Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 02:47:04 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký "Có một thời như thế" của CCB Võ Minh  (Đọc 40224 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #10 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:36:40 pm »

22-2-1972
Sáng nay tất cả anh em trong tiểu đoàn 5 chúng tôi được thông báo: Mọi người trong đại đội sẽ chia tay nhau để bổ sung về đơn vị mới. Những giờ phút bùi ngùi lưu luyến sao thân thương gắn bó lạ thường.
Đã 14 tháng trôi qua, chúng tôi mỗi người một quê đã cùng sống, huấn luyện rồi hành quân trên đường đi vào chiến trường với nhau, biết bao nhiêu khó khăn, vui, buồn, hờn giận luôn có mặt bên nhau chia sẻ.
Nhớ ngày tháng huấn luyện trên đất Bắc. Với các bài xạ kích bắn súng, lăn lê bò toài, những động tác kỹ thuật, bài chiến thuật và các trò láu cá trong tập luyện của từng đứa. Tất cả chúng tôi đều nhớ, không thể nào quên được.
Rồi những ngày hành quân vượt dải Trường Sơn hùng vĩ, sẵn sàng nhường cơm sẻ áo và viên thuốc cuối cùng, ngụm nước cuối cùng cho nhau. Đến những lần cáng nhau vượt qua những con dốc cao dựng đứng vun vút, trơn tuồn tuột. Đã có mấy lần, cáng và người suýt nữa kéo theo nhau rơi xuống vực sâu thăm thẳm phía dưới. Giờ đây, ngồi điểm lại, tất cả chúng tôi đã có mặt đông đủ trên mảnh đất B2 này không thiếu một ai.
Rồi đây, trong nhóm chúng tôi: Hồng, Nam, Thìn, Sơn, Lượng, anh Trọng… và tất cả các bạn đang ngồi quây quần ở đây ai sẽ về cùng một đơn vị với tôi? Ai sẽ phải rời xa để sang đơn vị khác? Và ai sẽ còn, sẽ mất? Ai sẽ được trở về miền Bắc thân yêu?
Bữa cơm tối chia tay cuối cùng, tất cả mọi người trong đại đội đều buồn rười rượi, các món ăn hôm nay, thật ra có khấm khá hơn mọi ngày. Nhưng chả ai buồn động đũa, tuy trong bụng đang rất đói. Ai cũng cố dành cho bạn mình những món thức ăn ngon nhất và động viên an ủi nhau. Hẹn gặp lại trong thời gian tới ngắn nhất.
Giờ chia tay để mọi người trở về đơn vị mới đã đến, chúng tôi ôm chặt lấy nhau nghẹn ngào lưu luyến. Tiếng ai đó bật khóc khi được nghe tên mình đi về đơn vị mới, không có bạn đi cùng.
Những tiếng chào, gọi nhau í ới. Những lời chúc mong điều tốt lành, bình an, nguyên vẹn được trở về quê nhà. Tất cả, tất cả tình cảm của mọi người đều dành cho cuộc chia ly, làm náo động cả một khu rừng mà trước đó vẫn còn yên tĩnh.
Những người bạn thân nhất của tôi: Trần Ngọc Nam và anh Trần Kim Trọng về (C2 D9) đại đội 2 tiểu đoàn 9. Trần Văn Hồng về tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 7 (D7). Nguyễn Văn Lượng về đơn vị thiết giáp. Còn phần lớn các bạn bè đều bổ sung về các tiểu đoàn 7, 8, 9 và các đại đội trực thuộc của trung đoàn bộ binh 271.
Chỉ có các bạn Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Văn Tiếu, Nguyễn Văn Thìn, Nguyễn Văn Mão, Phan Văn Định, Nguyễn Văn Tại, cùng về đại đội 3 tiểu đoàn 8 (C3 D8) với tôi.
Dưới ánh trăng non đêm mùng bảy Tết mờ mờ, nhạt nhạt, chúng tôi chỉ kịp ôm nhau lưu luyến, rồi vội vàng buông ra chạy về đơn vị mới. Khi chia tay, tôi chưa kịp nói gì với Hồng, Nam và anh Trọng và cũng chẳng nhìn được rõ mặt mọi người trong thời điểm ấy như thế nào? Rồi đây, chúng tôi còn có điều kiện gặp nhau nữa không? Hay đây là lần chia tay cuối cùng. Đầu óc tôi rối tung lên, không thế nhớ nổi một điều gì.
- Các bạn về đơn vị mới mạnh khoẻ bình an nhé, nhớ tìm mọi cách liên lạc với mình.
 Tôi quay đầu lại hét lên, và chạy nhanh về phía đoàn quân của đơn vị mới.
Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #11 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:38:26 pm »

VÀO TRẬN


Khi về đến Ban chỉ huy đại đội 3, tôi được bổ sung làm liên lạc, còn các bạn cùng đi với tôi về trung đội 1, 2, 3 và tiểu đội hoả lực A10.
Trong đại đội chúng tôi có anh Hà Văn Thái là đại đội trưởng, anh Trần Đức Căn chính trị viên trưởng, anh Nguyễn Tiến Mùi và anh Nguyễn Văn Thụ - Đại đội phó và chính trị viên phó cũng vừa từ Miền (Bộ tư lệnh miền Đông Nam Bộ) bổ sung về đơn vị sáng nay. Anh Nguyễn Quốc Sự, văn thư quân khí, anh Trần Đức Huyên y tá, Anh Nguyễn Văn Trữ quản lý, anh Nguyễn Văn Tài nuôi quân. Còn Trần Xuân Coỏng làm nhiệm vụ liên lạc như tôi.
Được về sống chiến đấu với một tập thể mới, có các anh đều lớn tuổi là những chỉ huy già dặn, từng trải. Mới đầu như vậy, đã gây cho tôi ấn tượng rất tốt về các anh, để yên tâm, vững tin hơn khi được nhận nhiệm vụ mới. Nhất là tình cảm chân thành, cởi mở, chan hoà của các anh dành cho chúng tôi khi về cùng sống, chiến đấu trong đại gia đình đại đội 3, Tiểu đoàn 8 anh hùng.

23-2-1972
Cả đơn vị tôi tiếp tục hành quân về khu vực rừng chuối Ôrăngâu của Cămpuchia. Nơi đây, người dân trồng chuối rất nhiều, bao quanh bìa rừng cao su mênh mông, rộng lớn.
Những đêm yên tĩnh nằm võng cạnh nhau, các anh đã kể cho tôi nghe bao nhiêu chuyện trong cuộc sống đời thường đã từng trải nghiệm, cả những chuyện thầm kín riêng tư.
Còn tôi, chỉ là cậu bé mới vừa học xong phổ thông đã lên đường nhập ngũ, để rồi bây giờ đang có mặt ở đây. Chuyện của mình chả có gì để kể cho mọi người nghe cả. Có chăng, chỉ những lần trộm rau, sắn trên đường Trường Sơn còn ấn tượng. ý định ban đầu là giữ kín, nhưng do các anh thúc ép quá nhiều, nên tôi đành phải "khai" ra.
Đó là một lần khi chúng tôi được nghỉ một ngày ở trạm giao liên, lúc vừa hạ chiếc ba lô cồng kềnh sau lưng xuống đất để tìm vị trí mắc võng, tôi nhìn thấy thân cây lớn bên cạnh, có ai đã viết bằng than nguệch ngoạc lên đó: "Cách đây 3km hướng đi vào có bãi B52". "Bãi B52" là tiếng lóng của "bãi sắn" mà chúng tôi được các chiến sĩ đi ra Bắc truyền lại.
Ngay trong chiều hôm đó, tôi và Hồng, hai đứa rủ nhau đi tìm sắn (củ mỳ) mang về, cùng anh em giải quyết nạn đói lâu nay.
Còn cậu Nam ở nhà có nhiệm vụ đào cây "sâm đất" (loại cây giống như cây Thiết mộc lan) mọc rải rác khắp trong rừng, lấy củ mang về nấu nước để uống. Nghe mọi người nói: Nước sâm này uống vào rất bổ cho cơ thể và còn có tác dụng "Cải lão hoàn đồng" nữa chứ.
Cánh lính chúng tôi phần lớn còn "đồng" như thế này, bây giờ đang phải đi vào nơi hòn tên mũi đạn, không biết có còn may mắn được "lão" hay không để mà "cải"?
Nhưng dù sao, đây cũng là niềm hy vọng, là nguồn động viên an ủi chúng tôi trong những lúc đang sống khó khăn, gian nan, vất vả này.
Tôi và Hồng mò mẫm theo tuyến đường mòn giao liên đi về phía trước rất xa, trời đã về chiều mà vẫn chưa phát hiện ra nơi đâu là "bãi sắn".
Đã có lúc chúng tôi nản chí định bỏ cuộc quay trở về. Nhưng vì tiếc công sức mình đã đi đến đây, nên lại động viên nhau cố gắng đi thêm một đoạn nữa, để tìm nó bằng được.
Thật là may mắn, bên con đường mòn đang đi có một lối mòn nhỏ, tôi đoán đây là vào đúng nơi "bãi sắn". Chỉ cách đó độ khoảng 100 mét thôi, một nương sắn khá rộng hiện ra.
Không kịp suy nghĩ nhiều, hai đứa xông đến cùng nhau nhổ gốc sắn đầy củ mập to, nhét đầy sắn vào chiếc quần dài được cột chặt hai đầu ống lại. Nhanh chóng khoác vội trên vai tìm đường trở về.
Trong lòng chúng tôi thật sự vui mừng, phấn khích với chiến công vừa đạt được. Tôi và Hồng hứng chí nghêu ngao hát bất cứ đoạn lời bài hát nào mà mình còn nhớ, chả cần biết tên bài hát đó là gì.
Trời đã về tối, Hồng tạt sang mép đường nhặt mấy đoạn thân cây nứa khô làm đuốc đốt sáng lên để soi đường về. Khi đến cạnh một đơn vị đang đóng quân bất ngờ, phía trước và sau hai đứa tôi có tiếng súng nổ đoàng, đoàng rất gần. Tiếp đó là tiếng hô:
- Đứng lại, không được chạy!
Hồng đang cầm đuốc cháy sáng đi trước bị bắt ngay tại trận. Còn tôi nhanh chóng nghiêng mình cùng với hai ống quần sắn trên vai, lăn xuống vệ đường nằm yên không động đậy, bên cạnh một chiếc lán nhỏ.
Vừa nói đến đây, mọi người ngồi xung quanh nghe đã cười phá lên giơ tay chỉ chỉ, trỏ trỏ vào anh Sự "râu" (anh Sự có bộ râu quai nón). Tôi dừng lại vì quá ngạc nhiên, thắc mắc. Không hiểu các anh đang cười về điều gì? nhưng không một ai trả lời giải thích cho, vẫn hối thúc tôi kể tiếp.
-Bắt được một thằng rồi, còn một thằng nữa! - Tiếng của cán bộ binh trạm vang lên.   
Mọi người đốt đuốc soi tìm, tôi nằm im không cựa quậy mặc dù dưới bụng mình đầy cành khô đâm vào bụng, đùi đau điếng.
 Hồng tìm mọi cách van xin được tha và trình bày hoàn cảnh đói khổ của mình. Phải một lúc sau đó cậu ta mới được thả.
Không gian lại trở về yên lặng, chỉ còn lại những tiếng xì xào, bàn tán xa xa. Tôi nghĩ đã đến lúc bình yên, mọi người rút hết vào lán trại rồi. Tranh thủ thời cơ này, vội nghiêng mình để tè, vì bụng dưới căng phồng do đã nhịn quá lâu. Thật không ngờ phía sát người, cành củi khô gãy kêu răng rắc.
- Còn đây một thằng nữa!
Một tiếng hô của ai đó đứng rất gần, do trời quá tối nên tôi không thể phát hiện được.
Mới nghe đến đây hầu như tất cả mọi người đang ngồi bao quanh đều phá lên cười rũ rượi. Tôi vội dừng lại để tìm hiểu điều gì đã xảy ra, nhưng các anh vẫn thúc giục kể tiếp.
Lúc này đây tôi mới thật sự hoảng sợ, mồ hôi trong người tuôn ra, mặc dù khí hậu về đêm ở đỉnh Trường Sơn mùa này khá lạnh. Biết mình không thể trốn thoát được, nên vội vàng đứng dậy xin cán bộ binh trạm tha cho. Thế nhưng, các anh vẫn kiên quyết đưa tôi về xử lý.
Vừa nghe có giọng nói xứ Nghệ, biết là gặp được người đồng hương, như chết đuối vớ được phao, tôi nhẹ nhàng nói:
- Anh là người Nghệ An phải không? Em người Nghi
Lộc đây!
Như đã đánh trúng vào điểm yếu, anh nhẹ nhàng trả lời :
- Thế em là người Nghi Lộc à? ở xã nào đấy? Anh là người Thanh Chương đây.
- Em người Nghi Thịnh, thôi anh tha để được mang sắn về, chứ chúng em đói lắm! - Tôi nài nỉ trả lời.
Tôi sung sướng như chết đuối vớ được cọc, vác một ống quần sắn trên vai, vội vàng chạy thật nhanh về nơi những người bạn của mình đang nóng lòng ngóng đợi.
Mọi người ngồi xung quanh nghe tôi kể chuyện đã cười vang, anh Thái, anh Căn cười tủm tỉm bỏ ra ngoài. Anh Tài là người bộc trực nói:
- Thế có biết trạm trưởng đêm hôm đó bắt em là ai không?
- Thực ra lúc đó trời tối quá không nhìn rõ, nhưng qua ánh đuốc em thấy hình như mặt ông ấy có râu thì phải?
Sau câu trả lời của tôi, mọi người càng cười phá lên.
Vẫn anh Tài ôn tồn nói:
- Trạm trưởng hôm đó đang ngồi trước mặt em đấy!
Quay sang nhìn anh Sự râu đang cười tít cả hai mắt. Tôi thật sự ngạc nhiên hơn, không hiểu trong chuyện này lại có điều gì liên quan ở đây.
Cũng không phải chờ đợi lâu, các anh đã kể hết mọi điều xảy ra. Đây cũng là duyên phận đến với chúng tôi ngay từ ngày đó, để rồi gắn bó với nhau trong cuộc sống chiến đấu sau này.
… Từ nơi đóng quân, tôi và Hồng đi đến bãi sắn và đi qua nơi các anh nghỉ. Biết thế nào, chiều tối hai đứa sẽ về qua đây. Nên đã tổ chức "trấn lột sắn” của chúng tôi mang về.
Anh Sự có bộ râu quai nón, nhìn già dặn hơn đóng vai trạm trưởng, còn những người khác đóng vai nhân viên. Riêng anh Thái và anh Căn đứng ngoài cuộc. Và sự việc đã diễn ra như dự đoán ban đầu của các anh.
Còn người lấy của tôi một ống quần sắn, đấy là anh Nguyễn Văn Truyền tiểu đội phó tiểu đội hoả lực (A10).
Chúng tôi đóng quân nghỉ 1 tháng tại rừng chuối Ôrăngâu, với nhiệm vụ học chính trị, ôn luyện các bài chiến thuật,
kỹ thuật để chuẩn bị cho một trận đánh lớn vào cứ điểm quân đội Sài Gòn trên đất Việt Nam, nằm trong chiến dịch lớn của toàn miền.

30-3-1972
Khoảng 4 giờ chiều, cả trung đoàn 271 thực sự rút khỏi rừng chuối để hành quân về Việt Nam. Mục tiêu được Bộ tư lệnh Miền giao cho trung đoàn đánh chiếm căn cứ Thiện Ngôn - Xa Mát, giải phóng khu vực đường 22, thuộc phía tây tỉnh Tây Ninh, sát với biên giới Việt Nam - Cămpuchia.
Đường ra tuyến trước vượt qua bao nhiêu đầm lầy, đầy bùn, nhão nhoẹt quánh đặc, những lúc đó, dép dưới chân không thể đi được đành phải tháo ra. Chúng tôi phải dò dẫm từng bước một, trên vai  mang ba lô cồng kềnh, gạo, súng đạn rất nặng.
Riêng đối với từng tổ 3 người ở các tiểu đội, phải thay nhau mang vác thêm một bộ nan tre đã kết liền với nhau to tướng, nặng trịch để đến khi đã áp sát đồn địch đào hầm xây công sự, còn có cái để phủ đất che chắn bên trên chống đỡ bom đạn và pháo chụp của địch nổ trên đầu (loại đạn pháo khi ở cách mặt đất 5 đến 10 mét thì nổ). Khổ nhất là lúc hành quân trong đầm lầy, gặp phải mô đất cứng nhô lên, chân dẫm phải trơn tuồn tuột rất dễ dàng đo ván xuống mặt sình đầy bùn nhão nhoẹt.
Để đảm bảo an toàn và bí mật, mọi hoạt động di chuyển quân của đơn vị tôi, lúc này được chuyển vào ban đêm vì ban ngày trên bầu trời liên tục có các máy bay trinh sát L19, OV-10 rình mò lùng sục bộ đội ta. Chỉ cần ở dưới mặt đất có một biểu hiện bất thường, là ngay sau đó máy bay trinh sát bắn một phát pháo hiệu chỉ điểm xuống thì độ 5 phút sau, một đàn máy bay ném bom A37 từ đâu đến, ném bom ồ ạt xuống đó ngay.
Ngoài ra, dưới mặt đất liên tục có các đơn vị biệt kích, thám báo quân đội Việt Nam Cộng hoà. Chúng do thám, rình mò, phát hiện vị trí hoạt động của quân ta, sau đó gọi pháo bầy dội đến tức thì. Đạn nổ liên hồi theo từng đợt dài, mà chúng tôi gọi là: "Dàn nhạc Tân Tây Lan" từ các vị trí Cà Tum, Xa Mát, Tân Biên, Lò Gò…
Cũng chính vì loại đạn pháo này, riêng đại đội tôi đã có hai người ngã xuống đang lúc trên đường hành quân ra tuyến trước. Đó là anh Trần Đằng, hy sinh chiều ngày 30-3-1972 quê ở Nga Trương (Nga Sơn, Thanh Hoá) và anh Trương Xuân Quyết, hy sinh vào ngày 1-4-1972 quê ở Lạc Vân (Nho Quan, Ninh Bình).
Một tổn thất rất lớn đã đến với chúng tôi, khi người chỉ huy cao nhất của trung đoàn - Trung đoàn trưởng Lê Ổn(1) đã không tham dự chỉ huy trận chiến mở màn được. Ông đã bị một quả đạn pháo địch nổ bên cạnh, cướp đi một cánh tay, trong lúc đang trên đường ra tuyến trước cùng với một số cán bộ của buổi chiều ngày 30 tháng 3.
Trong lúc đó, thời gian nổ súng đồng loạt vào các mục tiêu địch của các đơn vị chúng tôi còn lại chỉ tính theo từng giờ, không còn có thời gian để chuẩn bị. Anh Phan Văn Cần đang là trung đoàn phó lên thay anh Lê ổn, đảm nhiệm chức trung đoàn trưởng chỉ huy trung đoàn chiến đấu.

2-4-1972
Khoảng 1 giờ 30 đêm, đại đội 3 chúng tôi tiếp cận ở bìa ngoài rừng, cạnh bàu Statung (mà cánh lính chúng tôi gọi là bàu Lung tung) đã cạn khô nước, chỉ còn trơ đất nứt nẻ.
Phía trước mặt là căn cứ Xa Mát của quân đội Việt Nam Cộng hoà đang chiếm đóng. Nơi chúng tôi đang đào hầm xây công sự là những bãi cỏ tranh cao đến ngực, nằm cách bìa rừng khoảng 100 mét.
Công sự vừa xây dựng có anh Thái, Thụ cậu Tịch chiến sĩ thông tin vô tuyến 2W và tôi chốt giữ, cách cửa hầm của các anh Căn và  Mùi, do Coỏng đào độ 5 đến 7 mét.
Khoảng 7 giờ sáng, lúc đang còn nằm ngủ mơ màng trên mặt đất cạnh cửa công sự, tôi giật mình tỉnh dậy, khi nghe tiếng súng của quân đội Việt Nam Cộng hoà ở bên kia bàu cạn Statung bắn vào. Trên đầu, đạn nhọn từng tràng vút qua nghe chiu chiu, ríu ríu... tiện đứt ngang thân những ngọn cây cỏ tranh đổ gục xuống.
Biết đối phương đã nổ súng tấn công, tôi nhẹ nhàng lăn mình xuống cửa công sự, thò đầu lên quan sát. Một tốp lính tuần tiễu đi xung quanh căn cứ Xa Mát bắn bừa về nơi chúng tôi đang chốt ở đây. Dự đoán cả đại đội mình chưa bị lộ, anh Thái đã ra lệnh cho các trung đội: Hãy đợi địch kéo quân ra ngoài cứ điểm và để nó đến thật gần mới được nổ súng tiêu diệt.
Đúng như anh phán đoán, phía bên trái chúng tôi là con đường 22. Nơi đó có căn cứ Thiện Ngôn, cả trung đoàn đã nổ súng.
Một đại đội biệt kích bỏ chạy cắt qua cạnh sườn của đại đội tôi đang phục sẵn. Khi tốp lính đi đầu cách chốt tiền tiêu của trung đội 1 độ khoảng 5 mét. Bộ đội ta bất ngờ đồng loạt siết cò.
Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #12 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:39:46 pm »

Quân địch gục đổ hàng loạt, chỉ có năm, sáu người sống sót  hoảng loạn chạy vượt qua trảng trống, chui sâu vào trong rừng phía bên kia. Tiểu đội hoả lực A10 do anh Thiết chỉ huy đã dùng súng đại liên, trung liên, cối 60 bắn áp đảo lực lượng đối phương đang bỏ chạy, để lại trên mặt trảng rất nhiều người chết và bị thương.
Như vậy, trận chiến nổ súng đầu tiên của đại đội 3, tiểu đoàn 8, trung đoàn 271 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, đã giành được thắng lợi rực rỡ, góp vào tiếng súng tấn công mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ "chắc thắng" của quân ta vào mùa xuân năm 1972.
Niềm vui hân hoan phấn khởi của cán bộ chiến sĩ trong đơn vị tôi không được kéo dài, vì ngay sau đó, đạn pháo của các cứ điểm địch ở Cà Tum, Lò Gò, Tân Biên tới tấp dội vào trận địa.
 Pháo chụp, pháo khoan, pháo sát thương thi nhau nổ inh tai, đất cát khói thuốc súng bay mù mịt khét lẹt. Tôi và mọi người chui sâu trong hầm trú ẩn chờ cho đến khi ở phía trên ngừng tiếng nổ, mới thò đầu lên quan sát phía trước.
Một tốp lính lại đang thập thò về mép trảng bên cạnh, tôi nổ súng, khẩu tiểu liên AK "pằng, pằng" rung lên. Bọn chúng hoảng sợ lùi sâu về phía trong rừng không dám đi ra ngoài nữa.
Bộ binh và pháo binh địch đành chịu bó tay trước sức tấn công của chúng tôi. Chúng thay đổi chiến thuật, cầu cứu máy bay đến ném bom vào đội hình đang chốt giữ của đại đội tôi.
Những chiếc A37 màu xám xịt, loang lổ trên bầu trời, trong phút chốc lao đến, bổ nhào, cắt những quả bom đen thui, tròn xoay lao thẳng xuống đầu chúng tôi.
Vừa thụt đầu xuống, và chui sâu vào trong, căn hầm bỗng nhiên rung lên, người tôi đung đưa chao đảo, kèm theo một tiếng "ục" ở phía sau. Nhìn lên cửa hầm, bầu trời đang sáng của ánh nắng chói chang vào giữa trưa cuối mùa khô này, bất ngờ trời tối đổ sầm lại, rồi một lúc sau đó từng tảng đất đá khá to, tiếp nối theo là những hòn đất nhỏ hơn cứ uỳnh uỵch, uỳnh uỵch rơi xuống.
Cát bụi tan dần, bầu trời từ từ sáng loá lên, sau đó lại trở về với cái nắng nóng gắt ban đầu. Và cứ thế, máy bay tiếp tục ném bom xuống đội hình đại đội tôi kéo dài khoảng 30 phút.Vừa  ngừng tiếng nổ, tôi vội thò đầu lên, lao nhanh lên trên hầm quan sát các vị trí xung quanh: Bãi cỏ tranh đang bốc cháy ngùn ngụt, chúng tôi chỉ kịp vớ lấy những cành cây hoặc những chiếc xẻng nhỏ, dồn hết sức đập vào những vùng đang còn hừng hực lửa, không cho nó lan rộng ra.
Cảnh vật xung quanh tôi giờ đây tan hoang, nhất là cánh rừng rậm xanh um tùm phía sau, trống trơ từng khoảng, cây cối gục đổ ngổn ngang.
Bất ngờ, một chùm đạn của quân địch ở phía xa bắn đến, vút sạt qua tai nghe chíu chíu lạnh cả người. Tôi và mọi người lao vội xuống công sự ngay sát cạnh.
Đứng ở dưới hầm, tôi thò đầu ra nhìn sang phía bên kia trảng. Một tốp lính đối phương trong căn cứ Xa Mát đang thập thò, nổ súng về hướng chúng tôi. Để tiết kiệm đạn, từ nơi đây tôi điểm xạ từng viên một về phía địch. Xung quanh mình, tất cả anh em trong đại đội đều tập trung dõi theo phía trước, chờ đợi những mục tiêu xuất hiện là nổ súng ngay.
Những quả đạn cối 60 của tiểu đội hoả lực A10 thỉnh thoảng lại điểm một viên. Nghe tiếng vang "chóc", "uỳnh" đạn nổ ngay trên lô cốt hoặc các ụ súng đại liên của địch.  Đất, đá cát bụi nơi đó bay lên tung toé, rồi để lại một cột khói đen ngòm.
Quân lính Sài Gòn ở trong cứ điểm hoàn toàn bị đơn vị tôi khống chế, nằm im không dám thò đầu ra ngoài. Chỉ có đạn pháo ở các cứ điểm xung quanh, từng đợt, từng đợt đều đặn dội đến.
Cơn khát giữa cái nắng nóng gần cuối mùa khô như thiêu như đốt đang liên tục hành hạ chúng tôi. Phía trên hầm, không có một bóng cây, chỉ lèo tèo mấy khóm cỏ tranh còn sót lại sau đám cháy mà tôi đã cố gắng dập tắt.
Chui xuống dưới hầm, cái nóng vẫn hầm hập, ngột ngạt càng khó chịu hơn. Mồ hôi trong người tuôn ra ướt bết áo quần. Cơn khát cháy khô cả họng, tôi có cảm giác  ống thực quản của mình nghèn nghẹn, không thể nào điều khiển đưa đẩy được. Trong miệng khô cứng, không còn chút nước bọt nào, hai môi cứng rộp, cả người nôn nao, làm nhiều lúc quên hết những hiểm nguy bom, đạn đang chờ mình ở phía trước. Tất cả mọi suy nghĩ trong đầu lúc này dồn lại chỉ có "nước ".
Đây là lần đầu ra quân, nên anh em chúng tôi chưa có kinh nghiệm về tiết kiệm nước. Bởi vậy, mới đến quá trưa một chút, trong các bình tông mang theo đã khô ráo từ lâu, do sử dụng quá nhiều nước vào túi cơm sấy, chiến lợi phẩm thu được của tốp lính đối phương sáng nay.
Tôi thò đầu lên khỏi công sự, giơ tay ra hiệu mọi người về cơn khát và đang rất cần có "nước", nhưng cả đơn vị đều chịu chung cảnh ngộ này.
Trời đã bắt đầu tối, anh Thái triệu tập các trung đội trưởng về Ban chỉ huy hội ý và rút kinh nghiệm của cuộc chiến đấu trong ngày, đồng thời chờ anh Tài và nhóm nuôi quân ở phía sau tiếp tế cơm và nước cho chúng tôi.
Để kịp thời giải quyết cơn khát trước mắt cho bộ đội, tôi xin phép anh Thái được dẫn một số người đi lấy nước uống. Vì trước đó trong ngày, tôi đã quan sát phía bìa rừng bên kia trảng, nằm cạnh hàng rào đầu tiên của cứ điểm Xa Mát có một vũng nước nhỏ, bây giờ trời đã tối, có thể nhẹ nhàng vận động vượt qua trảng trống là tiếp cận được.
Được anh chấp nhận, tôi dẫn theo 3 người của 3 trung đội, mang theo túi phao bơi nilon và bình tông để đựng nước, cùng với khẩu súng lên đường ngay.
Để đề phòng bị phục kích, nhất là xung quanh đều có địch, nhóm chúng tôi hành tiến và lùi đều theo đội hình chữ A. Tôi và một người nữa đi đầu mũi giữa để quan sát phía trước và sau, còn hai người đi lùi lại một khoảng ngắn, đảm nhiệm quan sát về hai hướng hai bên.
Chúng tôi tiếp cận được vũng nước nhờ bầu trời đầy sao, những ánh sáng đó đã phản chiếu lên vũng nước một khoảng sáng trắng.
Chưa kịp lấy nước vào túi đựng, tôi vội vàng vục tay xuống làm một ngụm. Bỗng nhiên thấy trong miệng mình có cái gì ngọ nguậy, tôi vội phun ra ngoài. Té ra, trong vũng nước vừa vục uống, tụ tập rất nhiều con nòng nọc sinh sống.
Không thể kéo dài thời gian ở đây được, tôi vội vàng thúc giục anh em nhanh chóng rút về. Vừa rời khỏi đó độ 5 phút, một chiếc máy bay địch bất ngờ từ đâu lao đến, bắn từng chùm pháo sáng ngay trên đầu, sát cạnh cứ điểm Xa Mát. Cả một khoảng không gian bỗng nhiên sáng rực, soi rõ đến những con kiến đang bò dưới mặt đất.
Cả bốn đứa vội nằm im bất động trên mặt trảng trống trải, bằng phẳng không có một vật che chắn nào. Bất chợt nước dưới mặt đất thấm vào áo tôi lành lạnh dưới bụng. Tiếng người nằm cạnh la nhỏ:
- Nước trong túi nhựa của tôi bị vỡ rồi!
- Không sao! Hãy chờ pháo sáng tắt là chúng ta chạy nhanh về, ở đây còn 3 túi nước nữa cơ mà? - Tôi nghiêng đầu nói
Pháo sáng vừa tắt, bóng tối đột ngột phủ kín bầu trời và mặt đất. Chớp lấy cơ hội, tôi hô với mọi người vụt tiến trở về đơn vị.
Ở nhà, anh Thái và mọi người rất lo lắng, cứ ngỡ địch phát hiện và tiêu diệt chúng tôi rồi. Giờ đây, cả bốn đứa đã trở về đầy đủ, nguyên vẹn, còn mang được nước về cho mọi người cùng uống, giải quyết cơn khát cháy khô họng suốt một ngày phải chịu nắng nóng chói chang.
Cả đơn vị tôi ai nấy đều vui mừng, phấn khởi, nhất là qua một ngày chiến đấu ác liệt với quân đối phương, phải chịu bao nhiêu tấn bom đạn trên đầu. Tất cả mọi người đều bình an và có mặt đầy đủ, chỉ có riêng một mình anh Nguyễn Tiến Mùi đại đội phó bị thương ở mí mắt bên trái, trong lúc cùng với anh em trung đội 1, xung phong truy kích quân lính Sài Gòn đang bỏ chạy vào rừng.
Chúng tôi vui sướng ôm chầm lấy nhau, nước mắt chảy dài trên má bởi cái tình đồng đội, đồng chí quá đỗi gắn bó, yêu thương. Ở đây, tất cả mọi người đã vì nhau, sẵn sàng hy sinh che chở nhau trong từng thời điểm gay cấn ác liệt nhất.
Niềm vui càng được nhân lên, khi tổ nuôi quân do anh Tài phụ trách từ phía sau đã mang cơm còn nóng, lại có cả thịt hộp xào với nõn chuối rất ngon, phục vụ kịp thời cho chúng tôi, khi cơn đói còn đang hành hạ.
Lẽ ra các anh đã mang cơm nước đến đây sớm hơn bây giờ, nhưng ở nơi phía sau tổ nuôi quân cũng vất vả, ác liệt, hiểm nguy không kém. Có người đã mấy lần thoát chết do địch dội pháo đến nổ ngay sát cạnh, may còn kịp lao xuống công sự kế bên.
Khi vừa gặp được chúng tôi, anh Tài ôm lấy mọi người khóc nức nở. Anh sờ vào đầu và người tôi thấy vẫn còn nguyên vẹn, rồi ôm chặt lấy hôn vào má chùn chụt.
Tuy là nói ở phía sau, nhưng các anh luôn dõi theo mức độ ác liệt của trận chiến mà chúng tôi đang trực tiếp đối mặt với lực lượng hùng mạnh của quân đội Việt Nam Cộng hoà ở phía trước. Lúc đó, trong bụng mọi người luôn nóng như lửa đốt, lo lắng cho sự an nguy của đơn vị.
Nước mắt anh chảy giàn giụa, nhiều lần đã phải bật khóc thành tiếng, khi thấy bom đạn địch dội vào đội hình chốt giữ của đại đội mình quá nhiều và rất ác liệt. Ruột anh cứ bồn chồn lo nghĩ: Khi mang được cơm ra đó, có còn người để ăn nữa không?!
Giờ đây tất cả những tình cảm đồng đội thân thương dồn nén trong người đã vỡ bung ra khi được gặp lại anh em trong đơn vị mình khá còn nguyên vẹn. Anh sung sướng bật oà khóc hu hu, mặc dù lúc đó đã lớn tuổi rồi.
Đến giờ tổ nuôi quân rút về phía sau, để chuẩn bị cho bữa cơm ngày mai, đồng thời tổ chức cáng thương đưa anh Mùi đi điều trị. Còn chúng tôi vẫn ở lại chốt này. Các trung đội tổ chức bộ đội thay nhau canh gác, đề phòng địch tập kích vào trận địa.
Đêm nay, tiếng súng của ta và địch khá im lặng, thỉnh thoảng mới có vài loạt đạn pháo bắn cầm canh về phía khu rừng sau lưng chúng tôi. Cả không gian lại trở về tĩnh lặng, như không hề biết rằng: Trước đó đã có một ngày bom đạn pháo nổ inh tai, mặt đất bị xới tung lên ầm ầm rung chuyển. Đất đá, cây cối bay lên mù trời.
Rồi một đêm trôi qua, một ngày chiến đấu mới lại đến. Nhưng ngày hôm nay khác hẳn với ngày hôm qua nhiều. Địch ở trong chốt nằm im, pháo ở các cứ điểm xung quanh dội đến chúng tôi cũng ít hơn. Chiến dịch Nguyễn Huệ của quân ta đang nở rộ trên toàn miền Nam. Hoả lực địch giờ đây bị phân tán không được tập trung như trước nữa.
Chúng tôi ở ngoài cứ điểm Xa Mát, vẫn kiên trì bao vây đợi địch thò đầu ra. Quân ta hầu như đã làm chủ được trận địa. Phía trong cứ điểm, binh lính đối phương có dấu hiệu hoảng hốt rút quân.
Một cánh quân của tiểu đoàn khác trong trung đoàn 271 được lệnh tiếp quản cứ điểm Xa Mát. Còn tiểu đoàn 8 chúng tôi được lệnh chuẩn bị hành quân đi nhận mục tiêu mới. Đó là phục kích địch rút chạy trên con lộ 22 ở gần giữa hai cứ điểm: Thiện Ngôn - Tân Biên.
Khoảng 7 giờ tối, khi tổ nuôi quân anh Tài vừa mang cơm đến, cả đơn vị tổ chức ăn cơm tối gấp rút, sau đó nhanh chóng lên đường hành quân đến chiếm lĩnh vị trí mới.
Lộ 22 là con đường nhựa rộng, nối từ thị xã Tây Ninh, qua Tân Biên, Thiện Ngôn đến Xa Mát sang gặp con đường 7 của Cămpuchia.
Dọc hai bên đường, rừng cây rừng bị phát quang sâu khoảng 100 mét, chỉ có những cây lúp xúp cao đến đầu người phủ kín mặt đất, cách mép đường về hai bên độ 30 mét là khoảng đất trống trơ trọi chạy dài không có một bóng cây.
 Sau khi tiếp nhận mục tiêu, đại đội trưởng Hà Văn Thái bố trí đơn vị, chốt giữ trong khu rừng cây lúp xúp nằm ở phía Tây dọc con lộ 22. Vị trí đóng quân của trung đội 2 và ban chỉ huy đại đội cùng với tiểu đội hoả lực A10 ở giữa đội hình. Trung đội 3 nằm về phía thị trấn Tân Biên, còn trung đội 1 nằm ở phía Thiện Ngôn, để phục kích quân địch từ Thiện Ngôn rút ra, từ Tân Biên kéo về.
Trong trận đánh này, anh sử dụng chiến thuật: "Chặn đầu, khoá đuôi, vận động tấn công tiêu diệt gọn". Tức là khi quân địch hành quân trên đường 22, lúc tốp đi đầu đã đi vượt qua được hai trung đội và chạm đến tiểu đội cuối cùng của trung đội thứ 3, vào thời điểm đó, trung đội thứ 3 sẽ nổ súng phát hoả.
Quân địch bị ta đánh bất ngờ sẽ lùi dồn lại phía sau. Đồng thời lúc này trung đội ở đầu cũng nổ súng khoá đuôi, không cho bọn chúng thoát. Tiểu đội A10 và trung đội 2 sẽ phát huy hết sức mạnh hoả lực của mình bắn vào giữa đội hình địch. Chớp lấy thời cơ lúc chúng còn đang hoang mang chưa kịp phản ứng, trung đội 2 ở giữa cùng hai trung đội hai bên, đồng loạt xông lên, nổ súng tiêu diệt và bắt sống quân địch.
Đã có mấy ngày giáp mặt trực tiếp chiến đấu với lính đối phương, với chúng tôi ai nấy đều có một kinh nghiệm nhất định, trong chiến đấu đã có tự tin hơn, nên khi vừa chiếm lĩnh trận địa, mọi người đều nhanh chóng triển khai đào công sự, nguỵ trang kín đáo bình tĩnh đợi quân lính Sài Gòn kéo đến.
Độ khoảng 6 giờ 30 phút sáng, trời còn mờ mờ hơi sương, lúc cơn ngủ còn say, tôi giật mình tỉnh dậy khi nghe về phía chốt Thiện Ngôn vang lên một tiếng "rầm" của mìn định hướng Claymo (loại mìn do Mỹ chế tạo, hình chữ nhật uốn cong, kích thước độ khoảng 15 x 30 cm. Khi mìn phát nổ thì cả nghìn viên bi sắt bay thẳng ra phía trước để sát thương), kế theo đó là tiếng súng rẹt, rẹt, tiểu liên cực nhanh của địch. Tiếng pằng, pằng của súng tiểu liên AK quân ta vang lên.
Chỉ trong chớp mắt, tôi đã đứng dưới cửa công sự giương nòng súng tiểu liên AK lên mặt lộ và quan sát. Cả đại đội vẫn im lìm, kiên nhẫn chờ quân địch kéo đến chi viện.
 Nhưng sự yên tĩnh không được kéo dài, khi hàng loạt đạn pháo của các cứ điểm xung quanh, tập trung nhắm vào đội hình đóng quân của chúng tôi mà nã xuống. Những tiếng nổ inh tai, đất bụi mù trời. Tôi rút sâu vào trong hầm để tránh đạn. Pháo của chúng bắn kéo dài khoảng 30 phút thì ngừng.
Tôi và Coỏng được lệnh lao về các trung đội truyền lệnh của ban chỉ huy đại đội, đồng thời nhận báo cáo ở đấy về quân số bị thương vong để báo lại cho các anh xử lý.
Rất may trong đợt pháo đó, cả đơn vị tôi không có tổn thất nào. Chỉ có mấy chiếc nồi nấu cơm của trung đội 1 không kịp đem xuống hầm còn để ở trên mặt đất bị mảnh đạn xuyên thủng. Riêng đường dây điện thoại bị đứt nhiều, nên liên lạc giữa đại đội và tiểu đoàn bị gián đoạn. Tranh thủ quãng thời gian yên lặng này, các chiến sĩ thông tin đã xông ra nối dây thông mạch.
Khoảng 15 phút sau, trên bầu trời xuất hiện chiếc máy bay trinh sát OV-10 bay vè vè lùng sục chúng tôi. Bất ngờ, nó đảo mình chúi xuống bắn một viên pháo hiệu nổ "bùm" trên mặt lộ 22, để lại một cột khói trắng dựng lên.
Cảm nhận được sự nguy hiểm cận kề, tôi chui sâu vào hầm và nhìn lên qua cửa một khoảng trời nhỏ, những chiếc máy bay A37 từ đâu lao đến, đang thay nhau chúi đầu xuống trút bom vào đội hình của đại đội tôi.
Bom dội vào trận địa và vị trí xung quanh, những tiếng nổ nghe ù tai nhức óc. Mặt đất giật lên từng cơn, ầm ầm rung chuyển, trời đất tối đen mù mịt. Ngồi sâu trong hầm, ruột tôi và các anh cứ nóng như lửa đốt và lo nghĩ: Không biết sau trận bom này, mọi người trong đơn vị mình có qua được không?
Trận bom kéo dài độ 30 phút thì dừng hẳn, tôi và Coỏng lại được lệnh lao về các trung đội. Thật rất may mắn cho anh em chúng tôi, cũng như sau đợt pháo lần trước, qua đợt bom vừa rồi, cả đại đội 3 của tôi đều bình yên.
Khoảng 9 giờ sáng, anh Trần Quang Đăng, trung đội trưởng trung đội 3 báo về ban chỉ huy:
- Có một đại đội bộ binh địch cùng với xe tăng đi sau yểm trợ, đang từ hướng Tân Biên tiến về vị trí chốt giữ của đại đội.
Lệnh báo động được nhanh chóng phát ra toàn đơn vị. Phía rừng cây lúp xúp cạnh đường, tất cả chúng tôi nằm im hồi hộp chờ chúng đến.
Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #13 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:41:40 pm »

Kia rồi, trên mặt đường phía trước mặt, một tốp lính khoảng chục người, quần áo rằn ri, đầu đội mũ sắt, súng lăm lăm trong tay ngó nghiêng, soi kỹ từng bụi cây hai bên đường, dò dẫm đi từng bước một. Cách sau chúng khoảng 15 mét, có một tốp lính nữa cùng với ba chiếc xe M113 chở đầy lính đang hành tiến theo sau.
Khi tốp đi đầu vừa chạm vào tổ chốt cuối cùng của trung đội 1, do anh Lê Xuân Hưu chỉ huy, tiếng súng quân ta bất ngờ rộ lên. ở phía sau đội hình hành quân của địch, trung đội 3 cũng kịp thời nổ súng, không cho quân địch chạy lùi về.
Tôi hướng nòng súng AK của mình ra phía trước bóp cò. Xung quanh tiếng súng tiểu liên, trung liên, cối 60, B40, B41 của cả đại đội vang lên giòn giã.
Chớp thời cơ, đại đội trưởng Hà Văn Thái phát lệnh xung phong. Tất cả các cán bộ chiến sĩ đại đội 3 đồng loạt xông lên mặt đường tấn công, truy kích lính Sài Gòn đang tháo chạy thục mạng.
Trên mặt đường, xác lính đối phương phơi đầy nằm ngổn ngang, súng, ba lô vương vãi khắp nơi. Đặc biệt có hai chiếc xe tăng bốc cháy, khói bay lên nghi ngút. Trong đó một chiếc do anh Trần Dôn - chiến sĩ trung đội 3 bắn hạ. Còn chiếc khác do Lê Văn Mão ở tiểu đội hoả lực A10 tiêu diệt. Chỉ có chiếc xe tăng sau cùng là thoát được, vì lúc đó nó đang ở quá xa so với chốt tiền tiêu của trung đội 3.
Thực ra, khi chiếc xe tăng đang quay đầu tháo chạy, trung đội 3 đã tổ chức đuổi theo truy kích. Nhưng nó tăng tốc chạy rất nhanh. Mặt khác, để tránh thương vong và đảm bảo an toàn cho đơn vị, đại đội trưởng Hà Văn Thái phát lệnh thu quân, đề phòng pháo địch ở các căn cứ xung quanh dội đến.
Tôi và mọi người vừa kịp về đến công sự của mình đã nghe tiếng xèn xẹt đạn pháo bay trên đầu. Những tiếng nổ inh tai dồn dập bao vây chúng tôi. Đợt pháo này, quân địch bắn kéo dài hơn trước, rồi cuối cùng cũng phải dừng hẳn.
Lúc này trong đại đội tôi đã có những tổn thất nhất định. Trung đội 3 có ba người hy sinh, đó là anh Hồ Huy Điềm quê ở Tiến Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh). Anh Trần Thanh Hải, quê ở Đà Sơn (Đô Lương, Nghệ An). Anh Phạm Ngọc Sơn, quê ở Hợp Thành (Yên Thành, Nghệ An). ở trung đội 2 có anh Vũ Ngọc Danh, quê ở Đức An (Đức Thọ, Hà Tĩnh). Ngoài ra, còn có một số nữa đã bị thương do mảnh đạn pháo và đạn nhọn.
Thời gian còn lại của ngày hôm đó cho đến tối, không còn xuất hiện bộ binh xe tăng địch nữa. Chỉ còn có tiếng vè vè trên bầu trời của máy bay trinh sát OV-10 vòng đảo liên tục, soi mói mọi động tĩnh dưới mặt đất để gọi máy bay A37 đến ném bom.
Trời đã về tối, những chiếc máy bay đảo lượn trên cao đã rút về. Chúng tôi Minh, Thìn, Sơn, Tiểu, Hiền, Định, Tại, Mão... là những người bạn trước đây cùng một đơn vị huấn luyện được bổ sung về cùng đại đội 3. Vừa mới gặp nhau, mọi người đã vội ôm chầm lấy tôi mừng mừng tủi tủi. Không ai có thể tin được: Tất cả vẫn đang còn sống và nguyên vẹn sau một ngày chiến đấu căng thẳng, ác liệt đã xảy ra.
Thời gian ở lại không nhiều, vì tôi còn đi tháp tùng đại đội trưởng, kiểm tra quân số thương vong và tình hình sẵn sàng chiến đấu của bộ đội ta ở các trung đội.
Lúc chia tay, mọi người dúi vào tay một túi đầy quà. Từ hộp nước quả xoài đến túi cơm sấy và cả những gói thuốc lá “Rubi Quân tiếp vụ” thu được của quân địch bỏ lại chiều nay. Cảm ơn các bạn đã dành cho tôi những tình cảm quý báu này.
Đêm nay, cả đại đội không phải hành quân di chuyển. Vẫn ở lại chốt giữ tại đây, thế là có một đêm được nghỉ ngơi lấy sức. Chúng tôi được ngủ nhiều hơn, chỉ phải thức những lúc thay nhau canh gác. Pháo của địch bắn cầm canh mặc kệ, không cần phải bận tâm đến.

6-4-1972
3 giờ sáng, cả đại đội tôi đã chiếm lĩnh vị trí phía Bắc đầu cầu Cần Đăng để chuẩn bị đánh chiếm thị trấn Tân Biên...
Đến 5 giờ 30, chúng tôi đồng loạt nổ súng bắn về phía bờ sông bên kia. B40, B41 tập trung nã vào các lô cốt xây dựng bằng bao cát nằm cạnh chân cầu. Những quả đạn cối 60 của tiểu đội hỏa lực (A10) rót chính xác vào từng lô cốt địch đang chốt giữ ở nơi đó.
Bị quân ta áp đảo nổ súng tấn công bất ngờ, binh lính
Sài Gòn trong chốt hoảng loạn. Lợi dụng cơ hội đó, chúng tôi nhanh chóng vận động vượt qua cầu chiếm giữ các lô cốt địch vừa bị tiêu diệt.
Lúc này, những quả đạn cối 82 của đại đội 16 (C16) ở phía sau vượt qua đầu chúng tôi rơi vào đội hình quân địch đang tháo chạy tán loạn dọc theo con lộ 22.
Chốt giữ ở phía ngoài, quan sát địch ở trong đó rất rõ, tiểu đội hoả lực (A10) do anh Thiết chỉ huy đã phát hiện rất nhanh những mục tiêu trong bốt. Chỉ trong nháy mắt đã chỉnh xong tầm và hướng cho súng cối 60.
Với những động tác thuần thục và chính xác, các anh cầm thả từng quả đạn vào trong nòng súng. Một tiếng "chóc" đầu nòng phát ra, chỉ trong giây lát, phía trong bốt đã vang lên một tiếng nổ "Oàng". Lại thêm một ổ đề kháng nữa của địch bị tiêu diệt. Chúng tôi hầu như đã khống chế, làm chủ được hoàn toàn trận địa.
Được tận mắt chứng kiến các khẩu đội cối phát hỏa, tôi thật sự khâm phục tài nghệ bắn súng của các anh. Sự ước lượng khoảng cách, cự ly chính xác đến từng mét một, cũng như kỹ năng điều chỉnh hướng, tầm súng rất nhanh. Khi một viên đạn đã bay ra khỏi nòng, hầu như không có viên nào rơi chệch ngoài mục tiêu cả.
Dưới làn đạn cối của quân ta, và cùng một số hoả lực khác yểm trợ, chúng tôi đồng loạt chia làm nhiều mũi xông thẳng vào chốt địch, bắt tù binh và thu vũ khí. Thị trấn Tân Biên đã được hoàn toàn giải phóng.
Đến tối, cả đơn vị tôi tiếp tục hành quân ngược đường 22 đến Thiện Ngôn, rẽ theo con lộ đất đỏ, gọi là đường Tống Lệ Chân để đi về khu vực Lò Gò - Xóm Giữa.
10-4-1972
Khoảng 3 giờ chiều, chúng tôi hành quân vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, biên giới giáp ranh Cămpuchia và Tây Ninh, Việt Nam. Con sông nơi đầu nguồn không rộng, nhưng hai bên bờ dốc đứng, nước khá sâu chảy xiết.
Đại đội 3 tổ chức vượt sông theo từng trung đội. Các tổ ba người và tiểu đội luôn bám sát, giúp đỡ dìu nhau bơi qua sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, nhiều người lo sợ ra mặt. Nếu như bơi mà trên mình không mang một thứ gì, vượt qua được đã là khó khăn lắm rồi. Nhưng ở đây, trên vai chúng tôi còn có đầy thứ nặng trĩu và cồng kềnh như ba lô, súng đạn...
Những chiếc túi bọc ni lông của từng người được trang bị mang theo, lần này thật sự phát huy tác dụng. Tất cả áo quần, ba lô… được bỏ vào cột chặt miệng túi làm thành phao và cứ thế mà vượt sông.
Đại đội trưởng Hà Văn Thái và các anh trong ban chỉ huy thở phào nhẹ nhõm, khó khăn của đơn vị đã có phương án khắc phục. Song, thực tế khi bắt đầu thực thi, một tình huống khó khăn bất ngờ đã đến, có rất nhiều người chưa biết bơi, đã vậy lại không có túi nilon. Đây là hậu quả của chiến dịch "giảm cân mang vác" của thời kỳ hành quân vượt dải Trường Sơn ngày nào.
Đứng ở bên kia bờ nhìn sang, thấy tình cảnh ấy, tôi và một số anh em bơi giỏi vội quay sang để giúp đỡ những người đang còn lúng túng đó.
Thêm một khó khăn nữa, đấy là những khẩu súng trung liên, B41. Không thể nào gác lên trên những chiếc túi nổi lềnh bềnh dưới nước trơn tuột để mà bơi qua sông được.
Trước tình huống khó khăn này, tôi nhớ ngay đến thời còn ở quê, khi bọn trẻ chúng tôi tự tạo phao bơi qua ao rộng, đó chính là dùng chiếc quần dài của mình, cột chặt hai đầu ống nhúng ướt nước, chụp xuống mặt nước để cho nó căng phồng lên, rồi cột túm lưng quần chặt lại, tạo thành một chiếc phao.
Tôi nhanh chóng thao tác và phổ biến cho anh em trong đơn vị thực hiện. Một tay giữ chặt súng đã gác vào đũng quần, một tay nắm chặt phần lưng, cứ thế dùng hai chân đẩy mình bơi qua sông sang bờ bên kia.
Khi bơi tự do mới cảm nhận được sự mát rượi của dòng sông. Mà đã lâu lắm rồi tôi chưa hề được tắm. Tranh thủ lúc này phải thoả sức vùng vẫy, ngụp lặn sâu xuống dòng nước. Vò đầu xoa mình, gột hết những khói đạn, bùn đất lâu nay đang bám chặt vào người. Cứ thế, tôi bơi qua bơi lại dòng sông mấy lần, để mang giúp đồng đội những khẩu súng trung liên hoặc súng B41.
Đại đội chúng tôi đã vượt sông an toàn về người cũng như vũ khí (mấy ngày sau tôi được biết trên khúc sông chúng tôi đã vượt qua có hai chiến sĩ tiểu đoàn 9 đã hy sinh).
Giờ đây nhìn lại anh em mặt mày ai nấy đều sạch sẽ, sáng sủa, gọn gàng, không bù xù, nhem nhuốc đất bùn như khi còn ở phía bên kia sông, tuy có đôi mắt còn đỏ, sâu, thâm quầng, hai má hóp lại do bị thiếu ngủ triền miên, nhưng cái trẻ trung, ngây ngô của tuổi 20 vẫn hiện rõ lên khuôn mặt từng người.
Chúng tôi hành quân đến gần bìa rừng thì tạm dừng để nghỉ 10 phút. Phía trước đoàn quân là con đường đất cát khá rộng chạy thẳng về thôn, làng người Cămpuchia. Theo tiếng địa phương gọi là "phum", "sóc".
Một điều lạ đập vào mắt tôi, là sự khác nhau giữa vùng nông thôn Cămpuchia và  Việt Nam. Nơi đây nhà dân trong phum được bố trí dọc hai bên đường theo một dãy. Phía sau là cánh đồng bằng phẳng rộng mênh mông, nhìn về cứ như đến tận chân trời. Các ngôi nhà sàn làm bằng gỗ nhưng rất đẹp, gọn gàng tinh tế, không mộc mạc đơn sơ như những ngôi nhà vùng dân tộc miền núi Việt Nam mà tôi đã gặp.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi tiếp xúc với người dân Cămpuchia. Khi chưa được gặp họ, tôi và Coỏng đã tranh luận với nhau về sự hiếu khách của người dân đối với bộ đội Việt Nam. Cậu ta nói:
- Người dân Cămpuchia thù hằn với dân mình lắm, khi tiếp xúc với họ, mình phải đề cao cảnh giác.
Còn tôi nói rằng:
- Đã là người dân vùng nông thôn, chắc chắn họ cũng thật thà chất phác như người dân quê mình.
Đại đội trưởng Hà Văn Thái cũng băn khoăn, do dự. Ban đầu anh định tổ chức cho bộ đội nghỉ ở ngoài phum, nhưng khi  đi vào giữa phum, càng thấy sự yên bình, tĩnh lặng như vùng nông thôn quê nhà. Cuối cùng anh quyết định cho cả đơn vị vào nhà dân ở hai ven đường xin nghỉ nhờ.
Đại đội bộ chọn một nhà dân to đẹp nằm giữa phum làm vị trí đóng quân. Vì đây là lần đầu tiếp xúc với người dân, trong anh em chẳng có một ai biết tiếng Cămpuchia cũng như những phong tục tập quán của họ, nên mọi người cứ chần chừ đứng ở ngoài cổng mà không mạnh dạn đi vào nhà.
Tôi và Coỏng hai đứa nhanh nhảu xung phong đi trước.
 Ngay sau tiếng gõ cửa của tôi, ánh đèn dầu trên sân tầng 2 
bừng sáng.
Ra đón chúng tôi có hai vợ chồng người Cămpuchia tầm 40 tuổi. Qua ánh đèn, tôi nhìn thấy người đàn ông mình để trần, quấn quanh bụng một chiếc khăn rằn carô đen trắng, kéo dài quá đầu gối. Còn người phụ nữ chỉ mặc một chiếc váy nền vàng có hoa văn đen đỏ, choàng đến ngực để lộ đôi vai và hai tay trần.
Họ nói với chúng tôi một tràng thứ tiếng nghe rất lạ lẫm. Hai đứa chỉ biết ú ớ gật đầu chào lại. Tôi rất sốt ruột muốn nói:
- Xin chủ nhà cho anh em chúng tôi nghỉ lại đêm nay.
Nhưng lúc này, cái lưỡi trong miệng cứ cứng đơ, chỉ phát ra được tiếng ơ ơ. Bực mình thật, do bất đồng ngôn ngữ, tôi muốn nói nguyện vọng của mình cho họ hiểu, mà không biết giãi bày thế nào?
Chủ nhà có vẻ cảm thông và chăm chú theo dõi những cử chỉ của hai đứa. Tôi nhận thức được điều đó, vội vàng lấy đôi bàn tay chụm lại với nhau, đưa lên áp sát một bên má, rồi nghiêng mình lại, sau đó đập đập xuống sàn.
Cả hai vợ chồng bất chợt ồ lên tươi cười, gật đầu đồng ý mời chúng tôi vào nhà để nghỉ. Kết quả đạt được quá nhanh, ngoài sức tưởng tượng ban đầu.
Không kịp chạy ra thông báo tin vui cho các anh đang còn đứng chờ ở ngoài cổng, Coỏng đang đứng ở trong nhà, nhanh nhẩu gọi vọng ra:
- Chủ nhà đã đồng ý rồi, mời các anh vào.
Anh Tài và anh Trữ, vừa hạ ba lô xuống sàn đã vội tìm vị trí để chuẩn bị bữa cơm tối cho đơn vị. Anh nói với chủ nhà:
- Anh chị cho phép chúng tôi đặt bếp ở đâu? Chúng tôi muốn xin củi, nước để nấu cơm.
Chúng tôi và anh đều ú ớ như nhau cả, chẳng ai biết giãi bày như thế nào để chủ nhà hiểu được.
Trước tình cảnh đó, tôi buột miệng nói:
- "Tức thật'', chúng ta ở đây chẳng ai biết được một chút tiếng Cămpuchia nào, để bây giờ mới khổ như thế này đây.
Sau câu nói đó, người vợ nhanh nhẹn vào phía trong xách ra ngoài hai bình nước và khay cốc, gật gật cái đầu mời chúng tôi uống. Tôi trố mắt ngạc nhiên về sự mến khách và quan tâm chu đáo của họ.
Sau một thời gian sống với nhiều người dân Cămpuchia, tôi mới biết được lý do người vợ chủ nhà lấy nước cho chúng tôi uống hôm ấy.
Tiếng Việt gọi là ''nước'' thì tiếng Cămpuchia gọi là ''tức''.
Nên sau khi tôi nói ''tức thật", họ cứ ngỡ là chúng tôi xin nước, nên đã mang nước ra mời.
Những hành động, cử chỉ trìu mến, rất quan tâm giúp đỡ của người dân Cămpuchia, trong những giây phút gặp gỡ đầu tiên đã gây cho chúng tôi một ấn tượng rất tốt đẹp về lòng nhân hậu, chân chất và mến khách của họ mãi mãi không bao giờ phai.
Tôi quay sang trách Coỏng và nói:
- "Ông" thấy không? Tôi đã bảo người dân nông thôn Cămpuchia rất tốt. Thế mà vừa rồi ông lại nghĩ không tốt về họ.
Vừa nghe xong câu nói, người chồng vội vào trong buồng xách ra một con dao quắm loại nhỏ, cùng với một sợi dây thừng dài đi xuống dưới cầu thang.
Tôi và mọi người sững sờ, hốt hoảng thật sự, không biết chuyện gì sẽ xảy ra đây? Chuyện "lành" hay chuyện "dữ"? Anh ta đã cầm dao và dây thừng đi, chắc rằng chuyện "lành" thì ít, chuyện "dữ" thì nhiều.
Không khí trong nhà đang vui vẻ ồn ào, bỗng nhiên đột ngột lặng đi. Điều gì sẽ đến? khi tất cả mọi người đã có mặt trong phum này rồi. Đã đâm lao phải theo lao, tôi vội vàng một mình bước xuống cầu thang ra ngoài theo dõi và nghe ngóng tình hình.
Dưới ánh trăng cuối tháng, tôi thấy anh ta đang bước vội đến hướng mấy cây dừa trước nhà, và chỉ một phút sau đó, giắt ngay con dao vào bụng rồi leo thoăn thoắt lên một cây dừa trĩu quả.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, vội vàng lên cầu thang thông báo tin vui này. Mọi người "à" lên một tiếng. Không khí trong nhà càng sôi động hơn so với lúc ban đầu.
Lại một bất ngờ nữa, khi mọi người đang uống nước, đã thấy anh chủ nhà mang nguyên cả một buồng dừa nặng trĩu quả, đặt ngay trước mặt. Rồi anh lấy dao, thoăn thoắt chặt từng quả một đưa cho từng người uống nước.
Sau này, khi tôi đã hiểu được một số tiếng Cămpuchia mới biết rằng: "Dừa" là tiếng Việt Nam, còn tiếng Cămpuchia gọi là "Đôông". Cho nên khi tôi nói với Coỏng: "Ông" thấy không? của giọng nằng nặng khu 4. Họ cứ ngỡ là chúng tôi xin quả "Dừa."

Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #14 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:42:18 pm »

Việc cần kíp phải nấu cơm, không thể kéo dài được nữa. Anh Tài luôn thúc giục mọi người tìm cách giãi bày để chủ nhà hiểu được mong muốn của mình. Bí quá, tôi vội bê một
cái xoong, giơ ra trước mặt chị chủ nhà. Rồi sau đó lấy một nắm gạo bỏ vào, đồng thời chỉ chỉ, trỏ trỏ vào đấy.
Hiểu được ý tôi, hai anh chị gật đầu lia lịa, vội vàng đi vào nhà kho, bê đến cho chúng tôi lưng bao gạo trắng toát. Đồng thời, chỉ vị trí bếp và giếng nước cho anh Tài và anh Trữ chuẩn bị bữa cơm tối này.
Trong lúc hai anh đang đem nồi ra giếng vo gạo, phía bên dưới sàn nhà mọi người đang ngồi, bỗng tiếng gà kêu oang oác vang lên. Một lúc sau đó là tiếng đập cánh, giãy đành đạch của nó. Té ra, anh chị chủ nhà rất tốt bụng, đã giết gà thiết đãi chúng tôi.
Bữa cơm hôm đó thật sự ấm cúng, ngon lành. Lâu lắm rồi  tôi mới được ăn món thịt gà rang. Chao ôi! Sao mà ngon đến thế.
Được sống trong lòng người dân nước bạn nhân hậu và mến khách, trong không gian tĩnh lặng yên bình, không phải đề phòng cảnh giác, không còn những giây phút căng thẳng nữa, và không còn phải nghe những âm thanh rùng rợn luôn rình rập bất ngờ ập đến với chúng tôi bất cứ thời điểm nào. Đó là tiếng vè vè của máy bay trinh sát L19 và V0-10, tiếng đạn pháo đề pa đầu nòng, tiếng đạn bay xẹt xẹt rít qua đầu. Rồi tiếng ken két nghe ghê răng của xích xe tăng chạy trên mặt đất, tiếng súng bộ binh bắn ra, đạn nổ vang trời. Tất cả ào ào, rít rít thành một chuỗi âm thanh kéo dài, không hề phân biệt được từng tiếng súng riêng
rẽ nào!
Tôi đâu có ngờ rằng: Không khí yên bình như một thời ở hậu phương miền Bắc lại về đây. Chỉ khác một điều: những người dân ở đây giao tiếp với chúng tôi bằng một ngôn ngữ lạ lắm. Khi nói, cả hai bên chẳng biết đối phương đang nói điều gì. Để hiểu được nhau, xem ra ngôn ngữ bằng tay là hữu hiệu nhất.
Sau khi ăn xong, mọi người đi tìm nơi để ngủ. Tôi nhìn khắp cả nhà, không thấy đâu có giường.
Lại một lần nữa chúng tôi lúng túng, lại làm hiệu hai tay úp vào nhau để lên má, nghiêng người đập nhẹ xuống sàn. Chủ nhà nhanh chóng hiểu ý, ôm ra cho  mỗi người hai chiếc gối.
Đó là một chiếc gối vuông và một gối tròn to bằng gốc cây chuối, chiều dài khoảng 1 mét (sau này tôi mới biết: đối với những người dân Cămpuchia, những ai chưa có gia đình đêm nằm ngủ ngoài gối để ở đầu còn thêm một chiếc gối tròn để ôm), đồng thời chủ nhà chỉ chúng tôi vị trí ngủ ở ngay trên mặt
sàn nhà.
Mọi người rất ngạc nhiên và lạ lẫm với chiếc gối loại dài này, nhưng vì ai cũng buồn ngủ quá nên chẳng còn thời gian thắc mắc suy nghĩ, chiếc gối này sử dụng như thế nào?
Riêng tôi, khi cầm chiếc gối tròn lạ, thấy nhẹ mềm hơn chiếc gối vuông, vội gối đầu vào nó đánh một giấc ngon lành cho đến khi anh Căn gọi dậy, trời đã sáng.
Một tình huống đã xảy ra ở trung đội 1. Nguyên do tối qua, khi tập kết quân nghỉ tại phum, sau khi kiểm tra quân số thấy thiếu một chiến sĩ tên Thanh. Ngay trong đêm, các anh đã tổ chức một tổ quay ngược trở về điểm nghỉ giữa chặng hành quân ở bìa rừng, nơi mà mọi người xác định vẫn trông thấy Thanh để tìm kiếm đón về. Nhưng cho đến bây giờ vẫn không có kết quả.
Trước lúc đơn vị hành quân tiếp chặng đường còn lại, tôi được anh Thái giao nhiệm vụ ở lại phum đợi đón được cậu ta. Sau đó hành quân dọc theo con đường cát, sẽ gặp đại đội đóng quân ở phum ven đường. Chờ đợi gần đến trưa mới thấy Thanh ở đâu lò dò lếch thếch xuất hiện trên đường. Khi hai đứa gặp nhau Thanh thì rất mừng, chạy đến ôm chầm lấy tôi la lên:
- Thế là mình gặp được anh em rồi! – Cậu ta bật khóc
nức nở.
Một lúc sau tôi mới trách:
- Cậu ở đâu từ tối hôm qua cho đến bây giờ để cả đơn vị đi tìm và chờ cậu như vậy?
Thanh mặt tái mét, da nhợt nhạt, lắp bắp trả lời:
 - Minh biết không? Khi đơn vị nghỉ ở bìa rừng, thấy một khóm cây lúp xúp nằm sâu ở ven đường, tôi cứ để nguyên ba lô trên vai ngồi lên khóm cây thấy rất êm, ngả người lưng tựa vào ba lô, thế là ngủ lúc nào không biết. Bất chợt tỉnh dậy, khi nghe tiếng ken két của bánh xe bò người dân Cămpuchia đang đi dọc con đường men theo bìa rừng. Nhìn xung quanh không thấy anh em trong đơn vị đâu, tôi thật sự hoảng sợ, lo lắng rồi bật khóc, còn một mình bị rớt lại trong sự cô đơn vắng lặng ở nơi cánh rừng xa lạ này. Tuy đã nhìn thấy những dấu dép cao su dày đặc trên mặt đất, nhưng vẫn sợ bị địch phục kích trên đường. Cuối cùng, cứ mạnh dạn dò dẫm, lần mò theo dấu vết đó. Lúc đến gần làng này, tôi vội núp vào khóm cây bên đường nằm im theo dõi nghe ngóng động tĩnh, thấy có tiếng nói của người Việt mình không? Tôi đã ở đó rất lâu, trong làng vẫn yên tĩnh không có ai ra ngoài, thỉnh thoảng nghe thấy tiếng gà trống gáy ò ó o, tiếng tục tác của gà mái vừa nhảy ổ. Đâu đây vọng tiếng cụp cum, cụp cum. Vừa sợ vừa run không hiểu ở trong đó thế nào, cuối cùng không còn con đường nào khác, cứ thế bước đại vào. Tiếng cụp cum nghe rõ dần, có mấy bà già người Cămpuchia đang túm tụm cầm chày đứng xung quanh chiếc cối giã gạo. Trước cảnh đó, tôi yên tâm tiến đến gần họ, cất tiếng chào và dự định sẽ hỏi thăm có biết bộ đội ta ở đâu không? Rồi giật mình đứng sững người lại, khi một loạt tiếng rất lạ của mấy bà già phát ra the thé, theo đó là những cánh tay giơ lên chỉ chỉ, trỏ trỏ. Chẳng hiểu họ đang nói và có ý định gì với mình đây. Trấn tĩnh lại, tôi giơ tay lên chỉ vào chiếc mũ tai bèo đang đội trên đầu và chiếc ba lô sau lưng, rồi lấy tay chỉ về phía trước, mấy bà đồng loạt gật đầu. Nghĩ rằng : Họ đã hiểu tôi muốn gì, nên tiếp tục bước đi dọc theo làng này, cho đến bây giờ mới gặp được Minh.
Đợi Thanh ăn xong cơm, hai đứa thu xếp lên đường hành quân gấp, vì giờ này chắc đơn vị đã đi cách rất xa chúng tôi. Độ khoảng 3 giờ chiều, tôi ghé vào một gia đình gặp một cô gái Cămpuchia ở ven đường, rồi làm hiệu hỏi thăm khoảng cách từ đây đến phum nơi đơn vị sẽ đóng quân mà anh Thái đã ghi rõ trên giấy.
Chúng tôi đi qua nhiều phum, những cô gái, em nhỏ, bà già đang ở trên tầng của những chiếc nhà sàn nằm hai ven đường trông xuống vẫy chào chúng tôi.
Một điều lạ lẫm đập vào mắt tôi. Tất cả những cô gái, bà già đều chỉ quấn Xàrông (loại váy) từ bụng trở xuống còn phần ngực thì để trần.
Ban đầu hai đứa ngượng chín mặt không dám nhìn, nhưng đi suốt qua nhiều phum được chứng kiến tất cả phụ nữ ở đây đều ăn mặc như thế, mọi việc rồi cũng quen dần.
Đến gần 4 giờ chiều, sợ trời sắp tối, nhìn sang nhà bên đường có một chiếc xe đạp dựng ở sân. Tôi mừng quá, đánh bạo vào gõ cửa chủ nhà ngỏ ý mượn chiếc xe đạp, như vậy hai đứa mới đuổi kịp đơn vị khi trời chưa tối, chứ đi về đêm, không biết chuyện gì nguy hiểm sẽ đến đây.
Đón tiếp hai đứa có hai vợ chồng trung niên trên dưới 40. Tôi vừa giơ tay làm hiệu và gật đầu chào, người đàn ông vội hỏi bằng tiếng Việt lơ lớ:
- Các anh bộ đội cần gì?
Thật may quá, mình đã gặp được người biết tiếng Việt rồi. Không cần dạo đầu vòng vo nữa, tôi nói ngay:
- Anh cho mượn chiếc xe đạp đang dựng ở đấy được không? Chúng tôi rất vội phải đi về phum X, buổi sáng ngày mai sẽ đem xe đến trả cho anh.
Anh tươi cười vui vẻ dắt xe ra cho chúng tôi mượn. Hoá ra những điều liều lĩnh của tôi thế mà lại hay. Hai đứa sung sướng cười tít mắt nói vội lời chào cảm ơn rồi tiếp tục hành trình.
Tôi khoác khẩu súng lên vai rồi nhảy lên xe ngồi đạp, còn Thanh ngồi phía sau ôm hai ba lô và súng của mình. Chúng tôi bon bon trên đường độ khoảng một giờ thì gặp được đơn vị, trời lúc này đã bắt đầu tối.
*
*   *
Ngày hôm sau, khoảng 10 giờ sáng, tôi rủ anh Huyên, y tá cùng đi trả xe cho chủ nhà. Lúc chúng tôi vừa đến một thị trấn nằm ven đường, chiếc bánh xe lại bị xịt lốp. Hai anh em dắt xe đi bộ và hỏi thăm khắp hết thị trấn mới tìm được người vá xe.
Đó là một người đàn ông tuổi gần 50, tôi làm hiệu ngỏ ý nhờ vá săm xe, ông gật đầu vui vẻ vào nhà lấy ra chiếc săm mới thay vào xe đạp đó.
Khi vừa đến nhà chủ xe, tôi thanh minh vì sự cố đã xảy ra nên chúng tôi đến không đúng hẹn. Anh tươi cười,  nói lời cảm ơn, đồng thời còn rút tiền Riêl (tiền Cămpuchia) trong túi ra trả cho tôi. Hai anh em trố mắt, ngạc nhiên.
- Đường nào chiếc xe này đến lúc đó cũng bị thủng săm, tôi cảm ơn hai anh bộ đội đã sửa hộ. - Anh nhẹ nhàng giải thích.
Cứ thế, anh ta dúi tiền vào túi, tôi cố sức đẩy ra, nhưng vẫn không được. Vậy chỉ mới hai ngày tiếp xúc với dân Cămpuchia, bao nhiêu niềm vui bất ngờ đã đến với chúng tôi.

12-4-1972
Trời đã về tối, tôi theo anh Thái và các trung đội trưởng đi thực địa để nhận mục tiêu mà đại đội chúng tôi sẽ đảm nhiệm chiến đấu. Địa hình bố trí quân là một cánh rừng tràm, bao quanh nó là cánh đồng bằng phẳng, không cây cối hoa màu, vì thời điểm này đang là mùa khô ở Cămpuchia.
Dưới ánh trăng sáng, theo tay anh Thái chỉ, phía trước mặt bên trái là con đường quốc lộ 1 nối liền Sài Gòn - Nông Pênh đi qua cửa khẩu Mộc Bài tỉnh Tây Ninh. Phía bên phải là chốt trung liên 1 do quân của Lon Non - Xi Ríc Ma Tắc chốt giữ. Hoả lực chốt giữ của địch tương đối mạnh, có DK 75, cối 82, đại liên và súng 12 ly 7.
Nhiệm vụ của chúng tôi là phải bao vây tiêu diệt địch. Do địa hình xung quanh chốt trống trải, không có vật che chắn, nhưng sát cạnh nó có khá nhiều gò đất lô nhô và lác đác xuất hiện những bụi cây lúp xúp.
Bảo vệ chốt có nhiều loại hàng rào bao quanh, phía trong là những nhà doanh trại lính, phía vòng ngoài là những lô cốt nổi lên rải đều gần sát với lớp hàng rào trong cùng. Chúng tôi áp dụng chiến thuật: “Cường tập” tức là ở ngoài chốt dùng hoả lực uy hiếp, bức địch đầu hàng, nếu có thời cơ xuất kích tấn công tiêu diệt chúng.
Đêm hôm ấy, ánh trăng đầu tháng vừa đủ cho mọi người nhìn thấy nhau mờ mờ. Khi anh em trong đại đội tôi theo từng
vị trí đã tiến sát với hàng rào là triển khai ngay đào công sự.
Chủ yếu là đắp đất xây dựng vật che chắn đạn nhọn từ trong đồn bắn ra ngoài.
Lệnh tấn công đã đến, chúng tôi từ các hướng đồng loạt nổ súng vào chốt. Quân địch bên trong quá bất ngờ nên im lặng không hề nhúc nhích, chống cự. Nhưng chỉ khoảng 5, 6 phút sau, từ các lô cốt địch đã bắt đầu phản công, bắn trả chúng tôi bằng những tràng đại liên có đạn vạch đường. Trong đêm tối trông như những tia pháo hoa quét ra từng vệt sáng không liên tục. Những viên đạn nhọn cắm vào những gò đất xung quanh tôi nghe phầm phập, phầm phập.
Tiếng đạn DK75 của địch bắn ra nổ rất đanh, chói tai, cát bụi bay mù mịt. Song do đã tính trước đến khả năng tấn công bằng hoả lực của chúng từ trong chốt, nên cả đơn vị tôi trước đó ai nấy đều đào cho mình những công sự chiến đấu khá chắc chắn, như vậy may ra mới hạn chế được sát thương của các loại đạn.
Quân địch bắn khá rát, nhất là mấy khẩu đại liên 12 ly 7,
ở những lô cốt tuyến đầu. Rồi hai khẩu DK 75 ở bên cạnh hai
lô cốt, cứ nhằm những ụ đất phía trước và sau chúng tôi mà nã đạn vào.
Đạn bay ra ồ ạt, "chiu" "chiu" trên đầu tôi. Ai đó chỉ cần nhô cao đầu một chút thôi, chắc phải hứng ngay cả trăm viên đạn vào người. Hoả lực địch trong chốt khá mạnh, nếu cứ để tình trạng này kéo dài mãi chắc chắn bộ đội ta thương vong nhiều.
Anh Thái điện về tiểu đoàn xin hoả lực cối 82 và DK 75 hỗ trợ, nhưng không liên lạc được do đường dây điện thoại bị đứt.
Còn máy vô tuyến 2W do Trung Quốc sản xuất mà chiến sĩ thông tin mang từ ngoài Bắc vào đây cứ tậm tà, tậm tịt hỏng liên tục. Tuy đại đội được trang bị một máy nhưng hầu như không làm việc được mấy.
Lúc này, hai chiến sĩ trinh sát tiểu đoàn đang có mặt ở đại đội, đang chuẩn bị trở về Ban chỉ huy tiểu đoàn. Tôi được đại đội trưởng Hà Văn Thái giao nhiệm vụ, đi cùng với hai anh để về tiểu đoàn bộ, trực tiếp xin Ban chỉ huy chi viện hoả lực cối 82, DK 75 cho đại đội 3 chúng tôi, nhanh chóng tiêu diệt hai lô cốt đầu cầu này.
Khi quân địch trong chốt vừa bắn chuyển làn sang hướng khác, tôi khoác vội vào lưng một chiếc xẻng cá nhân, cầm khẩu súng tiểu liên AK trong tay, băng băng theo hai anh trinh sát về tiểu đoàn bộ.
Trong lúc đang còn lom khom men gần sát với hàng rào dây thép gai đầu tiên trong chốt, cách công sự khoảng 20 mét, bất ngờ phía bên phải tôi, súng đại liên trong chốt bắn quét ra đội hình 3 người.
Một phản xạ rất nhanh, chúng tôi đồng loạt nghiêng người lăn mình xuống đất. Tôi lăn một vòng may sao đầu vừa chạm vào mô đất, trong đêm tối nhìn nó trông như một ngôi mộ thấp.
Đạn của khẩu đại liên đã quét đến chúng tôi sàn sạt cắm vào mô đất trên đầu phầm phập. Tôi sởn ốc, nổi gai trong người cảm thấy sờ sợ, và nằm im. Một lúc sau đó chúng bắn chuyển làn sang bên cạnh.
Nhanh chóng lợi dụng khoảnh khắc này, tôi vội gác súng lên mô đất, ngắm ngay vào lô cốt nơi khẩu đại liên đang còn khạc lửa, rồi bình tĩnh bóp cò điểm xạ 2 viên pằng, pằng.
Bỗng nhiên, khẩu đại liên đó im bặt (trong thời gian huấn luyện ở miền Bắc, tôi đã tập bắn mục tiêu "lập loè" ban đêm rất kỹ, nên khi tiêu diệt những mục tiêu dạng này đối với tôi không có gì là khó).
Lợi dụng thời điểm địch ngừng bắn này, chúng tôi vận động nhanh về phía tiểu đoàn xin được hỗ trợ hoả lực cối 82 và KD 75 cho đại đội 3 kịp thời. Hơn chục phút sau đạn cối của chúng ta tới tấp đổ vào trong chốt. Phía chúng đột ngột ngừng phản công rồi im lặng.
Lúc này khẩu đội DKZ 75 của đại đội 17 (C17) đã có mặt. Các anh nhanh chóng vận động đến sát với hàng rào địch, từ nơi đây rất dễ dàng ngắm vào từng lô cốt màu trăng trắng nhô lên ở phía trong để nhả đạn.
Chốt trung liên I đã bị tiêu diệt hoàn toàn, quân ta xung phong tràn vào. Sau đó, chúng tôi bàn giao chốt đã chiếm giữ lại cho bộ đội Cămpuchia, lúc đó do Khiêu Xăm Phon chỉ huy.
Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #15 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:43:37 pm »

20-4-1972
Vào khoảng 3 giờ sáng, đại đội 3, tiểu đoàn 8 được lệnh di chuyển quân cắt qua chiếc cầu sắt sang phía bên kia con lộ 1. Nơi đơn vị sẽ chốt giữ là một phum (thôn, làng) Cămpuchia, với nhiệm vụ phục kích, chốt chặn địch từ hướng Nông Pênh nống ra, và ở trong Chi Phu chạy về. Một tin buồn đã đến với chúng tôi, đồng chí Đàm Văn Kháng - chính trị viên phó tiểu đoàn 8 quê ở Quảng Minh (Quảng Xương, Thanh Hoá) vừa bị hy sinh ngay trong đêm 19-4-1972 khi anh đang trực tiếp chỉ huy đại đội 2,  tấn công đồn Lò Xúp này.
Trước lúc cả đơn vị di chuyển sang địa điểm mới, đại đội trưởng Hà Văn Thái tập hợp tất cả chúng tôi lại, để giao nhiệm vụ chiến đấu mới cho từng trung đội, đồng thời kiểm tra tình hình quân số bị thương vong trong ngày. Lại một tin rất buồn và đau xót nữa mà đại đội tôi phải gánh chịu, trong trận chiến đấu vừa qua tổn thất quá lớn. Có năm người đã hy sinh, đó là các anh:
Hồ Sỹ Ninh, quê ở Quỳnh Xuân (Quỳnh Lưu, Nghệ An). Lê Văn Nuôi, quê ở Thạch Lâm (Thạch Hà, Hà Tĩnh). Lê Minh Hà, quê ở Thạch Yên (Thạch Hà, Hà Tĩnh). Hoàng Thanh Tại(1), quê ở Nghi Phú (Nghi Lộc, Nghệ An). Nguyễn Thế Tài, quê ở Thanh Bài, Thanh Chương, Nghệ An.
Ngoài ra, còn có một số cán bộ chiến sỹ nữa bị thương, phải về tuyến sau để điều trị. Tất cả mọi người vừa nghe được tin đã lặng đi, trước những đau thương, mất mát này.
Trong đoàn quân, đâu đấy tiếng khóc của ai đó bật lên. Một người khóc, hai người khóc... Rồi vỡ oà ra khi tất cả mọi người không còn có thể kìm lòng được nữa. Người thì thút thít, người thì nức nở, tạo nên một âm thanh bi ai, vang vọng giữa cánh đồng Cămpuchia phẳng rộng mênh mông đang bị màn đêm bao phủ.
Nước mắt chúng tôi hầu như đã khô cạn từ lâu, tất cả bây giờ đều chảy vào trong. Cuộc chiến phía trước còn rất gay go ác liệt, mức độ tàn khốc ngày càng tăng. Chỉ có những người đồng đội yêu thương của tôi ngày một giảm đi.
Quân số đại đội tôi ngày đầu mới vào trận có 82 người, giờ đây còn lại chưa được 60 người, mặc dù chúng tôi tham gia chiến trận chưa nhiều.
Rồi đây, trong những trận đấu tới, tôi hay ai nữa đây? lại phải ra đi không được chia sẻ ngọt bùi, gian khổ đắng cay, bao hiểm nguy vất vả, khói lửa đạn bom với cùng đồng đội. Thế mới biết chiến tranh tàn khốc ác liệt biết nhường nào. Cái giá phải trả cho nó quá đắt.
Khi đại đội chúng tôi tiến vào phum Xúp, mọi người dân nơi đây đã chạy đi sơ tán hết. Ở đây vắng lặng lạ thường, tôi đi vào từng nhà nhìn thấy mọi thứ vẫn nguyên vẹn không có gì xáo trộn.
Theo đội hình chiến đấu, bộ đội nhanh chóng đổ về các vị trí mà mình đảm nhiệm để đào công sự. Vị trí đóng quân của đại bộ nằm ở trung tâm phum, từ nơi đây ra đến chiếc cầu sắt nằm trên đường quốc lộ I khoảng năm trăm mét, cắt ngang cánh đồng rộng trơ trọi, rất bằng phẳng mênh mông. Ở đây chúng tôi có thể yên tâm ngồi quan sát, chờ địch đến để tiêu diệt. Bởi vậy, sau khi đã hoàn tất công sự chiến đấu của mình, mọi người có thể tranh thủ ngủ bù cho đêm hôm qua, chỉ cần cắt cử thay nhau canh gác đợi chúng đến là hô nhau thức dậy để xuất kích tấn công.
Tranh thủ làm một giấc ngủ dài, đến khoảng 9 giờ, tôi tỉnh dậy, vội vàng lục lọi tìm ở trong nhà có cái gì ăn được không? Khi đi đến nhà kho mới phát hiện được có gạo nếp cẩm, trong bụng mừng thầm: Chắc mẩm trưa nay chúng tôi có một bữa cơm nếp rồi.
Khoảng 10 giờ khi tôi đang chăm chú nhìn ra chiếc cầu sắt: Cả một không gian mênh mông hầu như chìm trong lặng im. Không tiếng súng, không tiếng xe cơ giới, không tiếng người. Còn anh em trong đại đội tôi, tất cả đang say giấc ngủ bù. Chỉ còn có một số người đang thức gác, nhưng họ cũng rất yên lặng. Cứ như chiến tranh đã không tồn tại ở nơi này...
Tôi dõi theo dọc con đường I và trên cánh đồng, tất cả đều đứng yên, không có một bóng người, hay một chiếc xe nào chạy qua. Cảm giác như nơi đây là một vùng chết.
Pằng, pằng, pằng… mấy loạt tiểu liên AK bất thần vang lên ở nơi chiếc cầu sắt, xé tan không khí vẫn còn lặng im trước đó. Tôi quay đầu nhìn ra xa thấy hai chiếc xe cơ giới màu xám đang từ trên đường I lao xuống cánh đồng trước mặt, nhưng hướng chạy của nó chếch ra khỏi phum Xúp nơi chúng tôi đang bố trí phục kích.
Trước tình hình này, nếu chậm chân thì chúng sẽ chạy thoát. Quên hết mọi nguy hiểm, không kịp báo cho ai biết, tôi vụt lao ra khỏi hầm, với một suy nghĩ trong đầu: "Phải quyết tâm bắt sống…"
Tôi bắn chặn đầu, nhưng hai chiếc xe vẫn cứ tiếp tục lao đi, thấy nguy cơ chúng có thể sẽ thoát, vượt được sang con đường bên cạnh. Vừa chạy cắt ra con đường đó bắn chặn từng loạt AK, những viên đạn cày sâu xuống mặt ruộng, đất cát từng cụm nối nhau bung lên, hai chiếc xe vội vàng dừng lại. Tiếp tục bắn thêm mấy loạt nữa để uy hiếp chúng rồi tôi tiến lại gần xe.
Ở phía sau anh Thái hô các trung đội xung phong ra hỗ trợ tôi truy kích địch. Đó là các anh Trữ, Huyên, Tài, Coỏng cùng tiểu đội hoả lực A10, do anh Thiết chỉ huy.
Tất cả mọi người đang ngủ mơ màng, khi vừa nghe có tiếng nổ, đã choàng ngay dậy, ôm súng và những cái gì cầm được trong tay lao ra tiếp ứng tôi. Buồn cười nhất là anh Tài, cũng chạy theo cùng mọi người, nhưng trên tay chỉ cầm độc một chiếc xẻng cá nhân giơ cao lên đầu huơ, huơ, lại còn hò hét hô xung phong nữa chứ.
Tôi đã bắt giữ hai xe, trên đó có hai sĩ quan Cămpuchia và một người phụ nữ cùng với hai con nhỏ khoảng 3 tuổi và 7 tuổi. Rồi hướng dẫn cho họ xuống xe, đi bộ về hướng phum nơi chúng tôi đóng quân.
Lúc này anh em tiếp cứu đã đến gần, tôi nhảy lên xe ba bánh (sau này mới biết đó là chiếc xe lam), với ý định nổ máy lái xe về. Nhưng khi ngồi vào trong cabin, mới thật sự lúng túng, không biết điều khiển nổ máy thế nào? mặc dù đã cố gắng tìm mọi cách, bấm hết các nút trong xe, nhưng nó vẫn gan lỳ ỳ ra không chịu nhúc nhích.
Quá bực mình, tôi xuống đi ra phía sau nhìn vào, phát hiện được trên thùng xe có một chiếc va ly căng đầy, rất tò mò liền mở ra lục soát.
Ban đầu mới nhìn vào chỉ thấy ở phía trên có hai hộp dầu cù là hiệu "Ông cọp". Một hộp có 10 lọ thuỷ tinh trang trí rất đẹp, tôi nghĩ ngay phải lấy về cho bạn bè anh em bôi vào người khi đau xương cốt.
Phía dưới hơn một chút là những cục tiền "Riêl" Cămpuchia. Vừa lấy tay bới qua lớp tiền giấy đó, một lớp vàng đủ các loại: Loại miếng, dây chuyền, nhẫn, khuyên tai... phủ đầy hơn nửa va ly, tôi nhìn vào sững sờ, lặng đi. Vì đây là lần đầu tiên mình được nhìn thấy vàng nhiều như thế.
Bên cạnh góc có hai túi vải nhỏ, khi mở ra bên trong đầy hạt nhỏ lấp lánh ánh lên. Nghĩ đó là kim cương (vì khi còn nhỏ ở nhà tôi hay đọc truyện cổ tích), rồi vội vàng xếp va ly, đậy nắp khoá chặt lại, mà chỉ lấy cho mình hai hộp dầu "Ông cọp".
Lúc này, anh Thụ và mọi người cũng vừa kịp đến bao quanh, tôi thở phào nhẹ nhõm và biết mình đã bình an.
Người phụ nữ và hai cháu nhỏ khóc rất nhiều, tôi không hề biết tiếng Cămpuchia để hiểu họ nói gì. May mà có anh
Thụ chính trị viên phó (cán bộ chiến trường trước chúng tôi) có hiểu được một ít để an ủi động viên để ba mẹ con yên lòng.
Khi đã trấn tĩnh lại, nhìn kỹ mọi người, nhất là các anh trong đại đội bộ, tôi rất ngạc nhiên và cảm động. Vũ khí cầm trên tay để xuất kích truy sát địch của anh Tài và Trữ chỉ có chiếc xẻng cá nhân, còn anh Huyên đang cầm trên tay một quả lựu đạn (Anh Tài, Trữ, Huyên là nuôi quân, quản lý, y tá không được trang bị súng đạn). Tôi hỏi và anh Tài bảo:
- Khi thấy em xuất kích một mình đuổi địch rất nguy hiểm như vậy, các anh ngồi yên sao được. Tất cả đều vội vàng xông ra ứng cứu em, nên cứ vớ được cái gì là cầm cái nấy. Có ai chuẩn bị trước đâu? May mà anh còn vớ được cái xẻng.
Tôi rất biết ơn và cảm động trước những hành động, nghĩa tình anh em đồng đội, luôn luôn cùng "sống chết có nhau" trên chiến trường chỉ có đạn bom và chết chóc này, mà các anh là người luôn che chở cho mình trong những lúc hiểm nguy. Hai mắt tôi cay cay và nhoè đi, trong lòng thầm cảm ơn về tấm lòng yêu quý đó.
Hai chiếc xe lam vẫn nằm ì ra đó, tôi và một số người đành bó tay vì đều là lần đầu tiên va chạm với nó, nên không biết điều khiển thể nào để nổ máy được.
Thật là may có hai anh Trữ và Thiết vào xe loay hoay một lúc thì chúng nó phát ra tiếng kêu bành bạch… Chả là trước khi vào quân đội, các anh đã từng là thợ lái xe ủi ở các đơn vị giao thông miền Bắc.
Ba người bị bắt và hai cháu nhỏ được lên xe chạy về phum Xúp. Còn tôi và một vài người nữa tranh thủ thời cơ nhảy vội lên nó theo về.
Vừa về đến nơi, tôi bàn giao ngay chiếc va ly rất nặng, căng đầy đó cho ban chỉ huy đại đội.
Khoảng 4 giờ chiều, từ tổ chốt tiền tiêu báo về:
- Có một đại đội địch rút chạy gần vị trí chúng tôi đóng quân.
Lệnh báo động, vận động tấn công truy kích địch của Ban chỉ huy đại đội phát ra:
- Các trung đội chỉ để lại một tiểu đội chốt giữ ở nhà còn tất cả bộ đội đều xông lên truy đuổi quân địch đang từ trong chốt Chi Phu rút chạy ra ngoài.
Khi nhóm tàn quân phát hiện được bộ đội ta đang vận động truy kích, chúng đổi hướng bỏ chạy thục mạng. Chúng tôi nhanh chóng đồng loạt nổ súng vào hướng đó. Do khoảng cách giữa ta và địch hơi xa, nên một số lớn đã chạy thoát sang phum bên cạnh.
Mặt trời đã nghiêng hẳn về phía tây, hoàng hôn sắp đến, đại đội trưởng Hà Văn Thái ra lệnh thu quân.
Lúc này, cả khu vực thị trấn Lò Súp đã được trung đoàn 271 chúng tôi giải phóng hoàn toàn, hiện đang làm các thủ tục bàn giao lại cho bộ đội Cămpuchia quản lý. Địch trong chốt ở hai thị trấn Chi Phu và Bờ Vét nằm trên con đường I giờ đây bị ta cô lập, đường rút lui của chúng về Nông Pênh đã bị cắt đứt.
Đại đội chúng tôi cùng với các đơn vị khác trong tiểu đoàn 8 tiếp tục chốt giữ ở đây để phục kích chúng từ hướng Nông Pênh về chi viện cho cứ điểm Chi Phu.
Thật bất ngờ, tiếng súng các loại đồng loạt nổ ầm ầm vang rền. Mặt đất, bầu trời cả khu vực thị trấn Chi Phu bừng sáng lên, những cơn chớp sáng loé lên, giật liên tục trong màn đêm.
Đấy là tiếng súng của các tiểu đoàn 7 và 9, cùng với các đại đội trực thuộc công binh (C19), cối 82 (C16), DKZ 75 (C17) và đại đội đặc công (C25) của trung đoàn 271, đang tập trung tấn công cứ điểm đó.
Hoả lực của quân địch ở đây khá mạnh, ngoài các loại súng tiểu liên, trung liên, cối 82, DKZ75, đặc biệt còn có 4 đến 5 khẩu pháo phòng không 37 ly bốn nòng, đang đồng loạt hạ súng bắn thẳng vào bộ đội ta.
Tiếng đạn nổ rất đanh nghe chối tai, theo từng chùm một cày xé mặt đất ngay trước mặt quân mình. Vũ khí này quân địch sử dụng chống trả  khá lợi hại, ngay từ đầu đã có một số chiến sĩ của ta đã hy sinh.
Không thể để cho hoả lực của chúng áp đảo, khống chế các đơn vị phía trước của ta được. Các khẩu đội DKZ 75 của C17 đã áp sát hàng rào dây thép gai bảo vệ đầu tiên, bình tĩnh ngắm chính xác từng ổ hoả lực một rồi mới bóp cò.
Từng lô cốt một, từng ổ đại liên, từng ụ súng phòng không của địch thay nhau nổ tung. Súng và người bay lên trời tung toé. Hoả lực của chúng trong cứ điểm lịm dần rồi tắt hẳn.
Trung đoàn 271 từ các hướng đồng loạt xông lên, tràn vào trong cứ điểm, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch đang cố thủ trong cứ điểm Chi Phu.
Trong thời gian 3 ngày, trung đoàn 271 đã giải phóng, làm chủ hoàn toàn đoạn đường quốc lộ I, từ Lò Xúc đi Chi Phu gần 20 km. Chỉ còn hai cứ điểm nữa Bờ Vét 1, Bờ Vét 2 là đến cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh, Việt Nam chúng ta.
Chiều hôm sau, cả đơn vị lại tiếp tục hành quân về hướng đông theo dọc con đường quốc lộ I. Tôi theo anh Thái và một số cán bộ trung đội trưởng đi trước khảo sát địa hình, nhận mục tiêu cho trận chiến đấu tiếp theo.
Chúng tôi vượt băng qua những cánh đồng rộng mênh mông bao la còn trơ gốc rạ. Nhìn về các làng phía trước mặt, chỉ thấy một vệt mờ mờ xanh cuối chân trời. Đâu đây có tiếng hát, tiếng trống bập bùng qua những chiếc loa điện ở trong phum vọng ra.
 Mùa này nhân dân Cămpuchia đang đón Tết năm mới, (gọi là Tết nước lên) vào ngày 14, 15 tháng 4 dương lịch hàng năm, cũng là tháng khởi đầu của mùa mưa, bắt đầu cho mùa gieo trồng mới (một năm Cămpuchia chia ra làm 2 mùa, 6 tháng mùa mưa gieo trồng, thu hoạch. 6 tháng mùa khô là mùa cưới xin, đi chơi, buôn bán).
Khi tôi đang đi phía ngoài gần bìa phum, bất ngờ có một cháu trai cỡ 11 - 12 tuổi từ trong đó chạy ra đuổi theo tôi và cất tiếng gọi ơi ới, trong tay đang xách một thứ gì đấy.
Tôi chột dạ vội dừng lại; Không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra đây? Mới đầu cảm thấy hơi sờ sợ, nhưng phải một lúc sau đó mới trấn tĩnh lại nghĩ rằng: Sẽ không có chuyện gì nguy hiểm xảy ra, vì đang chạy đến nơi tôi đứng là một đứa trẻ.
Khi vừa đến nơi, cháu vội vàng dúi vào tay tôi một xâu lủng lẳng, đủ các loại bánh: Bánh ích, bánh chuối, bánh nếp... Rồi líu lo nói mấy câu bằng tiếng Cămpuchia và quay đầu chạy trở về ngay. Mọi việc xảy ra quá nhanh, tôi ngỡ ngàng chỉ biết đứng yên như trời trồng, nhìn cháu bé chạy xa dần, xa dần...
Địa điểm mới chúng tôi đóng quân là phum Sóc Nóc. Nơi đây người dân vừa ở sơ tán đã trở về, mọi sinh hoạt ở trong phum trở lại bình thường. Chúng tôi đã có một ít tiền Riêl Cămpuchia, chiến lợi phẩm thu được của địch từ trước đó. Những bữa ăn sau này đã được cải thiện có thịt  lợn, gà, rồi rau xanh và cả bún nữa. Đã lâu lắm rồi, mọi người trong đơn vị mới được thưởng thức các hương vị như những ngày đang ở quê nhà.

Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #16 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:45:35 pm »

23-4-1972
Khoảng 9 giờ sáng, cậu Quỳnh đại đội hoả lực 12 ly 7 (C18) hành quân đi qua nơi chúng tôi đang đóng quân. Vừa gặp tôi, cậu ta đem một bọc quà ra và bảo:
- Cậu Nam Nghi Thuận (Trần Ngọc Nam) nhờ tôi chuyển gói quà cho ông đấy.
Thời gian hai chúng tôi gặp nhau không nhiều, chỉ kịp hỏi thăm mấy câu: Anh em trong cùng đại đội huấn luyện chúng mình ai còn, ai mất.
Tôi đã nói với Quỳnh:
- Cậu Tại người Nghi Phú đã hy sinh rồi.
Hai đứa đứng ở ven đường ôm nhau nghẹn ngào, nước mắt chảy dài trên má. Quỳnh đột ngột buông tôi ra quay đầu chạy theo đơn vị của mình tiếp tục hành quân ra phía trước.
Về đến nơi nghỉ, tôi mở gói quà của Nam gửi cho, bên trong là một chiếc đài bán dẫn, một chiếc đồng hồ và một ít tiền Riêl cùng với một bức thư viết trên hộp vỏ bao thuốc lá: "Tao gửi cho mày chiến lợi phẩm thu được ở căn cứ Chi Phu"...
Rất mừng khi biết bạn còn sống và gửi những món quà quý giá cho tôi. Cảm ơn Nam rất nhiều. Tôi quá hiểu, ở nơi chiến trường này, bao khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, ranh giới cái sống cái chết rất mong manh, thế mà bạn đã không quên vẫn nhớ và quan tâm đến mình.
 Tôi bồi hồi xúc động, nỗi nhớ Nam và Hồng tràn về ngập cả trong lòng. Phút chốc những kỷ niệm đẹp về ba đứa chúng tôi ùa về. Giá như bây giờ chúng nó đang có mặt ở đây cùng với mình, mọi buồn vui cùng chia sẻ, như những ngày đang còn ngồi trên ghế nhà trường, trong thời gian huấn luyện và những ngày hành quân suốt dọc Trường Sơn.
Tôi nhớ hai đứa rất nhiều. Kể từ ngày chia tay nhau ở Sóc Đôn Tây sau trận bom của máy bay B52, cho đến nay, ba đứa chưa hề gặp lại.

25-4-1972
Chúng tôi hành quân về phía biên giới gần với huyện Bến Cầu, Tây Ninh. Nơi đóng quân là cánh rừng tràm, cây cao độ 7, 8 mét. Bao bọc xung quanh nó là cánh đồng bằng phẳng rộng mênh mông. Mặt đất khô cằn nứt nẻ, trống trụi, không có một cây gì mọc được. Chả là, bây giờ đang còn những ngày cuối cùng của mùa khô.
Tại đây, trong Ban chỉ huy đại đội tôi có sự thay đổi, anh Hà Văn Thái được cấp trên điều về tiểu đoàn giữ chức Tham mưu trưởng tiểu đoàn, anh Nguyễn Văn Thêm ở đơn vị khác về thay anh chỉ huy đại đội.
Ở Ban chỉ huy trung đoàn cũng có sự thay đổi về nhân sự. Anh Đoàn Sáu về nhận công tác ở Bộ tư lệnh Miền, Phó chính uỷ Lê Đình Trân lên đảm nhiệm trọng trách Chính uỷ trung đoàn 271.
28-4-1972
Cả trung đoàn chia làm ba mũi, chuẩn bị tấn công ba mục tiêu quân địch. Tiểu đoàn 7 do tiểu đoàn trưởng Lê Văn Hàn chỉ huy, đảm nhận hai chốt của Bờ Vét 1 và Bờ Vét 2 nằm ngay trên trục đường quốc lộ 1 kéo dài cho đến cửa khẩu Mộc Bài.
Tiểu đoàn 9 do tiểu đoàn trưởng Hoàng Vỵ chỉ huy vượt qua biên giới về Việt Nam tấn công tiêu diệt cứ điểm địch ở ấp An Thạnh phía Tây Nam thị trấn Bến Cầu, Tây Ninh.
Còn tiểu đoàn 8 của tôi do tiểu đoàn trưởng Dương Văn Hiêu và chính trị viên Huỳnh Mười chỉ huy, tiêu diệt quân địch đang chốt giữ ở ấp Rừng Dừa phía Tây Bắc thị trấn Bến Cầu, Tây Ninh.
Độ khoảng 5 giờ chiều, chúng tôi hành quân vượt qua biên giới Cămpuchia - Việt Nam, vượt qua cánh đồng không mông quạnh, trống trải rộng mênh mông, để đi về ấp Rừng Dừa.
Bốt này do lực lượng dân vệ nắm giữ, nằm bên cạnh góc ngã ba con đường ở giữa ấp. Nhiệm vụ của chúng tôi phải tấn công tiêu diệt được mục tiêu này.
Lúc đơn vị chuẩn bị xuất quân, anh Thái vừa từ tiểu đoàn bộ trở về trên cương vị cán bộ lãnh đạo tiểu đoàn xuống chỉ đạo trực tiếp đại đội chúng tôi chiến đấu.
29-4-1972
Gần 3 giờ sáng, mọi người tập kết lại trên bãi đất hoang rộng có nhiều khóm cây lúp xúp ở ngoài cách ấp Rừng Dừa độ khoảng 400 mét. Đêm hôm đó vừa đúng là đêm rằm, nên từ ngoài nhìn vào trong ấp rất rõ. Một con đường lớn chạy dọc ấp, nối ngang nó là những lối ngõ nhỏ chạy sâu vào hai dãy nhà mái tôn. Cả ấp đang chìm sâu trong đêm tĩnh lặng, yên bình của
vùng thôn quê.
Phía bên tay trái chúng tôi, cách độ 300 mét có con lộ đất đỏ vắt qua cánh đồng nối từ ấp Rừng Dừa đến thị xã Bến Cầu.
Đây là lần đầu tiên, chúng tôi đánh đồn trong ấp chiến lược. Nên để tránh bị thất lạc và phân biệt được ta và địch ở trong ấp, anh Thái phổ biến mật khẩu chung cho mọi người để nhận ra nhau trong cùng một tiểu đoàn. Mật khẩu hỏi: "Hiêu", đáp là: "Mười". (anh Dương Văn Hiêu tiểu đoàn trưởng, anh Huỳnh Mười  chính trị viên tiểu đoàn).
Để tiêu diệt được bốt địch nằm giữa ấp, tiểu đoàn 8 chia làm hai mũi tấn công ở hai hướng khác nhau. Đại đội 1 đảm nhiệm khu vực cổng phụ nằm ở phía đông bắc của bốt, bên cạnh con đường chạy dọc ấp.
Đại đội 3 chúng tôi đảm nhiệm khu vực cổng chính, nằm bên cạnh ngã ba đường giữa ấp ở phía đông nam bốt. Nơi đó có con đường đối diện nối thẳng ra con lộ đất đỏ chạy về thị trấn Bến Cầu.
Đại đội 2 là thê đội dự bị, với nhiệm vụ: ứng cứu linh hoạt khi đại đội 1 và 3 gặp khó khăn lúc tấn công tiêu diệt bốt ấp Rừng Dừa, đồng thời ngăn chặn quân tiếp viện từ ngoài vào ứng cứu quân địch ở trong đó.
Đại đội 4 hoả lực cối 82, xây dựng trận địa co cụm, hoả lực tập trung, nằm bên ngoài ấp cạnh Ban chỉ huy tiểu đoàn và đại đội 2. Nhằm chi viện hoả lực cho các mũi tấn công vào bốt địch khi cần thiết.
Tham mưu trưởng tiểu đoàn Hà Văn Thái cùng anh Thêm đại đội trưởng, phân công bố trí các trung đội đảm nhận từng mục tiêu, đồng thời tổ chức các trung đội nhanh chóng chia theo từng mũi tiền nhập vào đồn địch ở giữa ngã ấp chiến lược Rừng Dừa.
Bỗng nhiên phía trong ấp tiếng chó sủa rộ lên đồng loạt. Chỉ một lúc sau, trên con lộ đất đỏ có tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng két két của bánh xe trâu lăn, đang vội vàng chạy từ trong đấy sang thị trấn Bến Cầu.
Tôi vội cầm tiểu liên AK lao lên mặt đường. Một đoàn người già, trẻ, gái, trai tay xách nách mang, hoặc quang gánh trên vai, rồi mang vác và đội trên đầu những thứ có thể mang theo được. Tất cả đều hoảng loạn bỏ chạy ra khỏi ấp, để tránh cuộc chiến sắp xảy ra.
Khoảng 5 giờ sáng, tất cả chúng tôi đã tiền nhập sâu vào ấp, đến gần sát hàng rào dây thép gai của đồn. Những khẩu súng đại liên ở trong lô cốt hai bên cổng đồn bắn ra ngoài như vãi đạn dọc theo con đường, chia đôi đội hình của đại đội tôi.
Trung đội 1 và trung đội 2 đã vượt sang bên kia đường, nằm sâu trong ấp, còn trung đội 3 và tiểu đội hoả lực A10 và Ban chỉ huy đại đội đang ở bên này đường.
Địa hình trong ấp chiến lược rất khó khăn cho chúng tôi vận động và quan sát mục tiêu tiêu diệt địch. Các dãy nhà san sát nằm hai bên đường cho đến cạnh cổng đồn có hai lô cốt.
Đặc biệt, giữa các nhà dân thường được ngăn cách nhau bằng một lớp hàng rào dây kẽm gai, càng hạn chế tầm bắn, quan sát vận động tấn công tiêu diệt địch của chúng tôi. Khi các trung đội nổ súng tấn công, những vật chướng ngại đã che khuất mục tiêu rất nhiều, nên không gây sát thương lớn cho địch được.
 Anh Thái và anh Thêm giao nhiệm vụ cho tôi tìm mọi cách vượt qua đường đi bắt liên lạc với hai trung đội phía trong. Tôi chui luồn qua từng hàng rào dây thép gai ngăn cách từng nhà một. Khi đến mép đường trước cổng đồn khoảng 50 mét, đạn của địch bắn ra từ hai lô cốt nghe ràn rạt, chiu chiu trên đầu, đành phải nằm im bất động.
Súng đại liên trong lô cốt vừa ngừng bắn, tôi bất ngờ lao sang bên kia đường, lăn xuống rãnh bên đường chạm vào hàng rào dây thép gai. Bọn địch nổ súng bắn đuổi theo, đạn cày trên mặt đường sau lưng, đất đá bắn tung toé.
 Độ hơn 20 phút sau, chúng vừa ngừng bắn, tranh thủ cơ hội hiếm hoi này, tôi vội nằm ngửa đầu chui vào trước, kéo lê khẩu súng AK sát với mặt đất theo sau, hai tay giơ lên cao chống dây thép gai dưới cùng, nhích từng tý một vào trong vườn nhà dân. Đến đây tôi có thể lom khom hoặc đi thẳng không sợ địch trông thấy được, vì vật che chắn rất nhiều, cản trở tầm quan sát của chúng.
Vượt qua mấy dãy nhà, bắt được liên lạc với hai anh Hưu và Đăng, trung đội trưởng của trung đội 1 và 2. Tôi truyền đạt mệnh lệnh của Ban chỉ huy cho các anh, đồng thời nắm lại tình hình chiến sự, tư tưởng bộ đội trong trận chiến này về báo cáo với các anh Thái, Thêm,Căn.
Trong ấp Rừng Dừa lúc này không  một người dân nào ở lại, tất cả đã rút ra ngoài để tránh bom rơi, đạn lạc. Giờ đây chỉ còn lại những người lính áo màu xanh chúng tôi.
Cả đại đội tôi ai nấy đều căng mắt ra quan sát, theo dõi mọi động tĩnh hoạt động của địch trong đồn để tiêu diệt. Những ngôi nhà, bờ tường bao quanh đồn che lấp tầm quan sát. Có những lúc hai bên ta và địch đứng cạnh nhau, nghe tiếng nói mà không làm gì được.
Chiến đấu đánh địch trên từng địa hình đều có cái khó riêng của nó, nơi rừng núi khác với đồng bằng đô thị, nhưng chỉ có một điểm rất giống nhau, đó là ở nơi nào chúng nó cũng nham hiểm và ngoan cố.
 Nắm được điểm yếu về tầm quan sát của địch rất hạn chế, tôi một mình tung tăng đi lại, lao vào từng nhà một, tìm kiếm những cái gì có thể ăn được đem về cùng anh em trong đơn vị chia sẻ, nhưng xem ra cũng không dễ dàng gì. Lại phải vượt qua con lộ trước cửa đồn để trở về ban chỉ huy đại đội. Tôi tiếp tục áp dụng chiến thuật cũ, nhưng lần này đã tự tin hơn.
Đúng như anh Thái dự đoán, ban đầu là từng loạt pháo dội xuống xung quanh ấp. Sau đó là từng đoàn máy bay A37 thi nhau ném bom xuống cách chúng tôi một khoảng gần 100 mét.
Do có sự chuẩn bị trước, cả đại đội mọi người đều áp sát vào đồn địch, nên pháo và bom địch tuy dội xuống rất nhiều, nhưng anh em chúng tôi không ai bị hề hấn gì.
Cứ sau một đợt pháo và bom, tôi lại tiếp tục vượt sang bên kia đường, nắm tình hình chiến đấu của bộ đội ở đó. Qua nơi trung đội 1 chốt giữ, bộ đội của ta ở đây vẫn bình yên, chưa có ai thương vong. Đến trung đội 2, có cậu Thìn (Nguyễn Văn Thìn) cùng tiểu đội huấn luyện với tôi ở miền Bắc, vừa bị thương ở bên má, do mảnh đạn súng cối cá nhân M79 của địch từ trong chốt bắn ra. Máu chảy ra ướt thẫm đỏ cả cuộn băng trắng bịt kín trên đầu, chỉ còn một mắt bên trái lộ ra.
Nhìn thấy cậu ta đang ngồi dưới con rãnh khô không có nước, đầu ngả vào bờ đất dưới gốc cây điều. Lòng tôi quặn đau và buồn thương cho bạn. Lúc đó vào khoảng 1 giờ chiều, tất cả chúng tôi vẫn chưa một ai kịp ăn gì. Nhất là cậu Thìn lại bị thương rất đau, máu chảy ra khá nhiều.
Đứng tần ngần một lúc, tôi mới sực nhớ: nằm bên cạnh mặt đường trước cổng đồn, có một cửa hàng tạp hoá. Chắc rằng trong ấy phải có sữa và đường. Nhưng chỉ có một điều, vị trí đó hơi nguy hiểm vì địch quan sát ra bên ngoài rất dễ. Trước cảnh ngộ đồng đội bị thương, tôi rất thương cảm và động viên Thìn:
- Hãy cố gắng chịu đau nhé, đợi Minh đi tìm sữa mang
về cho.
 Khi đến gần mặt đường nơi vị trí cửa tiệm tạp hoá, tôi vận dụng kỹ thuật trườn thấp để tiền nhập vào. Lúc này, chỉ cần ló đầu nhấp nhô lên cao một chút thôi, ngay tức thì trong chớp mắt tôi phải nhận cả hàng trăm viên đạn ở hai lô cốt bắn ra.
Trong tiệm tạp hoá tôi kiếm mãi mới thấy được một hộp sữa, riêng đường trắng thì rất nhiều cả một bao tải mấy chục ký, không thể mang nó trở về được.
Tôi nhìn thấy tấm vải đang che quầy hàng, vừa với tay nắm giật xuống để gói một ít đường đem về cho đồng đội. Bất ngờ một loạt đại liên bắn vào cửa tiệm. Đạn bay chíu chíu, sàn sạt bên tai tôi, cắm phầm phập vào bức tường phía sau lưng thủng từng mảng một, vôi vữa bay tung toé. Tôi vội vàng nhoài người nằm xuống, đạn vẫn bay phía trên, trúng vào bao tải đường nghe "phụp" "phụp"…, khoảng 1/3 bao phía trên bị vỡ tung, đường trắng bắn vung vãi xung quanh.
Tôi thật sự thấy hoảng sợ, vì nơi đây khá kín đáo và vắng vẻ, nếu có xảy ra chuyện gì, chắc mọi người không biết ở đâu mà tìm.
Nằm im một lúc để bọn địch nghĩ mình đã chết, tôi xúc vội một ít đường bỏ vào chiếc mũ mềm và không quên hộp sữa cho cậu Thìn, thật nhẹ nhàng áp người sát mặt đất bò nhích từng đoạn ngắn, vượt qua các lớp rào dây thép gai, để đem sữa, đường về.
Đến chiều khoảng 4 giờ, hai xạ thủ B41 và B40 của tiểu đội hoả lực, bí mật tiền nhập sát cạnh mép đường trước mặt cổng chính, đồng loạt nổ súng bắn tiêu diệt hai lô cốt đầu cầu. Quân địch bị mất hai trọng điểm hoả lực, nên chống cự yếu ớt rồi lắng dần.
Song chúng tôi không xông vào trong chốt vì nhiệm vụ được giao cho đại đội tôi là: Chốt chặn, dùng hoả lực áp đảo quân địch đầu hàng. Hơn nữa, phía trước là mặt đường bằng phẳng trống trải, góc mở cho bộ đội ta tiến vào rất hẹp, cổng vào bị hai cánh cửa sắt đã khoá chặt đang án ngữ, còn phía bên ngoài có rất nhiều lớp rào bùng nhùng trên mặt đường không cho phép chúng tôi vận động tấn công được.
Sau khi hai lô cốt đầu cầu bị tiêu diệt, máy bay địch bất ngờ đến ném bom dữ dội xuống ngoài bìa ấp, nhưng lần này khoảng cách bom nổ gần chúng tôi hơn. Trời tối dần, máy bay cũng rút về, cả đơn vị được lệnh tập kết ra ngoài bãi đất rộng, nơi mà sáng nay anh em đã tập trung.
Đại đội trưởng Thêm tổ chức điểm quân, thấy còn thiếu trung đội 3 do anh Thiết chỉ huy (anh Thiết thay anh Đăng do bị thương trận trước). Tôi nói với anh Thêm:
- Khi anh phát lệnh rút quân, em đã truyền đạt lệnh cho anh Thiết rồi...
Ở trong ấp lúc này, những đống rơm, rạ cháy "phùn phụt"… tiếng "đốp" "đốp" của những cây tre khô nổ phát ra. Khói bay nghi ngút chiếu sáng cả một góc trời.
Thấp thoáng qua ánh lửa, tôi thấy có mấy bóng người vụt qua, và đinh ninh rằng: Đây là trung đội anh Thiết đang tìm đường rút về. Nhưng sao lại đi chệch hướng ra phía con lộ. Tôi chỉ kịp báo với các anh trong ban chỉ huy:
- Đã phát hiện ra trung đội 3 bị lạc rồi, em ra đón các anh ấy đây.
Không kịp chuẩn bị gì thêm, tôi một mình ôm súng lao đến, khi chỉ còn cách nhóm người đang vội vã chạy dọc theo bờ ruộng khoảng 15 mét, tôi dừng lại, nằm gác nòng súng lên, mở khoá an toàn và miệng hô mật khẩu: "Hiêu", "Hiêu"... Vẫn không thấy ai trả lời, khoảng cách giữa hai bên mỗi lúc càng gần hơn. Tôi tiếp tục hô: "Hiêu", "Hiêu"....
Đến lúc này đã tôi nghe được tiếng đáp lại: Hờ, hờ....
Trong bụng nghĩ rằng: Đối phương đã đáp đúng mật khẩu "Mười" rồi. Nhưng vẫn cứ bán tín bán nghi, nên tiếp tục hô tiếp: "Hiêu", "Hiêu". Tiếng trả lời vẫn là "Hờ, Hờ..." Đinh ninh đây đúng là quân mình, chứ không phải quân địch, tôi đứng dậy khoá an toàn khẩu tiểu liên AK lại và gọi:
- Anh Thiết ơi!
Lúc này, tốp người đó đã đến sát gần tôi. Qua ánh lửa cháy bùng bùng trong ấp rọi ra, nhìn thấy trên đầu họ có ánh sáng loang loáng phản chiếu của những chiếc mũ sắt. Tôi sửng sốt giật mình thét lên theo phản xạ tự nhiên:
- Ơ, ơ… địch rồi.
Khoảng cách giữa hai bên chỉ còn lại hơn 1 mét. Tên đi đầu cũng giật mình hoảng hốt rồi lắp bắp:
- Em, em…
Khi trông thấy nòng súng tiểu liên AK đang chĩa về phía chúng, tên thứ hai đang ở phía sau bất ngờ quay khẩu súng Cacbin về hướng trước mặt mình.
Tôi vội vàng bóp cò súng nhưng nó cứng ngắc không hề nhúc nhích, đạn không nổ. Cảm nhận được cái chết cận kề, tôi chỉ kịp hô to:
- Đứng lại, giơ tay lên…
Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #17 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:46:56 pm »

Ngay sau tiếng hô đó, một chùm tia sáng phụt ra ngay trước mặt. Một tiếng nổ "đoàng" vang lên ù tai, một luồng gió rất mạnh thổi hất tôi ngã ngửa về phía sau.
Nằm trên mặt đất một lúc thì tỉnh lại, việc đầu tiên là lấy hai tay sờ vào đầu và khắp người thấy người mình vẫn còn nguyên vẹn. Tôi buột miệng reo lên:
- Mẹ ơi, con vẫn sống!
Vớ lấy khẩu AK bên cạnh tôi nhổm dậy, đã thấy bọn địch  chạy cách xa mình khoảng 10 mét, may mà đêm ấy trăng rất sáng.
Đấy là đêm 16-3-1972 âm lịch (sau này khi mở lịch ra xem, một điều kỳ diệu rất khó tin: Thời điểm người lính Sài Gòn bắn tôi suýt chết lúc đó, trùng đúng ngày, giờ và cả tháng sinh âm lịch của tôi, 19 giờ ngày 16 tháng 3 năm 1952). Phải chăng thần chết đã thương tình tha cho?
Giương súng về phía địch bóp cò mấy lần, nhưng đạn vẫn không nổ, tôi mới chợt nhớ ra: "À mình chưa mở khoá an toàn súng".
Một động tác rất nhanh, tôi đưa ngón tay cái  lẩy mạnh chốt an toàn nghe cái "roạch" và bóp cò. Nhưng đạn trong súng tôi chỉ bắn ra từng viên một: "Pằng, pằng".
Lúc này, tốp lính đã chạy cách xa hơn 15 mét, trấn tĩnh lại  mới nhớ ra rằng: Do mình kéo chốt an toàn quá mạnh, nên chốt súng đang nằm ở vị trí bắn phát một.
Lấy ngón tay trỏ phải nâng khoá an toàn lên nấc liên thanh và bóp cò, những viên đạn vạch đường (trong hộp đạn của tôi, cứ 5 viên đạn thường có một viên đạn lửa vạch đường) của tôi vút lên đuổi theo bọn địch bỏ chạy ở phía trước thục mạng.
Khoảng cách lúc này giữa hai bên độ 25 đến 30 mét. Tôi vừa chạy đuổi vừa bắn và hô vang:
- Đứng lại, giơ tay lên!
Ngay ở phía sau tôi, tiếng hô của ai đó vang lên:
- Trung đội 1 bên phải, trung đội 2 bên trái, trung đội 3 ở giữa, theo tôi xung phong truy kích địch.
Khi tiếng hô đó đến gần hơn, tôi nhận ra đấy là Coỏng, bạn liên lạc cùng đại đội bộ. Cậu ta vừa chạy vừa thở hổn hển bảo:
- Minh ơi, cậu có sao không?
- Mình không sao cả. - Tôi trả lời.
Bất ngờ có 3 viên đạn màu tím vụt bay lên trời ngay dưới chân con lộ phía trước mặt chúng tôi. Không ai bảo ai, hai đứa chia ra làm hai hướng xông thẳng lên.
Khi đến gần sát mặt đường, phía dưới nó có một cống khô nước, tôi chĩa nòng súng vào đấy và bóp cò, đồng thời nhảy vút qua. Sau loạt đạn cuối cùng này, không gian im bặt tiếng súng. Chỉ có tiếng lửa cháy phừng phực, lép bép của những ngôi nhà trong ấp là nghe rõ.
Hai đứa chúng tôi quay trở về đơn vị, trên đường đi, chân tôi đá phải khẩu súng rất lạ, nòng to ngắn nhưng bẻ gãy gập xuống được. Tôi bảo với Coỏng:
- Mình vứt khẩu súng gãy này đi, đem về làm gì mang vác cho thêm nặng.
Sau này tôi mới biết: Đó là khẩu súng cối cá nhân M79 của Mỹ bắn đạn 40 ly. Muốn cho đạn vào nòng được, phải lẫy chốt bẻ gập nòng súng lại, như cho đạn chì vào súng hơi.
Tôi hỏi Coỏng:
- Tôi đã nghe thấy có tiếng hô: Trung đội 1, trung đội 2 xung phong cơ mà? Vậy sao chỉ có một mình ông đến đây.
Coỏng trả lời:
- Minh biết không! Khi cậu vừa xách súng chạy đi một lúc thì có tiếng súng nổ kèm theo tiếng hô: "Đứng lại giơ tay lên" về hướng đó. Mọi người đang tập kết thu quân, rất bất ngờ lo lắng, anh Thái la lên: "Thôi chết! Địch bắt sống cậu Minh rồi".
Vừa mới nghe đến đó, tôi vội vàng ôm súng chạy đuổi theo cậu, vừa chạy vừa hô vang nhằm để nghi binh địch, để kịp thời giải thoát cho Minh, nhưng khi gặp được nhau thấy còn nguyên vẹn, tôi mừng quá.
Trong cổ họng tôi lúc đó nghẹn lên không nói được lời nào để cảm ơn Coỏng. Hai mắt nhoà đi, nước mắt lăn dài trên má, vì tình yêu thương đùm bọc của đồng đội, cụ thể là Coỏng, người bạn thân thiết của mình, đã không bỏ rơi nhau trong lúc nguy nan, quên mình đang còn nguy hiểm, xông lên chia lửa chi viện cứu nguy cho tôi. Cảm ơn Coỏng(1), cảm ơn anh em và cảm ơn tất cả đồng đội yêu thương của tôi.
Cho đến bây giờ, sau thời gian 35 năm,
những lời nói, hành động cử chỉ đó vẫn hiện lên in sâu
vào tâm trí tôi như chuyện vừa mới xảy ra.
Trận chiến đấu với địch ở ấp Rừng Dầu, Bến Cầu, Tây Ninh trong đại đội tôi lại có thêm một người nữa hy sinh, đó là anh Vũ Đình Ngọc quê ở Quảng Châu, Quảng Xương, Thanh Hoá. Ngoài ra, còn có hơn 10 người bị thương, trong đó có anh Trần Đức Căn chính trị viên trưởng, anh Nguyễn Văn Thụ, chính trị viên phó đại đội.
Độ khoảng 22 giờ ngày 29-4-1972, cả đại đội tôi được lệnh rút về phum Sóc Nóc, Cămpuchia. Tất cả chúng tôi ai nấy đều buồn rười rượi, trầm lặng hẳn đi, chỉ lầm lũi bước, khi cáng những người hy sinh, bị thương trở về. Mọi người lặng im không một tiếng nói cười.
Khi đang còn hành quân đi cắt qua cánh đồng dưa, cơn khát trong họng tôi bất ngờ trỗi dậy. Bởi cả một ngày quần nhau đánh địch không nghỉ, rồi đồng đội bị thương, thương vong, ai nấy đều quên ăn, quên uống. Giờ đây chúng tôi đang bước đi trên cánh đồng dưa đầy quả đang chuẩn bị vào mùa thu hoạch, làm sao mà có thể bỏ qua được. Rất nhanh chóng, tất cả mọi người đều tranh thủ tìm cho mình một quả to nhất để thưởng thức.
Khi cầm những quả dưa trên tay, vì không có dao nên mọi người cứ loay hoay, xoay xở không biết làm cách nào để ăn nó được. Nếu đưa vào miệng cắn thì nó lớn hơn miệng rất nhiều, xem ra đa số mọi người đều có vẻ đầu hàng. Có miếng ăn trên tay mà đành phải chịu.
Với tôi không có gì đáng ngại cả, hai tay cầm quả dưa đập mạnh vào tay cầm lên đạn nhô ra ngoài của súng tiểu liên AK, rồi giật mạnh. Quả dưa vỡ ra, cứ thế đều đều đánh đến căng tròn bụng, gần hết cả một quả dưa to, mát, ngọt lịm.
Phương pháp ăn dưa không cần dao này nhanh chóng được phổ biến cho tất cả mọi người. Giờ đây ai nấy đều thấy, cái đói khát nóng bức đã bị xua bớt đi, sự mệt nhọc đã được vơi đi nhiều.

30-4-1972
Khoảng 7 giờ 30 sáng, chúng tôi hành quân về đến đường quốc lộ 1 thuộc địa phận Bờ Vét, tôi nhìn thấy xác lính Sài Gòn rải đầy trên các bờ ruộng, mặt ruộng và mặt đường. Chúng chết ở rất nhiều tư thế khác nhau, nằm sấp, nằm ngửa, cúi lom khom. Màu da trên mặt và bụng đã chuyển màu xám ngắt, đồ đạc vứt bừa bãi trên đường dưới ruộng ngổn ngang.
Đó là kết quả trận đánh ngày hôm qua của bộ đội tiểu đoàn 7 thuộc trung đoàn 271 anh hùng. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, trung đoàn chúng tôi cùng một vài đơn vị bạn, đã chiến đấu giải phóng một khu vực rộng lớn dọc theo con đường từ Lò Xúc đến cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh dài gần 30km.
Đại đội 3 lại về đóng quân ở phum Sóc Nóc, nơi đây tôi đã gặp Quỳnh ở đại đội C18 bạn cùng quê, khi hành quân đi qua. Hai đứa rất vui mừng nhìn thấy nhau đều còn đang nguyên vẹn. Nhưng niềm vui ấy đến với chúng tôi không lâu, lúc cậu ta thông báo:
- Trần Văn Hồng (bạn thân của tôi) liên lạc cho anh Hàn tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 7 và anh Trần Kim Trọng ở C2, D9, đã hy sinh anh dũng trong trận chiến đấu với quân địch vào buổi chiều ngày hôm qua rồi.
Vừa mới nghe đến đây, tôi ôm chặt lấy Quỳnh nước mắt chảy giàn giụa. Cậu ta cũng sụt sùi gục vào vai tôi, thế là ba đứa chúng tôi Minh, Hồng, Nam, giờ đây chỉ còn lại hai đứa: Đó là tôi và Nam, nỗi đau mất bạn, bóp nghẹt trái tim tôi. Cái buổi chia tay của ba đứa hôm nào, sau trận B52 tại Sóc Đôn Tây lại là buổi chia tay cuối cùng với Hồng.
Giờ đây, thật sự bạn phải nằm lại mãi mãi trên mảnh đất xa lạ này. Không một người thân đưa tiễn, chỉ có những người  đồng đội thay mặt tất cả đưa tiễn bạn thôi. Nam ơi! Cậu đã biết tin Hồng và anh Trọng hy sinh chưa? Hãy cố gắng bảo trọng nhé. Mình biết cuộc chiến đấu gay go, ác liệt này còn kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc.
Khi tôi trấn tĩnh lại, Quỳnh kể rằng: Buổi sáng ngày hôm qua (29-4-1972) vào khoảng 9 giờ rưỡi, trong lúc bộ đội tiểu đoàn 7 đang xung phong, tấn công tiêu diệt và truy đuổi địch tháo chạy ở trên cánh đồng trống trải của thị trấn Bờ Vét, Hồng bị máy bay C130 nhào xuống bắn như vãi đạn. Một viên đạn xuyên qua bụng anh, ruột đổ ra ngoài, máu chảy ướt cả áo và quần ở phần bụng dưới.
Hồng ngã xuống một lúc rồi tỉnh dậy, anh bình tĩnh lấy tay nhét ruột đang đổ ra ngoài vào trong bụng. Sau đó lấy mũ vải mềm tai bèo đang đội trên đầu xuống che kín vùng bị thương rồi chạy tiếp, nhưng chỉ được một bước thôi, anh đã gục hẳn.
Bộ đội cứu thương nhanh chóng sơ cứu chuyển anh về bệnh viện tiền phương K20 của Miền. Đến 4 giờ rưỡi chiều, anh trút hơi thở cuối cùng và ra đi mãi mãi. Sự mất mát này đối với tôi đau đớn vô cùng.
Trong thời gian chúng tôi nghỉ ở Sóc Nóc, quân số trong đại đội giờ đây chưa được 40 người. Cán bộ chỉ huy các cấp bị thiếu nghiêm trọng.
Anh Lê Xuân Hưu trung đội trưởng trung đội 1 được điều lên giữ chức chính trị viên trưởng đại đội, thay anh Trần Đức Căn, anh Phạm Vinh trung đội trưởng trung đội 2, Trần Xuân Coỏng về trung đội 1 giữ chức trung đội phó, anh Nguyễn Văn Tài nuôi quân về trung đội 1 giữ chức tiểu đội trưởng.
6-5-1972
Vào khoảng 4 giờ 30 chiều, cả đơn vị rời Sóc Nóc để đi về vùng đất Long An thân yêu. Chặng đường đi khá dài của chúng tôi phải vượt qua Trà Cao nơi quân đội Việt Nam Cộng hoà đang chiếm giữ. Đồn này nằm ở vị trí rất hiểm yếu, nhằm án ngữ cả con đường tiến quân của ta từ Cămpuchia về Long An.
Qua được đồn Trà Cao, chúng tôi hành quân vượt qua cánh đồng Chó Ngáp tiếng Cămpuchia gọi là Ba Thu (người ta bảo cánh đồng này rộng dài tới mức, không một con chó nào chạy vượt qua, nếu có qua được, không chết thì cũng chỉ còn nằm mà ngáp).
Chúng tôi nghỉ tại một khu vườn trong ấp chiến lược bỏ hoang, không có người và súc vật, nhà cửa hầu như bị bom đìa đốt cháy hết rồi. Nơi đó, cách bờ sông Vàm Cỏ Đông về phía đông không xa. Ở đây thuộc xã Mỹ Thạnh Bắc, huyện Đức Huệ. Bên kia bờ sông thuộc nhà máy đường Hiệp Hoà, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An.

7-5-1972
Khoảng 12 giờ đêm, chúng tôi vượt sông Vàm Cỏ, vì theo quy luật hoạt động của địch, vào những giờ này chúng ít khi đi tàu tuần tra. Trên bờ sông là những cây tràm tán cao đến 5,7 mét, phía dưới nó là những bụi cây cơm nguội lá xanh phủ kín từ mặt đất lên cao gần đầu chúng tôi. ở nơi đây, hầu hết là bãi sình, lầy, để ra được bờ sông, buộc phải lần mò đi trên bờ đất của những con kênh nhỏ.
Trên mặt sông ven bờ có rất nhiều thuyền gỗ 3 lá, trông như tàu lá dừa đang nổi dập dềnh, nhấp nhô trên mặt sông Vàm Cỏ.
Đâu đây từ dưới mặt sông vọng lên tiếng mời chào của các cô, chị mời chúng tôi xuống thuyền để vượt sang bên kia bờ. Những giọng nói nghe rất nhẹ nhàng, dịu dàng, trìu mến, thân thương, không ồn ào sôi động dưới ánh trăng sáng trắng, mờ mờ, dìu dịu.
Lâu lắm rồi, hôm nay chúng tôi mới được gặp và nghe các má, các chị người Việt mình nói. Những ngày chiến đấu trên nước bạn, được trở về mảnh đất thân yêu của Tổ quốc mới thấy được giá trị thiêng liêng, quý giá của nó. Không có gì so sánh và đổi được, ý thức đó ăn sâu vào tâm trí tôi mãi mãi.
Con thuyền ba lá mong manh, chòng chành khi tôi vừa bước chân lên. Cả ba anh em chỉ ngồi vào được theo một hàng dọc, súng cầm trong tay. Rất may, đồ đạc ba lô chúng tôi đã để lại ở nơi vị trí vừa đóng quân, chứ nếu có mang theo, với chiếc thuyền bé tý xíu này, làm sao đưa hết mọi người qua sông được.
Nước cứ mấp mé sát mạn thuyền, tưởng như lúc nào con sông rộng đang chảy và nhấp nhô sóng nước cũng sắp nuốt chửng anh em chúng tôi. Tuy vậy, tất cả mọi người vẫn bình an vô sự, bởi có sự điều khiển chèo thuyền rất thiện nghệ của người dân Long An vùng Đức Hòa, Đức Huệ.
Người cầm lái và chèo thuyền cho tôi là một cô gái không nhìn rõ mặt, mà chỉ thấy được chiếc khăn rằn đang quấn trên đầu, còn trên mình khoác bộ bà ba màu đen. Tôi đoán cô gái này rất trẻ, bởi nghe qua giọng nói: "Các anh bộ đội cứ an tâm ngồi yên nhé. Chỉ một chút xíu thôi, em sẽ đưa các anh tới bờ bên kia".
Hai người bạn cùng thuyền ríu rít bắt chuyện với cô gái. Qua những câu trả lời , tôi nghe loáng thoáng cô gái ấy quê ở Mỹ Thạnh Bắc, huyện Đức Huệ, Long An.
Còn tôi cứ mải mê nhìn xuống dòng sông lấp lánh ánh trăng, nơi đó đang có những mảng lục bình lững lờ nối theo nhau trôi về phía hạ nguồn.
Mặt sông xung quanh tôi dày đặc thuyền ba lá, nghe rộn ràng tiếng "oàm oạp, oàm oạp" của những mái chèo khua nước trong đêm, hối hả đưa chúng tôi qua sông. Đây là lần thứ hai, tôi cùng bạn bè, đồng đội lại trở về với dòng sông Vàm Cỏ.
Chúng tôi lại tiếp tục hành quân về phía đông của con sông, sau đó đi về theo hướng ngược dòng. Dọc hai bên bờ chủ yếu là sình lầy, nên việc đi lại của bộ đội ta gặp rất nhiều khó khăn.
Nơi chúng tôi đóng quân nằm ở phía sau nhà máy đường Hiệp Hoà, trên các bờ kênh rạch nhỏ của bãi sình. Thời gian còn lại đến lúc trời sáng không còn nhiều, ai nấy đều rất mệt mỏi và buồn ngủ vì cả một đêm hành quân thức trắng. Tuy vậy, việc đào công sự không vì thế mà bỏ qua được. Bởi vậy, vừa chiếm lĩnh trận địa, tất cả mọi người đều tranh thủ triển khai công việc ngay để cho kịp trước lúc trời sáng.
Ban ngày trên bầu trời, các loại máy bay trinh sát quần đảo liên tục, luôn lùng sục rình mò bộ đội ta. Bên dưới sông các tàu tuần tiễu của địch chạy qua chạy lại không lúc nào nghỉ.

Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #18 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:47:43 pm »

8-5-1972
Trời vừa sáng, lúc đó chưa ai kịp chợp mắt thì lực lượng địch trên tàu dưới sông bắn đạn về phía chúng tôi ầm ầm. Tiếng đạn nổ ào ào, liên tục kéo dài theo từng hồi một, cắt đứt rất nhiều thân cây tràm và thân cây cơm nguội ở bờ rạch.
Những viên đạn DKZ 90 trên các tàu tuần tiễu của quân đội Việt Nam Cộng hoà đang chạy dưới sông bắn ra nổ "oàng, oàng", phá tan một khoảng bờ kênh, bùn đất bay lên trời rào rào, nhưng bọn lính dưới tàu vẫn không dám lên bờ vì sợ quân ta tiêu diệt.
Chúng cứ chạy đi chạy lại trên mặt sông, thi nhau bắn đạn thả giàn cho đến chán mới chịu dừng lại, quay đầu chạy lùi về gọi máy bay A37 đến ném bom.
Vừa qua được một trận mưa đạn của quân địch dưới tàu bắn lên, giờ đây chúng tôi lại hứng chịu hàng loạt bom trên máy bay ném xuống. Công sự trong bờ kênh lắc lư đung đưa liên tục, trời đất mù mịt bùn đất.
Tôi không phân biệt được những tiếng bom nổ nữa. Tai đã ù hẳn, ngực bị bóp nghẹt rất tức và khó thở, bởi vì bom nổ quá gần. Rất may, trước đó ai nấy đều đã xây dựng cho mình một công sự khá chắc, cho nên cả ngày hôm ấy cả đội tôi không ai bị thương vong.
 9-5-1972
Chúng tôi đã có mặt ở Gò Nổi thuộc xã An Ninh Tây, Đức Hòa, Long An. Dưới ánh sáng trăng, nhìn từ dưới bờ sông lên gò cao có một khoảng đất trống rộng, bao quanh nó là những bụi cây mọc lúp xúp, nơi đấy có hai cây cao vượt trội hẳn lên. Đấy là điểm chuẩn để tập kết của đơn vị. Nếu có ai đó bị thất lạc, cứ nhìn thấy hai cây cao đó mà tìm về. Khi đến nơi, tôi mới phát hiện đấy là hai cây duổi.
Nhắc đến Gò Nổi là nói lên bao nhiều điều vui buồn của các cán bộ chiến sĩ trung đoàn chúng tôi. Trong đó niềm vui thì ít, nhưng nỗi buồn thì rất nhiều. Mảnh đất nơi đây đã trộn đầy máu xương của những người con yêu quý miền Bắc. Họ là những chiến sĩ thuộc trung đoàn 271 đã vĩnh viễn nằm yên nghỉ tại đây. Ngay như xung quanh hai gốc cây duổi đó thôi, phải đến hơn chục anh đang nằm lại đó.
Máu của chúng tôi đã thấm đỏ trên từng mét đất ở quê hương xa xôi này, tất cả vì công cuộc thống nhất đất nước.
Có thể ngày đất nước được thái hoà một số hài cốt các anh may mắn tìm được đưa về an táng ở các nghĩa trang. Nhưng còn rất nhiều, rất nhiều anh, thịt xương đã hoà trộn trong mảnh đất này, trong đó có những người bạn thân của tôi.
Giờ đây ngồi tưởng nhớ lại các anh, mong các anh hãy
tha thứ. Tại những thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt đó, đồng đội của chúng ta chưa chu đáo trọn vẹn với các anh được. Sơ suất
rất nhiều khi đánh dấu vị trí các anh yên nghỉ. Bởi cuộc chiến
lúc đó quá cam go, khốc liệt. Cầu mong cho linh hồn của các anh
ở dưới suối vàng nhẹ nhàng, thanh thản, siêu thoát.

10-5-1972
4 giờ 30 phút sáng, chúng tôi có mặt tại ấp An Thuận, xã An Ninh Đông, huyện Đức Hoà, cách thị xã Hậu Nghĩa khoảng 12 km về phía Tây Bắc, cách ngã ba Lộc Giang 7 km về phía Tây Nam.
Ấp An Thuận nằm ở một vị trí đặc biệt: Về phía tây cách đó khoảng 5 km có con sông Vàm Cỏ, về phía đông có con đường 10 kéo dài từ thị trấn Đức Hoà qua Hậu Nghĩa, ngã ba Lộc Giang đến Tây Ninh.
Do nằm ở vị trí hiểm yếu, nên địch đã bố trí các chốt bao quanh. Phía tây chốt An Thuận, phía nam có chốt Rừng Tre, La Cua. Phía tây bắc có bốt Rạch Gần. Phía đông sát lộ 10 có bốt An Hiệp.
Khi chúng tôi tiến quân vào trong ấp An Thuận, ở đó không thấy một bóng người, chỉ có mấy cô du kích dẫn đường là người địa phương.
Ban chỉ huy Đại đội 3 đóng quân trong nhà má Hai Quân. Bao bọc xung quanh vườn là dãy giao thông hào, do mưa nắng lâu ngày cát bụi lấp gần đầy. Mép bờ phía ngoài được che chắn bằng những bụi tre già. Ngôi nhà mái tôn, tường gạch vôi trắng có những mảng vỡ lớn do trận bom đìa của tháng trước đó vừa mới được sửa sang lại nằm ở giữa vườn.
Rồi một ngày khá bình yên đã trôi qua. Khi hoàng hôn vừa buông xuống, ở trong bờ tre nhìn dọc theo con đường nhỏ bắt từ cổng nhà ra phía trước, trong ánh sáng mờ mờ, nhạt nhạt của trời bắt đầu đã về tối, tôi bắt gặp một nhóm người gồng gánh, gánh gánh, theo sau có mấy đứa trẻ đang chạy lon ton. Tất cả rất vội vàng đi về nơi chúng tôi chốt giữ.
Mọi người trong đơn vị lặng im chăm chú quan sát tất cả mọi hành vi thay đổi bất thường của nhóm người này. Có lẽ họ cũng đã quen với sự đề cao cảnh giác cũng như luôn luôn sẵn sàng chiến đấu của bộ đội giải phóng, nên khi gần đến chúng tôi, một người phụ nữ trung tuổi trong nhóm đó chủ động cất tiếng:
- Chào các con, má Hai Quân đây! Má và Sáu Tiệm cùng sắp nhỏ về thăm các con đây!
Rồi bà ta lấy tay chỉ từng người nói:
- Đây là Hai Tặng và sắp nhỏ này là con của má, còn kia là má Mười Hét, Hai Mến, Tư Phiên, và Tư Lập, Sáu Tiệm cùng sắp nhỏ của con Sáu đó.
Biết chắc không có gì nguy hiểm, tôi nhảy ra ngoài bờ tre chào đón các má và các chị, cùng các cháu đã trở về nhà.
Khi gặp được chúng tôi là những người lính vừa từ miền Bắc vào, các má và các chị xuýt xoa khen bộ đội miền Bắc đứa nào cũng trẻ đẹp sáng sủa. Thương chúng nó đã vượt qua không biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ vất vả, hy sinh, đã băng rừng, lội suối, vượt dốc cả hàng nghìn cây số mới về đến vùng đất này, về với má và các chị, về với bà con cô bác lâu nay đang mong chờ chúng tôi.
Má và các chị kể:
- Lâu nay bọn địch ở đây bố ráp thường xuyên, luôn luôn lùng tìm các gia đình cơ sở, cán bộ cách mạng, làm khó dễ cho dân rất nhiều. Các con biết không? ở đây vẫn có tổ chức chi bộ Đảng rất mạnh đấy, mà anh Năm Liêm là bí thư. Chỉ có một điều, chưa được hoạt động công khai thôi. Hôm nay các con về đây, má và các chị cùng bà con mừng lắm. À chút xíu nữa thì quên, có một chút quà nhỏ mang về cho các con đây!
Rồi ngay sau đó, mọi người lôi từ trong thúng ra những gói nhỏ bọc trong bịch ni lông. Vẫn má Hai Quân nói:
- Tụi bay biết không, bọn địch nó kiểm tra mọi người lúc trở về gắt gao quá trời, má và các chị tìm mọi lý do mới mang về được chút xíu đó.
Chúng tôi rất ngỡ ngàng cảm ơn má và các chị rối rít. Tôi cầm lấy gói quà và mở ra, đó là gói mắm tôm khô trộn với thịt lợn. Món ăn thật ngon vì đã lâu lắm rồi hôm nay chúng tôi mới được thưởng thức.
Mải vui mừng phấn khởi khi gặp chúng tôi, chị Sáu Tiệm và chị Tư Lập mới nhớ ra chưa về nhà mình, hai chị vui vẻ chào tạm biệt. Vừa đi được một đoạn, chị Sáu còn ngoái cổ lại nói:
- Nhà chị đó các em, nhớ sang thăm nhé!
Lúc này nhìn kỹ vào hai chiếc thúng trên đôi quang của chị, có hai đứa nhỏ đang ngồi trong đó, còn lại một đứa lớn chạy lon ton theo sau.
Những ngày tiếp đó, khi đã quen biết thân thiện, tôi mới biết về hoàn cảnh gia đình của chị. Chị có ba cháu nhỏ, chồng bị bắt lính quân dịch. Anh rất hiền lành và chân chất, mộc mạc đặc trưng của người dân Nam Bộ. Tuy phải đi lính, nhưng chưa làm điều gì có hại cho cách mạng.
Sau này anh ngã bệnh chết, còn lại một mình chị phải gồng gánh nuôi ba đứa con. Cuộc sống quá nhiều gian nan vất vả, vừa phải kiếm sống cho mình và nuôi con, vừa phải thường xuyên liên tục chạy tránh bom đạn khi cuộc chiến đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên mảnh đất quê hương của mình. Nhưng chị vẫn tích cực tham gia cách mạng bất chấp mọi hiểm nguy cùng với mọi người vận chuyển hàng tấn vũ khí lương thực, thực phẩm cho bộ đội ta trong lòng địch. 

12-5-1972
Trời còn chưa sáng rõ, má Hai Quân và những người dân nơi đây lại trở về vùng địch hậu, nơi đó ban ngày hầu như không có bom đạn. Giờ đây, trong ấp chỉ còn lại anh em đồng đội chúng tôi.
Khoảng 7 giờ 30, một tốp lính nguỵ đã xuất hiện ở đầu ấp An Thuận, cả đại đội tôi được báo động khẩn cấp.
Từ bờ tre nhà má Hai Quân nhìn ra, tôi thấy cả một đại đội địch, đầu đội mũ sắt vai mang ba lô tay cầm súng AR 15, quanh thắt lưng giắt đầy lựu đạn và bình tông đựng nước. Có người còn khoác thêm trên vai một khẩu súng M72 chống tăng, hay một khẩu cối cá nhân M79. Chúng đi theo đội hình hai hàng dọc, thẳng tiến về hướng chúng tôi, nhưng hơi chếch sang tay phải.
Đại đội tôi đã triển khai chiến đấu, đợi cho đối phương tiến vào cách tổ tiền tiêu độ khoảng 10 mét, tất cả chúng tôi đồng loạt nổ súng. Quân địch bị bất ngờ bỏ chạy toán loạn lùi về phía sau, một số nấp vội ở các bờ ruộng nổ súng chống trả quyết liệt.
Một cuộc đấu súng tập thể giữa hai bên rất căng thẳng kéo dài, lợi dụng những bờ đất cao, chúng tranh thủ vận chuyển những người lính đã chết và bị thương lùi về phía sau. Rồi tiếng súng hai bên thưa dần cho đến khoảng gần 10 giờ thì ngừng hẳn.
Tôi biết phía bên kia bờ ruộng trước mặt có một người lính bị thương nặng. Khi tiếng súng của hai bên đang còn nổ giòn giã, tiếng la của người lính đó vang lên:
- Má ơi, con chết mất thôi, con bị thương rồi...
Nghe tiếng kêu la não ruột của người lính Sài Gòn bị thương, lòng tôi bỗng dưng thắt quặn lại. Thương cảm cho một kiếp người, thương cảm cho tôi, cho đồng đội tôi và tất cả những người đang còn tham gia chiến trận, nếu cũng rơi vào trường hợp như vậy. Người lính đó với chúng tôi chưa một lần gặp mặt, chưa một lần quen biết. Thế mà...
Lúc này bọn địch còn lại đã rút ra ngoài xa và đang bắn vào xối xả, tuy không căng lắm nhưng vẫn còn nguy hiểm, nên tôi không thể ra bắt người lính kia vào được. Sau đó chỉ một lúc, cả phi đội máy bay A37 gồm ba chiếc lao đến tới tấp dội bom vào đội hình đơn vị chúng tôi đang chốt giữ.
4 giờ 30 chiều, khi bọn địch dưới mặt đất và trên không hoàn toàn rút hẳn, tôi lao mình ra nơi người lính Sài Gòn bị thương để bắt sống. Nhưng khi vừa nhảy được sang bên kia bờ ruộng, thì thấy anh ta đã nằm chết cong queo từ lúc nào. Tôi lục túi áo lấy giấy tờ ra xem được biết tên là Võ Văn Ba, quê ở Cần Thơ.  Rồi vội vàng nhặt khẩu súng tiểu liên AR15 và khẩu súng cối cá nhân M79 cùng với 30 viên đạn đem về nộp ban chỉ huy.
Trong trận này, anh Thêm đại đội trưởng và một số cán bộ tiểu đội trưởng, chiến sĩ ở các trung đội bị thương. Vậy giờ đây trong ban chỉ huy đại đội tôi còn lại một mình anh Lê Xuân Hưu, chính trị viên trưởng chỉ huy đơn vị. Quân số đại đội lại cứ giảm dần theo ngày tháng.
Hoàng hôn vừa xuống, các mẹ, các chị, các em trong ấp trên vai gồng gánh, tay xách nách mang rồng rắn quay trở về nhà. Vừa đến đầu ngõ mọi người đã la lên:
- Các con, các em có bình an không? Có đứa nào làm sao không vậy?
Khi tôi vừa từ trong ngõ ló đầu ra để đón mọi người trở về, chị Sáu Tiệm reo lên:
- Ơ cái thằng Minh giỏi thiệt, nó vẫn lành lặn nguyên vẹn đây nè! Anh em mình có bị sao không em?
- Chúng em đều bình an cả, má và các chị biết không, có một lính địch tên là Võ Văn Ba quê ở Cần Thơ nằm chết ở cạnh bờ ruộng kia kìa, chị và mọi người báo cho gia đình người lính đó để họ biết. - Tôi trả lời.
Mọi người ồ lên, chị Sáu nói:
- Sáng nay các em đánh giỏi quá! Buổi chiều khi chúng rút về có mang theo nhiều thương binh và lính chết. Nhưng mà ở ngoài nhìn vào trong ấp, thấy máy bay nó ném bom xuống nơi các em dữ quá, chị và mọi người đã khóc rất nhiều.
Quà các chị mang về cho chúng tôi hôm nay rất nhiều thứ, những bịch đường, hộp sữa, có cả những bao thuốc Con Mèo và một vài chai rượu đế nữa.
Phải thương yêu chúng tôi lắm, các chị mới dũng cảm hy sinh tính mạng mình, để mang những thứ cấm nghiêm ngặt được gọi là "Tiếp tế cho cộng sản" trước sự kiểm tra gắt gao của quân thù.
Là những người con miền Bắc chiến đấu xa nhà, rất cảm ơn và luôn ghi nhớ những tình cảm cao quý của các má, các chị… trên mảnh đất Long An đã dành cho chúng tôi trong những ngày khó khăn, gian khổ ác liệt ấy.   
         
13-5-1974
Hôm nay được một ngày yên bình, vì gần 5 giờ chiều rồi vẫn không thấy tên nào mò đến. Tôi vội vàng rủ anh Huyên y tá sang nhà chị Sáu Tiệm bắt gà. Khi ý kiến này vừa được đưa ra, anh Huyên không một chút đắn đo, nhanh chóng chấp nhận ngay.
 Đến nơi, chúng tôi thấy đàn gà quá nhiều, con nào cũng lớn cả. Hai anh em nhanh chóng lùa chúng chạy dồn vào góc công sự xây bằng những bao cát chất đầy bọc quanh nhà để dễ dàng bắt.
Độ khoảng 10 phút sau, chúng tôi đã bắt được ba bốn con. Bất chợt tôi nghe thấy tiếng kẽo kẹt của ai đó gồng gánh vang lên từ ngoài con đường vào cổng nhà. Tôi vội quay đầu nhìn ra đầu ngõ đã thấy chị Sáu đang gồng gánh đồ đạc trở về, nên vội vàng kêu lên khe khẽ:
- Anh Huyên ơi, chị Sáu về kia kìa!
Anh Huyên lúng túng la lên:
- Bây giờ xử lý thế nào đây Minh ơi!
Tôi sợ quá, lần này đi ăn trộm bị bắt quả tang. Đây lại là nhà cơ sở cách mạng đang giúp đỡ chúng tôi, thế mới chết chứ. Liếc mắt sang công sự có bao cát bên cạnh, tôi chỉ kịp nói vội:
- Anh đổ cát trong bao ra ngoài, rồi cho gà vào đó. Em ra cổng để chặn chị Sáu lại.
Vừa mới ló đầu ra đến cổng, tôi đã gặp ngay chị đang kĩu kịt gồng gánh trên vai bước vào.
- Em chào chị Sáu, sao hôm nay chị về sớm vậy?
- Hôm nay chị thấy địch không đi càn và máy bay không ném bom, nên chị vội về sớm xem các em có cần gì không?
Vừa lúc đó anh Huyên khoác sau lưng một bao cát căng đầy, từ sau sân nhà đi ra ngoài miệng tươi cười chào chị Sáu. Nhìn thấy phía ngoài túi cát máu gà đã thấm ướt đỏ từng mảng nhỏ, mặt tôi tái ngắt sợ chị phát hiện ra điều này.
Chị vẫn để nguyên quang gánh trên vai đứng nói chuyện rồi mời chúng tôi vào nhà tiếp, tôi từ chối và hẹn vào dịp khác (mục đích nhanh chóng rút ngay). Trong khi đó anh Huyên không hiểu ý còn quay lưng sang chị nói chuyện với tôi. Thật là tai hại, tôi vội đi vòng sau lưng anh Huyên để che mắt chị, đồng thời lấy cùi tay thúc nhẹ vào anh với ngầm ý nhắc nhở, phải nhanh chóng rút về.
Mọi việc rồi cũng trôi qua, nhưng vừa thoát ra khỏi nhà chị, hai anh em nhìn nhau thật hú vía và thở phào nhẹ nhõm (thực ra lúc đó chị đã biết điều gì xảy ra, nhưng vẫn không quát mắng, mà vẫn vui vẻ cho chúng tôi những con gà vừa mất).
Cũng trong thời điểm đó, Ban chỉ huy đại đội được cấp trên bổ sung anh Lê Quảng Ba về đảm nhiệm chức chính trị viên phó đại đội, và anh Trần Quang Đăng từ tuyến sau trở về.
14-5-1972
Thêm một ngày bình yên nữa. Khoảng 5 giờ chiều, chị Sáu đã trở về, tôi sang nhà chơi, nhìn thấy đàn gà vắng đi khá nhiều, chị bảo:
- Minh ơi! Em ở lại trông nhà, vậy bây giờ đàn gà của chị đâu hết rồi?
Tôi giật mình xấu hổ, lúng túng, nhưng rồi chống chế ngay:
- Chắc lại lính Sài Gòn vào càn và bắt gà của chị rồi đó.
- Lại là lính bộ đội chứ gì? - Chị đáp lại, rồi cười xoà như không có chuyện gì xảy ra.
Còn tôi cảm thấy rất ân hận về những việc làm bồng bột của mình với chị Sáu và người dân Long An luôn một lòng chung thủy với cách mạng.
Logged
Vo Minh
Thành viên
*
Bài viết: 35


« Trả lời #19 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2011, 02:48:25 pm »

15-5-1972
Khoảng 3 giờ đêm, cả đại đội tôi xuất phát hành quân đến ngã ba Lộc Giang (ngã ba này thuộc huyện Đức Hoà nơi giao nhau của con đường đi đến Trảng Bàng, Tây Ninh, sông Vàm Cỏ và thị xã Hậu Nghĩa).
Khi đến bãi đất hoang có nhiều bụi cây lúp xúp, cách những dãy nhà đầu tiên ở ngã ba khoảng 300 mét thì cả đơn vị dừng lại. Tôi được anh Hưu giao nhiệm vụ tiến nhập vào ngã ba trinh sát, kiểm tra khả năng hoạt động của địch ở đấy.
Vừa vượt qua khoảng đất trống của thửa ruộng, bất ngờ tôi nằm trong tầm đạn H12 (Cachiusa) của quân ta bắn, tiếng hút, hút, hút... liên tiếp trên đầu, và cũng ngay sau đó là tiếng oàng, oàng, oàng,... ở phía trước sát cạnh tôi. Để tránh bị sát thương, tôi lăn mình vào con rãnh nhỏ.
Rất tiếc cho những viên đạn của ta đã bắn không trúng mục tiêu. Giá như nâng tầm bắn cách xa phía trước tôi độ hơn hai trăm mét nữa thì trúng vào giữa bốt địch rồi. Nếu được vậy thì hiệu quả biết bao.
Trong trận đánh bốt ở ngã ba Lộc Giang này, chúng tôi được thông báo trước: Có lực lượng pháo binh hỗ trợ, theo như hợp đồng, sau ba loạt đạn của pháo của ta bắn ra, bộ binh chúng tôi sẽ tiền nhập áp sát đồn địch.
Tôi nằm đợi đúng lúc ba loạt đạn vừa dừng, vội vàng vùng dậy xông thẳng vào các dãy nhà ngã ba Lộc Giang. ở phía sau, bộ đội cũng đang vận động tiến quân vào.
Một mình lọt thỏm vào hai dãy phố bên đường. Tất cả đều im lặng vắng tanh, không một bóng người. Tôi khom người vượt qua những dãy nhà đó. Phía trước có một nhà khác biệt lạ thường bởi màu sắc đỏ tươi xen lẫn có màu vàng óng ánh. Khi vừa đến gần, tôi mới phát hiện ra, đấy là một nhà chất đầy quan tài màu đỏ có những viền vàng xung quanh.,
Không gian trong phố tĩnh lặng, lành lạnh, u buồn nặng nề và chết chóc. Tôi hoảng sợ rùng mình sởn gai ốc, vội vàng lùi lại đi sang ngõ khác và gặp được anh Trần Dôn xạ thủ B40 ở phía sau vừa tới.
Nhìn sang dãy nhà ở gần ngã ba, tôi thấy trên nóc nhà có nhiều cột ăng ten mọc lên tua tủa. Phía dưới chân tường xám có một ô đen đen. Tôi đoán đây là nhà thông tin của địch, nên vội chỉ ngay cho anh Dôn mục tiêu, để bắn vào cửa sổ lô cốt đen đen ở dưới.
Rất nhanh, anh Dôn quỳ ngay xuống, vác khẩu B40 trên vai hướng nòng súng về hướng đó bóp cò: "ùm, oàng", một vùng lửa bùng lên ở ngôi nhà trước mặt, đất đá vôi vữa bắn ra tung toé  khói đen  bay mù mịt. Sau tiếng nổ đó một lúc, vẫn không thấy địch ở trong đấy phản ứng, động tĩnh gì. Hai anh em mạnh dạn tiến lên kiểm tra mới biết đã bắn nhầm vào nhà dân.
Cái ô đen đen mà ở xa trong sương mờ mờ, tôi nhìn nhầm là lỗ lô cốt, đó chính là viên đá đen nằm lẻ loi trong những viên đá màu xám để xây chân tường nhà. Những cột ăngten trên nóc nhà là của tivi (vì thời kỳ đó chúng tôi chưa được biết tivi là gì?). Hai chúng tôi rất ân hận về sự việc đã xảy ra, do sự quan sát không kỹ càng của mình. Mong sao người dân hãy tha thứ cho chúng tôi về sự nhầm lẫn này.
Cả đại đội tôi triển khai đội hình ở phía sau dãy nhà dân dọc theo con phố cách đồn địch độ 80 mét qua bãi đất trống. Hoả lực ở trong bốt bắn ra rất mạnh hòng áp đảo chúng tôi. ở phía bên ngoài quan sát hoạt động của địch bên trong khá rõ.
Cứ thế, mỗi khi phát hiện được một mục tiêu mới, chúng tôi lại gửi một chùm đạn vào đấy. Bọn lính trong đồn hoảng loạn không biết chính xác vị trí của quân ta ở ngoài. Buộc phải co cụm lại, gọi pháo và máy bay đến ném bom chi viện.
Những trận mưa bom và đạn pháo lại đến với đại đội tôi, nhưng đều rơi ở phía sau. Bởi vì do chúng tôi đã tiếp cận gần sát với hàng rào của bốt địch. Chính vì thế quân số bị thương vong của đơn vị trong ngày hôm đó rất ít.
Tranh thủ những lúc im tiếng súng, tôi luồn lách qua các dãy nhà đi đến vị trí từng trung đội đang chiến đấu. Xem ra đến thời điểm này, cán bộ, chiến sĩ trong đại đội tôi đã dạn dày kinh nghiệm, điềm tĩnh, từng trải, khi tham gia chiến trận, không còn lúng túng ngỡ ngàng như những trận đầu.
Bọn địch trong đồn đã hoàn toàn bị chúng tôi khống chế nên chỉ co cụm trong những công sự vững chắc, thỉnh thoảng mới ló đầu ra ngoài, làm mồi cho những tay súng thiện xạ trong đại đội tôi tiêu diệt.
Các lô cốt, công sự ở trong đó đều xây bằng bao cát nhô lên cao ở trong bốt, đều lần lượt được nhận một hai quả đạn súng B40, B41 của chúng tôi gửi đến.
Nhìn về phía sâu trong đồn, tôi phát hiện nơi đó có một công sự đắp bằng bao cát thấp thấp, bọn địch đang điên cuồng bắn ra về phía đội hình trung đội 3. Chúng biết rằng: Với khoảng cách khá xa này, vượt qua tầm bắn khống chế của súng AK và B40, B41. Tôi báo cáo với chính trị viên trưởng Lê Xuân Hưu xin được điều cối 60 của tiểu đội hoả lực A10 đến.
Khi được tôi chỉ rõ mục tiêu, anh Truyền tiểu đội phó lên thay anh Thiết chỉ huy tiểu đội hoả lực A10, (lúc này anh Thiết đảm nhận chức trung đội trưởng chỉ huy trung đội 1) chỉ trong chớp nhoáng các anh trong khẩu đội cối đã xác định được cự ly, phương vị, góc độ súng, rồi bình tĩnh thả liên tiếp 3 quả đạn cối 60 vào nòng.
Từng tiếng "chóc, chóc, chóc" kế tiếp nhau phát ra ở đầu nòng súng cối. Chỉ trong phút chốc ở phía trước có 3 cột khói và đất cát bay lên, kèm theo 3 tiếng nổ "Oàng, oàng, oàng" rất to, bao quanh chụm vào những công sự quân địch đang còn cố thủ. Đến lúc này, ở phía trong bốt tiếng súng chống cự, phản công của quân địch yếu ớt, rời rạc, giảm dần kéo dài đến độ 5 giờ chiều thì tắt hẳn.
Đại đội tôi được lệnh trên truyền xuống: Nhanh chóng bàn giao cứ điểm vừa giành được cho đơn vị khác tiếp quản, thu chiến lợi phẩm và bắt giữ tù binh. Còn chúng tôi tiếp tục hành quân đi nhận mục tiêu khác.
Điểm lại quân số trong ngày, lại thêm 4 người nữa hy sinh. Đó là các anh: Bùi Xuân Đoành, quê ở Quỳnh Long (Quỳnh Lưu, Nghệ An); Lê Quang Sáng, quê ở Quỳnh Mỹ (Quỳnh Lưu, Nghệ An); Hoàng Minh Quang, quê ở Nghi Quang (Nghi Lộc, Nghệ An); Nguyễn Văn Ly, quê ở An Thuỷ (Lệ Thuỷ, Quảng Bình). Ngoài ra, còn có một số anh em khác bị thương.
Giờ đây cả đại đội tôi chỉ còn lại gần 30 người. Mới đây thôi, mọi người trong đơn vị còn vui đùa với nhau, còn chia sẻ cho nhau những món quà nhỏ mà các mẹ, các chị ở huyện Đức Hoà đã vượt qua nhiều chặng khám xét nghiêm ngặt, gắt gao của địch, nhưng vẫn che được mắt chúng mang về cho chúng tôi và cũng mới đây thôi, mọi người còn xung phong xông lên chia lửa cho nhau, khi quân địch phản công ác liệt. Thế mà giờ đây, các anh đã nằm lại đó để rồi ra đi mãi mãi, không còn cơ hội được trở về nơi quê nhà mà bao người thân còn đang ngóng trông, chờ đợi.
Những người còn lại không còn nước mắt để khóc vĩnh biệt các anh nữa. Bao đau thương, mất mát ngày càng chất nặng đầy trong lòng mỗi người. Trên đường hành quân  chúng tôi đã mang các anh đi theo, và an táng các anh yên nghỉ tại Gò Nổi thuộc xã An Ninh Tây, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An.
16-5-1972   
Chúng tôi lại trở về đóng quân tại gia đình má Hai Quân. Mấy ngày ở đây khá yên tĩnh, tôi tranh thủ đến thăm anh em các trung đội đóng quân ở những nhà xung quanh. Khi đến một gia đình gần nhà má Hai, tôi phát hiện có một đống sách truyện kiếm hiệp nằm dưới đất cạnh góc nhà.
Lúc đang còn hăm hở tìm cho mình một quyển truyện
để đọc, mới phát hiện ở trong đống sách đó có mấy quyển vở học sinh, hiện rõ nét chữ tròn trĩnh của một người con gái. Vì tò mò, tôi lật bìa quyển vở để xem, đây là vở Bài tập đại số có ghi rõ tên chủ nhân của nó là Lệ Thuỷ.
Cầm quyển vở trên tay, ký ức một thời học sinh lại ập về trong tôi. Ước gì: Chiến tranh tàn khốc này không xảy ra? Tin chắc giờ này mình đang ngồi nghe giảng hay đang làm bài tập trong một trường đại học nào đấy. Như một số ít bạn cùng lớp thời phổ thông, hiện đang là sinh viên các trường đại học, trung học ở miền Bắc hậu phương.
Còn tôi, thời gian nghỉ cầm bút đã hai năm rồi. Giờ đây trong từng giây, từng phút ngày đêm đang phải đối mặt với cái chết ở nơi chiến trường xa này. Mong ước sao, mình được trở về trường cầm bút để nối tiếp con đường của thời học sinh còn dang dở.
Tôi ngấu nghiến đọc những bài tập em đã giải. Có nhiều bài làm đúng, nhưng cũng có nhiều bài làm sai. Có những cái sai buồn cười, ngớ ngẩn. Giá như em chú ý một tý thì bài tập này đã có lời giải đúng rồi.
Tôi cố hình dung dáng người em như thế nào đây? Gầy, cao hay là mập, da trắng hay nước da ngăm nâu ? Chắc cô gái này có nước da trắng và không mập. Tôi cứ tiếc rằng: Nếu có em ở đây, tôi sẽ chỉ cho những lỗi thường gặp, những công thức để áp dụng cho việc giải bài tập.
Cách lập phương trình và tìm nghiệm của nó, bao nhiêu thứ có thể em đã quên và có thể chưa biết. Nhưng cuộc chiến đang hiện diện trên mảnh đất quê hương mình. Biết đâu em cũng tạm dừng bút như anh.
Cho đến bây giờ, sau 35 năm,
tôi vẫn chưa hề biết mặt em gái đó.

18-5-1972   
Vào khoảng 3 giờ sáng cả đại đội tôi có mặt ở ấp Tân Phú, cứ ngỡ hôm nay có một niềm vui đặc biệt. Đó là tiểu đoàn bổ sung cho đơn vị thêm 4 chiến sĩ tân binh. Thời gian gấp rút không cho phép chúng tôi làm các thủ tục tiếp nhận anh em, cán bộ quân lực tiểu đoàn chỉ giao quân bằng miệng:
- Giao cho đại đội 3 bốn chiến sĩ gồm Dương, Hoàn, Thắng, Tiến. Tiểu đoàn sẽ bàn giao danh sách họ tên về các chiến sĩ cho đơn vị sau.
Do trời đã sắp sáng, quân địch chuẩn bị tấn công vào nơi chúng tôi đang đóng quân, nên Ban chỉ huy đại đội cũng bàn giao các chiến sĩ này về các trung đội, chỉ trực tiếp bằng miệng, mà không có một văn bản giấy tờ nào.
Khoảng 6 giờ 30 phút trời vừa hửng sáng, sương còn mờ mờ chưa tan hết, hơn một đại đội lính Sài Gòn đã kéo đến trận địa nơi chúng tôi đang triển khai đợi sẵn. Khi tốp lính đi đầu cách chốt tiền tiêu độ 10 đến 15 mét, thì cả đơn vị đồng loạt nổ súng. Bọn địch đi đầu đổ gục xuống, đứa chết, đứa bị thương la hét inh ỏi. Những tên còn sống sót quay đầu tháo chạy.
Một cuộc đấu súng ác liệt giữa hai bên bắt đầu diễn ra. Tiếng đạn nổ nghe rào rào pha lẫn tiếng oàng oàng của đạn cối và DKZ của ta và của địch. Những tiếng nổ đó kéo dài khoảng 30 phút thì lặng dần.
Ta vẫn chốt trong những công sự vừa xây dựng để bắn ra ngoài. Còn quân địch đã lùi về phía sau khá xa với chúng tôi. Tranh thủ khoảng thời gian yên lặng hiếm hoi đó, các trung đội báo cáo về ban chỉ huy đại đội về tình hình chiến đấu của bộ đội và quân số thương vong.
Một tin buồn lại đến với chúng tôi. Đợt nổ súng đầu tiên, đại đội tôi có 3 người hy sinh và 2 người bị thương. Đáng buồn nhất có hai tân binh vừa mới bổ sung về, trong đơn vị chưa ai kịp biết rõ tên từng người. Nên giờ đây không thể nào biết tên ai là Dương, ai là Hoàn được?
Các bạn trước lúc hy sinh cũng chưa kịp làm quen với đồng đội đang chiến đấu ở bên cạnh mình. Chưa kịp biết rõ tên ai là người chỉ huy và đơn vị nữa, dù rằng cả đơn vị quân số không còn đông như trước, lúc này chỉ còn hơn hai mươi người nữa thôi.
Dương, Hoàn ơi hãy tha thứ cho chúng tôi nhé. Chúng ta chưa kịp làm quen, các bạn đã nằm lại trên mảnh đất này rồi!
9 giờ 30 phút sáng, địch lại ồ ạt tiến quân vào. Trước lúc vào sát vị trí công sự chúng tôi, chúng bắn tới tấp những viên đạn cay. Khói trắng lan toả cả khu vực đội hình chiến đấu của đại đội, ai nấy đều ho sù sụ, da mặt, chân tay bỏng rát như xoa ớt cay tươi vào da, mắt mũi cay xè.
Mọi người lùi sâu vào trong hầm để tránh làn khói đó. Những bình tông nước được huy động đổ vào tà áo để chụp vào mặt mũi mình chống cay. Một quả pháo cay bất ngờ rơi vào giao thông hào trước cửa hầm ban chỉ huy xè xè phun khói.
Biết rằng tiếp cận đến quả pháo này rất nguy, có thể bị gục ngay do ngạt thở, nhưng không thể nhìn nó phun khói trắng ngày càng nhiều vào cửa hầm của mình được, tôi nheo mắt và lấy một tay bịt miệng lại, lao người ra cầm ném quả pháo đang xì khói nghi ngút đó ra xa.
Khi quay về hầm, tôi tưởng như mình đã tắc thở và ho sù sụ, nước trong bình tông hết nhẵn. Trong cơn nguy cấp, anh Hưu
hét lên:
- Em hãy cố mà đái nhanh ra vào hai tà áo rồi ấp ngay
vào mặt.
Tôi càng rặn lại càng không ra được giọt nào. Thật đáng ghét, lúc cần đái lại không đái được, những lúc đang còn ngon giấc ngủ lại dựng mình dậy để đái. Cứ cố gắng mãi cuối cùng hai tà áo của tôi cũng thấm ướt được một ít. Lúc này da thịt tôi bỏng rát sưng đỏ như bị dị ứng mề đay.
Làn khói trắng dần tan, tôi ló đầu lên cửa hầm nhìn ra phía trước và sửng sốt giật mình, khi thấy tốp lính Sài Gòn người nào người nấy đeo mặt nạ phòng độc nhìn như Trư Bát Giới trong phim Tôn Ngộ Không, tay cầm súng lăm lăm. Trong khi đó phía chúng tôi vẫn im lặng, bộ đội đang ẩn nấp sâu vào trong công sự để tránh thứ khói độc đó.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM