Nguyễn Như Thìn vừa gửi cho tôi thêm 1 bài nữa
Tôi là – cái ba-lô
[/b]
Nguyễn Như Thìn
Tôi là cái ba-lô. Tôi sinh ra ở Mỹ, trên một dây truyền sản xuất quân trang hiện đại. Các kỹ sư tài giỏi đã dầy công nghiên cứu, thiết kế, chế tạo ra tôi để phục vụ cho chiến tranh được tốt nhất. Về hình dáng, trông tôi hầm hố với những đường nét gân guốc phong trần. Về công năng, tôi lại càng vượt trội so với đồng loại. Chẳng cần khiêm tốn làm gì, tôi xin kể ngay đây. Trước hết là hai cái quai, nó được trần một lớp bông hóa học dầy, rất êm ái khi đặt lên vai người lính. Giữa hai quai là hai cái khóa rất đơn giản. Khi mang nặng, lúc cần hạ xuống nghỉ ngơi, người lính chỉ cần giật nhẹ hai cái tai, khóa bung ra, tôi tiếp đất thật nhẹ nhàng. Sau lưng tôi là ba túi cóc cũng như nhiều đồng loại. Nhưng khác biệt là, khóa của túi cóc, không phải dây buộc như mấy thằng Trung Quốc, hay bằng đồng vừa nặng vừa rắc rối như mấy anh bạn màu ô-liu quai ngắn, đồng hương. Khóa của tôi vừa cài lại vừa bấm, bằng nhựa nhẹ, rất thuận tiên cho lính tùy thích sử dụng. Trên vai tôi là cái nắp được may bằng hai lớp vải tráng cao su, tạo thành một cái túi bí mật đựng những tài liệu giấy tờ, chống nước rất hữu hiệu. Đặc biệt, tôi được dệt bằng sợi tổng hợp má lính quen gọi là vải dù. Nó rất nhẹ, chịu được nước và rất chóng khô khi chẳng may dính nước.
Váo những năm 70 của thé kỷ trước, tôi xuất xưởng, thằng tân binh khoác chiếc áo màu cỏ úa mới tinh là tôi xuống tầu sang Việt Nam tham chiến. Ban đầu, chủ tôi là một viên sĩ quan trẻ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Khí hậu miền Trung Việt Nam thật khắc nghiệt. Khi thì gió Lào cát trắng, nắng giòn quân phục, lúc thì mưa lũ, trắng xóa cả mặt đất và bầu trời . Chỉ một năm nếm mùi trận mạc, nước da tôi nhanh chóng ngả sang màu cỏ chết. Quảng Trị , mùa hè đỏ lửa năm 1972, đại đội của viên sĩ quan trẻ tử trận non một nửa. May mắn thoát chết, anh ta cõng tôi chạy tới tận sông Mỹ Chánh. Rồi nhờ có hỏa lực mạnh của đồng minh, tôi lại theo viên sĩ quan phản kích tới gần bờ nam sông Thạch Hãn. Nhưng, cái ngày định mệnh 27 tháng 1 năm 73, trận Cửa Việt, viên sĩ quan tử trận. Tôi bị bỏ rơi lăn lóc trên bãi cát trong một đêm lửa đạn kinh hoàng. Sóng giận dữ mấy lần lôi tuột tôi xuống biển khơi, rồi lại ném tôi phơi lưng trên triền cát trắng, thật tủi nhục.
Sáng ra, một anh lính Giải Phóng trẻ đi ngang qua, có lẽ vì hình thù kỳ dị và những công năng hiển hiện của tôi mà anh không bỏ qua. Tháo cái khung sắt vừa nặng lại chẳng mấy tác dụng quẳng xuống biển, ông chủ mới thu nạp tôi. Kể từ đây, cuộc đời tôi rẽ sang một trang mới lắm gian truân.
Năm 73 sau Hiệp định Pari , tạm yên tiếng súng. Nằm trong lán, thẳng hàng với chục thằng không cùng chủng tộc, tôi luôn bị dòm ngó, đố kỵ, dèm pha. Nhất là khi cấp trên xuống kiểm tra điều lệnh nội vụ. Bọn chúng vuông thành, sắc cạnh, nằm nghiêm tăm tắp. Còn tôi, chẳng giống ai, chỗ cần tròn thì lại vuông mà chỗ cần vuông thì lại cứ cong như trêu ngươi mấy sếp.Vì tôi, tiểu đội của ông chủ chẳng mấy khi đạt điểm thi đua. Mà nhìn mấy thằng đồng đội bất đắc dĩ thật đáng ghét. Lúc còn trận mạc, nom chúng dúm dó, bẩn thỉu và hôi hám. Vậy mà giờ đây, ngực căng tròn , chúng cứ dương dương tự đắc sáng lòa. Ngữ này chỉ hợp với thời bình thôi. Tôi nghĩ thế. Lo sợ vì thi đua mà ông chủ quẳng quách tôi vào đống rác. Nhưng không, ông là người thực tế, thành tích thi đua chỉ là trò vớ vẩn. “Hay, hay không đến cửa công mới biết”. Mà cũng chẳng cần chờ đến ngày trận mạc. Cơn bão số 7 năm 74, mưa như hắt nước vào mặt, gió như tát thẳng vào tai, đại đội hành quân dã ngoại, nửa đêm hạ trại giữa rừng già. Lính vừa đói vừa rét. Ướt như chuột lột, riêng tôi thì không. Cái bật lửa và mấy cuốn nhật ký, mà ông chủ quí hơn vàng trong túi bí mật vẫn khô nguyên. Hơn nửa tiếng sau tiểu đội ông chủ tôi đã có cơm ăn, cũng chừng ấy thời gian, tiểu đội đã có chỗ nằm, trong khi, đội bạn vẫn rét run, chạy đi, chạy lại, xin lửa rối rít. Cũng tài thật, ngoài trời vẫn mưa gió bão bùng.
Đầu năm 75 tôi theo ông chủ đi chiến dịch xuân hè. Một đêm tháng giêng rét mướt, tối như bưng, đại đội vượt sông Ba Lòng . Nước lạnh giá như đóng băng. Bất ngờ phao của ông chủ tôi bị rách. Ông chủ bơi giỏi lắm, tính mạng chắc chẳng đáng ngại. Nhưng còn súng đạn…Tôi cố gồng mình lên, lớp vải dầy liên kết lại, trở thành một cái phao bất đắc dĩ đưa ông chủ sang tới bờ. Tôi đã cứu ông một bàn thua trông thấy. Có lẽ, ngựa Xích thố cứu Quan Công cũng chỉ đến thế là cùng. Kể từ đấy, tình cảm giữa ông và tôi càng thêm sâu nặng. Tôi theo ông dong ruổi khắp các nẻo đường chiến dịch. Đến giữa tháng tư năm 75, trứơc cửa ngõ Phan Rang, tôi bị thương. Một mảnh bom găm vào sườn trái, thủng một lỗ. Ông chủ tôi xót xa lắm, ông không nói gì, chỉ vuốt vuốt chỗ đau . Mặc dù bị thương, song tôi vẫn cố theo ông đến tận Sài Gòn. Thật là vui, ngày đại thắng…Nhưng lắm lúc cũng thấy thật buồn tủi. Thỉnh thoảng đại đội lại báo động đột xuất. Chúng tôi bị lôi ra một con phố nhỏ, lộn ngược hết cả ra, xấu hổ quá, chẳng khác gì cởi truồng trước bàn dân thiên hạ. Chắc các thủ trưởng sợ, chúng tôi chứa văn hóa đồi trụy chăng?
Thôi vứt quách hết nỗi buồn phía sau, tôi ôm lưng ông chủ ra Bắc. Ông được ra quân trở về trường cũ. Tuyệt vời ! Từ ga Hàng Cỏ thả bộ về nhà, dân thủ đô nhìn chúng tôi như người ngoài hành tinh. Chắc cả chủ lẫn tớ trông đều quái dị lắm. Mà cũng phải, sau bốn năm trận mạc, không quái dị một chút mới là lạ. Ngay cả nhũng người thân của ông chủ, cũng nhìn tôi không mấy thiện cảm, đặc biệt là bà mẹ. Dường như tôi là hiện thân của chiến tranh, của chết chóc, của mất mát đau thương.( Anh trai ông chủ tôi vĩnh viễn không trở về). Nếu biết tôi mang quốc tịch Hoa kỳ, chắc bà còn ghét tôi lắm. Một chiều mưa gió, bà gói gém tôi cùng với thằng Xanh-tuya-rông, cái bi đông và con dao găm, sao bà ghê sợ và ghét con dao thế, ném vào thùng rác. Cỏ lẽ bà nghĩ, hết chiến tranh rồi, lũ chúng tôi chỉ gây thêm phiền toái mà thôi. Cũng may, ông chủ tôi phát hiện, giấu biến chúng tôi lên gác xép cao tít.
Những tưởng cuộc đời tôi được an bài từ đấy. Nhưng không, năm 1979 chiến tranh biên giới lại nổ ra . Thằng em ông chủ lại ra trận. Nó ngỏ lời xin mang tôi theo để lấy may. Ông chủ tần ngần giây lát, có lẽ không lỡ rời xa tôi . Nhưng rồi ông cũng chẳng giữ tôi lại nữa, chiến sự đang cần tôi mà, như ngựa chiến ngửi thấy mùi thuốc súng... Tiễn thằng em với ánh mắt trìu mến, nhìn chúng tôi lầm lũi lên đường, chút nữa ông rơi nước mắt. Đất nước ơi sao mà khổ thế.
Tôi lên Vị Xuyên, chứng kiến những trận đánh đẫm máu và ác liệt chẳng kém gì khi ở với ông chủ. Tôi lại bị thương. Nhưng lần này, có bàn tay dịu dàng của một sơn nữ mạng vá lành lặn, vết thương như thêu hoa kết gấm. Thỉnh thoảng bị nhẹ một tý thế này, kể cũng thú vị. Chiến tranh biên giới rồi cũng kết thúc, cùng thằng em ông chủ, tôi lại trở về đất kinh kỳ. Vẫn đôi mắt trìu mến ấy, ông chủ đón chúng tôi tận cửa ngõ . Tôi tin rằng, tình cảm ông dành cho chúng tôi là 50/50.
Giờ ông chủ tôi đã già, tóc đã bạc, chân đã yếu, mắt cũng mờ, vì bệnh tật và tuổi tác. Tôi cũng đã, quá bạc màu theo năm tháng, chỉ muốn mãi mãi nằm trên căn gác xép ẩm mốc, đánh bạn với lũ chuột nhắt tinh quái. Tôi rất sợ phải ra trận lần nữa, rất sợ những mảnh gang nóng chết người… Thỉnh thoảng ông chủ lại lôi tôi xuống, vuốt ve ngắm nghía. Đôi mắt sáng long lanh. Ông như sống lại những năm trai trẻ hào hùng. Ôi đôi mắt, đích thị là của người đang lên đồng. Tôi dám chắc, mặc dù đã ở tuổi sáu mươi, lúc ấy, vẫn còn có thể, ông bắn súng lục ông bơi thuyền rồng.
Tháng 5 năm 2011 NHƯ THÌN Ông chủ đang giới thiệu tôi với bạn bè