ANH HÙNG ĐINH LA CẦU
(Liệt sĩ)
Anh hùng Đinh La Cầu sinh năm 1944, quê ở xã Vũ Lễ, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Khi hy sinh, đồng chí là đảng viên, Trung đội trưởng trung đội công binh tiểu đoàn 368 tỉnh Bình Long (nay là tỉnh Bình Phước).
Vừa tròn 20 tuổi, Đinh La Cầu gia nhập bộ đội địa phương. Với 5 năm chiến đấu, cho đến lúc hy sinh (1969) anh đã tham gia trên 130 trận lớn, nhỏ; diệt trên 20 xe tăng, thiết giáp, xe quân sự; 150 tên ác ôn, bảo an Mỹ - ngụy, phá hủy 1 kho xăng dầu, 2 máy bay của địch; thu 50 súng các loại. Những năm mới vào bộ đội, trong hoàn cảnh khó khăn, đơn vị phải tự cấp, tự túc. Đinh La Cầu năng nổ lao động tăng gia sản xuất, lôi cuốn nhiều anh em khác. Có khi đi công tác, suốt 5 ngày không ăn cơm nhường nhìn cho đồng đội ăn. Trong chiến đấu, nhiều trận anh đã nhử địch và đánh địch một cách thông minh., có một số trận đặc biệt xuất sắc. Trận đánh đồn Minh Hòa, ta diệt nhiều tên Mỹ và tề điệp. Tại đây, hôm sau Đinh La Cầu đặt mìn diệt 10 tên Mỹ. Năm 1967, Đinh La Cầu đánh chốt Mỹ ở Tàu Ô, Tân Khai, Đinh La Cầu cùng anh em dùng B41 diệt 2 xe tăng địch, làm nhiều tên chết và bị thương. Tháng 3 năm 1968, đơn vị anh được điều về tiểu đoàn 368, ngay những ngày đầu, Đinh La Cầu diệt được 3 xe tăng Mỹ ở Phú Miêng. Ngày 23 tháng 2 năm 1967, tiểu đoàn 368 phục kích, tiêu diệt gọn 1 đại đội bảo an ở ngã ba An Lục, diệt 40 tên Mỹ, 13 xe tăng địch. Riêng Đinh La Cầu phá hủy 6 xe tăng, 10 tên Mỹ. Trong trận chiến đấu này, anh đã hy sinh anh dũng.
Đồng chí được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng ba, nhiều lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, diệt cơ giới, 10 giấy khen, 10 bằng khen. Ngày 28 tháng 4 năm 2000, Đinh La Cầu được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
ANH HÙNG ĐIỂU ONG
(Liệt sĩ)
Điểu Ong sinh năm 1939, dân tộc Xtiêng, quê ở xã 5, huyện Bù Đăng, tỉnh Sông Bé, nhập ngũ tháng 1 năm 1960. Khi hy sinh, đồng chí là Huyện đội trưởng huyện Bủ Đăng, tỉnh Sông Bé, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1960 đến tháng 12 năm 1969, Điểu Ong chiến đấu trên địa bàn huyện và tỉnh, đồng chí đã chỉ huy đơn vị diệt hàng trăm địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh; tự tay diệt 76 tên địch.
Trận Bù Liên tháng 4 năm 1966, lần đầu đơn vị chiến đấu với Mỹ, hỏa lực của chúng rất mạnh nhưng Điểu Ong vẫn bình tĩnh chỉ huy trung đội đánh lui 7 đợt phản kích của 1 tiểu đoàn địch, diệt 20 tên. Riêng đồng chí diệt 9 tên, bảo vệ được căn cứ.
Ngày 15 tháng 11 năm 1968, để thực hiện ý định chặn quân địch ở ấp Hòa Đồng, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực chiến đấu ở Bù Đăng, Điểu Ong phụ trách một tổ theo dõi địch ở đây. Khi vào ấp trinh sát bất ngờ gặp 2 trung đội địch, đồng chí đã chủ động nổ súng đánh trước làm chúng hoang mang, hoảng sợ. Sau một ngày đêm ngoan cường chiến đấu, Điểu Ong đã cùng tổ diệt nhiều tên, buộc chúng phải rút khỏi ấp.
Ngày 12 tháng 12 năm 1969, Mỹ - ngụy cho một lực lượng lớn càn vào căn cứ của huyện. Đồng chí trực tiếp chỉ huy một trung đội tiến công vào một toán địch ở Bà Môn, diệt nhiều tên. Đội hình địch rối loạn, chúng phải rút lui và sau đó đã dùng máy bay đánh phá căn cứ rất ác liệt. Đồng chí đã anh dũng hy sinh sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Điểu Ong luôn luôn sâu sát cơ sở, làm tốt công tác vận động quần chúng và góp nhiều công sức xây dựng lực lượng vũ trang huyện.
Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 5 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ.
Ngày 6 tháng 112 năm 1978, Điểu Ong được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Vn truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
ANH HÙNG DƯƠNG ĐỨC THÙNG
Dương Đức Thùng sinh năm 1954, dân tộc Nùng, quê ở xã Quốc Toản, huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ tháng 8 năm 1974. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là Chuẩn úy, Đại đội trưởng đại đội công binh, tiểu đoàn 4, lữ đoàn 25, Quân đoàn 4, đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh - Xuân 1975, Dương Đức Thùng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Từ năm 1979 đến năm 1983, Dương Đức Thúng làm nhiệm vụ trên đất Campuchia, đồng chí đã nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, dũng cảm, mưu trí, gương mẫu đi đầu trong mọi việc, vượt khó khăn, gian khổ, đi sâu sát nhân dân bạn, làm công tác phát động quần chúng, xây dựng chính quyền, tổ chức lực lượng đánh địch, giữ vững trật tự xã hội ở nhiều xã thuộc huyện Kiêng Vay, tỉnh Căng Đan.
Tháng 12 năm 1974, Dương Đức Thùng là đội truởng đội công tác phát động quần chúng ở xã Đông Ất, huyện Kiêng Vay, tỉnh Căng Đan. Nhân dân ở đây chưa được giác ngộ, đời sống đói khổ, bệnh tật, địch ra sức tuyên truyền xuyên tạc những chủ trương chính sách của Đảng và Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia. Đồng chí đã xác định trách nhiệm, bản thân gương mẫu học tập và động viên mọi người học tiếng Campuchia. Chỉ sau một thời gian ngắn, Dương Đức Thùng đã nói được tiếng Campuchia. Thấy dân rách, đồng chí có 2 bộ quần áo, biếu 1 bộ cho một cụ già. Nhiều lần thấy trẻ em ghẻ bẩn, đồng chí đã tắm rửa cho chúng. Thấy nhà dân bề bộn, mất vệ sinh, Dương Đức Thùng đã dọn dẹp sạch sẽ. Có lần thấy một người dân bị rắn độc cắn, người mê man, Dương Đức Thùng đã nhanh chóng tìm lá đắp vào vết rắn cắn và cho uống nước lá giải độc. Sau 20 phút người này đã tỉnh. Một số người đòi tiêm thuộc cho người dân này với ý đồ xấu. Đồng chí kiên quyết không cho tiêm. Kết quả chỉ sau hơn 1 giờ đồng hồ, sức khỏe người dân được hồi phục. Một lần gặp một phụ nữ đẻ khó, Dương Đức Thùng đã tìm thứ lá gia truyền cho uống, giúp chị đẻ an toàn.
Nhân dân bị đói, lại không chịu làm do ảnh hưởng của luận điệu tuyên truyền xuyên tác của địch: “Dân không cần sản xuất, Xihanúc sẽ cấp cho mỗi gia đình 1 tấn gạo…” Dương Đức Thùng động viên mọi người trong đội công tác đi sâu sát nhân dân, tuyên truyền giải thích, vạch mặt những luận điệu xảo quyệt của địch; mặt khác tích cực giúp đỡ nhân dân lao động sản xuất và bằng những hành động cụ thể, thực tế của mình để giảm bớt khó khăn trong đời sống của nhân dân. Nhân dân tin tưởng ở bộ đội Việt Nam, đã chỉ những tên địch lọt vào hàng ngũ chính quyền cách mạng để ta cải tạo.
Nhiều lần, địch dụ dỗ, mua chuộc, dọa dẫm, những phần tử xấu tìm cách giết hại đồng chí. Chúng treo giải: Ai giết được Dương Đức Thùng thì chúng thưởng 10 lạng vàng, nếu bắt được thì được thưởng nhiều hơn. Đồng chí vẫn vững vàng tích cực lăn lộn, hoạt động, có lần Dương Đức Thùng cải trang làm dân, vượt qua 2 tên gác bí mật đến gần nghe cuộc họp của địch, và tổ chức lực lượng bắt được 2 tên từ Thái Lan về; bắt 3 tên khác ra trình diện, thu 21 súng, 300 viên đạn. Kết quả này đã gây được lòng tin trong nhân dân, củng cố chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Một lần khác, vào lúc 19 giờ, 3 tên địch phục kích dùng gậy xông vào đánh, đồng chí đã bình tĩnh dũng cảm đánh trả lại, 3 tên này phải bỏ chạy. Sau vụ này bọn địch trong xã bỏ trốn, có tên ra trình diện và nói: Trước đây tôi lầm đường theo địch giết anh, nay tôi ân hận…
Đồng chí luôn gương mẫu về mọi mặt. Được bạn tin yêu.
Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 18 bằng và giấy khen, 2 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Được Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Campuchia tặng Huân chương.
Ngày 25 tháng 1 năm 1983, Dương Đức Thùng được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.