Tôi xin gửi tiếp cho các bạn một bài viết nữa của Nguyễn Như Thìn. Sức khỏe của Thìn không được tốt, tôi cứ phải động viên bạn mình khi nào gõ được thì gõ để chia sẻ với nhau những gì của một thời không thể nào quên ấy.
ANH LÍNH LẠC LOÀI
Nguyễn Như Thìn
Lần đầu tiên hắn xuất hiện trước tiểu đội, quần ống thấp ống cao, như mới đi bừa về. Người hắn toát lên một mùi ngai ngái cuả bùn đất, cái mùi ấy, theo hắn suốt cả đời binh nghiệp, chẳng hề phai.
Có thể nói hắn không đẹp trai, ấy là cách nói giản nói tránh. Đôi mắt to, nhưng không phải mắt bồ câu. Miệng hắn luôn phô ra hai tiểu đội răng rất mất trật tự, cái đứng nghiêm, cái nghỉ, cái ngồi. Đôi vai hẹp ngự trên bộ ngực lép, dưới nữa là cái bụng eo quá mức cần thiết. Nhưng ngược lại, hắn sở hữu một cặp mông nở nang khiến nhiều chị em phải ghen tỵ. Có lẽ bao chất bổ trong người đều dồn cả vào đấy. Khi hắn mặc quân phục, áo bỏ trong quần, nom như con bọ ngựa đang múa gươm. Mà cái áo thì khó bảo, lúc thụng ra như chiếc váy ngắn, khi thì tóp lại, bó sát tấm thân không đầy đặn, khiến hắn thẳng tưng như cây bút chì. Chiếc thắt lưng Liên Xô thít gần được hai vòng bụng. Mà chiếc thắt lưng, là nỗi khốn khổ. Nghe hướng dẫn mãi mới biết sử dụng. Những ngày đầu, cần giải quyết việc riêng tư, hắn đỏ mặt kéo, càng kéo càng chặt, tý nữa thì vãi ra quần. “
Giá có đoạn dây làm dải rút thì tiện”, hắn bảo thế. Nhưng giữa hàng quân mà lại có anh lính lạc loài dùng dải rút thì ai mà chấp nhận được.
Thôi chẳng muốn nói đến cách ăn mặc, đi đứng của hắn nữa. Chán lắm ! Muốn ra sao thì ra. Nhưng có việc, không thể, ra sao cũng được. Ấy là luyện tập kỹ năng chiến đấu của người lính. Hơn nữa, lại là lính 12 ly 7 trợ chiến. Cái bảng bắn máy bay, nhồi vào đầu hắn tai này thì lòi sang tai kia. Khi bắn đạn thật, bài bắn bộ binh, đạn toàn vọt lên trời, còn bắn máy bay, đạn lại găm xuống đất. Bó tay! Thôi để hắn chuyên
“xạ thủ số 4” vậy. Nghĩa là, chuyên khuân vác đạn. Được cái hắn khiêng vác khỏe, chẳng thấy phàn nàn gì. Nhưng cái ba-lô của hắn, rất nghịch mắt, lúc nào cũng gấp rưỡi đồng đội. Chẳng hiểu hắn đựng cái quái gì. Trông như cái bướu khổng lồ của con lạc đà châu Phi, khiến hắn rất khó đổi vai khi khiêng súng đạn. Có lần tiểu đội phải ra nghị quyết kiểm tra hành chính. Thôi thì trăm thứ bà rằn. Một quyển từ điển Nga-Việt của một lính sinh viên nào vứt lại vì quá nặng. Bốn năm tập giấy trắng. Tập được phát, tập đổi, tập xin. Mấy gói đường sữa được cấp từ hồi mới đi B. Hai bộ quần áo còn mới tinh, một bộ còn rung rúc. Rồi những chiếc vỏ lon, hộp đẹp mắt chẳng hiểu đã đựng những gì trước khi trở thành bộ sưu tập của hắn…vân vân và v.v...Có lẽ phải thanh lý bớt thôi cho dù hắn phản đối kịch liệt
“… để khi nào có dịp gửi về quê...” hắn giải thích thế. Còn quái dịp nào nữa, đánh nhau bỏ mẹ, người còn chẳng tiếc nữa là mấy thứ linh tinh. Nhẹ người còn để tránh mũi tên hòn đạn.
Nhưng, ngay cả mũi tên hòn đạn hắn cũng không buồn tránh. Kỳ lạ thật! hắn cứ ngẩn ngơ, thơ thẩn chuyện ruộng vườn. Trận đầu tiên, đào công sự trên mảnh ruộng trống trơn, hắn cứ ngắm nghía, bóp bóp, ngửi ngửi cục đất lẩm bẩm,
“ruộng này cấy hai vụ là ăn chắc”. Mặc cho tiểu đội đang lo lắng, căng thẳng, vì rơi vào tình huống sống còn. Ở vườn chuối, thấy mấy cây rau dền
“cổ thụ” lá to cỡ bàn tay, thân như gốc tre hắn suýt xoa. Ngoài mình mà có giống dền này, tớ chỉ trồng một vườn là có cả tạ rau. Sốt ruột hơn, thấy bao lúa bị vung vãi vì bom, hắn vốc một vốc những hạt thóc dài chẳng hiểu giống lúa gì nhét ngay vào ba-lô. Dường như hắn đang lên kế hoạch thời hậu chiến. Mỗi người một cách nghĩ, thôi kệ vậy. Nhưng bực nhất là khi, chẳng còn gì để ăn, bom đạn ác liệt, đành phải hậu cần tự túc. Có con bê bị thương do B52, may vớ được, đem thịt, hắn lậy như tế sao:
“ Tao xin chúng mày.. nó còn nhỏ quá …để nó sống”. Tình huống bi hài như sắp đem thân nhân của hắn ra pháp trường. Hắn chẳng chịu hiểu, làm sao con bê có thể sống được vài ngày khi mà trên mảnh đất này, mảnh gang của bom, đạn còn nhiều hơn là cỏ. Cứ ngơ ngơ như bò đội nón thì làm sao mà tồn tại được.
Ấy thế mà, hắn vẫn tồn tại. Dường như bom đạn cứ tránh hắn. Trận đầu rút lui, giữa đồng không mông quạnh, đạn như vãi trấu hắn chẳng việc gì. Trận Tám Cát hai phần ba tiểu đội thương vong hắn chẳng làm sao. Hai trận liền giữ chốt trên doi cát. Không một mét vuông nào tránh khỏi bom đạn cày xới, hắn cứ, chạy đi, chạy lại, tiếp đạn, như con thoi cho cỗ máy dệt ra toàn khói lửa. Mặt hắn ám đầy thuốc súng, đen nhẻm như móc dưới ruộng lên, nhưng quái lạ, hắn vẫn phảng phất ngai ngái mùi bùn đất. Trận Cửa Việt, ngày 27 tháng một năm 73, một ngày trước khi Hiệp Đinh Pa-ri có hiệu lực, B52 trần suốt ngày không theo quy luật. Bom nổ, bên trái một quả, bên phải một quả, hầm hắn ở giữa. Chiều, tối, rồi đêm, xe tăng ta, xe tăng địch, lính ta lính địch, pháo ta pháo địch trộn lẫn vào nhau. Một khoảng bờ biển chạy dài gần một km chỉ thấy lửa địa ngục. Những ánh chớp và tiếng nổ của thần sấm sét giáng xuống liên hồi. Sáng ra, trên mặt biển cuộn sóng, mặt trời từ từ, nhô lên, chiếu những tia sáng đầu tiên. Quang cảnh chiến trường hiện dần như trên một màn ảnh vĩ đại mà không một đạo diễn tài ba nào có thể dàn dựng nổi. Xác của những chiếc thiết giáp 23 ly, những chiếc xe tăng, của cả hai bên, có cái vẫn dựng lên những cột khói nghi ngút, nằm rải rác. Xa xa, bên mép nước, có tới cả trăm chiếc xe tăng của địch đang co cụm lại. Hắn chạy ra xem. Quá tầm gọi lại, nhìn đôi chân trần như bay trên cát mà thót cả ruột gan. Mìn cần chống tăng giăng như mạ cấy. Vậy mà hắn vẫn lành lặn trở về, xách theo một khẩu M79 gẫy thước ngắm, tòong teng như xách một cái điếu cày.
Năm 74, giữ chốt giáp ranh, kệ cho đồng đội căng mắt dõi nhìn mặt đất và bầu trời, vớ được đoạn tre, chẻ lạt, hắn đan. Chẳng hiểu hắn đan gì? Hóa ra, hắn đan một cái sàng. Hắn xúc cát sàng sàng, sẩy sẩy, gạn gạn, nhặt nhặt như dân đãi vàng. Rồi hắn nhúm được một dúm … một dúm sái thuốc lào. Cho vào điếu, kéo một hơi, hắn ngây ngất ngắm thành quả lao động của cả một ngày đang tan thành mây khói.
Nhưng chiến sự chẳng cho hắn ngồi sàng cát mãi. Năm 75, cùng đại quân, hắn đánh ngược ra Huế. Đánh xuôi Đà Nẵng. Ngồi trên xe hẳn hoi, hắn cứ lướt mỗi ngày một vài tỉnh. Bình, Phú, Khánh Hòa. Tràn vào Phan Rang, bất ngờ như lũ cuốn. Mấy tên cảnh sát Sài Gòn tay vẫn còn cầm tách café. Đêm tiếp quản Phan Thiết không một bóng người trên đừơng phố. Rồi Long Thành, Nhân Trạch, Cát Lái, Đồng Nai. Đồng đội hắn rơi rụng khá nhiều. Nhưng hắn vẫn không sao. Trưa 30 tháng 4, quần ống thấp ống cao, hắn bước vào dinh Độc Lập.
[/left]
Tháng 4 năm 2011
N.N.T