Tôi xin chuyển đến các bạn một bài viết nữa của
Nguyễn Như ThìnKHÁNH "VOI"
Đầu tháng 12 năm 71 hai tiểu đoàn sinh viên 5, 6 chia nhỏ bổ sung về các quân
binh chủng. Còn lại một số anh em chưa vể đâu phấp phỏng chờ đợi, đoán già, đoán non đơn vị mình sẽ được điều về. Trong cuốn nhật ký
Mãi mãi tuổi hai mươi của Thạc ngày 6-12 có ghi lại thời điểm đó. Hắn chê tôi sợ vào hỏa lực trợ chiến phải mang vác nặng gù lưng. Hắn chê tôi sợ chết muốn vào binh chủng tăng thiết giáp vì có vỏ thép dày che chở.
Ôi, sợ chết âu cũng là lẽ thường tình của những thằng lính trẻ, 18 đôi mươi chúng tôi, chửa biết cái chi chi, chết thì tiếc lắm.
Song, cả tôi và hắn đều nhầm. Sau này, tôi nhận ra có thứ còn đáng sợ hơn cái
chết. Đó là sự đầy đoạ về thân xác.
Người ta thường nói,
" ghét của nào trời trao của ấy". Cuối cùng tôi lại được
điều về tiểu đội 12 ly 7, đại đội 12 trợ chiến thuộc trung đoàn 101 sư đòan bộ binh 325.
Một tiểu đội 12,7 ly biên chế từ 10 đến 12 người. Trừ A trưởng mang kính ngắm và một khẩu AK, còn lại chia thành 3 tổ có nhiệm vụ mang ba phần chính của súng. Tổ 1 mang thân súng nặng 33 kg và một thùng đạn khoảng 10 kg. Tổ 2 mang chân súng nặng 34 kg và một thùng đạn. Tổ 3 mang bệ súng nặng khoảng 21 kg một hộp tiếp đạn và một thùng đạn cũng nặng chừng ấy.
Khi hành quân, thân và chân súng được hai cặp khiêng bằng hai chiếc đòn tre dài nặng chình trịch. Bệ súng hình thù kỳ dị đầy góc cạnh được một người vác . Những cạnh sắc như băm từng thớ thịt. Hơn ba chục cân có vẻ không quá nặng. Nhưng xin thưa, hành quân cả ngày trời dưới cái nắng miền trung, cộng với tư trang khoảng 30 cân nữa thì lừa cũng phải chào thua. Khi khiêng súng, người đi sau còn đỡ chứ người đằng trước thật khốn khổ. Sức nặng của balo và súng phía sau cứ kéo ngửa người ra. Trèo đèo lội suối, rồi trong rừng rậm, súng móc bên này mắc bên kia tiến cũng chẳng được mà lùi cũng không xong. Hồi còn đi học, ngoài cái tên bố mẹ đặt cho, tôi còn mang thêm biệt danh các bạn tặng là “còm”, vì cân nặng cả bì chỉ có hơn 40 kg. Khiêng súng bị phồng, rồi loét, hai vai, mãi không lành. Mỗi lần hành quân mang vác, đối với tôi không khác gì hành xác.
Đêm ấy, bên cánh rừng ở Cự Nẫm Quảng Bình, nhận quân trang đi B balo hơn
40 cân, tôi phải đẩy lên ngôi mộ hoang, luồn hai vai vào hai quai mới gượng đứng lên được. Vậy mà lại đến phiên khiêng súng. Cố gắng bước dược chừng 50 chục mét thì ngã chúi xuống, nửa quì nửa ngồi, tôi ôm mặt khóc. Y tá Cận chạy lại, mở túi thuốc lấy ra một vốc vitamin B1 bảo tôi uống. Nghi ngờ về khả năng tăng lực của nắm B1 ấy, song tôi cũng tống đại vào mồn nhai trệu trạo. Thực tình lúc ấy tôi chỉ muốn chết quách đi cho rồi . Họặc giả có một quả pháo biển lạc vào giải thoát cho tôi thì âu cũng là số phận.
May thay trong tổ tôi còn có Khánh "voi". Trong số các anh em quê Phủ Cừ,
Hải Hưng, Khánh "voi" nổi bật vì dáng cao to như cây chuối hột trong vườn toàn chuối tiêu. Nghe nói nhà hắn nghèo lắm, ăn uống kham khổ, vậy mà hắn lại có một thân hình khá lý tưởng. Cao trên một mét bẩy lăm. Bắp thịt săn chắc. Đôi vai gấu hơi xuôi, hai hàm răng trắng đều, nước da sáng hơn că lũ bạch diện thư sinh chúng tôi. Hắn ghé vai đỡ tôi dậy, rút chiếc đòn khiêng ra quẳng sang một bên, đặt thân súng nặng như cùm lên vai, lầm lũi bước tiếp. Tôi vớ lấy chiếc đòn khiêng cố bám theo. Cuộc hành quân 5 ngày không thể nào quên, từ tây Quảng Bình theo dãy Trường Sơn qua giới tuyến 17 vào Quảng Trị tham chiến. Lính rơi rớt dọc đường. Không còn ra đội hình gì nữa, các đơn vị trộn lẫn vào nhau. Tiểu đội tôi đến nơi tập kết đầy đủ, có lẽ nhờ một phần bởi Khánh "voi".
Sau trận đầu, đêm 23 ngày 24 tháng tám năm 72 , tiểu đội bị thiệt hại nặng nề ,
thương vong non một nửa, tạm bị trưng dụng làm lính vận tải. Làm gì cũng được, miễn là không phải khiêng súng. Nhưng tôi lại nhầm. Gọi là vận tải cho oai chứ thực ra là gùi gạo, đạn. Mấy chục cân trên vai chẳng khác gì khiêng 12ly7. Trên một cung đường chừng 4, 5 cây số trống trải, phải luôn vận động thật nhanh qua những tọa độ chết người của pháo bầy và máy bay cường kích. Vô phúc dính B 52 thì coi như chấm hết. Vậy mà với Khánh "voi" dường như chẳng hề hấn gì. Bao giờ hắn cũng về trước tôi cả tiếng đồng hồ, chui tọt vào hầm không ra ngoài. "Trên mặt đất không có lợi" , hắn bảo tôi thế. Biết vậy mà đành vậy."Trên mặt đất không có lợi"...
Một tuần sau, tiểu đội lại nhận khẩu súng khác, chế tạo tại Liên Xô, nòng xoắn, tản nhiệt tốt hơn, nhưng cũng nặng hơn khẩu trước khoảng chục ký. Ngay đêm ấy lại vào chốt. Tâm trạng mọi người khá nặng nề . Nõi ám ảnh trận trước không thể bỗng chốc mà quên ngay được. Tiểu đội chốt trong một vườn chuối nhỏ lá xác xơ. Giũa vườn hiện lờ mờ một ngôi nhà, thực ra là phế tích của một ngôi nhà tan hoang. Phía trước là một bụi tre rách bươm. Nghe đâu trước bụi tre là lính đại đội 9 bộ binh. Chúng tôi vội vàng đào hầm trú ẩn, công sự pháo và một đoạn hào chừng 4 mét nối hầm trú ẩn với hầm pháo. Gần sáng công việc cũng tạm xong. Trong khung cảnh chết chóc như vậy, mà vẫn thấy một tiếng gà lạc lõng, cô đơn, gáy yếu ớt báo hiệu một ngày mới băt đầu. A trưởng Thành phân công người đứng cảnh giới dưới hào cách hầm trú ẩn khoảng một mét, còn lại tạm nghỉ. Rồi cũng đến phiên tôi đứng gác Trận địa hai bên thật yên tĩnh. Tôi nghe rõ cả tiếng con chim sâu bay chúi vào bụi cây trước mặt. Thì ra nó bị mù từ bao giờ. Chừng một tiếng sau, Khánh"Voi" đổi gác. Đôi vai gấu của nó cố nghiêng, lách ngườì cho vừa đoạn hào vừa hẹp vừa nông. Tôi chui vào hầm, chợp mắt một lúc. Bỗng một tiếng nổ vang phía cửa hầm. Minh "già"kêu thất thanh ]'Khánh chết rồi "[/i].Giật mình nhìn ra, một cảnh tượng thật hãi hùng. Khánh "voi" đang từ từ ngồi xuống, lưng tựa vách hào, đôi tay buông xuôi. Cái đầu nó bay đâu mất. Phía trên cổ, giữa một mớ xương vụn, máu ồng ộc tuôn ra ngập một đoạn hào. Trên vai Khánh, một mảng da đầu còn nguyên tóc vắt ngang, như khoác một chiếc khăn nửa đen nửa đỏ.
Cả tiểu đội chết lặng. Mặt Minh "già" thường ngày vốn đen thế, mà lúc đó trắng
bệch, đôi mắt thất thần. Sau ít phút trấn tĩnh, tôi quyết định ra ngòai. Để tránh vũng máu, tôi nắm hai cổ chân Khánh, làm động tác như đu xà kép dướn người nhoài ra . Bên mép hào, một hố vát hình nón vừa bị khoét còn vương vài mảnh gang vụn. Cối 81, Khánh chết vì một quả đạn cối của địch bắn vu vơ. Phía đối diện, một tấm gỗ ép dựng bên gốc chuối bê bết máu và óc. Giá mà Khánh thấp hơn một chút, giá mà Khánh đổi gác chậm hơn một chút thì cái thằng đang ngồi kia chính là tôi.
Mãi đến khuya mới có hai lính vận tải tiểu đoàn đến mang Khánh đi.Trăng thượng
tuần tháng cô hồn trút ánh sáng vàng vọt xuống vườn chuối. Trên ngực Khánh, nắp chiếc bút máy Pilot mạ vàng, mới nhặt được hôm qua, “để viết thư”, hắn nói thế, cứ lấp lánh thứ ánh sáng ma quái.
Nhiều năm sau, ánh sáng ma quái ấy cứ ám ảnh tôi trong những đêm mất ngủ vì
bệnh tật. Hình ảnh Khánh "voi" với đôi vai gấu lại chập chờn hiện về. Giá mà hắn thấp hơn một chút, giá mà hắn đổi gác chậm một chút. "Ở trên mặt đất không có lợi". Biết vậy mà đành vậy.
Một đêm mất ngủ tháng 2 năm 2011
Như Thìn
[/i]