Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:53:06 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Người Thăng Long  (Đọc 44455 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #20 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:14:00 pm »

Bây giờ thì ông khẳng định được rằng ông có sức làm việc rất lớn, ông có khả năng bao quát một khối lượng công việc phức tạp, có nhiều mặt, nhiều loại, có tỉ mỉ cụ thể, có việc đòi hỏi một sự tổng định đại cương hết sức trừu tượng mà kết quả của loại công việc này cũng không thể tính đếm cụ thể được nhưng đó cũng là những công việc vô cùng quan trọng mà lịch sử đã minh chứng bằng gương thành bại của biết bao bậc tiền bối.

Tuy thế qua lần thử thách này một ý nghĩ đến với ông. Nếu ông có khả năng lớn như thế thì những người khác cũng có. Cần phải huy động được tiềm lực của tất cả mọi người vào sự nghiệp chiến đấu của đất nước. Chỉ cần người cầm quyền nhìn rõ và bạo dạn giao việc.

Và thế là một mối lo lắng mơ hồ nảy ra trong ông: Người cầm quyền ấy là ông hay là ông và vài người khác?

Trả lời được câu tự hỏi đó không phải là dễ dàng. Ông đã trằn trọc nhiều đêm. Ông đủ tài, đủ sức đảm đương trọng quyền. Ông cũng nhận rằng nhiều người trong anh em cùng họ cũng đủ tài đủ sức như ông hoặc hơn một chút, kém một chút. Ví như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, như Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Hưng Ninh vương Trần Tung, Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang...

Đem so sánh đến cùng, xứng đáng giữ trọng quyền có hai người là ông và đức ông Hưng Đạo. Tài sức ngang nhau, kiến văn quảng bác, đọc thông kim cổ bốn phương, hào khí hiên ngang, trí lực sâu sắc. Đó là hai người có tài nguyên thủ và có đức thu phục được trăm họ. Có thể ông, Chiêu Minh vương trẻ trung hơn, xông xáo sát phạt hơn một chút còn đức ông Hưng Đạo già dặn hơn, điềm đạm quyền biến hơn. Nhưng chỗ hơn kém ấy cũng chỉ chút xíu có thể nói hầu như không đáng kể. Chỉ mới so sánh thầm thôi ông đã băn khoăn, Chiêu Minh vương đã phải triệu phó quan của ông đến vấn kế. Đó là quan đại học sĩ Lê Văn Hưu. Ông này năm xưa đỗ bảng nhãn, đã từng làm việc trong Viện Hàn lâm trong nhiều năm sau đổi sang làm việc của quan chép sử trong Thái viện sử. Khi hoàng tử Quang Khải lớn lên, để trong hoàng cung không tiện, vua cha bèn phong tước vương Chiêu Minh và đưa ra ngoài hoàng cung, mở vương phủ cho ở, cử quan giỏi làm phó để giúp việc trong mạc phủ nhưng kì thực là làm hai việc: một là dạy dỗ ông hoàng tử mới được phong vương thành người có tài đắc dụng với quốc gia và hoàng tộc, hai là giám sát vị vương ấy và chịu trách nhiệm với nhà vua về đức trung quân của người học trò vương giả. Có nghĩa là phải dạy và kèm chặt hoàng tử trẻ, dẫn ông ta đi đúng đường là giữ vững phận thần tử khi vua cha truyền ngôi cho thái tử. Hoàng tử trẻ phải biết trung thành với vị vua mới anh mình, người được vua cha đã chọn để nối ngôi. Nếu ông ta trung thành, ông phó quan sẽ được khen thưởng trọng hậu, nếu ông ta nổi loạn tranh ngôi thì triều đình sẽ phát quân trừng trị cả hai thầy trò.

Lê Văn Hưu được cử làm phó quan của đức ông Chiêu Minh cũng với trọng trách như thế. Khi Thánh Tông lên ngôi, Trần Quang Khải được anh trọng vọng. Ông từ những chức trấn thủ nhiều lộ quan trọng như lộ Hồng, Khoái, Hoàng Giang, Thanh Hoá... và mau chóng được giao quyền Tể tướng Thái sư, nắm trong tay cả chính quyền lẫn binh quyền. Trải qua các chức, Trần Quang Khải đi đến đâu cũng mang theo Lê Văn Hưu, ông bảng nhãn này trở thành người tả hữu không thể thiếu được của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Mãi cho đến khi Trần Quang Khải về kinh nhận chức Tể tướng, Lê Văn Hưu mới thôi chức phó quan để nhận quan chức của triều đình. Ông chuyên tâm vào việc chép sử và soạn bộ sử của nước ta từ thời các vua Hùng lập quốc cho tới bây giờ. Tuy vậy, đôi khi gặp việc khó khăn, éo le, trọng đại, đức ông Chiêu Minh thường tìm đến bậc thầy mình để vấn kế.

Việc chọn nguyên thủ lần này đúng là một việc trọng đại. Trần Quang Khải mời Lê Văn Hưu đến phủ Thái sư vào một buổi tối, đối ẩm song bôi, đánh với nhau một ván cờ tướng. Lê Văn Hưu không còn lạ gì tính người học trò trẻ của mình, ông cứ uống rượu, cứ đánh cờ thản nhiên và điềm đạm. Đầu canh hai, thình lình Chiêu Minh vương dẹp bàn cờ, giơ tay đuổi tả hữu ra hết và ngồi trân trân suy nghĩ. Lê Văn Hưu cũng không hỏi. Ông quan chép sử thu tay trong lòng và cũng im lặng nhìn người học trò của mình. Ông thừa hiểu người học trò của mình lúc chưa muốn nói thì có cậy răng cũng không nói mà lúc muốn nói rồi thì cũng không gì ngăn cản nổi.

Lê Văn Hưu ngồi lặng thinh nhìn Trần Quang Khải. Ông già chép sử biết tỏng cơn phong ba trong lòng người học trò mình. Vốn là kẻ chép sử, quen với việc phải nghiền ngẫm biết bao chuyện cổ kim cân nhắc và đánh giá chúng để chép lấy đôi hàng chữ, Lê Văn Hưu như người sống ngoài thời gian. Việc một nghìn năm trước với ông cũng có khi như việc mới xảy ra và việc hôm nay tưởng như chỉ là việc quá ư xưa cũ. Mọi người, mọi việc trong tâm trí ông như đông cứng lại theo mẫu sử bút cổ: Viết sử là để khuyên can thiên tử, răn đe chư hầu, trấn áp các đại phu. Cho nên giới vương giả quyền quý đối với ông vốn cực kì quen thuộc, họ cũng chỉ là những con người có thể thành hay bại, có thể vinh hay nhục, có thể được sử sách nêu tên bằng chữ vàng chói lọi hay bôi nhọ bằng giấy trắng mực đen. Công việc của ông từ mười năm nay được hoàng đế sủng ái giao cho đã làm cho vô khối công hầu khanh tướng hoảng sợ ngầm. Mỗi bận gặp gỡ ông họ cứ lấm lét thăm dò bằng những lời ngọt ngào mong được ông lộ cho đôi điều về cái đức cái nhân cái trí cái dũng của họ dù chỉ tí chút để họ mừng còn ngược lại nếu ông nghiêm mặt không nói (vì tính Lê Văn Hưu lầm lì) hoặc ông đang bận nghĩ một chuyện gì khác mà không trả lời là họ băn khoăn lo lắng. Trần Quang Khải vốn là người có đức lớn, ông không ham danh vọng, không ham giàu sang mặc dầu ông sống trong khung cảnh giàu sang danh vọng từ tấm bé. Những điều Lê Văn Hưu đã rèn dạy ông từ thơ ấu có điều ông theo, có điều ông không chịu nhưng chỉ duy một chữ “Hành” là ông tâm đắc nhất. Ông không thể có một ngày một khắc ngồi không. Con người không làm việc đối với ông không khác gì thú vật. Lê Văn Hưu thừa hiểu tâm tính đó của Trần Quang Khải. Vậy thì học trò của ông có băn khoăn thì chỉ vì công việc mà là những việc quân quốc trọng sự. Chả phải suy nghĩ sâu xa ông cũng đoán ra đó là việc gì. Và ông cứ ngồi nhìn...
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #21 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:16:07 pm »

Trần Quang Khải đột nhiên hỏi:

- Lão ân sư, nhà Nguyên có dị chí, ai là người đảm đương được trách nhiệm cự địch?

Đúng rồi, ông đoán đúng rồi, học trò của ông băn khoăn về vị thế của nguyên thủ trọng thần. Lê Văn Hưu điềm đạm mỉm cười hỏi lại:

- Hay lắm, vương gia hỏi câu ấy cho ai vậy đó?

Câu hỏi của Lê Văn Hưu làm cho Trần Quang Khải sửng sốt. Chiêu Minh vương nhíu cặp mày lưỡi mác suy nghĩ trầm ngâm. Như thế là Lê Văn Hưu có thể có nhiều cách trả lời khác nhau tuỳ theo phía người cầu nghe.

- Xin lão ân sư nói rõ thêm.

- Được lắm, tôi là người được vương gia coi như sư phó, tình thân, tâm phúc, tri ngộ đã lâu dài. Đây này,
vương điệt nhi, ta nói rõ ý ta. Việc chọn người có thể vì hoàng gia, có thể vì hoàng thượng, có thể vì ngành trưởng hay ngành thứ và cũng có thể vì giang sơn trăm họ. Vương điệt nhi chỉ cần nghĩ một tí thôi là cũng thấy câu trả lời nên như thế nào.

Trần Quang Khải suy nghĩ rất lung. Câu nói của Lê Văn Hưu rõ ràng giúp cho ông xếp sắp lại bao mối lo âu lộn xộn trong đầu. Chợt Lê Văn Hưu lại tiếp:

- Nên trả lời như thế nào ư? Đâu chỉ nên dừng lại ở đó mà nên vì ai để lựa chọn cách nên theo.

Như thế lại càng rõ, mặc dù sự thật quả có tàn nhẫn, Trần Quang Khải hiểu rằng thầy mình đã khéo vạch ra chỗ khiếm khuyết trong cách suy nghĩ của ông. Lê Văn Hưu lại cười, ông già đã từng danh đứng tam khôi thừa hiểu ý nghĩ của Trần Quang Khải. Nhìn học trò, Lê Văn Hưu mừng thầm và thấy lúc này thiện lương đang đột khởi thì dấn luôn tí nữa cũng hay.

-Vương gia nên nhớ cổ nhân đã có câu: “Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng”. Biết được mình là anh, thắng được mình là hùng. Bậc anh hùng chỉ có vậy đó thôi. Trong việc chọn nguyên thủ trọng thần lần này, người quyết là vương gia. Chẳng những cần người có tài mà cái chính là phải quy tụ được hoàng gia, chư tướng, anh hùng nghĩa sĩ và trăm họ.

Lê Văn Hưu chỉ nói có vậy nhưng dư thừa sức thuyết phục với Trần Quang Khải và Chiêu Minh vương quả quyết vào cung bàn riêng với Thượng hoàng Thánh Tông một buổi tối. Sau đó người ta thấy có chiếu chỉ triệu đức ông Hưng Đạo tiến kinh bàn việc quân quốc trọng sự. Hưng Đạo vương không bao giờ ngờ tới việc tiến kinh của ông nảy ra từ bữa rượu giữa thầy trò ông già chép sử. Ông lên kinh và mơ hồ nhận thấy đức ông Chiêu Minh hết sức chăm chút ông một cách kín đáo. Trong sự chăm chút đó, đức ông Chiêu Minh còn tỏ ra kính trọng và tin cẩn Hưng Đạo vương bội phần. Từ việc to việc nhỏ, Chiêu Minh vương đều khéo léo hỏi ý ông, lắng nghe và thân mật bàn bạc. Ngay việc tìm hiểu địa thế vùng đông bắc này chả hạn, tuy nó là việc quan trọng đó nhưng đâu đã phải đến hai đức ông lo lắng nhiều. Nó chỉ là một trong những cái cớ để hai người mỗi lúc mỗi thân thiết gần gũi nhau thêm, và mỗi lúc mỗi quen có nhau.

Trên bờ sông Cà Lồ hôm đó cuộc săn thật mĩ mãn. Người ta bắt được hơn mười đôi sơn dương trong đó có ba đôi mới được ba năm tuổi, đúng vào thời sinh sản thuận lợi. Trần Quang Khải sai đóng cũi bầy dê. Đàn dê được đưa qua Thăng Long một cách ồn ào và lộ liễu, chúng được thuyền quân chở thẳng xuống phía nam để thả vào những cánh rừng đại ngàn giáp ranh hai châu Hoan, Ái.

Nhưng rất ít người lưu ý và cũng ít người được biết có cuộc gặp gỡ giữa hai đức ông.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #22 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:17:01 pm »

Chương 5

Theo tập tục của dân ta, người ta coi anh em đồng nhũ như một đôi bạn chung thân gắn bó với nhau vì đã lớn lên và được nuôi nấng bằng cùng một dòng sữa mẹ. Trần Nhật Duật và Hoàng Mãnh lại còn là anh em đồng tuế: anh em cùng tuổi là một cặp mà hình như thiên nhiên đã ràng buộc họ, khiến họ phải luôn luôn sống bên nhau, cùng sống cùng chết, cùng vinh cùng nhục, cùng sướng cùng khổ với nhau.

Xưa kia, khi cả hai người còn niên thiếu, họ được nuôi chung với nhau trong một cung riêng. Họ cùng được ăn một mâm, nằm trên cùng một chiếc giường, chung một lá màn che muỗi. Tuy vậy thể chất hai người vẫn khác nhau rất nhiều. Trần Nhật Duật thuộc dòng giống một họ mà ngay khi chưa cướp được ngai vàng đã giàu có bề thế. Thế mà tính từ khi họ đã cướp được ngai vàng cho tới giờ cũng đã ba đời. Cho nên ông, hoàng tử Chiêu Văn, là một cậu bé quý tộc đã lọc giống, duyên dáng, thanh tú, lịch sự từ cách ăn mặc, cách nói năng, cách chơi bời cho chí thể chất hình hài. Cổ tay ông thon nhỏ, những ngón tay tháp bút, một mái tóc tơ đen láng. Trần Nhật Duật đẹp một vẻ thư sinh mặc dù theo lề thói tộc họ, người ta đã buộc hoàng tử Chiêu Văn luyện tập võ nghệ thật giỏi ngay từ khi còn nhỏ. Hoàng Mãnh cũng được nuôi trong gấm vóc cung đình từ năm lên một nhưng anh vẫn giữ cái thô mạnh hoang sơ của thôn dã, cái bình dị của suối sông, cái cao rậm của rừng núi.

Hai con người khác nhau như nước với lửa ấy đã quấn quýt lấy nhau từ thuở nhỏ rất thắm thiết. Hình như thiên nhiên đã tạo ra hai thế đối lập đó để cho chúng hài hoà vẻ đẹp của trời đất.

Hoàng Mãnh là một đứa trẻ hiếu động, nghịch ngợm. Trong lúc chơi đùa, nó được người ta dạy là phải nhường hoàng tử Chiêu Văn, nó cũng làm theo trừ khi có cái gì làm cho nó quá say mê đến quên cả thân phận. Trong những lúc hiếm hoi đó, nếu là một thứ đồ chơi thì Hoàng Mãnh cướp nghiến còn nếu là một chuyện cãi cọ thì Hoàng Mãnh cũng đoạt lời bằng được.

Năm Trần Nhật Duật mười lăm tuổi, người ta xây phủ đệ Chiêu Văn bên ngoài hoàng thành. Người ta đưa cả hai cậu bé ra ở ngoài đó, triều đình cử hai quan Hàn lâm dạy Trần Nhật Duật và Hoàng Mãnh học kinh sử. Những lúc máu Đông A bốc lên, Trần Nhật Duật hay rủ người em khác mẹ là Bảo Uy vương Trần Duy đi chơi ngoài phố, hễ thấy đám vật, đám võ nào cũng sà vào thử chơi vài keo. Có bận đến nỗi xảy ra gây gổ đánh lộn với thiếu niên phường phố. Những bận ấy, chính Hoàng Mãnh là đứa đứng ra đánh mở đường cho hai tiểu vương tháo chạy. Có bận đã bị no đòn mà lúc về phủ Hoàng Mãnh còn bị quan Hàn lâm quở trách là con nhà bách tính kém lễ. Hoàng Mãnh phải cắn răng chịu nỗi bất công, nhục mạ đó để giấu tội cho Chiêu Văn vương rồi sau đó mới lựa lời khuyên nhủ người anh em học hành cho tử tế, tu thân trui rèn bản lĩnh sao cho sau này đủ vững vàng bước vào đời... Thực ra Trần Nhật Duật tuy ham chơi nhưng việc luyện võ học văn vẫn tấn tới. Đúng là một con người thông minh bẩm sinh, chẳng những lầu thông kinh sử, đọc khắp bách gia chư tử, đọc rất kĩ những bộ sách của các tác gia triều Lý, tay ghi miệng đọc mà hễ còn hoài nghi điều gì thì dù canh đã khuya vẫn không chịu tắt đèn đi ngủ. Ông lại có biệt tài về học tiếng nước ngoài, tiếng Man Lão nữa. Thời gian trôi qua, Chiêu Văn vương đã hai lần được cử giữ chức trấn thủ những lộ đất rộng dân đông như Thanh Hoá, Đà Giang, ở nơi nào ông cũng làm tốt mọi việc quân dân. Ông đi đâu, Hoàng Mãnh cũng đi theo. Triều đình đã chọn anh chính là để anh chia sẻ mọi ngọt bùi với Chiêu Văn vương.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #23 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:17:43 pm »

Bữa nay, ngồi một mình trong thư phòng, Trần Nhật Duật nghĩ về người em đồng nhũ của mình. Xưa nay chưa hề xa nhau lâu, Trần Nhật Duật không có dịp để hiểu mức độ keo sơn trong tình anh em ấy. Đã sắp đến ngày hội thề, Trần Nhật Duật mong muốn đến ngày ấy, em mình đã có một chút công danh sự nghiệp trong triều đình. Ông cũng biết Hoàng Mãnh không quan tâm một chút nào nhưng từ đáy lòng, ông vẫn thấy mình phải thực hiện được điều tâm nguyện kể trên. Và phải nhận rằng mỗi khi nhớ đến chen vào đó vẫn có đôi chút bâng khuâng trước sự chia li cần thiết.

Trần Nhật Duật đã ra lệnh may sắm quần áo tiến triều cho Hoàng Mãnh: áo chiến vóc hồng, hia nỉ đen. Ông lại dành cho người em một thanh kiếm tốt trong bộ sưu tập binh khí rất quý của ông. Trần Nhật Duật đã đến Môn hạ sảnh để đốc viên lệnh thư gia thảo chiếu cho kịp ngày. Ông đã sai người đi đón mẹ Hoàng Mãnh về kinh để kịp dự tiệc mừng con bà nhậm chức vụ của triều đình. Trần Nhật Duật vốn là người sống với hiện tại và tương lai, chỉ những dịp ít ỏi này, ông mới trở về với những chuyện đã qua. Những chuyện ấy thường dính líu tới một trong ba người. Người thứ nhất là Hoàng Mãnh. Người thứ hai là mẹ Hoàng Mãnh. Bà họ Trương, vốn là người Thanh Hoá, lấy chồng họ Đỗ quê ở làng Xuân Lôi huyện Đông Ngàn. Ông Đỗ làm chức Bạ đầu, coi việc giấy tờ ở một vệ quân đi thú châu Ô. Khi Trần Nhật Duật được tiến tước vương, bà Trương cũng được triều đình ban cho tước tòng tứ phẩm nghi nhân. Ông Đỗ nhờ vợ cũng đâm ra sang, từ chức Bạ đầu, ông được phong chức Đại tư xã ở ngay quê nhà. Chính cũng vì bà nhũ mẫu quê Thanh Hoá mà Trần Nhật Duật đã hạnh ngộ một người...

Năm ông mười tám tuổi, Trần Nhật Duật được cử đi tuần thú châu Ái. Ông mang nhũ mẫu đi theo để đưa bà về quê thăm nơi chôn rau cắt rốn. Nơi ấy là một làng nhỏ xanh rờn bóng dừa nằm kề biển Đông mênh mông. Anh trai bà Trương làm chức câu đương trong hương coi việc sổ sách bạ tịch. Ông ta có một cô con gái út. Cô gái ấy không có vẻ e lệ của tiểu thư khuê các, không có vẻ đài đệ của loại con chúa con vua, không có cái dáng mảnh mai lả lướt yếu mềm của dòng quý tộc. Nước da cô hồng hào căng nhựa sống, đôi mắt của cô láng ướt tình tứ, một nốt ruồi ngộ nghĩnh ở khoé miệng và cách nói năng của cô rất mộc mạc giản dị và chân thành, người con gái ấy tràn trề vẻ đẹp trẻ trung khoẻ mạnh của đồng ruộng bình dị, bình dị ngay từ cái tên bình dị đi: cô Mơ. Mơ hầu như ngược hẳn với con người Trần Nhật Duật và thật ra chính ông đang thiếu một cái gì ngược hẳn với ông như thế.

Một duyên, hai nợ, ba tình.....

Cuộc hạnh ngộ này có cả ba cách đó. Ai cho phép một thân vương lấy một người con gái bách tính lê dân làm vợ. Nhất là họ Trần đã có một lời nguyền độc địa: Trai họ Trần chỉ được lấy gái họ Trần. Đừng ngu xuẩn như họ Lý mà để cho ngai vàng lọt sang tay họ khác. Trần Ích Tắc biết mối tình éo le ấy đã xui em: nạp Mơ làm thiếp!

Không được ! Đã vui duyên phận thì phải đứng ngôi chính phi chứ nạp thiếp thì chẳng những xúc phạm đến tâm hồn phong nhã của Trần Nhật Duật mà còn làm vẩn đục đến cái duyên nợ thiêng liêng của mối tình đầu. Cho nên cái việc ấy đành cứ treo lại và bây giờ Trần Nhật Duật chưa lập chính phi mà người con gái vùng biển kia cũng chưa thành gia thất. Không một người con trai làng nào dám dạm hỏi cô Mơ cả. Người ta sợ oai sợ vía một đức ông và người ta sợ cả cái phận trời huyền bí của một người đàn bà cao số.
Cho đến bây giờ, Trần Nhật Duật vẫn còn gìn giữ một kỉ vật của Mơ. Kỉ vật ấy là một bộ xà tích bằng bạc chạm trổ rất thô. Trần Nhật Duật cầm bộ xà tích ấy trong tay, mắt mơ màng nhìn vào khoảng không vô định. Ông chợt thương chợt nhớ người con gái năm xưa. Ông còn bộ xà tích này làm kỉ vật chứ nàng Mơ chẳng có tí gì để mà ngắm mà tìm về với bến vắng người xưa...

Trần Nhật Duật đằm trong mớ hồi niệm miên man không biết bao nhiêu lâu nữa rồi bất chợt ông cảm thấy trong thư phòng có người lạ. Trần Nhật Duật nắm gọn bộ xà tích để giấu nó đi rồi trừng mắt nhìn: Hoàng Mãnh khoanh tay đứng bên cửa từ lúc nào không rõ nữa. Trần Nhật Duật gượng cười:

- Nhà ngươi đến đã lâu chưa?

- Thưa đức ông, tiểu tướng đến đã lâu rồi ạ.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #24 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:18:45 pm »

Hoàng Mãnh trả lời rất cung kính nhưng trả lời xong thì anh ta lại toét miệng ra cười. Trần Nhật Duật lườm Hoàng Mãnh một cái tưởng đổ đình rồi bảo:

- Quần áo tiến triều của nhà ngươi đã may xong rồi đấy. Thật là cờ kiếm vào tay rồi lại “rượu cần ai uống cho say, cuối mắt đầu mày kiệu võng sánh đôi”.

Hoàng Mãnh cả cười, một vẻ ta đây thoáng hiện ra trong cái cười đó:

- Thưa đức ông, việc nước vua giao thì phải nhận chứ còn việc vợ con thì...

- Thì sao?

- Thưa đức ông điện hạ, đã làm trai thì phải bốn biển tung hoành, sông hồ rừng núi là nhà, hễ vợ con vào chỉ tổ vướng víu cuộc đời thanh gươm yên ngựa giang hồ đó thôi.

Trần Nhật Duật cười chế giễu:

- Nhà ngươi nói du dương như thơ mã thượng. Có thể đem miệng lưỡi so sánh với miệng lưỡi của ông Tô
Nghĩa Đông khi ông ta lem lém bàn về thơ sơn thuỷ kia đấy.

Nghe Trần Nhật Duật ví mình với phái thơ sơn thuỷ và phái thơ mã thượng mà Tô Nghĩa Đông vác tự bên Tàu sang huênh hoang, Hoàng Mãnh ức quá nhưng anh ta sợ Chiêu Văn vương nên không dám cãi lại. Tô Nghĩa Đông là một văn thần nhà Tống lúc mạt triều. Khi nhà Tống bị quân Mông Cổ tiến quân tiêu diệt, Tô Nghĩa Đông lúc ấy giữ chức thị lang đã ra hàng quân Mông Cổ để cầu sống cũng như nhiều văn thần võ tướng khác của nhà Tống. Nào ngờ tướng Mông Cổ A Ta Khai rất ghét những thằng hèn nhát, phản chủ nên định đem Tô Nghĩa Đông đóng cọc nêu bêu ở chợ Dương Châu. Hình phạt đóng cọc nêu thường chỉ áp dụng để trừng trị bọn đạo tặc ở các nước dưới quyền thống trị của Mông Cổ. Đao phủ dùng một cây gỗ bằng bắp đùi dài và thẳng, thường là làm bằng gỗ liễu, một đầu đẽo nhọn. Chúng vật ngửa người bị hình phạt ra đất, trói thẳng dăng ra, dùng bò kéo để tống cái đầu cọc nhọn vào hậu môn kẻ bị tội rồi dựng đứng lên thành cây nêu ở những chỗ đông người như chợ búa phố phường để ra oai. Có những cọc nêu cao lắm. Người ta đi xa mấy chục dặm còn nhìn thấy xác người bêu co quắp trên ngọn cột nom như con khỉ ngủ. Tô Nghĩa Đông biết mình sắp bị hành tội, y liều mạng bỏ trốn. May mắn làm sao y trốn thoát khỏi ngục, chui vào được đoàn thuyền buôn từ bán đảo Lôi Châu ra đảo Quỳnh Châu. Từ Quỳnh Châu, y theo thuyền đánh cá lọt vào được vào Vân Đồn, cửa khẩu rất lớn ở biển Đông nước ta. Y vào trình quan ta trấn thủ Vân Đồn, xưng là vong thần nhà Tống. Bấy giờ các quan ta trấn thủ các quan ải biên thuỳ đã được lệnh cứu giúp kín đáo các vong thần nhà Tống. Vì thế quan trấn thủ Vân Đồn tiếp đón Tô Nghĩa Đông rất trọng vọng, mở tiệc áp kinh thết đãi cho y bớt sợ, tặng vàng bạc, tặng quần áo cho y mặc xênh xang rồi cấp thuyền, cấp ngựa đưa Tô Nghĩa Đông về Thăng Long. Tô Nghĩa Đông là kẻ có ngòi bút rất hoạt. Thoạt đầu khoác cái vỏ vong thần nhà Tống, đi đến đâu Tô Nghĩa Đông cũng múa bút làm thơ. Những bài thơ mã thượng của y đọc lên nghe như chuông, hơi thơ hào sảng có tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Các vương hầu kinh thành đua nhau mời Tô Nghĩa Đông đến dự tiệc hoặc dự các buổi bàn luận văn chương, các buổi bình thơ. Y trở thành một nhân vật huyền thoại như trong các thiên anh hùng ca thời cổ. Thơ y được truyền tụng, người ta chép cho nhau nào tuyển tập nào toàn tập Tô thi. Người ta kể truyền miệng cho nhau những chiến công của văn tướng Tô Nghĩa Đông ở hồ Phiên Dương, ở cửa quan Hàm Cốc, ở Kinh Châu, ở Giang Lăng, ở Điền Đông, ở Dương Châu, ở Quế Bắc... Những chiến công thần kì của Tô Nghĩa Đông mà, ôi kì lạ, chính y cũng chưa hề biết. Nhưng y cứ im lặng nhận tất.

Mãi sau vong thần nhà Tống đào tẩu sang ta nhiều, nào Trần Trọng Vi, nào Tăng Uyên Tử, nào Mã Vượng, Tô Cảnh Do, nào Triệu Trung... Đột nhiên người ta thấy biến mặt Tô Nghĩa Đông một thời gian khá dài ở các đám tiệc tùng kinh thành. Rồi lại thấy y xuất hiện, lần này với điệu thơ cao đạo thoát tục toàn vịnh mây gió, trăng sao, sương mù, lừa ngựa. Nhiều người không cắt nghĩa nổi sự thoắt biến thoắt hiện của Tô Nghĩa Đông. Chỉ biết Triệu Trung thì không bao giờ chịu dự một bữa tiệc hoặc một cuộc luận bàn văn chương hay binh pháp nào có Tô Nghĩa Đông. Triệu Trung chính là viên tướng đã quần nhau với dũng tướng Thát Đát Ô Mã Nhi suốt một mùa đông tuyết lạnh lùng chung quanh cái biển hồ Phiên Dương và hiện nay là chỗ đi lại thân thiết với Hoàng Mãnh. Triệu Trung là người ít nói, cả ngày có khi không thốt một câu nên cũng chưa lộ chuyện gì với Hoàng Mãnh nhưng anh chàng tinh quái này cũng đã đoán ra uẩn khúc trong các mối rối như tơ vò đó. Thành thử bị ví với cái nhà anh Tô Nghĩa Đông, Hoàng Mãnh ức lắm. Mặt Hoàng Mãnh lầm lầm, tái đi rồi lại đỏ bừng lên, rồi lại tái đi. Anh cố gắng thưa bằng một giọng kính cẩn lạnh lẽo:

- Kính thưa đức ông điện hạ, kẻ hèn mọn này vốn dòng ti tiện, đâu dám sánh với quan thị lang họ Tô.

Trần Nhật Duật đâm ra thương Hoàng Mãnh, ông làm lành:

- Nói chơi thế thôi. Em với ta cùng uống chung một bầu sữa mẹ. Em nghĩ thế nào thì cứ nói thẳng ra để ta khỏi bận lòng. Ta muốn em yên bề gia thất cho mẹ được vui lúc tuổi già. Em biết đấy, đích mẫu của ta là đức thái hoàng Thái hậu Hiển Từ vốn là người khoảnh nết không hay gần gụi các con. Sinh mẫu của ta là đức Thái hoàng thái phi lại là người thể chất yếu đuối, ốm đau quanh năm có trông nom chăm sóc gì được cho ta đâu. Chính mẹ của em mới vừa là nhũ mẫu vừa là dưỡng mẫu của ta. Mẹ cho ta bú, mẹ ủ ấm cho ta, mẹ che chở ta lúc ta còn nhỏ nhoi, mẹ chăm ta lúc ta ươn người hờn quấy. Ơn cúc dục của mẹ dẫu ta đền đáp đến bao nhiêu chăng nữa cũng không xứng.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #25 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:19:30 pm »

Trần Nhật Duật ngừng nói. Không khí thư phòng trầm hẳn xuống. Biết bao kỉ niệm hồi thơ trẻ trở về trong tâm trí dũng sĩ Hoàng Mãnh. Cái thuở chưa biết phân biệt tôn ti trật tự, bé Hoàng Mãnh thường bắt nạt bé Duật, nào cướp bánh trái, cướp đồ chơi, cướp quần áo, nào có bận còn đấm đá anh. Bà Trương bênh Trần Nhật Duật, bà đét cho bé Mãnh những trận rất đau. Mẹ đánh rồi mẹ lại thương Mãnh. Mẹ tắm cho Mãnh, mẹ ru Mãnh ngủ, âu yếm rung rinh Mãnh trong đôi tay ấm áp làm cho trí óc thơ ngây của Mãnh không sao hiểu nổi tính nết thất thường kì lạ đó.

Rồi đến những năm tháng trai trẻ trưởng thành ở các trấn, Hoàng Mãnh càng ngày càng tài giỏi, càng khôi ngô, đẹp hùng tráng như một thần tướng nhà trời, mắt long lanh sáng như mắt quỷ, gờ mũi, đường viền quai hàm như đá tạc, một vành râu rậm đen lánh chạy từ mang tai bên này sang mang tai bên kia. Hoàng Mãnh đã làm thổn thức biết bao tấc lòng của các công nương ở các lộ anh theo Chiêu Văn vương đến trấn nhậm. Nhưng Chiêu Văn vương chưa nạp chính phi nên Hoàng Mãnh cũng dẹp chuyện vợ con sang một bên. Việc nàng Hai đang dày vò lòng anh. Bây giờ bỏ đi hỏi vợ trên lộ Đà Giang, Hoàng Mãnh cảm thấy như mình làm điều chi bạc nghĩa với Chiêu Văn vương. Ngay việc anh tiến triều nhận chức tướng quân Trấn điện, Mãnh cũng cho là nó na ná như một việc bỏ đi mà thôi.

Hoàng Mãnh tự hào rằng không một ai hiểu nổi những khúc mắc sâu kín nhất trong lòng Trần Nhật Duật, cũng như không một ai có thể hộ vệ Chiêu Văn vương chu đáo bằng anh. Cũng có lúc trong cuộc đời phải có chia li; thật là một điều dĩ nhiên nhưng phi lí biết bao. Bây giờ nữa, nếu Hoàng Mãnh rời Thăng Long, ai sẽ là người an ủi đức ông Chiêu Văn trong những giờ khắc cô đơn làm man mác thêm nỗi buồn sẵn có.

- Mẹ đã lên! - Hoàng Mãnh cúi đầu nói nhỏ.

Hoàng Mãnh mừng rỡ, Trần Nhật Duật càng mừng rỡ hơn, ông đứng bật dậy:

- Sao bây giờ mới nói? Mẹ ở đâu?

- Mẹ ở ngoài tiền sảnh chờ anh cho vào.

- Ô hay, cả khu phủ đệ này mẹ muốn vào chỗ nào không được. Thôi, ta ra tiền sảnh đón mẹ vậy.

Trần Nhật Duật đi mau ra khỏi thư phòng. Ra đến cửa, ông chợt nhớ ra cái vật còn cầm trong tay. Ông liếc vội Hoàng Mãnh và giấu vật đó vào trong bọc. Hoàng Mãnh thoáng mỉm cười rồi lờ đi làm như không trông thấy gì hết.

Trần Nhật Duật thấy bà nhũ mẫu họ Trương đỏ da thắm thịt hơn hồi bà ở trong cung nhưng vẻ mặt hơi tư lự.

Trần Nhật Duật đoán rằng bà Trương chê nàng Hai là người Man Lão. Ông định bụng sẽ nói khéo cho Hoàng Mãnh và nàng Hai bởi vì thực ra cũng chẳng có đám nào hơn thế. Ông mời bà nhũ mẫu vào hậu đường để cho cuộc gặp mặt thêm ấm cúng gia đình. Bà Trương đã trên sáu mươi tuổi nhưng vẫn còn tráng kiện lắm. Bà có một chiếc gậy lụi hun đen cầm trong tay nhưng chỉ là để cho đẹp lão, đó chính là làm dáng chứ không phải để chống cho gân cốt của tuổi già. Bà Trương đem theo một người đàn bà. Người này ôm khư khư trong lòng một chiếc đãy vải cứ như sợ mất cắp. Bà Trương thấy vậy bật cười bảo:

- Bà đưa cho tôi cái đãy.

Bà Trương cầm cái đãy, cởi cái lạt buộc miệng đãy ra, bà nói xởi lởi:

- Thím Tư em dâu ông Đỗ đó. Cô ấy ao ước được lên kinh chơi một lần dối già nhưng tôi đưa cô ấy vào đây thì cô ấy lại sợ quá. Tôi đã bảo là đức ông rộng lượng lắm nhưng cô ấy vẫn chín vía còn ba.

Trần Nhật Duật nhìn người đàn bà quê mùa mộc mạc mặc bộ quần áo may đã lâu, chắc chắn là thế nhưng chỉ mới xỏ tay đôi lần hiếm hoi trong đời người. Ông bảo bà ta:

- Thôi cho phép bà lui.

Người đàn bà vái lia vái lịa và theo người thị nữ đi về phía dãy nhà dành cho những người hầu gái. Bà Trương mỉm cười theo và khi người em dâu đi khuất mới ngoảnh lại lấy các vật trong chiếc đãy vải bày lên mặt sập:

- Đây là quà quê, anh chị lòng thành mang ra.

Bà Trương vẫn giữ lối xưng hô chị dưỡng - cậu hoàng với Trần Nhật Duật trong những lúc vắng vẻ thân tình như thế này. Chính Trần Nhật Duật cũng thích như vậy.

- Sâu dâu để ngâm rượu này. Mật ong hoa trám này. Anh bảo thứ mật hoa trám này để người uống rượu nhiều dùng thì tốt lắm đấy.

Trần Nhật Duật bật cười:

- Vừa có thứ để ngâm rượu uống thích miệng vừa có thứ dùng cho giã rượu và hạ hoả. Quà của chị dưỡng sao mà khéo thế.

Bà Trương hờn mát:

- Chị ở chốn quê mùa làm sao mà có được quà quý. Vì thế cho nên cứ bảo tại sao chị chả dám lên kinh.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #26 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:20:20 pm »

Biết tính bà Trương, khi nào bà còn mở miệng là bà vẫn vui, Trần Nhật Duật đùa:

- Lần này chị dưỡng không muốn lên kinh cũng phải lên.

Bà Trương nghiêm ngay nét mặt lại. Bà nói giọng bồi hồi:

- Cậu hoàng cho gọi chị lên kinh chắc vì việc thằng cả phải không? Thế việc đã đến đâu rồi?

- Việc cũng mới bày ra nhưng em chắc phải xong. Chị cho em thay mặt họ nhà giai lo liệu việc này nhé.

Bà Trương lo lắng:

- Thì nó là em cậu hoàng. Chị chỉ lo họ người ta là thế gia phiên trấn...

Trần Nhật Duật sửng sốt kiêu hãnh:

- Em lại cứ tưởng chị lo chuyện gì kia chứ. Người nhà ta uy danh lừng lẫy ở bất kì đất nào trên nước Việt
ta.

Bà Trương ngắt lời.

- Không phải chị so đo chuyện đó đâu. Ở cửa cậu hoàng, em nó là khách khanh đứng đầu hàng trăm tân khách, gia tướng, gia nô. Nó kém gì các bậc công hầu.

Trần Nhật Duật bật cười vì ít khi ông nghe thấy bà Trương dùng lời lẽ kiểu cách chữ nghĩa hệt như một quan viên hàn lâm đến thế. Cái đó chứng tỏ bà Trương đã đem chuyện riêng hỏi ý những bậc túc nho rồi lời lẽ của họ nhập tâm bà.

- Thế chị dưỡng ngại chuyện gì?

- Ôi dào, nhà người ta tù trưởng cầm đầu một lộ. Lấy con cái nhà người ta thì phải ở rể trên ấy. Tôi sợ là tôi sợ chuyện ấy thôi.

Trần Nhật Duật hỏi vặn bà Trương:

- Thế thì mười mấy năm nay mỗi năm thằng Mãnh cũng chỉ về thăm chị được có mấy ngày thôi chứ gì. Có phải gửi rể châu Mai thì nó cũng mỗi năm về thăm cha mẹ đôi lần cơ mà. Có khác gì trước đâu nào?
Bà Trương đột nhiên nói to lên, thật to:

- Có khác, mà khác nhiều cơ. Khác là trước kia nó hầu hạ cậu hoàng quanh năm, bây giờ thì nó đi vui thú chỗ khác một mình nó.

Trần Nhật Duật và bà Trương cùng im lặng. Trần Nhật Duật xúc động về tình nghĩa của mẹ con bà Trương đối với mình. Hoàng Mãnh đã chẳng gạt bỏ bao nhiêu mối lương duyên chỉ vì anh ta không muốn xa người anh em đồng nhũ đấy ư? Bây giờ bà Trương cũng vậy. Bà cũng không muốn Hoàng Mãnh xa Trần Nhật Duật. Vậy mà người mẹ nào chả mong mỏi con trai của mình sớm thành gia thất, để rồi sớm có cháu đích tôn nối dõi tông đường.

Nhưng không phải bà Trương chỉ e ngại về mặt tình nghĩa mà thôi đâu. Có một mối lo lắng mơ hồ mà bà chưa từng suy nghĩ tìm hiểu nhưng sự mẫn cảm của một bà mẹ đã hướng bà về điều đó. Sức mạnh kín đáo và huyền bí của sự mẫn cảm ấy đã làm cho bà Trương lo lắng cho sự lẻ loi của Trần Nhật Duật. Xưa nay Chiêu Văn vương đã đảm nhiệm nhiều trọng trách của triều đình kể cả việc quân việc nước. Nào là chức trấn thủ những lộ quan trọng như lộ Thanh Hoá, lộ Đà Giang, nào là đem quân giữ yên bờ cõi, giữ yên từng vùng có kẻ phản loạn, nào là thay mặt triều đình làm giám sát các khoa thi Thái học sinh... Việc nào ông cũng làm tròn một cách xuất sắc. Tất nhiên sau một công lao xuất sắc ông lại được Quan gia trao những chức vụ trọng yếu hơn để rồi lại khen thưởng khi ông làm tròn một cách xuất sắc hơn nữa. Nhưng bấy nhiêu công việc, Trần Nhật Duật đều làm trong trường hợp có tả hữu giúp đỡ, nói cho đúng hơn là có người tâm phúc ở bên mà người tâm phúc ấy chính là Hoàng Mãnh. Bà Trương cảm thấy hình như phải có sự cặp đôi ấy, của hai tâm hồn, hai khối óc ấy để chúng bù trì cho nhau. Bà Trương mơ hồ cảm thấy những người thuộc dòng hoàng tộc như Trần Nhật Duật quen sống trong điều kiện có tả hữu đông đúc vây quanh, không quen chen vai thích cánh để mở lấy một hướng đi, không quen hay nói cho đúng hơn chưa được tôi luyện để một mình quả quyết và xông xáo vượt băng mọi ách tắc chướng ngại gay cấn trên đường đời. Bà lo cho Trần Nhật Duật chứ bà không lo cho Hoàng Mãnh trong cuộc chia lẻ này. Bà nói nhỏ:

- Giá cậu hoàng cũng lập vương phi mà thằng cả nó cũng lấy vợ quanh đây thì chị cũng yên lòng hơn.

Trần Nhật Duật vốn bắt gặp rất nhạy những uẩn khúc sâu kín trong đáy lòng những người ông gần gũi quen thuộc. Ông an ủi bà Trương:

- Trước hay sau thì cũng phải lấy vợ cả thôi mà em Mãnh thì khó mà kiếm được một đám nào hơn đám này.
Chị dưỡng cứ ừ đi một tiếng để em vui vẻ mà lo việc cho nó.

Bà Trương cười, thoạt đầu nụ cười còn hơi gượng gạo rồi dần dần cũng tự nhiên. Trần Nhật Duật kể để bà Trương nghe qua những lễ vật sẽ đưa nhà gái hôm vấn danh. Ngoài cau, rượu, chè, trâu, lợn; Trần Nhật Duật còn cho dẫn cưới mười tấm đoạn đại hồng, mười hai đôi xuyến vàng, một bộ trâm, lược đồi mồi, một đôi hài thêu vóc tía. Chắc chắn theo phong tục châu Mai, nhà gái sẽ thách dẫn thêm hai mươi bốn bộ chăn gối bằng thổ cẩm, một trăm quan tiền. Tiền để phân phát cho bọn trẻ con trong vùng còn hai mươi bộ chăn gối để chia cho những người con gái họ Trịnh đã đi lấy chồng họ ngoài. Trần Nhật Duật đã sai gia nô đặt thợ thêu ở phường Tàng Kiếm dùng chỉ bạc cải những ô chữ Song Hỉ lên mặt chăn mặt gối. Những lễ vật này đúng là đồ dẫn cưới của nhà quyền quý! Hoàng Mãnh chẳng muốn lễ vật sang trọng thế. Anh muốn hôn lễ cử hành vui vẻ, thắm thiết, tưng bừng nhưng không vượt khỏi vị thế của những người dân thường trong làng quê của anh. Trần Nhật Duật can em, ông bảo hôn lễ này không phải riêng của cô dâu chú rể và hai họ, hôn lễ này còn biểu hiện sự gắn bó của triều đình với phiên trấn miền núi nữa.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #27 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:21:08 pm »

Chẳng những thế, Trần Nhật Duật cũng dè chừng miệng tiếng người đời chê ông nhẹ tình, không rộng rãi với người em đồng nhũ. Cái gương anh em đồng nhũ giữa thái tử Sảm nhà Lý với Đoàn Thượng cho đến bây giờ vẫn được người ta nhắc đến, kể cả những người trong họ Trần là những kẻ tử thù với họ. Trần Nhật Duật kiên quyết làm hôn lễ cho em theo ý mình. Hoàng Mãnh đành nghe lời anh nhưng Hoàng Mãnh dứt khoát đòi bỏ tiền riêng chi hết các khoản hôn lễ của mình. Anh nói:

- Thưa đức ông điện hạ, đức ông ban thứ gì em cũng quý nhưng những khoản này phải để em chi kẻo người ta lại bảo thế nọ thế kia. Chỉ xin đến lúc cướp dâu, đức ông đi cho có một tay kiếm sắc.

Bà Trương nghe con nói khảng khái cũng ưng ý nhưng bà sửng sốt ngẩn người ra mà hỏi:

- Cướp dâu à? Thế là thế nào?

Trần Nhật Duật cười và giảng giải cho bà nhũ mẫu hiểu tục cướp dâu ở châu Mai làm cho bà tái mặt đi:

- Thế thì còn giời đất nào nữa! Đã gọi là thuận đôi vừa lứa thì mới cho làm lễ cưới chứ. Bây giờ lại còn bày ra cái trò cướp bóc phá phách này nữa. Mũi tên ngọn giáo lỡ ra mất mạng như chơi. Thôi mày về quê nội quê ngoại kiếm một cô gái quê làm vợ. Thiếu gì người đẹp đảm đang ngay các bậc vương công cũng phải thèm nhớ...

Bà Trương vẫn há mồm mà không nói tiếp được nữa. Hoàng Mãnh liếc thấy Trần Nhật Duật bần thần cúi mặt xuống nên vội nói chữa:

- Ôi dào ôi! Mẹ cứ lo phỗng lo loan. Đánh cướp một cô dâu thì nào có khó khăn gì. Con đưa đội dũng thủ của con lên thì hiểm trở như cửa ải Lê Hoa chúng con cũng chiếm phăng. Còn phong tục người ta trên ấy nó như vậy. Người ta giữ tiếng họ nhà người ta là họ to; người ta lại không muốn kén phải rể hèn. Mà việc này, đức Thượng hoàng đứng làm chủ hôn. Ai trái vương mệnh là mắc tội khi quân tru di ba họ. Mẹ cứ yên lòng. Việc khó nhưng đã có anh con đây.

Bà Trương quát con:

-Việc của mày mà mày cứ kéo anh mày vào. Cái trò đánh cướp ấy có khác gì đi trận đi mạc không nào. Mày muốn cướp gì thì mặc mày. Mày muốn cướp cả giời cũng được chứ tao là không bằng lòng để cậu hoàng cũng bôi mặt cầm tay thước đi cướp vợ cho mày.

Trần Nhật Duật cười dàn hoà:

- Cướp dâu mà chị dưỡng lại ví với bọn giặc cỏ bôi nhọ nồi lên mặt. Thôi... từ nay đến tháng một còn hơn bảy tháng nữa cơ mà. Đến lúc đó sẽ liệu sau.

Bà Trương cũng cười. Đến lúc này cả ba người mới thực sự cùng một lòng bàn về lễ cưới, trước mắt là lễ vấn danh sắp tới. Bố mẹ chú rể và Chiêu Văn vương không phải đi châu Mai. Hoàng Mãnh cũng vậy. Trần Nhật Duật sẽ nhờ một ông học sĩ viện Hàn lâm thay mặt nhà trai dẫn một đoàn người ngựa mang lễ vật lên nhà họ Trịnh. Đám cưới của một tướng quân Trấn điện, sủng thần của nhà vua ắt phải vui vẻ, náo động - nhất là viên tướng đó đã từng là khách khanh trong mạc phủ của Chiêu Văn vương. Trần Nhật Duật sẽ đích thân viết lên lá thiếp hồng tên, họ, ngày sinh tháng đẻ của Hoàng Mãnh để ông học sĩ mang đi châu Mai trao cho nhà gái để so đôi tuổi hai trẻ.

Cả ba người đều thấy trước lễ sẽ trọng thể nhưng họ đều không ngờ việc này đã được Thượng hoàng, Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải lưu tâm bàn bạc. Ngay khi được biết Hoàng Mãnh và nàng Hai nhà họ Trịnh có mối lương duyên, Thượng hoàng đã cho gọi hai đức ông vào cung Thánh Từ. Xét mối duyên này có khả năng thắt chặt thêm tình nghĩa giữa tù trưởng thượng du và triều đình, Thượng hoàng có ý sẽ giao cho ông Chính khanh Quang Lộc Tự mang biển Khâm sai đi dẫn lễ. Trần Quốc Tuấn tâu Thượng hoàng xin một ngũ lính hổ bôn hộ tống biển khâm sai. Trần Quang Khải nhấn mạnh hôn lễ này phải làm sao để các lộ thượng đạo thấy rõ triều đình rất quý các phiên trấn và cũng tôn trọng những dũng thủ có tài. Và cả ba người đều khen Trần Nhật Duật là người thông minh và tình nghĩa.

Cung cách tiến hành lễ vấn danh tỏ rõ là họ Trần đã quyền quý ba đời, khác với cái thuở nửa dân chài nửa buôn biển, cướp biển vác đòng đi mở nước tìm một ngai vàng.

Ngày xưa, họ Trần lênh đênh trên các triền sông Bạch Đằng, sông Luộc, sông Hoàng, sông Hoá, nghênh ngang biên hải; họ đặt tên con cái là những giống cá sông, cá biển. Ông tổ là Kình, chữ kình có bộ ngư là cá ở bên. Ông Kình sinh con đặt tên là Hấp chính là con trắm trong chữ nôm, thứ nữa là Lý, tên chữ của con cá chép, rồi đến thế hệ nữa: Khánh là con cá ngạch, Thừa là con cá dưa, Liễu là con cá nheo, Cảnh là con cá lành canh, tất cả đều có bộ ngư bên cạnh. Khi đã cướp được ngai vàng rồi, họ Trần sai bọn biết chữ soạn sách vàng dòng họ, bao nhiêu bộ ngư bỏ hết. Qua hai thế hệ bây giờ họ Trần đã là họ tôn quý, tên tuổi các con đều lấy điển trong kinh sách thật hay. Họ sang rồi thì lễ lạt cưới xin phải sang.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #28 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:22:11 pm »

Chương 6

Từ giữa giờ đầu, các vương hầu và các quan văn võ đã đốt đuốc đến tề tựu ở cửa hoàng thành. Hai đô Long Dực, Hổ Dực dàn rộng ra vừa để giữ trật tự vừa để tăng phần long trọng cho ngày lễ thề trong đền Đồng Cổ. Tất cả vương hầu và các quan văn võ đều mặc triều phục. Lính cận vệ cũng mặc áo chiến may bằng gấm thật đẹp. Những lá cờ đại đã được cắm sẵn trên mặt thành, những lá phướn mang quân hiệu từng đô bay phần phật trong bóng đêm. Bấy nhiêu con người đứng im lặng chăm chú. Họ đã tắm gội sạch sẽ bằng nước nấu với rễ hương bài và ăn chay ba ngày nay để tỏ lòng thành và ý niệm thanh khiết. Bây giờ họ chờ hai vua ngự ra ngoài cung để phò lên đền Đồng Cổ cử hành lễ thề. Đức ông Nhân Túc vương Trần Toàn đã dẫn đức ông Chiêu Minh vương Thái sư Trần Quang Khải và đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn vào cung để rước hai vua xuất cung. Lần thề năm nay sẽ do đức ông Hưng Đạo vương làm Điển nghi Kiểm chính tức là chức vụ chủ tế. Nhân Túc vương Trần Toàn không ngờ việc chọn chủ tế lại dễ dàng đến thế. Mấy hôm trước, Nhân Túc vương có việc phải vào cung Thánh Từ tâu việc. Khi vào đến nơi, Trần Toàn thấy cả hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo đang ngồi hầu vua. Trần Toàn tâu việc xong, Thượng hoàng phán:

- Được, việc đó cứ thế mà làm. Còn văn thề thì chú đưa ngay cho chủ tế đi.

Nhân Túc vương Trần Toàn cuống lên chỉ biết vâng dạ vì đức ông Nhân Túc không biết ai được chọn làm chủ tế cả. Bỗng thấy đức ông Chiêu Minh như hiểu chuyện và muốn gỡ bí cho Nhân Túc vương, cười bảo:

- Đức ông chủ tế Hưng Đạo muốn xem trước văn thề để khi tuyên đọc cho dõng dạc đó chú Nhân Túc ạ.
Trần Toàn sướng muốn múa tay trong bị. Ông không ngờ cách chọn của Chiêu Văn vương lại đúng cách như thế. Giá mình biết thế này thì mình tâu trước có khi Thượng hoàng và cả hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo cũng phải phục mình là công minh.

Ánh đuốc và lửa của hàng trăm cây đèn lồng soi rõ cánh cửa hoàng thành cực kì trang nghiêm. Lính tứ sương chịu trách nhiệm giữ trật tự dọc con đường ven hồ Dâm Đàm đã chia từng ngũ cưỡi ngựa mở đường bởi vì nhân dân kinh thành đã tề tựu rất đông chờ xem đám rước vua. Họ chờ từ ngoài xa, mặc dầu lệnh cấm rất nghiêm ngặt nhưng họ vẫn bàn tán xôn xao. Mặc cho những ngọn roi đe nẹt, mặc cho những tiếng quát mắng cáu giận, mặc cho những giáp binh nai nịt gọn ghẽ khí giới sáng loè, đám dân đầu đen chỉ im được một tí rồi lại hỏi nhau, cãi nhau, bàn tán râm ran về lễ thề. Hình như họ biết rằng trong ngày lễ thề sẽ không bắt bớ trừng trị ai cả, nói tóm lại là không dám làm mất lòng dân trong ngày thiêng liêng đó.
Rõ ràng thệ hội là một lễ long trọng của vương hầu và các quan văn võ. Bách tính lê dân nhìn vào đó có thể hiểu phần nào cái lễ nghĩa kỉ cương biểu hiện ở các đồ nghi trượng sơn son vẽ phượng hào nhoáng che giữa hai chi trưởng và chi thứ của họ Trần. Đám dân đen lo lắng hai chi đánh lộn nhau như cuối triều Lý gây thành hoạ loạn cho trăm họ bàn dân thiên hạ. Họ cố rình xem để đoán, qua nét mặt của các đức ông hai chi, mối đại thống họ Trần nó ra sao để còn liệu mà chôn giấu của nả, đem con cái đi ẩn náu ở chốn sơn thôn.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #29 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2011, 09:23:02 pm »

Hai vua chưa ra khỏi cung, hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo cũng không có mặt trong đám vương hầu và văn võ bá quan nhưng bách tính lê dân vẫn nhận ra chưa có sự hể hả thực sự giữa hai chi Tức Mạc và Vạn Kiếp.

Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai trưởng của Trần Quốc Tuấn, là người sẽ thay Trần Quốc Tuấn làm trưởng họ Trần sau này. Quốc Nghiễn là người giữ trách nhiệm Đông Xướng trong lễ thề hôm nay, đứng riêng ra một mé bên dưới một chiếc biển sơn son thếp vàng hai chữ Khâm sai viết chân phương. Vẻ mặt Quốc Nghiễn trang trọng nhưng đôi mắt Quốc Nghiễn luôn kín đáo liếc về cửa hoàng thành và liếc luôn cả viên Tây Xướng đứng đối diện. Viên Tây Xướng là Tả Thiên vương Trần Đức Việp, em ruột và kế cận ngay sau vua Nhân Tông. Đức Việp chính là người sẽ cầm đầu chi thứ tiếp theo Trần Quang Khải. Tả Thiên vương cũng không lơi con mắt tò mò ngắm lại Quốc Nghiễn. Nhưng cả hai người từ nhỏ chưa hề có va chạm gì với nhau, hơn thế nữa họ đã từng đôi lần dự những cuộc săn, những dạ hội cùng với nhau một cách thích thú.

Hai con trai khác của Trần Quốc Tuấn là Hưng Trí vương Trần Quốc Hiệu và Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uất cùng mấy gia tướng đứng phòng hờ phía sau lưng anh cả. Hình như mấy người này vẫn lo lắng một sự giở mặt có thể xảy ra phía chi thứ. Nhưng thực ra thì không phải thế, Quốc Hiếu, Quốc Uất đã lâu chưa lên kinh. Họ như những người thôn phu bình thường choáng mắt trước cảnh đông đúc lộng lẫy và kinh ngạc rằng tại sao người ta lại có thể ung dung chịu được cung cách sống phiền toái ấy.

Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng vốn là người ba phải. Đức ông Chiêu Đạo là em kế cận cùng mẹ của Thượng hoàng Thánh Tông và đức ông Chiêu Minh. Đức ông rõ là người cũng quyền uy của chi thứ nhưng Chiêu Đạo mặt mũi hể hả đứng chung với đám vương hầu thuộc chi út Long Hưng. Đám này chuyện trò vui vẻ thoải mái nhất. Rõ ràng thệ hội này ngoài tính chất trang nghiêm trọng thể còn là cuộc vui hội hè thực sự với họ. Và họ náo nức bàn tán về cuộc rượu đêm nay trong điện Tập Hiền.

Hai tốp riêng rẽ nhất là tốp Chiêu Quốc - Chiêu Văn và tốp Hưng Nhượng - Chương Hiến.

Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con trai út của Trần Quốc Tuấn và Chương Hiến hầu Trần Kiện, con trai của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang vốn là hai người cùng tuổi, học cùng khoá trong Quốc Tử Giám, học vấn uyên bác nức tiếng cả trong kinh ngoài trấn. Tước hầu của Trần Kiện là hầu thượng vị, được mặc áo tía hệt như các vương. Người ta thường cho rằng hai người là bạn chi lan chi huệ với nhau. Họ đều là những bậc túc nho thâm thuý, gần đây nghe đâu lại cùng nhau nghiền ngẫm lẽ huyền diệu của Đạo Đức kinh và Đại Tạng kinh nữa. Ngay đến bậc lão học thông quán cổ kim là Hưng Ninh vương Trần Tung khi nhắc tới họ cũng không dám coi thường. Họ đứng cạnh nhau như một cặp bài trùng nhưng thực ra khi nhìn kĩ, họ vẫn khác nhau lắm. Hai vẻ mặt cùng bình lặng của triết gia nhưng đôi mắt Trần Quốc Tảng lim dim buông thả, còn Trần Kiện có một nụ cười mơ hồ giễu cợt.

Đứng đối diện với tốp ấy là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, anh em cùng mẹ cùng cha. Chiêu Quốc vương có một dáng người và một vẻ mặt tuyệt đẹp. Mái đầu có một góc nghiêng kiêu sa khinh thị, một nụ cười nửa miệng dường như gạt bỏ tất cả các thứ lễ nghi đang bày ra và sẽ diễn ra hôm nay. Da mặt Chiêu Quốc vương trắng xanh càng làm cho đôi mắt có quầng thâm sâu thăm thẳm. Tay phải Chiêu Quốc vương cầm một lá quạt trầm xinh nhỏ, tay trái lơ đãng đếm những hạt ngọc nạm trên chuôi cây kiếm ngắn đeo bên sườn trái. Chiêu Quốc vương nói không động môi:

- Kìa, nhìn mà xem đám khỉ tu tiên.

Chiêu Văn vương ngơ ngác nhìn để tìm cái đám “khỉ tu tiên” mà anh mình nói tới. Thốt nhiên đức ông Chiêu Văn cảm thấy xưa nay mình vẫn chưa nghiền ngẫm đầy đủ về các mối quan hệ trong dòng họ cũng như chưa tìm hiểu đến nơi đến chốn về vị trí của mình trong mối quan hệ rối rắm ấy. Xưa nay đức ông quen sống hồn nhiên, quen đằm mình vào những hoạt động sôi nổi trước mắt theo một thiên hướng công bằng đầy thiện chí của tuổi trẻ. Trong cuộc đời sôi nổi ấy, đức ông Chiêu Văn thu nhận một cách vô tình những tác động tự nhiều nguồn ảnh hưởng khác nhau. Ông phục sự trí lự dày dạn của Hưng Đạo vương, ông chiêm ngưỡng sự uyên bác thâm trầm của Hưng Ninh vương, ông thích thú cái duyên dáng lịch sự của Chiêu Quốc vương, ông công nhận cách làm việc quả đoán sát phạt của Chiêu Minh vương, ông quý cái ham suy tư tìm hiểu lí lẽ huyền diệu đất trời của Hưng Nhượng vương... Hầu như với tất cả những người ông gặp gỡ trong việc nước cũng như trong giao tiếp bình thường, Chiêu Văn vương đều lọc ra được những điều đáng lưu giữ.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM