NHỮNG NGÀY KHÔNG BAO GIỜ XA (2)
(tiếp theo)Đối diện với 4 tòa nhà 3 tầng ở ngõ ngoài là dãy nhà 1 tầng từ nhà số 7 sát tường với dãy nhà bên Yết Kiêu quay ra bên ngoài tới nhà 27. Kiểu nhà chung mái này có lẽ người chủ cho xây để cho thuê với phòng khách bên ngoài nhìn ra ngõ rợp bóng cây, tiếp đến phòng ngủ, rồi 1 khoảng sân có giếng thơi, một gốc cây ăn quả nhà thì nhãn, nhà thì na hoặc bưởi…cuối cùng dãy nhà bếp, nhà kho và khu phụ. Nhà nào cũng có cửa thông ra 1 ngách phía sau chung với dẫy nhà tương tự như thế ở ngõ trong.
Bên số chẵn của ngõ bắt đầu là nhà số 2 và kết thúc ở số nhà 24. Số nhà 24 là biệt thự 2 tầng của bác sĩ Trần văn Lai. Ông làm Đốc lý Hà Nội sau ngày Nhật đảo chính Pháp. Ông có công trong việc cho giật đổ các bức tượng thực dân Pháp dựng lên như tượng Paulbert ở vườn hoa Lý Thái Tổ hiện nay, tượng đầm xòe ở vườn hoa Cửa Nam…và đổi tên các phố ở Hà Nội mang tên tây của thực dân sang tên Việt mang tên các anh hùng dân tộc.
http://bee.net.vn/channel/1984/201002/Doc-Ly-nguoi-Viet-dau-tien-cua-Ha-Noi-1742156/Biệt thự của Bác sĩ Trần Văn Lai (bà con dân phố gọi bằng cái tên thân mật là cụ Đốc Lai) đẹp lắm, bên trong hàng rào sắt là vườn trồng các loại hoa như hoa hồng, hoa sói, rặng râm bụt, đường vào trải sỏi với viền cỏ trồng hoa tóc tiên, mười giờ. Góc sân sát với nhà 22 là 1 gốc hoàng lan cao vút như tôi đã nói ở trên. Ngoài các loại hoa trong vườn và xung quanh nhà được trồng nhiều loại cây ăn quả như bưởi, na, roi, lựu…và 2 hàng cau ở 2 bên tòa nhà chính. Mùa nào thức ấy bà con xung quanh và lũ trẻ chúng tôi được người nhà cụ mang cho những sản vật từ vườn nhà. Sát tường với khu đất bên trường Mỹ thuật là ga-ra ô-tô của cụ. Ngày ấy cụ có cái xe Pô-bê-đa hàng ngày đưa cụ đi làm. Buổi sáng, chú lái xe lấy xe đưa cụ đi làm, 11g trưa đưa cụ về nhưng xe để ở cổng nhà, đầu giờ chiều xe lại đưa cụ đi, chiều về xe mới đưa vào ga-ra. Buổi trưa nào cũng thế lũ trẻ chúng tôi xúm xít xung quanh xe của cụ, trầm trồ, suýt soa, sờ mó rất nương nhẹ, tuyệt nhiên không một trò nghịch ngợm dại dột nào với chiếc xe. Đây chính là biểu hiện sự kính trọng với cụ, mặc dù chúng tôi không hề ý thức cương vị của cụ lúc ấy. Mỗi khi nghe tiếng còi ô-tô của cụ ở đầu ngõ, cụ xuống xe đi bộ vào, lũ trẻ chúng tôi chơi gì thì chơi đều reo lên : “Bác Lai! Bác Lai về!” và ùa ra đầu ngõ xúm xít nắm lấy tay bác. Cụ Lai với nụ cười nhân hậu, chòm râu bạc phất phơ, tay trong tay với lũ trẻ có cái gì đó giống với hình ảnh của Bác Hồ với thiếu nhi.
Ngõ trong đi từ nhà 31 cho đến nhà 59. Tương tự như dãy 1 tầng của ngõ ngoài, ngõ trong cũng chỉ có nhà 1 tầng kiểu cách cũng na ná giống nhau. Ngõ trong khác với ngõ ngoài không hề có một bóng cây nào mà lại theo trục Đông - Tây cho nên nắng suốt từ sáng cho đến chiều.
Ngày ấy trong ngõ chỉ trừ 1 số ít nhà là có máy nước, những nhà còn lại đều có giếng nước để dùng. Người ta giặt giũ, tắm giặt bằng nước giếng, còn nước ăn thì lấy từ vòi nước công cộng ở đầu ngõ gần cổng vào nhà 107 Trần Hưng Đạo. Mãi đến sau 1975 người ta mới chuyển cái vòi nước công cộng từ ngoài đường THĐ vào giữa ngõ tạo thuận lợi hơn cho sinh hoạt của cư dân trong ngõ. Giữa những năm 90 của TK trước việc cấp nước sạch đến từng số nhà đã chấm dứt việc chầu chực hứng nước ăn ở vòi nước công cộng. Vai trò lịch sử của vòi nước công cộng chấm dứt vào thời gian này.
Ngôi nhà của ông nội tôi xây gồm 2 khối nhà 2 tầng. Khối nhà ngoài mang biển số nhà 14 được xây năm 1920 nhưng đi chung vào cổng số 16. Khối nhà trong dùng làm nhà khách và nhà thờ. Kiến trúc của 2 khối nhà mang đậm mầu sắc đầu TK 20. Từ ngoài ngõ đi vào qua 1 cái cổng cuốn với hai bên đắp những dòng câu đối đã mờ đi với thời gian, trên cổng có đắp những hình hoa lá theo phong cách thời đó. Từ cổng theo ngõ đi vào nhà (mọi người thường gọi là ngõ 16), một bên là bức tường ngăn với nhà 18, 1 bên là nhà 14.
Theo lời bà nội tôi kể lại: sau khi xây xong ông bà nội tôi cùng gia đình ở đây (khối nhà ngoài thuộc số 14), phía ngoài là nhà xép dùng cho người làm ( nhà xép này có cửa ở ngõ chính đeo biển số 14, giờ người ta phá đi xây lên một ngôi nhà 4 tầng theo phong cách mới và họ đã phá mất cái cổng ngõ 16 như tôi nói ở trên). Cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ qua cổng vào 1 khoảng sân nhỏ với bể nước mưa, 1 giàn trầu không che nắng Tây rọi vào nhà, ngách trái thông sang nhà bếp liền với sân giếng của khối nhà trong bên 16, bên phải là phòng khách rộng rãi với hàng cửa sổ mở ra ngõ 16 rất thoáng mát. Hai cột nhà được trang trí những lá đề với bệ đỡ tạo ra 2 không gian sinh hoạt khác nhau. Bên trong cùng là buồng xép có cửa thông sang nhà xép của người làm. Bên này có cầu thang đưa lên tầng 2. Tầng 2 ban đầu là chỗ nghỉ của người nhà, sau các bác tôi đặt một bàn thờ rất lớn ở đây. Tầng 2 có sân thượng rộng nhìn xuống nhà xép ở dưới. Ở đây có rất nhiều cửa sổ, sàn được lát gỗ, trần vôi rơm tạo ra không khí rất thoáng đãng.
Khối nhà trong mang biển số 16, ông nội tôi xây vào năm 1922. Từ cổng ngoài ta vào đến cổng trong rộng hơn cũng với những hàng câu đối đắp nổi, bên trên cũng nhưng trang trí lá thiên tuế, lá đề, dây leo…Lô đất này không vuông vức mà lại van vát hình thang không đều nhau. Ông nội tôi cho xây phía ngoài dãy bếp, khu phụ kết hợp khu bếp của khối nhà ngoài lấy cổng vào chính giữa, phía trên là sân phơi lát gạch nem. Khối nhà trong có nhiều cái khác với khối ngoài mặc dù các họa tiết trang trí phia ngoài giống nhau. Tầng 1 gồm 3 gian, gian giữa làm phòng khách cũng có 2 cột như khối nhà bên ngoài nhưng không gian bên ngoài hẹp hơn. Gian giữa dùng làm phòng khách có các cửa thông sang 2 gian bên. Hai gian bên dung để cho người nhà nghỉ ngơi. Cửa vào của gian giữa làm bằng gỗ lim dầy có chạm trổ các họa tiết chùm nho, chữ thọ, đầu con dơi…những hoa gió của cửa được đúc bằng gang ghép với nhau bằng đinh tán có hình chữ thọ. Mái hiên dáng dấp của đình, chùa có mái đao 2 bên. Đặc biệt trên tầng 2 là không gian rộng với những hàng cột lim chia làm 7 gian với đầy đủ đòn tay, rui, mè, quá giang giống như một ngôi nhà truyền thống ở nông thôn Bắc bộ. Toàn bộ sàn nhà được lát bằng những tấm gỗ lim dầy. Dọc theo bức tường hậu là dãy cửa sổ mở rộng về hướng Tây, từ đây chúng tôi nhìn thấy đồng hồ ga Hàng Cỏ với hàng chữ số la-mã ngay ngắn trên nóc nhà ga, phía sau là nhà Minh Nam - 1 xưởng cơ khí sau này là NM cao su Thống Nhất, bây giờ là 1 tòa nhà lớn làm văn phòng cho thuê.
Gian giữa của khối nhà này chính là nơi tôi lớn lên và bắt đầu nhận thức được thế giới xung quanh, nơi gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ, nơi từ đây tôi đã chia tay gia đình để thành 1 người lính mà trong những đêm dài của chiến tranh hình ảnh thân thương ấy luôn trở về với tôi hàng đêm.
(còn tiếp)