Phần tiếp theo:
Câu chuyện cảm động về người mẹ chồng đi gả chồng cho con dâu
Ngày chồng chị vào chiến trường, anh để lại cho chị một lá thư ghi địa chỉ của Trần Văn Thủy – người bạn thân thiết của anh. Chị không biết rằng anh cũng tình cờ gặp người bạn thân Trần Văn Thủy trên chuyến tàu đó. Trong lúc gặp nhau vội vã đó, anh đã nói: “Khi mình đi vắng, hãy thay mình chăm sóc mẹ con Vân”. Lời nhắn nhủ đó không ngờ lại thành sự thật. Nó đã đưa chị và anh Thủy đến với nhau, gắn kết cuộc đời anh chị với nhau. Phải đến sau ngày đất nước giải phóng, chị mới gặp anh Thủy – người bạn cũ thân thiết của chồng chị. Biết tin bạn mình đã hi sinh, giữ đúng lời hứa với bạn, Trần Văn Thủy thường qua lại nhà thăm hỏi mẹ con chị. Thỉnh thoảng anh đưa chị đi chơi. Ban đầu là tình bạn, sau là một thứ tình cảm đặc biệt hơn thế. Có một ngày anh viết thư ngỏ lời với chị: “Ngày xưa có lần Căng nhờ tôi chuyển quà về cho Vân. Lần đầu gặp Vân, tôi đã xao lòng trước người con gái xinh đẹp, hiền lành, có mái tóc dài chấm gót. Nhưng khi đó, biết Vân là người yêu bạn mình, tôi chỉ biết mỉm cười chúc phúc cho hai bạn. Giờ Căng đã hi sinh, liệu tôi có thể thay Căng chăm sóc Vân, yêu thương con gái của Vân và Căng? Liệu tôi có thể là chỗ dựa cho mẹ con Vân suốt cuộc đời sau này?” . Khi đó anh vẫn là trai tân. Nhưng bất chấp điều đó, anh vẫn dành cho chị - người phụ nữ đã qua một đời chồng và có một đứa con – một tình yêu chân thành.
Sau khi chồng mất, chị vẫn ở trong ngôi nhà 36 Hoàng Diệu cùng bố mẹ chồng. “Gái một con trông mòn con mắt”, trong nỗi đau mất chồng, chị vẫn đẹp, dù vẻ đẹp đó chất chứa sự u buồn. Ngày đó, nhiều thanh niên chưa vợ vẫn xao lòng trước vẻ đẹp của chị. Họ thường đứng trước cửa ngôi nhà 36 Hoàng Diệu lấy cớ gặp chị. Nhưng chị không mở lòng với bất cứ ai. Suốt gần 4 năm sau khi chồng mất, chị đã đinh ninh mình sẽ sống một mình. Nhưng mẹ chồng chị thì không bao giờ nghĩ thế. Trong sâu thẳm trái tim bà, bà đã coi chị như con ruột của mình. Bao nhiêu tình thương dành cho con trai, bà dồn hết sang cho chị và cháu nội. Những ngày chị đi sơ tán, cứ cuối tuần có xe của cơ quan chị lên nơi sơ tán, bà lại tất tả đạp xe đến chỉ để gửi cho chị một ít pate, một chút quà bánh. Có bao nhiêu tem phiếu, bà đều dành mua những thứ quà bánh gửi lên cho chị. Lần nào bà cũng gửi cho chị một lá thư đầy yêu thương và dặn dò. Khi đó bà như một người mẹ dứt ruột đẻ ra chị, chứ không phải một người mẹ chồng như bao người mẹ chồng khác. Có lần trong thư, bố mẹ chồng chị viết: “Cây chanh bố mẹ trồng giờ đã rất sai quả. Bố mẹ phần con cả cây, để dành bao giờ con về gội đầu”. Chị không nhớ mình đã khóc bao nhiêu lần khi đọc những lá thư đầy tình cảm của bố mẹ chồng dành cho mình.
Nhưng mẹ chồng chị cũng hiểu, tình thương của bà dù lớn lao đến mấy cũng không thể đủ bù đắp những thiệt thòi cho chị. Bà thương chị còn trẻ, còn đẹp, còn đang độ son sắc mà phải chịu cảnh sống cô đơn, góa bụa. Dù xót con trai, dù thương con trai đến cháy ruột cháy gan, dù là vợ một vị Tướng quyền uy, bà vẫn không muốn con dâu mình phải sống góa bụa suốt đời. Bà nói với chị: “Bố mẹ thương con như con gái. Nhưng bố mẹ sẽ không sống bên con cả đời. Các anh chị em trong nhà có thương con thì chúng nó cũng chỉ dành cho con được những lời an ủi. Sau này bố mẹ chết đi, các anh chị mỗi người mỗi phận, chúng nó sẽ chẳng thể lo lắng cho con. Con phải tìm một người đàn ông tốt, để mẹ con con có thể nương tựa sau này”. Thời đó, dù xung quanh chị có rất nhiều người theo đuổi, nhưng khi biết Trần Văn Thủy – người bạn thân của con trai mình có ý với chị, mẹ chồng chị đã ra sức vun vào cho tình cảm đó. Bà bảo với chị: “Thằng Thủy là quân nhân. Nếp sống của anh cũng giống với nếp sống của gia đình mình. Mẹ thấy nó tốt tính, thật thà. Nó sẽ là chỗ dựa cho con”. Vì lời khuyên của mẹ chồng, vì những cảm tình với anh vì biết anh là bạn thân của chồng mình, cuối cùng chị cũng gật đầu đồng ý làm vợ anh.
Chị bảo đời chị, chị biết ơn nhất, yêu thương nhất, kính trọng nhất là mẹ chồng chị, dù bà không mang nặng đẻ đau chị, nhưng bà đã yêu thương chị bằng một tình yêu nhân ái đến lạ kỳ. Ngày chị đi lấy chồng lần hai, chị không gặp bất cứ khó khăn gì từ bố mẹ chồng, nhưng lại gặp phải sự phản đối quyết liệt từ chính mẹ ruột mình. Bố chị hi sinh khi mẹ chị mới 25 tuổi. Khi đó bà mới có một mình chị. Bà đã ở vậy nuôi con suốt đời. Vì vậy, khi thấy con gái mình lặp lại số phận của mình, bà cũng đinh ninh con gái mình sẽ đi đúng con đường bà đã đi, sẽ ở vậy thờ chồng, nuôi con. Bà không bao giờ cho phép chị được đi bước nữa. Biết suy nghĩ của bà thông gia, nên có một dạo ngày nào cũng như ngày nào, cứ buổi trưa khi cả gia đình đang nghỉ trưa, mẹ chồng chị lại giấu cả chồng, giấu con dâu, đạp xe hai chục cây số từ Hoàng Diệu về tận quê bà thông gia ở Thanh Trì để thuyết phục bà thông gia đồng ý gả chồng cho con dâu mình. Mẹ chồng chị nói với mẹ ruột chị: “Nó trẻ trung như thế. Thế hệ chúng nó cũng hiện đại hơn thế hệ chúng ta. Bà không thể bắt nó sống như bà suốt đời được”. Nhưng mẹ chồng chị thuyết phục từ ngày này sang ngày khác, nói hết nước hết cái, mẹ ruột chị trước sau chỉ nói một câu: “Tôi chỉ gả con một lần”. Bất lực vì không thuyết phục được bà thông gia, mẹ chồng chị gạt nước mắt nói: “Bà không gả thì tôi gả. Bà đã gả nó về nhà tôi, nó đã là dâu con nhà tôi. Bà không gả nó, tôi sẽ đứng ra gả nó”. Bà nói thế và bà làm thật.
Ngày chị đi lấy chồng, mẹ ruột chị nhất định không chịu đến. Mẹ chồng chị đứng ra lo liệu việc đưa chị về nhà chồng. Bà sắm cho chị từ bát đũa đến nồi niêu xoong chảo để chị bắt đầu cuộc sống mới. Nhiều người thấy bà gả chồng cho chị đã nói với bà: “Con dâu bà đi lấy chồng khác thì bà phải giữ cháu nội lại chứ”, nhưng bà đều gạt đi. Bà nói: “Tôi có cho cháu tôi ăn vàng ăn bạc, cũng không bằng để nó ở bên mẹ nó. Nó ở với mẹ, dù ăn cơm độn khoai, nhưng được mẹ yêu thương. Cái đó là cái tôi không cho nó được. Cháu tôi đã mồ côi cha, tôi nỡ lòng nào chia tách mẹ con nó”.
Chị đi lấy chồng mới, mẹ chồng chị vẫn yêu thương chị, vẫn coi chị như con đẻ. 3 lần chị sinh con với người chồng thứ hai, mẹ ruột chị đều không có mặt, nhưng cả 3 lần mẹ chồng chị đều đến nhà hộ sinh. Bà bảo, bà đến để đón cháu của bà về. Lần chị sinh đứa con gái thứ 3, bà đến đúng lúc chị đi ra ngoài. Nhưng lúc chị vào, chị đã thấy bà đang bế ẵm đứa con gái mới sinh của chị đầu âu yếm. Chị ngạc nhiên hỏi mẹ chồng, sao mẹ biết đó là con của con, thì bà cười nói: “Mẹ chỉ cần nhìn, chỉ cần ngửi là đã thấy nó đúng là con cháu nhà mình”. Lúc ấy, chị chỉ biết quay mặt đi, không để bà biết là chị đang khóc.
Chị không bao giờ quên những lần bà đến đón chị ở nhà hộ sinh sau mỗi lần sinh nở, gọi cho chị chiếc xích lô để đưa mẹ con chị về nhà, còn bà thì cứ đạp chiếc xe đạp cọc cạch đi sau xích lô, vừa đi vừa lo lắng sợ mẹ con chị gặp nắng, gặp gió. Cả đời bà sống khắc khổ, ăn không dám ăn, tiêu không dám tiêu. Bà nuôi lợn, nuôi gà, tằn tiện đến cuối đời cũng dành được 24 chỉ vàng. 24 chỉ vàng đó, bà chia đều cho tất cả các con, các cháu, mỗi đứa một chỉ. 4 đứa con của chị - 1 đứa con đầu với người chồng trước là con trai bà và 3 đứa con với người chồng sau- cũng nhận được món quà đó của bà, dù những đứa con sau này của chị, không thể nói là cháu ngoại của bà, cũng không thể nói là cháu nội của bà. Nhưng bà thì yêu thương tất cả những đứa cháu ấy mà chưa một lần so đo toan tính. Chị nhớ, những ngày bà nằm viện trước khi mất, nhiều người đến thăm thấy chị ở đó chăm sóc bà mới hỏi bà chị là con dâu hay con gái. Lúc đó nằm trên giường bệnh, bà cười hiền hậu và yếu ớt nói: “Gọi là dâu cũng đúng, gọi là con cũng không sai”.
Khi đó, những người đến thăm không hiểu vì sao chị khóc…
Bà mất cách đây 2 tháng, trước dịp Tết Nguyên đán 2011. Trong di chúc của bà, bà chia đều tài sản của mình thành những phần bằng nhau, một phần trong đó là dành cho chị - cho người con dâu đã được bà yêu như máu mủ, ruột già. Tôi không hỏi bà để lại cho chị những gì trong di chúc đó, nhưng tôi biết dù đó là bất cứ thứ gì, thì với chị đó cũng là vô giá.
Người phụ nữ hai đời chồng nhưng chưa từng một lần chụp ảnh cưới
Ngày chị đi lấy chồng lần thứ hai, có hai điều chị lo lắng nhất: chị sợ mất đi tình cảm yêu thương mà chị vô cùng trân trọng của gia đình nhà chồng; và chị sợ người chồng chị cưới sẽ không yêu thương đứa con gái mồ côi của chị. Nhưng đến giờ thì chị biết, tất cả những lo lắng đó là thừa. Vợ chồng anh chị vẫn mãi mãi là con của gia đình Tướng Vương Thừa Vũ, vẫn được ông bà yêu thương như những người con khác. Và điều chị tự hào nhất là người chồng sau này của chị đã thay liệt sỹ Vương Thiết Căng làm con của ông bà, đứng ra lo lắng công việc mỗi khi gia đình có công to việc lớn.
Người chồng đầu của chị - liệt sỹ Vương Thiết Căng mất từ năm 1972. Nhưng mãi đến sau này, gia đình mới tìm được mộ anh. Và người vào chiến trường Quảng Trị năm xưa để đưa hài cốt anh về không phải ai khác mà chính là người chồng bây giờ của chị - anh Trần Văn Thủy. Khi tìm thấy mộ người bạn của mình, suốt đêm hôm đó, anh Trần Văn Thủy đã ngủ trong gian phòng đặt chiếc quách đựng hài cốt, để có thể trò chuyện với người bạn đã hi sinh của mình sau bao năm không gặp lại. Hôm đó trước mộ bạn, Trần Văn Thủy đã khấn: “Mình lớn hơn Căng hai tuổi nhưng lại đến sau Căng, nên mình xin được làm em của Căng. Mình xin phép Căng được thay Căng chăm sóc cho mẹ con Vân”.
Liệt sỹ Vương Thiết Căng mất từ năm 1972, nhưng đến bây giờ, sau gần 40 năm, anh vẫn hiện diện trong ngôi nhà của vợ chồng chị. Tất cả những người con của chị đều gọi anh là bố Căng. Những chiếc tã lót, những bộ quần áo anh dành dụm tiền để mua tặng cho con gái đầu lòng, chị vẫn dùng để mặc cho những đứa con sau này của mình. Chị giữ gìn những bộ quần áo lót của anh, những bộ pijama đến những bộ quân phục anh mặc trước lúc mất. Và những bộ quần áo đó bây giờ chồng chị vẫn mặc. Bởi chồng chị nói, đó là cách anh muốn gần gũi, gắn bó hơn với người bạn đã hi sinh của mình. Vào mỗi buổi tối, chị thường có thói quen mang những lá thư, những bài thơ kỉ vật mà người chồng cũ để lại ra đọc. Những lúc đó chồng chị đều tế nhị im lặng đi ra chỗ khác. Anh muốn để cho chị một góc riêng tư để nhớ nhung, hoài niệm.
Chồng chị yêu thương đứa con gái riêng của chị bằng một tình yêu không khác gì máu mủ. Có lẽ bởi, ngoài tình yêu với chị, còn có cả tình đồng đội, tình bạn của anh với người chồng đã hi sinh của chị. Cả hai tình yêu đó đã dồn lại, tạo ra một tình yêu lớn hơn mà anh dành cho cô con gái riêng của vợ mình. Ngày mới lấy nhau, anh chị còn nghèo. Nhưng có lần, vì muốn con gái mình bằng bạn, bằng bè, anh đã nhịn ăn, nhịn tiêu, bỏ ra số tiền bằng cả tháng lương chỉ để mua cho con gái chị một chiếc áo khoác đẹp. Anh dựng vợ, gả chồng cho con 4 lần, 3 đứa là con do anh dứt ruột đẻ ra, một đứa là con riêng của chị, nhưng chỉ duy nhất lần đưa con gái chị về nhà chồng, chị mới thấy anh khóc. Không phải khóc bình thường, mà khóc nức nở như một đứa trẻ. Anh yêu thương con gái chị đến nỗi mãi đến tận sau này, khi lớn lên và thực sự hiểu chuyện, con gái chị mới tin anh chỉ là bố dượng chứ không phải bố đẻ ra mình. Nhưng điều đó cũng chẳng ngăn cản tình yêu mà hai bố con dành cho nhau. Chị kể: “Trong nhà có treo cả ảnh bố Căng, cả ảnh bố Thủy. Nhưng có những lần có khách đến chơi, khách chỉ vào ảnh bố Căng và hỏi ai đấy, con gái tôi bảo đó là bác, chứ không dám nhận là bố. Không phải nó không yêu bố, không tự hào về bố. Nhưng nó sợ điều đó sẽ làm cho bố Thủy buồn”. Năm 2004, khi con gái của chị với liệt sỹ Vương Thiết Căng mất sớm vì căn bệnh u não, theo phong tục truyền thống, chị không được đưa con đi chôn cất. Nhưng những người đưa con gái chị về quê an táng đã kể lại rằng hôm đó, chồng chị cứ ngồi bên gốc cây hồng xiêm trong vườn, ôm mặt khóc nức nở. Bởi với anh, đứa con gái vừa mất đi, không khác gì ruột thịt, thậm chí là còn hơn thế.
Có một điều mà chị mãi ân hận sau khi người chồng đầu tiên của mình hi sinh, đó là suốt những năm tháng yêu nhau rồi nên vợ nên chồng, chị và anh chưa một lần có cơ hội chụp chung một bức ảnh, bởi chiến tranh cứ liên miên và những lần anh về thì đều vội vã. Nên sau này, trong cuộc hôn nhân thứ hai của mình, chị đã cảm động đến ứa nước mắt, khi người chồng sau này của chị cũng đồng ý với chị không chụp ảnh cưới. Đến bây giờ, sau bao năm chung sống, ngoài những bức ảnh chụp chung cùng với con cháu, anh chị cũng không bao giờ chụp ảnh riêng với nhau, như một cách anh chị thể hiện sự tôn trọng người đã khuất. Chị nói với tôi, suốt bao nhiêu năm nay, khi sống với người chồng sau này – Trần Văn Thủy – chị chưa bao giờ nghe anh gọi một tiếng em, xưng anh ngọt ngào như với người chồng trước. Anh chỉ gọi cậu, xưng tớ lúc trẻ, gọi bà, xưng tôi lúc về già, nhưng chị hiểu tình yêu và sự chân thành mà anh dành cho chị. Chị vẫn nói với anh, cuộc đời chị có hai người đàn ông. Hai người đàn ông đó chị yêu bằng hai cách khác nhau. Với người chồng đầu tiên – mối tình đầu của chị là một tình yêu thi vị và lãng mạn, thì với người chồng thứ hai là tình yêu của sự chia sẻ, cảm thông và đầy biết ơn. Đó là hai mối tình mà chị một đời gìn giữ. Để sau này, khi nhắm mắt xuôi tay, chị có thể mỉm cười về cuộc đời mình, về những tình cảm, những sự yêu thương mà chị đã có được trong những năm tháng sống trên đời.