Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 10:11:49 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sống Mãi Với Thủ Đô - Nguyễn Huy Tưởng  (Đọc 42363 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:42:09 pm »

Nguồn: vnthuquan.net

Chương 1

Cái toa cuối cùng của chuyến tàu Bắc đã len ra khỏi hàng rào địa phận nhà ga. Trần Văn nhìn theo cái khung vuông đen sẫm lại, nhoà đi. Chuyến tàu chở người mẹ bé nhỏ của anh về quê thế là đã rời Hà Nội. Trong lòng người con chưa hề xa mẹ lâu bao giờ có một sự trống rỗng đau đớn. Mấy ngày sắp chia tay, bà cụ lại đau mắt, ngụt ngoạt luôn, lúc nào cũng như khóc. Trong lúc hối hả thu xếp cho mẹ tản cư, anh quên khuấy không mua cho mẹ mấy lọ thuốc nhỏ mắt. Anh bứt rứt, môi mím lại, nước mắt rưng rưng. Anh bước về phía ga, nhưng rồi lại ngoảnh lại nhìn cái khoảng trống im lặng của hàng rào còn mù sương. Con tàu bây giờ đang chạy trên cái cầu cổng đục. Trong cái toa chật lèn như nêm cối, người mẹ với cái tay nải cũ, như lại trở về cái thời bán vải ngày xưa. Tai anh còn văng vẳng lời nói cuối cùng của mẹ: “Chú về nhớ. Vài hôm nữa yên hàn rồi đẻ lại ra”. Vài hôm nữa yên hàn? Mấy hôm nay, người Hà Nội tản cư rầm rập. Từ giã nhau, ai cũng nói cái câu đầu lưỡi ấy như để tin với nhau rằng những ý nghĩ tốt có thể chuyển dữ thành lành. Nhưng trong linh tính. Trần Văn thấy đây không phải là một cuộc chia tay trong dăm bữa nửa tháng. Giữa buổi tiễn đưa này và ngày gặp lại, có một cái gì mù mịt, xa lăng lắc, đầy những tai biến khôn lường. Anh càng thương mẹ, trong cái thương có lẫn nhiều cảm phục. Anh biết trong thâm tâm, bà cụ muốn anh cùng về quê. Chẳng có người mẹ nào muốn cho con chịu những thảm hoạ của chiến tranh. Nhưng bà cụ không ngăn anh vào tự vệ, và khi anh nói phải ở lại để chống giữ Thủ đô, mẹ chỉ dặn: “Cẩn thận đấy, chú ạ. Nhờ giời, Cụ Hồ điều đình được không phải đánh nhau thì là phúc nhất”. Ở đây, có cả cái tình của người mẹ chịu đựng chiều con, cả tấm lòng của một bà mẹ thấy việc con làm là phải và biết rằng nguy hiểm vẫn cứ phải để con làm. Mẹ đi rồi, Trần Văn có cảm tưởng như đẩy mẹ vào một cuộc sống phiêu lưu. Gần đây, những tin tức về đồng bào tản cư không lấy gì làm tốt đẹp lắm. Đã có vài vụ cướp bọc dọc đường. Nhiều người tiền lưng hết lại phải lộn ra. Báo Cứu quốc đã đăng nhiều bài nói về việc tổ chức làm ăn lâu dài cho bà con tản cư để có thể trường kì kháng chiến. Mẹ anh, chân yếu tay mềm, sẽ làm gì mà sinh sống. Nhưng gay go nhất vẫn là vấn đề chiến tranh. Nếu nổ ra ở Thủ đô thì tức khắc nó lan rộng ra toàn quốc. Bắc Ninh, quê mẹ, toàn đồng ruộng, mẹ sẽ chạy đi đâu. Ai sẽ giúp đỡ mẹ? Anh thầm trách Liêm, trong lúc này, không hề có một bức thư. Anh càng ghét người anh ruột. Hồi thuộc Pháp, Liêm làm tri huyện. Sau tổng khởi nghĩa, Liêm về ở cái đồn điền của bố mẹ vợ ở Phúc Yên, luôn mồm chửi cách mạng. Mẹ không bao giờ ở với Liêm quá hai ngày. Mẹ thường nói Liêm đủ phú quý rồi, không phải lo cho nữa. Sự thật, mẹ không ở được với con cả vì vợ Liêm hợm của khinh mẹ chồng. Trần Văn không những ghét anh mà còn khinh nữa. Liêm học gạo, đào mỏ, đút lót để thi đỗ. Từ khi làm quan, Liêm chỉ nói những chuyện cụ Hoàng, cụ Vi, cụ Hà, mua đồn điền này, tậu nhà nhọ. Khó chịu hơn cả là thỉnh thoảng hai anh em gặp nhau, Liêm thường tỏ vẻ thương hại em lẽo đẽo theo cái nghề dạy học tư bội bạc. Mặc dầu ghét anh, nhưng trong lúc bối rối Trần Văn cũng có bàn với mẹ hay là hẵng tạm về Phúc Yên. Ít ra mẹ còn có người để nương tựa. Mẹ lưỡng lự mãi, cuối cùng nói: “Thôi, tao về Bắc. Tao có mấy mẫu các cụ để lại, tao chẳng phải nhờ vả vợ chồng nó”.

Chuyến tàu Phòng đầy ăm ắp người cũng sắp chạy. Tiếng còi rú một hồi dài thất thanh. Một cái đầu tàu đang phì phì chạy một mình dồn những toa còn đẫm sương đêm cho chuyến tàu Nam. Lấp loáng đèn xanh đèn đỏ. Sân ga Hàng Cỏ đông một cách khác thường, hơn cả những giáp Tết. Gió lạnh lùa dọc theo cái nhà cầu cao rộng. Trong buổi sáng mờ mờ, những đường ray rộng bát ngát vì không có nhiều toa che lấp như mọi khi. Phu khuân vác chạy tới tấp. Những chiếc xe sắt chở hàng lộc cộc trên nền gach, nhấp nhô trong cái khoảng nửa tối nửa sáng. Giữa nhà cầu và ở hai bên, người đứng ngồi đen đặc. Hàng hoá phần lớn là những va li, hòm xiểng, khác với ngày thường toàn là những gồng gánh, thúng mủng, bồ con bồ lớn, lồng gà rọ lợn của những người buôn xuôi bán ngược. Không có những tiếng nói ồn ào. Chỉ có nhưng tiếng to nhỏ, thiết tha, những lời căn dặn thủ thỉ, những tiếng gọi nhau lo lắng, mệt mỏi:

- Lại đây khéo lạc đấy, con.

- Về đến nhà, mợ viết thư ngay cho ngoài này con khỏi lo.

- Đừng có đi đâu nhé. Mũ đỏ nó cán chết người ở Hàng Bông đấy. Đừng có lên phố Tràng Tiền nữa. Gạo đấy, thức ăn đấy, cứ ở nhà con nhé.

- Nó vào cả hiệu khách ở bờ sông tống tiền.

- Nhớ đến hỏi cho bà cái món họ nhà bà phán Hàng Phèn cháu nhé.

- Lạy giời, lạy Phật sao cho tai qua nạn khỏi.

- Trăm sự trông vào Cụ Hồ.

- Tết nhất đến nơi rồi.

- Chẳng biết về quê có được ở lâu không. Toạ thực sơn băng cụ ạ.

- Thấy nói bà sắp cho cô Ngân đi ở riêng.

- Ngày mai, ngày lành tháng tốt, tôi định lo cho cháu. Tình hình này, nhà cụ đốc lại xin hoãn. Nát cả lòng cả ruột vì con…
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #1 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:44:00 pm »

Số đông hành khách là người già, phụ nữ và trẻ con. Không bóng một chàng phong lưu công tử, tay không bận hành lí, ung dung đi bách bộ trên ke. Mấy nhân viên nhà ga đứng trước phòng giấy buồn tênh nhìn khách, tay che miệng ngáp vặt. Một tốp ba người vệ quốc quân, đang đứng chỉ trỏ như nhằm nơi bố trí. Họ đã mặc cái áo bông trấn thủ với những đường may hình quả trám, phảng phất như bức tranh bộ đội cầm ngang cây súng dựng ở các vườn hoa trong tuần lễ vận động may quần áo mùa đông binh sĩ vừa qua. Cái kiểu ăn mặc mới và gọn ghẽ này, còn lạ mắt đối với người Hà Nội, cộng với vẻ nghiêm nghị của mấy anh bộ đội, đã gợi trong trí tưởng tượng của Trần Văn cái không khí của chiến sự rồi.

Trần Văn len lỏi trong đám đông để tới cái cổng ra vào. Chợt anh trông thấy bà hai Vịnh và Trinh đứng trước phòng dây nói của nhà ga. Chỗ này tương đối thưa người. Anh định lờ đi thẳng. Nhưng bà cụ đã hỏi anh:

- Cậu giáo ra ga có việc gì đấy?

Anh không niềm nở lắm:

- Thưa cụ, tôi ra ga để tiễn đẻ tôi về Bắc.

Trinh khẽ gật đầu chào anh. Trần Văn ngạc nhiên. Từ mùa xuân năm kia, khi mối tình tan vỡ, thì họ đã như
hai người xa lạ. Đôi khi gặp Trình ngồi ô tô nhà, hoặc với chồng hoặc một mình, Trần Văn quay ngoắt mặt đi, thường thường làm ra kẻ khinh khỉnh không để ý. Trinh thì ngồi sâu trong xe và nhìn thẳng. Trần Văn rất giận Trinh, nhưng lắm lúc anh lại thương hại. Trinh chỉ là một người đàn bà tầm thường như mọi người đàn bà tầm thường khác, ham danh ham giá, khoe khoang và ích kỉ. Thực tình thì họ cũng chẳng đang trách, vì sống trong một xã hội còn nặng nề về ngôi thứ, phần lớn người đàn bà Việt Nam lấy chồng, không phải vì giá trị thật của người ấy, mà vì cái bề ngoại địa vị nhiều hơn. Những đầu óc vụ lợi, đầy tính toán ấy làm sao có thể vươn tới những mối tình cao cả, bừng cháy, thiêu mình?

Cái vẻ đẹp và cái sang trọng cả Trinh bật nổi lên giữa đám đông người tản cư sầm tối. Lúc này, chẳng ai nghĩ đến ăn mặc. Người ta cảm thấy cái sang cái diện thật là chướng mắt đối với những người đang chuẩn bị đánh giặc, sống chết chẳng biết thế nào. Thực ra thì Trinh chỉ mặc một chiếc áo len dài màu đen, mặt xoa phấn nhẹ, đầu quàng một cái khăn mỏng màu hoa cà. Nhưng Trinh thuộc cái loại phụ nữ biết mình có dáng người làm tôn y phục nên ít dùng những trang sức giả tạo. Chính vì thế mà Trinh toát ra một thứ lịch sự tự nhiên khiến mọi người chú ý. Trần Văn lấy làm lạ thấy Trinh gần như không thay đổi gì, mặc dầu anh biết Trinh mới đẻ năm sáu tháng nay. Đứng nép sau người mẹ già, Trinh vẫn chỉ là cô gái nhỏ bé, ngoan ngoãn, nề nếp như hồi nào. Người con gái đi với mẹ là hình ảnh Trần Văn ưa thích. Trinh không dám nhìn anh, và anh cũng không nhìn Trinh. Nhưng thỉnh thoảng anh thấy lấp lánh sau lưng người mẹ, đôi măt quen quen, đôi măt to đen, tuyệt đẹp làm cho người ta quên những nhược điểm của cái trán hơi thấp, trên khuôn mặt trái xoan hơi gầy.

Trần Văn còn đang lưỡng lự không biết nên đi hay đứng lại thì bà cụ nói:

- Tôi về Nam đây, cậu ạ. Hoài của, cụ nhà đi chuyến tàu Bắc vừa rồi mà tôi không biết. Chẳng biết bao giờ
mới được gặp cụ. Liệu có gì không?

Anh nói:

- Tôi cũng không biết thế nào. Nhưng các cụ tản cư là phải.

Anh định hỏi Trinh có về với bà cụ không, nhưng xem cung cách thì biết Trinh chỉ ra ga tiễn mẹ, anh lại
thôi.

Bà cụ vẫy anh lại gần, lấm lét thì thầm, như nói một việc rất quan trọng:

- Cậu có vào tự vệ không?

- Đó là nhiệm vụ của mọi người thanh niên trong lúc này.

Trần Văn khó chịu về câu hỏi dớ dẩn của bà cụ. Bỗng Trinh hỏi mẹ:

- Tự vệ phải đánh nhau, sao các anh ấy thích vào mợ nhỉ?

Trần Văn cau mặt. Trinh không những tỏ ra thờ o với thời cục mà còn ngu nữa. Hồi yêu Trinh, anh tưởng
Trinh thông minh, có ngờ đâu Trinh lại thảm đến thế này. Anh buồn cho Trinh. Cái mã ngoài sang trọng, thượng lưu thật ra chỉ để giấu một đời sống nghèo nàn, một tâm hồn đớn hèn. Anh liên tưởng nghĩ đến Bao, chồng Trinh. Một kĩ sư điện trẻ tuổi, nhà giàu, đi làm công cho Pháp, thế thôi. Bao cũng tầm thường như khá đông trí thức du học. Trở về nước, ông cử, ông nghè cuối cùng cũng chỉ thành mấy anh bác sĩ kiếm tiền, mấy anh trạng sư bẻm mép, chẳng có một tìm tòi, phát minh, sáng chế nào, chẳng băn khoăn gì về vận mạng Tổ quốc, về con người, về thời đại. Xã hội Việt Nam thường liệt họ vào hàng đại trí thức. Trần Văn cười thầm: trí thức không thể đánh giá theo bằng cấp. Nghĩ như thế, anh chợt bĩu môi. Ngán ngẫm và bực bội, anh chào bà Hai và Trinh, viện cớ là có việc gấp, rẽ đám đông ra khỏi ke.

Con đường Nam Bộ nằm ngang trước ga sao mà rộng vắng. Đại lộ Trần Hưng Đạo chạy dọc trước mắt hiu quạnh như trong canh khuya. Lá cây phủ kín lề đường không ai quét. Không có một dấu hiệu gì của sự sống. Trên nền trời xám ngoét, một con diều hâu bay lừ đừ như đứng nguyên một chỗ.

Một đám thanh niên mặc tây đi xích-lô từ phía hàng Hàng Lọng tới. Họ vội vã, hấp tấp, hốt hoảng. Họ cuống cuồng bước lên thềm, chạy vào ga lấy vé, mặt tái nhợt, hơi thở dốc ra. Trông thấy Trần Văn họ bẽn lẽn, xấu hổ, người cúi mặt xuống, người ngoảnh mặt đi. Trần Văn cười trong bụng. Chắc chắn họ cũng cùng một loại với mấy anh thanh niên theo gia đình đi tản cư mà anh gặp lúc nãy ở ngoài ke, các chàng phải giấu mặt đi để đồng bào khỏi trông thấy và xỉ vả là đồ hèn nhát.

Giữa cái nhục và cái hiên ngang ở lại Thủ đô, Trần Văn chọn cái thứ hai. Anh cảm thấy người anh nhẹ nhàng. Anh không phải bịn rịn vì mẹ nữa. Anh mừng thầm mẹ đã đi khỏi nơi nguy hiểm. Còn vợ con thì anh hoàn toàn không bị ràng buộc. Anh tự an ủi: “Nếu lấy Trinh thì bây giờ lúng túng đến chết. Càng may”. Anh hối hận đã quá nóng nảy với Trinh lúc nãy. Anh nghĩ: “Còn thù oán làm gì”. Tiếng còi của chuyến tàu Phòng rúc dài lưu luyến. Trần Văn quay lại như để chào những người Hà Nội ra đi. Anh xuống thềm, đi trên phố Hàng Lọng. Anh thấy mình thật lạ lùng, và tự hỏi sao mình lại trở về cái nơi mà mọi người phải chạy? Để chuốc lấy cái gì nếu không phải là một cuộc sống gian khổ và cái chết tất nhiên?
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #2 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:45:17 pm »

Chương 2

Trần Văn tới trước cổng trường, lòng anh se lại. Anh biết có một số học sinh nhớ lớp thỉnh thoảng lại đạp về thăm. Anh tới để gặp họ và để bảo ai không có việc gì thì nên đi ngay, ai muốn ở lại thì nên sung vào tự vệ. Nhanh thể để từ biệt cái nhà trường mà có lẽ không bao giờ anh còn tới dạy nữa. Trong đời dạy học tư của anh, trường này anh vừa ý nhất. Trường của đoàn thể, dạy theo một phương pháp mới, khác hẳn cái lối dạy hồi thuộc Pháp chỉ đẻ ra thêm một lũ nô lệ, đầu sai. Ông giám đốc, một nhà trí thức cách mạng, đã đến tận nhà anh mời anh dạy sử. Đối với nhà trường, anh có một cái ơn tri ngộ. Anh đã được giảng sử nước nhà bằng tiếng Việt Nam, một cách đường hoàng, không phải dè dặt, quanh co. Cách mạng Tháng Tám đã mở cho anh một cuộc đời mới. Anh đang phấn khởi thì tình hình chính trị bắt buộc nhà trường phải đóng cửa. Các bạn giáo sư đã đi cả rồi, học sinh thì tan tác mỗi người một ngả.

Cổng trường vắng ngắt. Cái bảng tên trường còn mới nguyên. Cách đây mươi hôm thôi, học sinh còn đến trường ríu rít như đàn chim. Trần Văn thấy nhớ cả những người chẳng có quan hệ gì với anh, nhưng đã làm nhộn nhịp cổng trường. Không biết họ đi đâu cả rồi, cái bà bún chả thơm lừng, cái anh bánh mì ba-tê chột mắt, cái cô sấu giầm kháu khỉnh, cái bà hàng quýt và hạt dẻ, cả cái anh chàng thuốc cao liến thoắng, biết võ Sơn Đông, thoắt tới thoắt đi như một khách giang hồ.

Đường Hàng Đẫy. Người vào thành phố thì ít, phần nhiều là người lớn, dáng đi vội vã. Người kéo ra ngoại ô thì nhiều, số đông là đàn bà, con trẻ, ngồi lặc lè trên những xích-lô, lút trong cái mớ hỗn độn bọc to, bọc nhỏ. Một chiếc cam-nhông chất đầy những chồng giấy chạy chồm chồm, theo sau là một cái xe khác chở những bộ phận của máy in. Ba chiếc xe bò lộc cộc nối nhau qua, cái chở những đồ thờ lóng lánh sơn vàng, cái chở những tủ sập gụ, tràng kỉ, lộ bộ, cái chở những đồ đồng, đồ sứ bọc kín, nhưng vẫn để lộ hình dáng bộ tam đa, con hạc chầu, tấm gương đồ sộ… Chuyến xe điện đi Hà Đông rít bánh trên đường ray, cũng chật ních người, ầm ầm chạy qua cổng trường. Một thanh niên mặc tây, đứng ở toa cuối cùng, đăm đăm nhìn vào trong phố. Người con gái lộng lẫy ở cái biệt thự đối diện với nhà trường, vẹo người nhăn mặt, xách một cái va-li không nặng lắm ra ô tô nhà đậu bên hè. Chị ta đánh rơi cái va-li, đưa bàn tay nhỏ lên ngắm và xuýt xoa, và giật mình kiểu cách nhìn một nhạc sĩ ôm một cây ghi-ta lom khom đi trong đám đông. Trần Văn thấy động lòng thương. Một tiếng ho sù sụ làm cho anh quay lại. Một ông già lê bước tới. Lão không có nón, không có mũ, tóc nửa màu đất, túm lại thành một búi cái đằng sau, nhỏ như một hòn bi. Mắt lão mờ dại như mắt người hấp hối, mồm há ra để đớp không khí, cổ chỉ còn hai miếng da mỏng như tờ giấy dính cằm. Vai lão đeo một cái đẫy nhỏ, lưng gãy gập cõng một đứa trẻ độ hai tuổi. Đứa trẻ ngủ, cái đầu ngoẹo xuống. Thảm nhất là nó lại chít một cái khăn đại tang còn mới. Ông cụ cứ loạng choạng, thỉnh thoảng dừng bước để thở, rồi lại thất thểu đi. Lão đi ra phía ngoại ô, và còn đi đâu nữa. Con cái lão đâu? Liệu lão có sống nổi mà nuôi đứa cháu không? Trần Văn nhìn theo trong đám bụi mù cái bóng ông già xiêu vẹo, mỏng manh như chiếc lá rụng bay theo cơn gió dữ.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #3 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:46:43 pm »

*
* *

Ngót chục học sinh vui vẻ được gặp lại nhau trong lớp, sau nửa tháng xa cách. Người thì đã tản cư rồi lại lộn về Hà Nội. Người thì chẳng biết làm gì, đi lang thang các phố, rồi tạt qua trường. Quyên, mà bộ thiếu nữ tiền phong không còn hợp với cái dáng của người con gái đã đến thì, vừa ở Hoàn Long về. Một chị cán bộ đã giới thiệu Quyên vào làm mật mã, nhưng Quyên khóc xin thôi. Quyên cho là chị cán bộ khinh mình, vì Quyên thấy cái công tác được giao cho chẳng có gì là chiến đấu cả. Quyên nghĩ rằng đánh nhau thì phải nằm gai nếm mật, mặt trận thì phải là màn sương gối đất, chứ có đâu lại đi làm một công việc chẳng có gì là khó nhọc, ro ró ở một xó nhà. Loan, một học sinh tỉnh nhỏ mới ra Hà Nội, còn xúng xính trong bộ áo the cũ rích, thì phân vân chưa biết nên về hay nên ở. Về thì nhà túng, đông em, ở thì không biết ăn vào đâu.
Để được học ở Hà Nội, anh đã phải làm nghề gập sách cho một nhà in, mà nhà in ấy đã tản cư rồi…

Sáng nhạt lùa vào lớp học xinh xinh. Mùi vôi tường nồng nồng man mát, mùi các cửa sổ mới sơn màu xanh tươi, thơm hăng hăng. Cái gì cũng mới cả, chẳng cái gì báo hiệu rằng nhà trường phải nghỉ. Cây bàng già trước phòng giám đốc vẫn như ngày nào, chốc chốc lại lìa những lá đỏ úa xuống cái sân nhỏ. Trong buổi sáng này, mấy người trẻ tuổi càng thấy nao nao cái niềm thiết tha muốn học, hoà với nỗi ngao ngán tiếc những ngày ngắn ngủi ở trường. Những ngày rực lên cái ánh sáng của ngày mai, bắt đầu những tình bạn mới, và ở một vài người đã gây gây cái hương vị kì lạ ngẩn ngơ của tình yêu nam nữ. Quyên thấy thương thương cái anh bạn đã từng rủ Quyên lên chơi vườn Bách thảo, nhưng Quyên không nhận lời. Không biết anh ta nay ở đâu rồi. Loan thì lừ đừ, ngơ ngác nhớ những người bạn cùng trường. Vì dè dặt anh đã không làm thân với họ. Tình cờ mấy người lại tụ tập ở đây, họ thấy như sống lại những ngày vui. Tay bắt mặt mừng rồi rít. Nhưng chỉ một thoáng thôi, câu chuyện lại trở về những vấn đề làm cho họ bận rộn trí óc và bứt rứt trong người. Một người nói:

- Tình hình ghê lắm rồi. Ở Hải Phòng nó lại vừa đổ bộ lên bốn trăm lính Đức. Hà Nội nó gây sự y như trước ngày nó đánh Hải Phòng. Chúng mình cứ loanh quanh thế này mãi ư?

Người khác nói:

- Đầu phố Khâm Thiên, mình đã đắp ụ cao, chôn những cây gỗ to như cột đình. Các cửa ô đều dựng
chướng ngại vật xong cả rồi. Hôm qua, no cho xe đến phá ụ ở ô Cầu Rền, bê cả từng khúc gỗ. Nhưng tự
vệ làm lại ngay.

Họ hỏi nhau:

- Mày đã vào tổ chức nào chưa?

- Biết vào tổ chức nào?

- Phải về nhập tự vệ ngay đi.

- Bọn cứu quốc ở trường này chẳng bào gì mình cả. Chúng nó chỉ toàn vào Giám họp kín với nhau.

- Trách chúng nó làm gì. Lúc này không nên trách ai cả. Chúng mình phải tự lo lấy thôi. Đứa nào chưa có
công tác thì phải xin ngay đi, không có thì không kịp.Ngộ chốc nữa đánh nhau thì chúng mình trơ mắt ra ư?
Họ bàn với nhau việc chiến đấu như rủ nhau đi du lịch. Quyên hỏi một anh bạn:

- Thế anh đã vào đâu rồi?

- Mình đã xin với Uỷ ban bảo vệ khu phố vào tự vệ rồi. Đi gác tập trung rồi kia.

Anh nói cái danh từ Uỷ ban bảo vệ với một vẻ quan trọng đặc biệt. Cái danh từ mới mẻ ấy âm vang trong đầu óc mấy người như một cái gì lạ lùng, bí mật, với những chiến sĩ xương đồng da sắt, súng đạn đầy người, có tài chỉ huy quân sự và những mưu mẹo thần tình. Những người trong cái uỷ ban ghê gớm ấy chắc phải là những tay cách mạng lão luyện, một lời nói ra, hàng nghìn người phải nghe răm rắp. Quyên đứng lặng im không nói, trí đuổi theo cái hình ảnh ước mong của một người cách mạng nào. Người ấy đã phải bị đày ra Côn Đảo, đã phải vượt tù trốn về khu Giải phóng, và lúc này phải gánh vác những công việc lớn lao. Người chồng lí tưởng của chị có thể không còn trẻ nữa, nhưng chị sẽ yêu với tất cả lòng yêu của chị, chị sẽ hi sinh tất cả cho anh để bù lại trăm nghìn gian khổ mà anh đã phải chịu trong bao nhiêu năm.
Tiếng nói chuyện mỗi lúc một thiết tha, sôi nổi:

- Chia tay nhau thôi. Đứa nào về phố đứa ấy.

- Các anh ấy sẽ phát lựu đạn cho mà đánh nhau.

- Có phát súng lục không?

- Có chứ. Rồi còn học bắn nữa thì vừa.

- Nhiều đứa, cũng học sinh như mình thôi, mà bây giờ trông có vể chiến lắm rồi. Sao chúng nó tài thế nhỉ? Sao chúng mình chậm chạp thế này? Khắp nơi chuẩn bị, thế mà chúng mình còn ngồi đây nhỉ.

- Có thấy không. Chỗ nào cũng có khẩu hiệu: Cương quyết bảo vệ Thủ đô. Nghĩa là không để cho Pháp nó lấn nữa. Nghĩa là Chính phủ chủ chiến chứ không chủ hoà nữa. Hồ Chủ tịch đã tuyên bố đấy.

- Tuyên bố thế nào?

- Tuyên bố với phóng viên Paris-Saigon. Mày không đọc báo à? Cụ nói: đồng bào tôi và tôi thành thật
muốn hoà bình. Nhưng dân tộc Việt Nam sẵn sàng chịu đựng tất cả chứ không chịu mất tự do.

- Đúng, đúng, nhớ ra rồi. Cụ nói thế nghĩa là lôi thôi là đánh chứ gì. Sốt ruột quá. Chúng mình lờ đờ thế nay thì còn học sinh Hà Nội cái gì.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #4 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:47:44 pm »

Loan tuy mới ở tỉnh nhỏ ra học, nhưng anh cũng tự hào với bốn tiếng học sinh Hà Nội dễ thương ấy. Cái mơ ước của anh được học ở Hà Nội, nơi nghìn năm văn vật, nơi đầy ánh sáng và những người tài giỏi, anh mới đạt được. Tuy thời gian ở đây chưa được bốn tháng, nhưng Loan cũng tự coi mình như người chính cống Thủ đô. Anh rất sợ cái danh từ quan viên tỉnh lẻ. Cho nên để tán thành anh bạn, Loan khẽ gật đầu, sung sướng như được công nhận chính thức là học sinh Hà Nội. Niềm vui pha lẫn thẹn thò làm cho anh đỏ mặt. Loan là một thanh niên mà sự lớn lên của thân thể cũng chầm chậm, kín đáo như lời ăn tiếng nói. Anh thu mình giữa các bạn, bé nhỏ trong bộ áo the, lim dim đôi mắt sau đôi kính trắng gọng sắt, trông anh hiền lành, quê kệch và khôi hài. Anh đứng trầm ngâm nghe các bạn, trí tưởng tượng đưa anh từ cuộc đời còn thơm tho mùi sách vở tới những trận chiến đấu ngổn ngang xác giặc, và chính anh có thể chết dưới đống gạch ngói của phố xá điêu tàn. Anh muốn ở lại, mặc dầu anh chưa biết bấu víu vào đâu. Anh cảm thấy bơ vơ như con chim chích giữa cái thành phố rối tung.

Một học sinh, thuộc cái loại hay thu nhặt chuyện, say sưa kể những cái oai của học sinh Hà Nội xưa nay. Đám tang cụ Phan Chu Trinh với hàng vạn học sinh nam nữ, từ cái hồi anh chửa ra đời. Cụ cử Can mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục, ngay từ những ngày đầu thuộc Pháp, quăng chén rượu khóc cái nhục mất nước trước mặt học sinh. Rồi từ chuyện học sinh Hà Nội đánh trẻ con Tây, anh trợn trừng trợn trạo chuyển sang vụ học sinh đánh Phạm Quỳnh giữa ban ngày ban mặt ngay ở phố Hàng Gai, xé áo sa, giẫm nát gọng kính vàng, nhét cứt vào mồm thằng hót Tây khốn nạn. Các bạn há hốc mồm nghe nhà kể chuyện thao thao bất tuyệt nói lại những sự việc mà có người hoàn toàn chưa biết, có người đã nghe mang máng từ lâu. Họ gật gù thán phục, phút chốc lại rũ ra cười khoái chí, tâm hồn bay bổng trong cái thế giới học sinh yêu nước từ những thuở xa xôi nào. Được đà, anh kia đứng vào giữa mọi người, lại kể:

- Ngông như thế thì đúng là học sinh Hà Nội nhà ta rồi. Nhưng còn nhanh và mưu mẹo thì đây. Hồi ấy chúng mình còn bé, nhưng các cậu biết thằng toàn quyền Pát-ki-ê chứ. Nó mời thằng toàn quyền Nam Dương sang Hà Nội. Nó bắt các phố dựng cổng chào. Cái cổng chào phố Hàng Trống nhà tớ đồ sộ nhất. Hai thằng đều sắp đi qua. Mật thám cu-lít canh như chết. Thế mà có một học sinh mới mười bảy tuổi, vào trạc bọn mình bây giờ thôi, đốt phăng luôn cái cổng chào ấy vừa lúc chúng nó sắp đến. Chổi xể cháy phừng phừng. Chúng nó phải lộn lại. Pát-ki-ê chết cay chết đắng. Mật thám, cu-lít trơ mắt ếch, không bắt được ai. Tuyệt!

Mọi người ồ à, nhốn nháo, vui sướng trong cái phút đẹp đẽ của tuổi trẻ mà người ta tưởng như có thể làm được cả trời. Quyên nói theo người kể:

- Tuyệt!

Cái váy tím cũn cỡn làm cho chị thêm nhí nhảnh, nước da ngăm ngăm trông chị như một cô đầm đen. Quyên mũm mĩm, không đẹp, nhưng tươi vì cái miệng nhỏ có duyên, răng nhỏ và đều tăm tắp. Quyên nói:

- Ngày trước còn thế nữa là học sinh Hà Nội bây giờ.

- Bây giờ thì chĩa súng vào đầu nó chứ còn gì nữa.

Quyên vứt một gói hạt giống rau cải xuống đất, bĩu môi:

- Thế là hết giồng rau. Xin mãi mới được hạt giống. Bây giờ thì còn làm gì!

Một anh giơ cao bàn tay mở rộng, hô:

- Học sinh Hà Nội theo tôi. Chặn tay thằng Pháp lại.

Họ bước ra khỏi lớp, tiếng cười trong trẻo. Nhưng họ chưa đi ngay, còn la cà đi hết lớp này sang lớp khác,
tiến vào phòng giáo sư, đứng ngắm cây bàng, rồi lại ra hành lang. Họ vẫn chưa muốn chia tay. Quyên nói:

- Lúc này mà đánh nhau thì chúng mình thế nào nhỉ?

Họ nhìn nhau, không nói, những vừng trán không một nếp nhăn, nhỏ lại tối đi. Loan tần ngần đứng trước tờ báo “Tiếng trường” mới ra được số hai. Anh giơ tay giữ tờ báo đã rách gần một nửa mà gió lộng cứ phần phật đánh. Quyên đến gần. Quá đát đàn bà, Loan lánh sang một bên và buông tay ra. Một nửa tờ báo gập xuống. Quyên kêu:

- Có dán lại không?

Quyên xuýt xoa như chính mình đau đớn. Quyên và Loan, có khuynh hướng văn chương, là biên tập viên
chính của tờ báo. Tưởng mới như hôm qua, hình ảnh những ngày say sưa làm báo, những anh chị em tấp
nập gửi bài cho toà soạn, những buổi đầu làm thơ, những phút chờ đợi tờ báo treo lên. Và cái vui Hồ Chủ tịch đến thăm trường. Cụ đứng đọc tờ báo rất lâu. Sáng hôm ấy, Quyên vắng mặt, buổi chiều đi học mới biết. Tối về, Quyên khóc không ăn cơm, đêm trằn trọc không ngủ.

Quyên vuốt ve nửa tờ báo rách, đưa nó lên áp vào tường, quay hỏi Loan:

- Bao giờ chúng mình lại làm báo tường? Đánh nhau thì còn làm thơ gì nữa, Loan nhỉ?

Loan cảm động nghe Quyên gọi chính tên mình, tiếng nói thấm vào lòng anh xao xuyến. Anh ấp úng nói
không rõ, mặt anh đỏ ửng. Anh nhìn cái gói hạt giống rau cải, và anh thấy tiếc, anh nhặt lên. Một anh nói:

- Ừ, chúng mình rồi có đi học nữa không? Ngần này đứa rồi làm thế nào nhỉ?

Không ai trả lời được câu hỏi ấy. Quyên nhìn các bạn, mắt phảng phất cái ánh sáng hiền từ của mắt người mẹ mà người phụ nữ nào, dù còn ít tuổi, cũng có những lúc bừng lên. Quyên chìa một quyển sổ xin mọi người kí tên vào.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #5 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:50:24 pm »

*
* *

Mấy người học sinh vây lấy Trần Văn vào giữa. Họ đăm đăm nhìn người giáo sư chỉ hơn họ dăm bảy tuổi. Người anh dong dỏng cao. Cái đầu húi theo lối bàn chải, trong có vẻ gọn gàng, nhanh nhẹn, tương phản với đôi mắt lờ đờ của một người mơ mộng nhiều hơn thực tế, tình cảm nhiều hơn lí trí. Lúc này, lũ trẻ muốn anh cười, vì anh có một nụ cười đặc biệt, nó làm cho vẻ mặt thường nghiêm khắc và buồn buồn của anh trở nên tươi tắn, hồn nhiên. Thấy lũ trẻ nhảy nhót chung quanh, anh cũng muốn cười, để truyền cho chúng một chút lạc quan, trong cái giây phút đầy những lo ngại và bất trắc. Nhưng anh thấy sao mà khó khăn. Anh nhìn khắp lượt. Anh đến, họ đều hớn hở. Những mắt mở to của ngần ấy thanh niên vẫn không giấu nổi cái ngơ ngác của hoang mang. Lớp học với người thầy giáo, giống như một cái bến yên ổn, nhưng họ vẫn chưa quên được những sóng gió bên ngoài. Anh nghe rối rít xung quanh những lời tâm sự, những câu hỏi đầy lo lắng về tình hình.

- Chúng em nhớ trường quá. Mới được hai tháng. Đang vui, đã phải nghỉ rồi. Chúng em muốn đi học. Có đánh nhau không hả anh? Đánh nhau có lâu không? Có cách gì không đánh mà thằng Pháp rút khỏi Hà Nội không? Gặp anh, em mừng quá. Anh bảo chúng em làm gì bây giờ? Đánh thì thắng chứ hả anh? Mình có xe tăng không? Quân mình ở chiến khu đã kéo về chưa? Còn anh, anh có ở Hà Nội không?

Bấy nhiêu câu hỏi dồn dập là ngần ấy bài tính đố mà chính anh cũng bí. Cũng như họ, anh chỉ là một kẻ bị trôi theo thời cuộc. Anh là một ông giáo chỉ chủ động trong việc giảng bài. Lúc này, Trần Văn thèm làm một người cán bộ nắm được tình hình, biết mình sẽ làm gì và đi đâu. Anh cảm thấy con người mới phải là con người, chẳng kể trường hợp nào, đều làm chủ được tình thế. Anh chỉ trả lời cái phần họ hỏi về anh.
Anh nói:

- Tôi ở lại Hà Nội.

Mọi người reo lên:

- Thế thì vui quá…

- Sao các anh các chị còn ở đây?

Quyên nói:

- Chúng em cứ nhớ nhớ, không đến trường không chịu được.

- Tôi tưởng không nên quá nặng nề về tình cảm nữa. Nếu xảy ra…

Anh ngừng lại, không muốn nói đến hai tiếng chiến tranh. Anh vốn sợ những lời nói gở. Tự đáy lòng, anh ghét chiến tranh, ghét cả cái tên của nó. Anh gượng cười, nhìn lũ học sinh mà anh nghe rõ những tiếng thở đều đều. Anh nói:

- Tôi có cảm tưởng rằng tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng thêm. Lê-ông Bờ-lum lên, nói là không dùng chính sách bạo động, nhưng Mu-tê vẫn giữ nguyên chức vị và Đác-giăng-li-ơ lại sắp trở sang Đông Dương. Thằng đô đốc này sang thì hoà bình gì nữa. Nó còn ở Pa-ri mà đã cho cái tuần dương hạm lớn nhất của Pháp là Xa-voóc-nhăng đờ Bờ-ra-da cập bến Đà Nẵng. Hôm nay báo Cứu quốc lại đăng tin nó cho thêm một diệt ngư lôi nữa sang. Có tin tụi Pháp nói: “Ou libérer ou conquérir” (1). Nghĩa là nó cố sống cố chết cướp nước ta một lần nữa.

Anh không nén được tiếng thở dài. Những cặp mắt trong trẻo ngước nhìn anh như đang nghe giảng. Một lúc lâu im lặng. Người ta nghe rõ tiếng lá bàng rơi đầu nhà. Quyên bỗng nói:

- Chẳng đời nào mình chịu.

- Chúng ta không thể sống mãi trong nhục nhã được. Không biết bao giờ dân tộc ta mới hết nhục? Nó cướp
của, tống tiền. Nó bắt đàn bà con gái. Nó giết người ta mà lại nói là: à bas les Viet minh, assassins (2).
Biết bao giờ cho sức mạnh không thuộc về những kẻ đi áp bức, đi thống trị người khác.

Một người nói:

- Không hiểu làm sao người mình cứ khổ mãi, anh nhỉ?

Trần Văn mỉm cười, đau đớn:

- Cớ lẽ đến lượt chúng ta phải chịu đựng những nỗi khổ cuối cùng để rửa hết bao nhiêu những tủi nhục mà cha ông chúng ta và chính chúng ta đã mang nặng từ tám mươi năm nay.

- Thế thì chúng em sẵn sàng, nhục lắm rồi anh ạ.

Ngần ấy người thanh niên mắt long lanh như sắp xông lên chiến đấu. Trần Văn thoáng nghĩ đến Trinh và tự
hỏi sao trong lúc mọi người đang lo cho số phận của Tổ quốc thì người đàn bà ấy lại có thể bàng quan và lạc hậu như thế được. Anh nhìn những người học trò của anh, mà cái sôi nổi làm cho anh thêm phấn khởi. Anh nói:

- Có lẽ nhục không đáng sợ, chỉ những kẻ không biết nhục mới đáng sợ thôi. Ông cha chúng ta cũng sâu sắc lắm. Chắc các anh chị đều biết rằng cái buổi sáng ngày 20-11-1873 khi quân Pháp đánh thành Hà Nội, đại bác của nó làm thủng một cái lỗ rất sâu ở Cửa Bắc. Hà Nội bị mất vào tay chúng nó. Ông cụ tôi kể lại rắng ít lâu sau, một đêm có một ông nhà nho leo lên lấp cái lỗ, và đề một bài thơ. Bài thơ ấy tôi không nhớ nữa, đại ý nói phải lấp cái lỗ kia để hàng ngày nhân dân khỏi phải trông thấy mà thêm nhục. Mấy hôm sau thì cái chỗ lấp bị moi ra để trơ cái lỗ đại bác cũ. Đến đêm, ông nhà nho lại lấp đi, và đề thơ mắng cái kẻ nào không biết nhục đã phá cái công việc chính đáng của ông. Mấy hôm sau, cái lỗ lại khoét ra như cũ, bên cạnh có đề mấy câu thơ hoạ lại khuyên không nên xoá cái vết ấy đi mà phải để đấy cho mọi người luôn luôn trông thấy cái nhục mà nghĩ việc cứu nước. Và cứ như thế, người chủ trương giấu cái sự thật nhục nhã, người chủ trương phơi trần nó ra, người nào cũng thấy mình yêu nước cả, người nào cũng cho mình làm là đúng. Hai bên cứ âm thầm cãi nhau như vậy. Mỗi buổi sáng lại thêm một bài thơ. Thơ cứ đối chọi nhau. Cuối cùng, ông thứ hai viết: cái lỗ đạn này không thể lấp được bằng đất bằng vôi, chỉ có thể lấp được bằng gươm bằng súng. Không biết ông lấp nghĩ thế nào vì sau đó Pháp nó biết và đem rào kín cồng thành…
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #6 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:52:30 pm »

Loan nghểnh cổ nhìn Trần Văn qua đôi kính trắng:

- Em thấy ông thứ hai đúng hơn.

Quyên vẫn chống hai tay lên cằm nghe chuyện, nói:

- Còn gì nữa hả anh? Hay quá, cả hai ông cùng yêu nước chứ.

Loan đỏ mặt:

- Đúng rồi. Nhưng sự thật dù tàn nhẫn đến đâu, cũng không nên giấu.

Nhiều người nhao nhao:

- Ông thứ hai đúng.

Trần Văn gật đầu, như khi nghe học trò trả lời những câu hỏi của anh. Anh nói:

- Tôi nghĩ lúc này là lúc chúng ta lấp cái nhục bằng gươm súng đấy. Và nếu vì quân Pháp mà chiến tranh
xảy ra thì chúng ta sẽ cho chúng nó biết rằng chúng ta không phải là một giống hèn.

Loan nói:

- Mấy hôm nọ, em cũng định về quê. Nhưng bây giờ thì chúng em thấy cần phải ở lại. Anh cũng ở đây, thì
chúng em còn lo gì nữa.

- Tất cả hay chỉ có anh Loan?

Quyên nhanh nhảu nói như sợ người khác cướp mất lời:

- Chúng em là học sinh Hà Nội. Học sinh Hà Nội mà lại tản cư thì nhục lắm. Ở Hà Nội có làm sao đi nữa
cũng vẫn hơn. Lần này, em sẽ đến nhà chị Oanh xin cho công tác đấy, anh ạ. Anh biết chị Oanh chứ? Chị
Oanh phố Nhà Thờ ấy mà.

- Tôi biết. Chị ấy hay đến họp với ông Quốc Vinh.

- Ông Quốc Vinh nào ạ?

- Ông ấy là Phó chủ tịch Uỷ ban bảo vệ Liên khu 1.

- Thế à. Hay quá nhỉ. Chắc ông ấy ghê lắm?

- Sao lại ghê?

- Thưa anh. Uỷ ban bảo vệ thì phải ghê lắm chứ ạ.

- Nhất định rồi. Nhất định rồi.

Mọi người nói xôn xao. Cái hăng hái bồng bột của mấy người học sinh truyền cho Trần Văn một niềm vui mới, cái vui của mọi người đã có công tác, hoà với cái tự hào đã quen một nhân vật quan trọng, một người trong đoàn thể. Thấy Loan rụt rè, anh hỏi:

- Loan muốn nói gì?

Loan lại càng đỏ mặt:

- Em muốn anh giới thiệu cho em một công việc gì. Em không thể đứng ngoài cuộc đời.

Trần Văn vốn yêu Loan, một anh học sinh tỉnh nhỏ, chăm học, ham đọc sách, đang âm thầm theo đuổi
mộng văn chương. Anh hay chú ý đến những người có chí mà chưa thành đạt và cho rằng cái thời mò mẫm tìm đường là cái thời đẹp nhất của một đời người. Anh nói:

- Tôi giới thiệu với ông Quốc Vinh nhé.

- Vâng.

Mấy người học sinh khác tranh nhau nói:

- Anh giới thiệu chúng em với.

Trần Văn gật đầu một cách mơ hồ. Anh chợt thấy bất nhẫn, không muốn cho những người đang tuổi đi học
kia phải xếp quyển vở lại để cầm một thứ võ khí nào đó, và không bao giờ trở lại dưới mái trường. Thấy
Loan cuộn tròn một quyển vở trong tay, anh cầm lấy giở ra xem. Quyển vở còn ngót một nửa chưa chép bài. Sau cái phần đã chép, trên một trang giấy trắng, có viết hai câu xếp đặt như thơ: Học sinh Hà Nội – Sống chết không rời Hà Nội. Dưới đề ngày 17-12-1946, rồi đến một loạt chữ kí. Anh lần giở những trang còn nguyên chưa viết. Những trang giấy này đang dẫn người học sinh chăm chỉ vào thế giới hiểu biết đã phải ngừng lại ở đây. Loan sẽ thôi hay còn viết nữa, và viết cái gì? Mấy người học sinh sán lại gần anh. Chưa bao giờ anh thấy gần họ như lúc này. Các trái tim đều đập mạnh. Những hơi thở không đều, bay khe khẽ vào mặt, thổi nhè nhẹ bên tai anh. Ngót chục cái đầu xúm lại. Trần Văn muốn ghì chặt trong hai cánh tay những khối óc tươi trẻ kia đang mở ra, sạch như trời hé sáng. Anh thở dài, giao trả Loan quyển vở. Anh nhìn ra đường, nói:

- Chúng ta ra khỏi cái nhà trường của chúng ta thôi. Biết làm thế nào.

Ngoài cổng, một đơn vị bộ đội tiến vào lạch cạch súng ống. Người nào cũng đều còn trẻ. Trong thấy Trần Văn và bọn học sinh bước ra, một anh khẽ gật đầu chào, lễ phép nói:

- Chúng tôi được lệnh đến đóng ở đây.

Trần Văn nói, giọng nhẹ nhàng:

- Vâng. Các anh giữ trường cho chúng tôi nhé.

Chú thích:

(1) Hoặc là thả hoặc là cướp lại.

(2) Đả đảo bọn Việt Minh giết người.

Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #7 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:55:21 pm »

Chương 3

Bầu trời Hà Nội đục nhờ nhờ.

Giá buốt. Tuy sáng đã lâu rồi, nhưng phố xá vẫn như mới thức. Trần Văn và Loan đứng ở vườn hoa Cửa Nam, nhìn những con đường Hàng Đẫy, Hàng Bông, Tràng Thi, Cột Cờ đổ lại. Văn nao nao nhớ cái buổi chiều mùa thu năm ngoái, khi anh cùng hàng vạn con người dự cuộc mít-tinh ở vườn hoa Ba Đình về qua đây. Tai anh còn văng vẳng những lời trong bản Tuyên ngôn Độc lập, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước một bể người cuồn cuộn, một rừng cờ rực đỏ. Ngai vàng của cái nhà Nguyễn ở Huế mà anh rất ghét đổ nhào. Xiềng xích của thực dân Pháp tan vỡ. Một chế độ mới mở ra. Trước đây, anh cứ nghĩ không biết đến bao giờ dân tộc Việt Nam mới ra khỏi vòng trói buộc. Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học nối tiếp nhau thất bại. Anh có ngờ đâu Cách mạng Tháng Tám nổ ra, nước Việt Nam nhỏ bé của anh ngang nhiên thành lập chế độ cộng hoà dân chủ đầu tiên ở châu Á, và chính anh lại được sống những ngày lớn lao ấy. Anh bàng hoàng như mê như say, mặt bừng bừng nóng. Anh nhảy nhót trên đường đầy ánh sáng của một mùa thu tuyệt đẹp. Anh ngẩng đầu ngắm lá cờ đỏ sao vàng trên đỉnh cột cờ, nhìn vòm trời xanh lồng lộng. Cây cối hai bên đường reo vui. Chung quanh toàn là đồng bào của anh. Không còn bóng một thằng Pháp ngạo nghễ, hống hách. Anh yêu tất cả mọi người, và anh nói rất nhiều. Anh đi suốt từ Ba Đình về Nhà Hát Lớn, rồi lại từ Nhà Hát Lớn trở về Ba Đình. Anh ngẩng đầu đến mỏi cổ, chân anh bước đến long gối. Nhưng anh cứ đi và mãi không muốn trở về. Tất cả người Hà Nội đều đổ ra đường. Người không quen nhau cũng gật đầu chào hỏi. Tiệc mở linh đình ở hầu hết các nhà mà cánh cửa mở toang. Người ta như bừng tỉnh một giấc ngủ triền miên. Vui đẹp lạ lùng, là những con đường sạch bóng quân thống trị dưới bầu trời Tổ quốc trong lành.

Những ngày vui sao ngắn ngủi. Anh lại đang sống những ngày ngột ngạt, nặng nề. Con đường không còn thênh thang như cái ngày ấy nữa. Anh nhìn lên phía Cột Cờ, nơi quân Pháp đóng. Không thấy động tĩnh gì, nhưng nơi ấy trông rờn rợn, chứa đầy những bất trắc, gợi lên trong lòng người sự bực bội tự nhiên trước cái vô lí của một ranh giới giả tạo. Các phố khác thì lác đác vẫn có người, nhưng họ đi lẻ tẻ, âm thầm và như bị đè nặng xuống. Cái thành phố già nua của anh, trải qua nhiều tàn phá của gió bão, nhiều đổi thay của xã hội, đã hơn một lần có những buổi sáng như hôm nay, lúc mà những sinh hoạt đầy màu sắc của hè đường đột nhiên im ắng, thì cũng là lúc người dân mới chú ý tới và yêu thương thêm những mái nhà nho nhỏ, ép vào nhau, im lìm trên nền trời, kề bên những hàng cây um tùm, ủ rũ, thì thầm trong những suy nghĩ và đàm luận muôn đời, để chịu đựng, chống chọi và cố vươn lên. Trần Văn nghĩ như vậy, và trong cái buổi sáng khô lạnh này, anh thấy các phố xá cũ kĩ, chen chúc, chẳng có gì đồ sộ, phủ một màu xám nham nhở, lại có cái đẹp riêng, sắt lại trong một vẻ buồn nghiêm nghị. Anh năm tay Loan, nói:

- Hà Nội đẹp nhất những lúc đau khổ này, Loan có thấy không?

Loan vâng khe khẽ một cách lễ phép. Loan còn dè dặt, do cái thói quen của một người tỉnh nhỏ, và cũng do cái lòng tôn kính tự nhiên đối với thầy. Nhưng Loan vui lắm. Trần Văn sẽ giới thiệu anh vào tự vệ. Anh sẽ đến một nơi trung tâm của Hà Nội. Có những quãng đường qua lại ta thường chẳng để ý, nhưng khi ta đi để tới một nơi ta vừa mong muốn vừa ngại ngùng, ở đấy cuộc đời ta sẽ có nhiều cái khác trước, thì ta có cảm tưởng như con đường ấy mới mẻ, dài ra, có nhiều thứ như ta chưa trông thấy bao giờ.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #8 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:57:05 pm »

Vườn hoa Cửa Nam có cái sạch sẽ mịn mát của mùa khô. Bên cái bệ còn lại của tượng đầm xoè, tượng trưng của thống trị, đã bị nhân dân quẳng đi hồi Nhật đảo chính, một đám người khá đông xúm quanh một anh thợ nặn. Một quang cảnh tưởng như không còn nữa giữa cái Hà Nội đã ngửi thấy mùi tanh giá của chiến tranh. Người dân Hà Nội, hiếu kì và khao khát cái vui, đứng xem như để quên những mối lo nghĩ. Mấy đứa trẻ con len dưới chân người lớn để vào gần. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng trầm trồ khen ngợi cái tài khéo của anh thợ, tưởng như Hà Nội vẫn còn đang thời bình.

Tất cả cửa hàng của anh thợ chỉ gồm có một chiếc bàn vuông, nhỏ, bẩn thỉu với những chiếc chén đựng bột dẻo đủ màu sắc hàng mã: xanh lơ, xanh lá cây, đỏ thắm, hồng, vàng, tím, đen, trắng… Chiếc bàn nhỏ, nhẹ và sơ sài, có thể lăn đi cùng đường phố Hà Nội, nay thềm nhà này, mai bờ đường khác, là sân khấu của những vị anh hùng Tam quốc, Tây du. Mỗi vị anh hùng lớn bằng một ngón tay cái, được cắm dựng đứng trên đầu một que nứa vót nhọn. Những Quan Công, Lưu Bị, Trư Bát Giới, xanh đỏ tím vàng, đứng xếp thành hàng trên quầy. Anh thợ thản nhiên trổ tài. Mười ngón tay dính bột đủ màu sắc, thoăn thoắt như một cái máy nhỏ, cứ năm, sáu phút tạo được một anh hùng. Nhân vật nào cũng khá tinh xảo, những bàn tay nhỏ xíu ngoắt ngược lên một cách rất tuồng, những cử chỉ đưa chân đá chiếc áo giáp, bộ râu đẹp của Quan Công…

Trần Văn đang đứng xem, quay ra thấy Loan có vẻ chăm chú theo dõi anh thợ nặn, anh nói:

- Loan là nhà thơ, có thấy anh thợ có tài không?

Loan tủm tỉm cười không nói. Nhưng anh đang theo đuổi những ý nghĩ riêng. Người thợ có hoa tay thật, nhưng anh ta nặn như một cái máy. Quan Công nào cũng như Quan Công nào, đều giống nhau và không có hồn, hôm nay và ngày mai cũng mãi mãi thế thôi, không có gì đổi thay, không có gì mới mẻ. Sự cần thiết kiếm tiền đã làm hại nhiều người. Nhiều cái tài đã bị vùi đi trong đói khổ và vô học. Loan rùng mình nghĩ đến cái giả thuyết thằng Pháp có thể trở lại. Cuộc đời lại hắt hủi con người như cũ, tài anh thợ nặn rồi cũng chẳng nhích thêm lên. Bao nhiêu những tinh hoa khôn khéo sẽ chết dần mòn.

Anh thợ nặn chào hỏi năm lần bảy lượt chẳng thấy ai mua, mặt anh ỉu xìu. Anh định đẩy xe đi.

Một tiếng gọi dịu dàng. Trần Văn quay lại. Một thiếu nữ gánh hai sọt hoa cúc vàng ở phía Tràng Thi bước tới. Anh nhận ra Nhân. Nhân nghiêng đầu sát đòn gánh, không nhìn anh và hỏi khẽ:

- Anh đi đâu sớm thế?

- Tôi ra ga tiễn đẻ tôi về quê.

- Thế ạ.

Nhân dùng dằng như nửa muốn đi nửa muốn đứng lại. Ấy là một cô con gái trạc mười chín đôi mươi, mặc theo lối phụ nữ ngoại thành. Khăn vuông đen quặt đằng sau, áo dài phin nâu mỏng hở cổ để lộ cái áo cánh trắng và cái áo len đan màu xanh. Hai ống tay chét lại, tất cả y phục đều lẳn vào người. Bàn tay trái vịn hờ vào đòn gánh bật nổi cái nhẫn hình trái tim. Trần Văn hỏi:

- Cô đi đâu?

Nhân vẫn không nhìn anh, tay trỏ ra phía đầu Hàng Bông, in hình một Vệ quốc quân im lìm đứng gác. Nhân
nói:

- Chúng em góp tiền ủng hộ các anh bộ đội. Chốc nữa em cũng lại gặp chị Oanh.

- Tốt lắm. Cô đi nhé.

Hè năm ngoái, anh có lên chơi Ngọc Hà mấy ngày với một người bạn cũng dạy học tư, và là anh ruột Nhân. Khi ấy Nhân mới lớn lên. Sau khi anh về, Nhân có một hôm xuống chơi, tặng anh hoa. Từ đó thỉnh thoảng vẫn qua lại. Trong những ngày gần đây, Nhân thường có mặt khắp nơi trong Liên khu, rất hăng hái trong những cuộc vận động mùa đông binh sĩ, quyên tiền, quyên gạo, quyên thịt ủng hộ bộ đội. Những người bạn tự vệ của Trần Văn thường gọi Nhân là cô Ngọc Hà, cô mắt nhung. Có người còn nói là Nhân có cảm tình đặc biệt với Văn, nhưng anh gạt ngay đi để khỏi có những chuyện hiểu lầm không lợi cho Nhân. Thực tình, anh đã thờ ơ với chuyện đàn bà. Đối với Nhân, anh giũ nguyên thái độ và tình cảm của một người anh. Anh giục Nhân:

- Cô đi nhé. Hôm nào rỗi, tôi lên chơi anh Sửu, xem hoa đào ngày Tết.

- Anh em nhắc đến anh luôn. Anh Sửu em bây giờ cũng bận họp tự vệ lắm. Đi, chị đi.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #9 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 07:58:07 pm »

Nhân quay lại nói với một người đàn bà dáng quê mùa đã đứng tuổi, đầu chít khăn trắng quặt ngang, tay dắt một đứa trẻ, trạc chín mười tuổi. Người đàn bà chào Văn, mặt buồn rười rượi. Chú bé cắp một cái cặp da cũ đựng đầy những báo Cứu quốc, Dân thanh, Dân mới. Nó đội một cái mũ dạ tàng, mặc một áo dạ tây con đã vá ở hai khuỷu tay, quần đùi ka-ki vàng rộng lùng thùng, thắt lưng da giấu một quả lựu dạn. Tuy nó ăn mặc lam lũ, nhưng mặt nó bầu bĩnh, trắng trẻo, trông có vẻ thông minh lanh lợi, làm cho người ta nghĩ đến những đứa con nhà giàu. Nhân nói:

- Thắng chào anh Văn đi.

Văn hỏi em bé:

-Thắng đi bán báo à?

Em bé ngẩng mặt nhìn Văn cười, hai má phính đều lúm đồng tiền. Không rụt rè, em nói:

- Hôm nay, em vào bộ đội.

Mặt nó vênh lên, vẻ quan trọng. Người mẹ rơm rớm nước mắt quay mặt đi. Nhân nói với Văn:

- Đây là chị họ em; chị em bán xôi chè ở Hàng Da. Anh em đóng giày ở phố Hà Trung. Năm ngoái, anh em vào bộ đội Nam Tiến. Tháng bảy vừa rồi thì nhận được tin anh em hi sinh ở Ban Mê Thuột.

Người mẹ lấy vạt áo lau nước mắt và kể lể:

- Thưa ông, cháu nhớ bố quá. Cứ thấy các anh bộ đội là sán đến, bán báo cho các anh. Các anh cũng
mến cháu. Thế rồi cháu đòi ở lại với các anh. Tôi đến gọi, cháu nằng nặc không chịu về. Ông trung đội
trưởng yêu cháu lắm, nhận cháu là em nuôi.

Thắng lườm mẹ:

- Anh Dân, u cứ gọi ông trung đội trưởng mãi.

- Anh với mày, chứ u gọi là anh thế nào được. Mày cứ cãi u thế. Nhà chỉ có một mẹ một con, nhưng cháu
đòi đi quá, tôi đành phải chiều cháu. Hôm qua, đến xin các anh cho cháu về một buổi cho đỡ nhớ, hôm nay
phải dẫn cháu đi ngay.

Trần Văn hỏi:

- Thắng không nhớ u ư?

Thắng nói:

- Em vào bộ đội thì cai báo không bắt nạt được em nữa. Đi u đi.

Trần Văn cúi xuống nhìn quả lựu đạn. Thắng cài khuy lại, thẹn thò vì đấy là quả lựu đạn giả. Người mẹ mỉm cười. Thắng khoe:

- Anh Dân làm cho em đấy. Anh ấy gấp cả thuyền cho em nữa.

Văn móc túi lấy tiền mua cho em mấy tờ báo. Thắng bỗng reo to một tiếng, quăng cả tiền xuống đất, chạy
lại với một người mặt bộ quần áo tím như thợ ở đầu Tràng Thi tiến lại. Thắng ôm choàng lấy người ấy:

- Anh Dân ơi, u em dẫn em đến. U em bằng lòng rồi.

Một cái cười rộng, thật thà nở trên môi dày của người áo vải tím mà Thắng kêu là Dân. Anh bế xốc Thắng
lên, và chỉ trong nháy mắt, Thắng đã ngồi trên vai Dân. Anh làm ra bộ khom khom lưng và nhăn mặt:

- Úi chà, nặng quá, nặng quá. Xuống ngay, xuống ngay.

Nhưng hai bàn tay rất to của anh vẫn nắm lấy hai chân Thắng buông thõng trước ngực. Anh công kênh Thắng tới trước người mẹ và nói, tiếng rất to:

-Chào bà. À, chào cả cô Nhân. Úi, hoa cúc đẹp quá.

Người mẹ bảo con:

- Xuống chứ con.

Thắng nhảy phóc từ trên lưng Dân xuống, quả lựu đạn giả văng ra. Dân nhặt lên, cười để lộ hai hàm răng
trắng muốt. Anh giậm giậm chân, doạ Thắng:

- Này nó nổ. Này nó nổ.

Anh thọc bàn tay rất lớn vào túi Thắng đút quả lựu đạn, và nói:

- Phê bình đồng chí nhá. Thôi để yên nó trong ấy không nó chạy mất.

Tất cả mọi người ở vườn hoa đều nhìn Dân và cười ròn tan. Dân là một thanh niên trạc ngoài hai mươi tuổi, vai rộng, người lớn. Một pho tượng lực sĩ nước da đen hồng, khuôn mặt trái xoan, lưỡng quyền hơi cao, đường nét gãy gọn, không bị thịt mỡ làm cho thô và nặng. Toàn thể toát ra một con người khoẻ mạnh, thật thà, giản dị, điểm đôi chút phớt đời. Anh là một thợ nguội, vốn người ngoài bãi, trước làm công cho hãng A.V.I.A.T. rồi sang hãng S.T.A.I., rồi thoát li để vào tự vệ chiến đấu thành. Sau khi học ở trường quân chính Bắc Sơn ra, Dân được chuyển sang bộ đội và hiện làm trung đội trưởng Vệ quốc quân bảo vệ khu vực Cửa Nam. Vì ban ngày sợ lộ nên mấy đêm hôm nay, Dân đi suốt dọc đường Tràng Thi, Hàng Khay để khoan các thân cây hai bên đường chuẩn bị đặt mìn nếu xảy ra tác chiến, và cũng để kiểm soát những lỗ cây đã khoan, vì quân Pháp đã cho một bọn Việt gian đi lấp lại các lỗ.

Người mẹ nói:

- Bố cháu mất rồi, cháu ở với các ông vậy, còn hơn để cháu ở nhà, tôi không trông nom được, cháu chỉ lêu lổng trèo me trèo sấu. Ở với các ông thì phải ngoan con nhớ.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM