóng giặc. Khi ông tiến lên tiễu trừ giặc cướp ở phía Bắc tỉnh, thì ông bị tử trận trong một trận ác chiến.

Triều đình truy tặng ông hàm Bố chính.

(Theo Đại Nam thực lục - Đăng khoa lục)




PHẠM VĂN NGHỊ

Phạm Văn Nghị hiệu là Nghĩa Trai, biệt hiệu là Liễu Động chủ nhân, sinh năm Ất Sửu (1805). Ông người làng Tam Đăng, tổng An Trung Thượng, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, nay là thôn Tam Đình. Ông thông minh, lại miệt mài kinh sử.

Năm Đinh Dậu (1837) khi ông 33 tuổi, đậu Hương cống. Năm Mậu Tuất (1858) ông 34 tuổi, đậu hoàng giáp. Ngay sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Hàn lâm viện Tu soạn, sau được bổ làm Tri phủ Lý Nhân.

Năm 1852, ông cùng với người anh là Phạm Văn Thạch cùng 14 sĩ phu các tỉnh Nam Định, Hưng Yên đứng ra chiêu tập dân nghèo lưu tán đến khai hoang, đắp đê, lấn biển, thau chua rửa mặn lập nên trại Sĩ Lâm. Sau trại phát triển thành tổng Sĩ Lâm rồi cả miền hạ huyện Nghĩa Hưng với hàng chục làng xã mới được thành lập.

Ngày 1/9/1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) sau đó đánh Gia Định. ông tổ chức một đội quân "quân Nghĩa dũng” vào Đà Nẵng đánh giặc Pháp.

Ngày 21/6/1860, đoàn quân Nam tiến của Phạm Văn Nghị tới kinh đô Huế. Khi đó quân Pháp đã rút khỏi Đà Nẵng tập trung binh lực đánh phá ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Phạm Văn Nghị xin vua Tự Đức cho vào Nam Kỳ đánh Pháp. Với tư tưởng đầu hàng giặc, Tự Đức lấy cớ quân sĩ gian lao, bắt đoàn quân Nam tiến phải quay trở lại Nam Định. Phạm Văn Nghị không thể chống lại lệnh vua, cùng đoàn quân đem theo nỗi bất bình trở ra Bắc.

Ngày 10/12/1873, giặc Pháp cho tầu Xcoocpiông theo sông Đáy đến làng đạo Vĩnh Trị để phối hợp với bọn phản động trong đạo Thiên Chúa giáo đã được cố đạo Puyginiê vũ trang làm nội ứng khi quân Pháp tấn công. Song Tú tài Phạm Đăng Hài (con trai Phạm Văn Nghị) đã chỉ huy nghĩa quân tấn công quân đạo trước khi tàu Pháp tới khiến chúng tan rã. Tàu giặc tới ngã ba sông Đào chảy vào sông Đáy thuộc địa phận huyện Ý Yên thì bị gần 1000 nghĩa quân do Phạm Văn Nghị chỉ huy đóng ở đồn Độc Bộ và quân của Lãnh binh Nguyễn Văn Lợi đóng ở đồn Phù Sa chặn đánh. Không ngờ lãnh binh Nguyễn Văn Lợi khiếp sợ kéo quân tháo chạy chỉ còn một mình Phạm Văn Nghị chỉ huy quân sĩ chống giữ, mãi đến khi súng hỏng, đạn hết mới chịu rút lui.

Với tinh thần có trách nhiệm với đất nước, ông cho rằng trận thua ở Độc Bộ là do mình tài năng kém, làm chưa hết phận sự của người làm tướng, liền trầm mình dưới sông tự vẫn đến hai lần. Những người đi theo vớt được đưa về thuốc thang chạy chữa. Đẩy lùi được quân ta ra khỏi đồn Độc Bộ, quân Pháp tràn vào đồn phá hủy súng thần công các cỡ rồi tiếp tục cho tầu tiến về tỉnh thành Nam Định, ngày 11/12/1873 thành Nam Định rơi vào tay giặc Pháp.

Năm 1874, triều đình Huế ươn hèn, sợ giặc đã ký Hòa ước với chúng, buộc Phạm Văn Nghị phải giải tán Nghĩa quân, cử ông làm Bang biện. Ông lấy cớ tuổi già xin nghỉ về dưỡng bệnh. Nhưng triều đình Huế sợ giặc Pháp vì vẫn sử dụng người chống Pháp, nên trước khi ông nộp đơn đã nghị án rằng trước đây ông đã không giữ được tỉnh thành Nam Định, nên cách hết chức tước của ông. Ông về ở ẩn tại động Liên Hoa (Gia Viễn - Ninh Bình).

Giặc Pháp ngày càng bành trướng, triều đình thì ký Hiệp ước đầu hàng giặc Pháp, ngăn cấm nhân dân tuyên truyền, vũ trang chống Pháp. Phạm Văn Nghị xem chừng không có cơ hội đánh được giặc, ông di cư về làng Hóa Thiên tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình mở trường dạy học, học trò đến học rất đông...

Trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, ông buồn chán mất ngày 11 tháng 1 năm Canh Thìn (1880) thọ 76 tuổi. Triều đình truy phục hàm Hàn lâm viện Thị độc học sĩ.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM