Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:33:48 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 8  (Đọc 102579 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #60 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2011, 07:11:47 am »

Vào lúc này, chiến dịch đường 14 - Phước Long đã bước vào đợt 2; lực lượng ta đã hình thành được thế bao vây, chia cắt khu vực Đồng Xoài và Chi khu Bù Đốp lưu vong. Địch tại hai vị trí này hoàn toàn bị cô lập, không còn liên hệ được với nhau. Đồng Xoài là hướng tiến công chủ yếu của đợt hai chiến dịch. Tại căn cứ này, địch bố trí 3 chốt cấp đại đội, 3 chốt cấp trung đội, 8 chốt dân vệ; ngoài ra còn có chốt cầu số 2 trên đường 14, chốt Phước Thiện ở phía nam và đồn Tạ Tế ở phía bắc. Lực lượng địch tại Đồng Xoải có Tiểu đoàn 341 và Ban chỉ huy Chi khu Đồng Xoài.

Rạng sáng ngày 23-12-1974, trên hướng tiến công thứ yếu, Trung đoàn 12 (Sư đoàn 7) nổ súng tiến công Chi khu Bù Đốp lưu vong và đồn Phước Tín. Đến trưa, Tiểu đoàn 1 - Trung đoàn 7 - Sư đoàn 5 bộ binh Quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn, được trực thăng đổ xuống sân bay Phước Bình, chi viện cho lực lượng của chúng đang bị bao vây ở Chi khu Bù Đốp lưu vong. Từ tối ngày 23-12 đến rạng sáng ngày 24-12, ta tiêu diệt chi khu này, đồng thời phát triển tiến công bức rút đồn Phước Lộc. Đến chiều ngày 24-12, ta đánh chiếm được đồn Phước Quả, trước khi Tiểu đoàn 1 kịp đến chi viện.

Trong lúc địch đang dồn tâm trí và lực lượng chống đỡ ở hướng Chi khu Bù Đốp lưu vong, rạng sáng ngày 26-12, Trung đoàn 14 - Sư đoàn 7 chủ lực miền nổ súng tiến công hướng Đồng Xoài. Phối hợp với Trung đoàn 14, các Trung đoàn 201 và 209 đánh chiếm các mục tiêu phụ. Cùng ngày, bộ đội ta đánh chiếm làm khủ Đồng Xoài, chốt cầu số 2 của địch, kết thúc thắng lợi đợt 2 chiến dịch sau 4 ngày liên tục tiến công.

Chỉ sau hai tuần và bằng hai đợt tiến công, lực lượng thuộc Quân đoàn 4 đã nhanh chóng làm chủ phần lớn các mục tiêu chiến dịch, đặt mục tiêu chủ yếu vào thế bị bao vây cô lập hoàn toàn. Mặc dù bị ta đánh mạnh, bị mất nhiều mục tiêu quan trọng nhưng phản ứng của địch rất yếu ớt, lực lượng bổ sung nhỏ giọt. Đây là một tín hiệu quan trọng nữa chứng tỏ khả năng rất hạn chế của địch trong việc đánh chiếm lại mục tiêu đã mất, bao gồm cả những mục tiêu chỉ nằm cách Sài Gòn hon 120 km.

Theo dõi sát diễn biến tình hình mọi mặt về chiến dịch đường 14 - Phước Long, đồng chí Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đồng ý với đề nghị của đồng chí Phạm Hùng và Trần Văn Trà, cho Quân đoàn 4 sử dụng xe tăng, pháo 130 mm để đánh thị xã Phước Long.

Thực hiện mệnh lệnh của Tổng hành dinh, Bộ Chỉ huy Miền và Bộ Chỉ huy chiến dịch lập tức triển khai đợt tiến công thứ 3, đánh chiếm Phước Long(1).

Được xe tăng (1 tiểu đoàn 20 chiếc) và pháo 130mm (2 tiểu đoàn) yểm trợ, rạng sáng ngày 31-12-1974, Trung đoàn 12 - Sư đoàn 7 và lực lượng tăng cường thuộc Trung đoàn 16 bộ binh (thiếu) nổ súng tiến công chi khu Phước Bình, mở màn cho đợt tiến công thứ 3 - đợt tiến công cuối cùng của chiến dịch. Trên hướng tiến công chủ yếu, bộ đội ta nhanh chóng đánh chiếm một số mục tiêu. Trong khi đó, ở hướng thứ yếu, Trung đoàn 271 không dứt điểm được mục tiêu Thác Mơ. Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 271 bỏ qua mục tiêu Thác Mơ tiến sang khu vực Tư Hiền 2 để kịp hình thành thế bao vây thị xã Phước Long.

Rạng sáng ngày 2-1, quân ta bắt đầu tiến công vào thị xã. Được không quân chiến thuật chi viện, địch kháng cự rất quyết liệt. Ta chỉ dứt điểm được một số mục tiêu nhỏ và diều đó làm ảnh hướng đến tốc độ phát triển của các mũi tiến công. Đêm 3-1, ta chấn chỉnh lại đội hình, điều động thêm lực lượng để tăng thêm sức đột phá trên hướng chủ yếu. Ngày 4-1, ta thu hẹp được phạm vi phòng ngự của địch ở hướng bắc thị xã. Địch đổ hai tiểu đội biệt kích xuống đông bắc thị xã, nhưng lực lượng này nhanh chóng bị tổn thương do hỏa lực pháo ta dội trúng đội hình. Ngày 4-1, ta đánh chiếm Chi khu Phước Bình, cứ điểm Bà Rá, thu hẹp 1 phần 3 phạm vi trận địa của địch. Lúc này, Trung đoàn 2 - Sư đoàn 9 được lệnh bước vào chiến đấu. Có thêm lực lượng, ta tổ chức mũi thọc sâu, với lực lượng đột kích chủ yếu là một đại đội xe tăng. Bỏ qua các ổ đề kháng vòng ngoài, lực lượng thọc sâu nhanh chóng đánh thẳng vào trung tâm thị xã, chiếm các mục tiêu quan trọng, thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào. Chiều ngày 6-1, ta tiêu diệt số địch đang cố thủ tại hệ thống hầm ngầm ở trung tâm hành chính thị xã. Đến đây, ta kết thúc đợt tiến công thứ 3, đồng thời kết thúc thắng lợi chiến dịch đường 14 - Phước Long.

Sau hơn 20 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt 1.160 tên địch, bắt 2.146(2) tên, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, với hơn 50 vạn dân(3).


(1) Khu vực phòng thủ của địch ở Phước Long, mỗi chiều rộng 8 km; phía đông và bắc dựa lưng vào sông Bé, phái nam và đông nam là đường vòng cung 139-310-311, chạy vòng quanh chân núi Bà Rá. Ở đây, địch tổ chức thành thế phòng ngự chân kiềng với 3 vị trí: thị xã Phước Long - Phước Bình và núi Bà Rá. Phước Long có thế bố trí phòng ngự vững chắc nhất, với gần 2 tiểu đoàn bảo an, 1 chi đội xe M113; các vị trí khác do 3 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội đóng giữ.
(2) Theo cuốn sách của Giócgiơ Hơring (George C. Herring): Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Sđd, tr. 340, thì số quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt và bắt sống là 3.000 người.
(3) Bộ Quốc phòng - Viên Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Sđd, tr.446-457.
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Ba, 2011, 06:53:27 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #61 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2011, 07:15:31 am »

Phước Long bị mất, thoạt đầu, Mỹ phản ứng bằng việc đặt Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 Mỹ ở Ôkinaoa (Nhật Bản) trong tình trạng báo động khẩn cấp và điều một bộ phận Hạm đội 7 đến Việt Nam, sẵn sàng can thiệp… Về phần mình, ngay từ “ngày 2-1-1975, Thiệu chủ tọa một cuộc họp khẩn cấp ở phòng họp trong Dinh Độc Lâp. Trước tất cả những nhà lãnh đạo quân sự, Thiệu tuyên bố không tăng viện cho Phước Long hay cố gắng lấy lại tỉnh này nữa. Giá của việc này quá cao, không có máy bay thay thế và quân trù bị. Nếu muốn tăng viện Phước Long phải lấy từ nơi khác, mà những nơi này được tin tức tình báo cho biết, cũng đang bị Bắc Việt sửa soạn tiến công vào năm 1975(1).

Hai ngày sau khi Phước Long bị mất, ngày 8-1-1975, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Máctin thông báo cho Nguyễn Văn Thiệu biết việc Mỹ không thể sử dụng không quân yểm hộ cho quân đội Sài Gòn tái chiếm Phước Long. Ngày 22-1-1975, Tổng thống Mỹ J. Pho tuyên bố không có hành động nào ngoài việc bổ sung viện trợ cho Sài Gòn và sẽ không can thiệp vào miền Nam Việt Nam nếu xét ra không phù hợp với Hiến pháp và pháp luận Hoa Kỳ. Như vậy, thái độ của Mỹ đã rõ ràng, phản ứng của Mỹ nặng về hăm dọa, gâp áp lực từ xa. Và điều đó càng làm cho chính quyền, quân đội Sài Gòn thêm hoang mang, sa sút.

Vào thời điểm mở đầu của chiến cuộc mùa khô 1974-1975 trên chiến trường B2, chiến thắng đường 14 - Phước Long có ý nghĩa chiến lược Chiến thắng này đánh dấu bước suy sụp mới của quân đội Sài Gòn, đó là một đội quân đã không còn đủ sức phản kích để giành lại những địa bàn có tầm quan trọng chiến lược vừa bị mất vào tay đối phương; cho ta thấy rõ hơn ý đồ và khả năng can thiệp vào miền Nam Việt Nam của chính quyền Mỹ. Về phía ta, chiến dịch đường 14 - Phước Long góp phần làm thay đổi đáng kể lực lượng tương quan và thế bố trí trên chiến trường Đông Nam Bộ giữa ta và địch; chiến thắng đó bẻ gãy một mắt xích quan trọng trong tuyến phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn, làm cho hướng phòng thủ của địch ở tây bắc Sài Gòn trở nên mỏng yếu. Chiến thắng này đánh dấu bước phát triển mới về nghệ thuật tổ chức, thực hành chiến dịch, đặc biệt về nghệ thuật tổ chức và tác chiến thọc sâu, kết hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào đạt hiệu quả cao. Lần đầu tiên trên chiến trường B2, chủ lực vận dụng cách đánh hiệp đồng binh chủng gồm bộ binh, xe tăng, pháo cơ giới, đánh chiếm một thị xã được phòng thủ chặt chẽ.

Có thêm cơ sở từ thực tiễn chiến thắng Phước Long, ngày 8-1-1975, đồng chí Lê Duẩn kết luận các nội dung đã bàn bạc, thống nhất của Hội nghị Bộ Chính trị. Đồng chí nêu rõ: “Trong cuộc họp lần trước, Bộ Chính trị đã nhất trí về phương hướng chiến lược nhằm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng. Lần này, Bộ Chính trị thảo luận thêm với một số đồng chí miền Nam. Các đồng chí phụ trách chủ yếu của các chiến trường Khu 5, Nam Bộ đều có mặt đông đủ. Tất cả chúng ta đều nhất trí hoàn toàn về các mặt: đánh giá tình hình sau Hiệp định Pari, đánh giá lực lượng so sánh giữa ta và địch, nhận định thời cơ lịch sử, khẳng định quyết tâm chiến lược hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trong 2 năm 1975-1976, xác định nhiệm vụ, mục tiêu và các bước thực hiện”(2).

Về tình hình miền Nam, đồng chí Bí thư thứ nhất nhận định: Hiện nay khác với trước rất nhiều, Mỹ đã thua liên tiếp và phải rút quân về; ngụy quân, ngụy quyền không còn chỗ dựa như trước, quân đội ta sung sức, có mặt trên khắp miền Nam. Quần chúng nhân dân trong vùng địch đòi hỏi vùng dậy và có khí thế mới.

Năm 1974, trong khi thế và lực của ta lớn lên nhanh thì địch càng xuống dốc cả về quân sự, chính trị, kinh tế. Ta tiến công mạnh thì nhất định sẽ tạo ra những đột biến trong quá trình xuống dốc đó của địch.

Lần họp trước, chúng ta đã xem xét bối cảnh quốc tế của chiến tranh Việt Nam. Lần này, hội nghị đi sâu phân tích lực lượng so sánh giữa ta và địch. Căn cứ vào sự đánh giá trong cả hai lần họp, chúng ta thấy chính xác hơn thời cơ lịch sử và khả năng thực tế để quyết chiến những trận cuối cùng, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Chúng ta nhất trí phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976. Quyết tâm này của Bộ chính trị phải gấp rút được truyền đến toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên và quần chúng nhân dân. Phải tiến hành công tác chính trị, tư tưởng sâu rộng, cổ vũ mạnh mẽ khí thế quyết chiến, quyết thắng”(3).

Về nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến, đồng chí Lê Duẩn nêu rõ: “Nhiệm vụ sắp tới của chúng ta là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Trong khi thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta sẽ cùng với và giúp đỡ hai nước Lào và Campuchia anh em tiến lên.

Để thực hiện quyết tâm nói trên, phải phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ cụ thể, đạt được những yêu cầu sau đây:

Một là, thực hiện quyết tâm và nổi dậy trên quy mô lớn…

Hai là, mở những chiến dịch hợp đồng binh chủng…

Ba là, phát triển phong trào đấu tranh chính trị trên quy mô rộng lớn…

Bốn là, đẩy mạnh công tác binh vận…

Năm là, phá hủy các cơ sở hậu cần và phương tiện chiến tranh của địch”(4).


(1) Nguyễn Tiến Hưng: Từ tòa Bạch Ốc đến Dinh Độc Lập, Sđd, tr.341.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr. 187.
(3), (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr. 191, 192.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #62 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2011, 07:19:16 am »

Để thực hiện những nhiệm vụ và yêu cầu trên đây, đồng chí Bí thư thứ nhất chỉ rõ: Phải nắm vững cái đích là tạo ra sức mạnh tổng hợp, kết hợp quân sự với chính trị, khởi nghĩa với chiến tranh, phối hợp “ba mũi giáp công”, ba vùng chiến lược, tiêu diệt địch để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn, để kết thúc chiến tranh.

Đánh trận cuối cùng này, trước hết là nhiệm vụ của các lực lượng quân sự, chính trị trên chiến trường Nam Bộ, tron đó có lực lượng của Sài Gòn - Gia Định, đồng thời là nhiệm vụ của quân và dân cả nước, trong đó khối chủ lực miền và các binh đoàn chủ lực từ các chiến trường khác đến, đóng vai trò quyết định(1).

Về Kế hoạch hoạt động năm 1975, đồng chí ra nhiệm vụ của từng chiến trường(2) và cho rằng, mọi hoạt động của các chiến trường đều nhằm tiến tới trận quyết chiến chiến lược tại sào huyệt cuối cùng của địch bằng con đường nhanh nất: “Kế hoạch tiếp theo cho năm 1976 sẽ do kết quả thực hiện kế hoạch năm 1975 quyết định. Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”(3).

Nhằm thực hiện quyết tâm chiến lược trên đây, đồng chí Bí thư thứ nhất khẳng định: “Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ làm hết sức mình để tăng cường lực lượng, bảo đảm đầy đủ nhu cầu về vật chất, kỹ thuật cho chiến trường, coi đó là điều kiện cơ bản để giành thắng lợi. Điều quan trọng cấp bách nữa là chuẩn bị sẵn lực lượng dự bị chiến lược; tuyển cho được 30 vạn tân binh, đẩy nhanh việc huấn luyện bộ đội, nắm chắc khâu đào tạo cán bộ. Làm thật tốt công tác chính trị, tư tưởng trong quân đội, trong nhân dân, động viên toàn quân, toàn dân nêu cao ý chí “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”. Trên mặt trận đối ngoại: “Sử dụng khôn khéo vũ khí đấu tranh ngoại giao, góp phần giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập, hòa hợp dân tộc, nhằm cô lập bọn tay sai ngoan cố; làm sáng tỏ chính nghĩa của ta, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới; ngăn chặn âm mưu và thủ đoạn can thiệp, phá hoại của đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế”(4).

Kết luận của đồng chí Lê Duẩn được Hội nghị Bộ Chính trị nhất trí hoàn toàn và kết luận này trở thành Nghị quyết của Bộ Chính trị.

Bộ Chính trị nêu quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 1975-1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân.

Quyết tâm chiến lược của Bộ chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược 2 năm 1975-1976: năm 1975 tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản 2 năm, trong kế hoạch năm 1975, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án khác: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr. 193.
(2)Chiến trường Nam Bộ có ba nhiệm vụ quan trọng: đánh phá bình định; đánh quân chủ lực ngụy; vây ép thành thị. Để đánh phá “bình định”, mà trọng điểm là ở đồng bằng sông Cửu Long, phải sử dụng hai đến ba vạn quân chủ lực miền Đông Nam Bộ đánh xuống đồng bằng, kết hợp với những cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng quân sự, chính trị tại chỗ, mở vùng giải phóng liên hoàn nối liền miền Đông với Khu 8, Khu 9; đồng thời ép mạnh về phía Mỹ Tho - Sài Gòn, nhất là Sài Gòn, tạo thế cho quần chúng ở đây nổi dậy. Để góp phần vây ép Sài Gòn, quân chủ lực ta phải tiêu diệt cho được một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy ở miền Đông.
Chiến trường Khu 5 - Tây Nguyên, dùng ba sư đoàn quân chủ lực Tây Nguyên, mở thông hành lang nối liền nam Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực cơ động nhanh vào miền Đông, phối hợp với quân chủ lực miền để tiến đánh Sài Gòn. Mở trận đầu đánh chiếm Buôn Ma Thuột, thọc thẳng xuống Tuy Hòa, Phú Yên, cắt đồng bằng Khu 5 ra làm đôi, tạo thêm một bước nữa để tiến nhanh vào phía nam vây ép Sài Gòn.
Sử dụng lực lượng của Quân khu 5 và lực lượng quân sự, chính trị các tỉnh ven biển miền Trung, giải phóng từ phía Bình Định trở ra để ép về phía Đà Nẵng.
Chiến trường Trị - Thiên, đánh chiếm đồng bằng, làm chủ vững chắc từ nam thành phố Huế trở vào, chia cắt Huế với Đà Nẵng, vây ép hai thành phố này, không cho địch co cụm về phía nam, thúc đẩy binh biến, ly khai ở miền Trung.
Khi có thời cơ, sẽ cơ động thêm ba sư đoàn vào miền Đông, sử dụng hai quân đoàn đánh chớp nhoáng, diệt mấy sư đoàn chủ lực ngụy ở đây, rồi thọc vào Sài Gòn.
Cần có kế hoạch chuẩn bị ở miền Nam cũng như ở miền Bắc nhằm đối phó với việc Mỹ có thể dùng không quân, hải quân đánh phá trở lại. Khả năng Mỹ quay lại can thiệp vào chiến tranh Việt Nam không nhiều. Nhưng dù khả năng đó chỉ năm, bảy phần trăm, chúng ta cũng phải đề phòng, vì Mỹ còn có mưu đồ duy trì chủ nghĩa thực dân mới. Mỹ muốn làm gì thì cũng chỉ ở mức độ, chẳng hạn như tăng thêm một ít viện trợ quân sự, kinh tế, hoặc nhiều lắm là chi viện bằng không quân, hải quân (với điều kiện ngụy chống cự lâu dài).
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr. 196.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr. 196.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #63 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2011, 07:21:03 am »

Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh lập tức triển khai kế hoạch chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược năm 1975. Các phương án nắm địch, hiệp đồng giữa các tổng cục của Bộ Quốc phòng với các cơ quan nhà nước, gấp rút tính toán khả năng bổ sung tăng cường lực lượng, bảo đảm hậu cần, vũ khí, đạn dược, thuốc men cho các chiến trường, hoàn chỉnh hệ thống ống dẫn xăng dầu, mạng dây thông tin và đẩy mạnh việc sửa chữa, mở mới mạng đường cơ động phục vụ cho tiến công chiến lược.

Trên miền Bắc, Nhà nước tiến hành đợt động viên cục bộ, huy động thêm số người ở độ tuổi từ 26 đến 30 và một phần học sinh, sinh viên, cán bộ, công nhân, viên chức gia nhập quân đội. Trong hai tháng đầu năm 1975, quân đội đã được bổ sung 5,7 vạn người. đến đầu năm 1975, việc xây dựng, nâng cấp mạng đường chiến lược(1), chiến dịch, đường ống dẫn xăng dầu, hệ thống kho tàng, bến bãi trên tuyến vận tải chiến lược và của các chiến trường đã cơ bản hoàn thành. Nhờ có hệ thống cầu đường được nâng cấp và vươn xa vào tận chiến trường, nên thời gian hành quân từ hậu phương miền Bắc vào đến chiến trường Nam Bộ rút xuống còn 20 ngày, vào đến Tây Nguyên còn 13 ngày, Khu 5 còn 10 ngày và Trị - Thiên còn 6 ngày. Từ đầu năm 1974 đến đầu năm 1975, tuyến giao liên chiến lược đã đưa vào chiến trường 410.000 lượt người, trong đó có 68.000 quân bổ sung, 8.000 nhân viên kỹ thuật và các đơn vị binh chủng khác; đưa từ chiến trường ra miền Bắc hơn 290.000 lượt người, trong đó có 53.000 thương binh, 28.000 bệnh binh và 32.000 cán bộ.

Bám dọc theo mạng đương chiến lược, hệ thống ốn dẫn dầu cùng với mạng thông tin hữu tuyến không ngừng vươn sâu, vươn xa vào tận khu vực Bù Gia Mập (Đông Nam Bộ). Với gần 1.400km chiều dài đường ống, bộ đội xăng dầu đã tổ chức mạng cung cấp nhiên liệu trực tiếp cho các chiến trường bằng 113 trạm bơm và hon 27.000 m3 kho chứa; trong lúc đó, bộ đội thông tin cũng đã hoàn chỉnh mạng dây tải đôi, tải ba có chiều dài gần 10.000km, phục vụ cho công tác liên lạc kịp thời, chính xác, an toàn giữa Tổng hành dinh với các quân khu, quân đoàn.

Lực lượng vận tải của Nhà nước và quân đội tổ chức nhiều đoàn xe vận tải, ngày đêm hối hả đưa sức người, sức của vào chiến trường. Được miền Bắc chi viện mạnh mẽ, chiến trường miền Nam đã có bước phát triển nhảy vọt trong công tác tổ chức, bố trí lực lượng, chuẩn bị hậu cần bảo đảm và hình thành thế trận sẵn sàng mở cuộc tiến công chiến lược. Ngay tại chiến trường và trên những địa bàn chiến lược, khối chủ lực của ta đã được tổ chức thành 3 quân đoàn và tương đương (các quân đoàn 2, 4 và Đoàn 232 tương đương quân đoàn). Đây là những quả đấm mạnh giữ vai trò quyết định trong việc đập tan lực lượng quân đội khổng lồ của địch.

Cùng với việc tăng cường và phát triển lực lượng, trên các hướng chiến trường, mạng đường cơ động lực lượng, phương tiện chiến đấu và vũ khí đạn dược đã được khẩn trương hoàn thành, hòa vào mạng đường chiến lược Bắc - Nam. Trên chiến trường Trị - Thiên, ta mở mới 300km, cùng với khu vực nam Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, kéo dài đến Nam Đông, Khe Tre, giáp quốc lộ 1. Ở Khu 5 và Tây Nguyên, ta đã xây dựng được gần 700km đường trục dọc và hơn 1.200km đường trục ngang, hòa vào mạng đường chiến lược 559 để từ đó có thể đi vào bắc đường 19, vào miền Đông Nam Bộ bằng các con đường chạy dọc biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia; nối liền các trục dọc là hệ thống đường ngang không ngừng vươn dài, vươn sâu xuống vùng đồng bằng các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Vào cuối năm 1974, quân và dân ở Đông Nam Bộ đã sửa chữa, nâng cấp và mở mới được nhiều tuyến đường, nâng tổng chiều dài của toàn bộ mạng đường ở đây lên hơn 900km; hình thành mạng lưới giao thông liên hoàn, từ căn cứ của miền tỏa xuống vùng giáp ranh Sài Gòn và phát triển sang hướng tây nam Đồng Tháp Mười.

Trên các đầu mối giao thông và dọc theo nhiều tuyến đường, hệ thống căn cứ hậu cần với các kho trạm được bố trí liên hoàn, vững chắc đã được hình thành, đủ sức đáp ứng yêu cầu của từng hướng chiến dịch. Cho đến đầu năm 1975, khối lượng hàng hóa, vũ khí đạn dược, lương thực, thực phẩm và xăng dầu dự trữ của từng hướng chiến trường, cụ thể: Trị - Thiên dự trữ được 29.000 tấn vật chất, trong đó có 2.000 tấn vũ khí đạn dược và hàng chục nghìn mét khối xăng dầu; khu 5 dự trữ hơn 77.000 tấn, trong đó có hơn 10.500 tấn vũ khí, đạn dược, 5.200 tấn xăng dầu, 36.300 tấn lương thực, thực phẩm; Tây Nguyên dự tữ được hơn 53.000 tấn, trong đó có gần 800 tấn đạn và 28.000 tấn lương thực, thực phẩm. Đông Nam Bộ, hậu cần Miền dự trữ được 102.000 tấn, và tổ chức khai thác tại chỗ hơn 900 tấn.

Song song với hoạt động chuẩn bị hậu cần bảo đảm, từ cuối năm 1974, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo các quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng tăng cường công tác huấn luyện cán bộ, chiến sĩ, trọng tâm là huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật và tổ chức chỉ huy, Bộ Tổng tham mưu cử nhiều đoàn cán bộ xuống các đơn vị phổ biến công tác huấn luyện bổ sung theo xuống các đơn vị phổ biến công tác huấn luyện bổ sung theo yêu cầu chiến đấu mới trên chiến trường; cùng với quá trình này, cán bộ của Bộ Tổng tham mưu còn truyền đạt những kinh nghiệm về chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng, kinh nghiệm tiến công địch trong thành phố, chi khu, quận lỵ và kết quả nghiên cứu cách đánh hiệp đồng tổ chức tiêu diệt sư đoàn địch.

Kết quả chuẩn bị về lực lượng và hậu cần bảo đảm trong những tháng cuối năm 1974 và đầu năm 1975 đã cho phép cơ quan chỉ đạo chiến lược mau chóng hình thành thế trận tác chiến trên chiến trường. Lúc này, ta đã triển khai ba cụm lực lượng chiến lược quy mô quân đoàn trên các chiến trường chủ yếu Trị - Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và một phần đồng bằng sông Cửu Long, sẵn sàng cho việc mở ba đòn tiến công chiến lược kế tiếp nhau. Với các bố trí lực lượng như thế, đã ghìm chặt lực lượng chủ yếu của quân đội Sài Gòn ở hai đầu (Trị - Thiên và Đông Nam Bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho đòn tiến công mở màn trên chiến trường Tây Nguyên giành thắng lợi.

Hơn hai năm từ sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, quân và dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc đã nỗ lực không ngừng tranh thủ thời cơ để thúc đẩy sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mau tới thắng lợi hoàn toàn. Hậu phương miền Bắc vừa khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh. ổn định đời sống nhân dân, vừa dồn sức cho việc tăng cường lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân trên cả nước; tiền tuyến miền Nam vừa củng cố, xây dựng, tổ chức lực lượng, vừa đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh toàn diện trên cả ba mặt quân sự, chính trị, binh địch vận ở cả ba vùng chiến lược. Thắng lợi to lớn, toàn diện của ta trong hơn hai năm, cùng với sự suy yếu, khủng hoảng sâu sắc của chính quyền và quân đội Sài Gòn đã tạo ra những điều kiện vô cùng thuận lợi để Bộ thống soái tối cao từng bước hoạch địch kế hoạch tiến công chiến lược và khi thời cơ cho phép, hạ quyết tâm mở đòn tiến công chiến lược năm 1975, trong đó, Tây Nguyên được chọn làm điểm đột phá đầu tiên.


(1) Đáp ứng yêu cầu đưa nhanh, đưa nhiều, đưa đủ sức người, sức của vào chiến trường miền Nam, đường chiến lược Trường Sơn được khẩn trương mở rộng và nâng cấp. Cho đến đầu năm 1975, mạng đường này có tổng chiều dài hơn 20.000km, bao gồm 6 trục dọc (đường 128, 14, 22, 24A, 24B, 23) có chiều dài gần 7.000km; 13 trục ngang có chiều dài gần 5.000km. Bên canh đó, mạng đường kết nối các trục đường chính gồm có hệ thống đương vượt khẩu dài gần 700km, hệ thống đường vòng tránh dài hơn 4.700km và hệ thống đường kín dài hơn 3.100 km. Lực lượng tham gia mở đường, bảo vệ đường và lực lượng vận tải thuộc Đoàn 559 giờ đây được tổ chức thành các sư đoàn ôtô vận tải, các sư đoàn, trung đoàn công binh, các sư đoàn, trung đoàn phòng không, với quân số lên đến 9 vạn 7 nghìn người.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #64 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2011, 06:37:13 am »

Chương 34

TIẾN CÔNG GIẢI PHÓNG TÂY NGUYÊN
MỞ ĐẦU CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

I - CHỦ TRƯƠNG CHIẾN LƯỢNG TIẾN CÔNG GIẢI PHÓNG
TÂY NGUYÊN

Ngay sau phiên họp ngày 8-1-1975 của bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương tổ chức quán triệt Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị và bàn việc tổ chức thực hiện bước một kế hoạch tác chiến chiến lược, trọng tâm là bàn về chiến dịch Tây Nguyên - đòn tiến công mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Tham dự hội nghị, ngoài các đồng chí trong Thường vụ Quân ủy Trung ương, còn có các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy chiến trường Khu 5, Tây Nguyên là Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Hoàng Minh Thảo và hai Phó Tổng tham mưu trưởng phụ trách tác chiến Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái.

Thực ra, từ tháng 4-1973, khi Bộ Tổng tham mưu thành lập Tổ trung tâm và bắt tay vào xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược giải phóng miền Nam, thì vấn đề lựa chọn chiến trường, chọn hướng tiến công chiến lược đã được Tổ trung tâm và nhiều tướng lĩnh ở Bộ Tổng tham mưu đề cập đến. Trên vấn đề này, đại đa số ý kiến đều cho rằng, nam Tây Nguyên là một địa bàn chiến lược quan trọng. đánh chiếm được Tây Nguyên, ta sẽ tạo nên phản ứng dây chuyền và nhiều điều kiện thuận lợi để tổ chức các chiến dịch tiến công tiếp theo, thực hiện chia cắt địch về chiến lược và mở đường phát triển nhanh về hướng Sài Gòn. So với các nơi khác, nam Tây Nguyên là nơi địch yếu, sơ hở, dễ bị chia cắt và cô lập. Đây cũng là chiến trường ta có kinh nghiệm tác chiến và có sự chuẩn bị khá hơn. Đến tháng 2-1974, khi dự kiến phương hướng chiến lược trong 2 năm 1975-1976, trên cơ sở ý kiến của Bộ Tổng tham mưu và bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, bộ đã bước đầu xác định đòn tiến công chính của chủ lực ta ở Tây Nguyên với hai mức: “Tiêu diệt địch, giải phóng hai tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn. Cắt đường 19, bao vây cô lập Kon Tum, Plâyku. Mức cao nhất tập trung giải phóng các tỉnh Tây Nguyên, trước hết tiêu diệt địch, giải phóng Kon Tum, Plâyku”(1). Việc bộ sớm xác định hướng tiến công chiến lược của ta ở Tây Nguyên và chỉ rõ từng mức phải đạt đã tạo điều kiện để Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chủ động nghiên cứu, chuẩn bị trước một bước về mọi mặt cho chiến trường quan trọng này.

Nhằm ở phía tây miền Trung Trung Bộ, gồm các cao nguyên và rừng núi nối tiếp nhau chạy theo hướng bắc - nam, Tây Nguyên là vùng đất có chiều dài từ bắc xuống nam khoảng 450 km, chiều rộng từ đông sang tây khoảng 150km, gồm địa bàn các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn Đắc Lắc và một phần tỉnh Quảng Đức. Phía bắc, Tây Nguyên giáp tỉnh Quảng Nam; phía nam, giáp tuyến miền Đông Nam Bộ; phía đông, giáp các tỉnh duyên hải miền Trung; phía tây, giáp hai nước Lào và Campuchia với đường biên giới chung dài khoảng 700km. Tây Nguyên có diện tích rộng gần 60.000km2, dân số (cuối năm 1974, đầu năm 1975) khoảng 1 triệu người gồm nhiều dân tộc như: Kinh (chiếm hơn 40%), Giarai, Êđê, Bana, Xơđăng, Cơho, Mơnông, Mạ, Giẻtriêng, Chu Ru, Brâu, Rơnăm, Bru, Chăm, Xtiêng, Hoa, Tày, Thái.

Phía bắc Tây Nguyên, địa hình chia cắt mạnh, núi cao, rừng rậm hiểm trở; nam Tây Nguyên, từ đường 19 trở vào, địa hình bằng phẳng hơn. Về giao thông, Tây Nguyên có đường 14 chạy dọc từ bắc xuống nam, nối thị xã Kon Tum qua Plâyku, Buôn Ma Thuột, Đức Lập xuống đường 20 ở miền Đông Nam Bộ. Mạng trục ngang gồm đương 7, đường 19, đường 21 nối Tây Nguyên với các tỉnh đồng bằng ven biển. Tây Nguyên có hai con sông lớn là Pôkô và Sêrêpốc. Vào mùa mưa, lưu tốc của hai con sông này rất lớn, việc cơ động hai phương tiện qua sông gặp nhiều khó khăn. Các sân bay Kon Tum, Cù Hanh, Ares (Plâyku), Hòa Bình (Buôn Ma Thuột) đều là sân bay cấp 2 và cấp 3, tương đối hiện đại.

Được ví như nóc nhà của Đông dương, Tây Nguyên chiếm giữ vị trí đặc biệt quan trọng; mất Tây Nguyên là mất các tỉnh duyên hải miền Trung, các tỉnh Đông Nam Bộ, các tỉnh đông bắc Campuchia và các tỉnh Hạ Lào. Vì thế, ngay sau khi độc chiếm miền Nam, đế quốc Mỹ đã biến Tây Nguyên thành căn cứ chiến lược lớn hòng đè bẹp phong trào cách mạng của ba nước Đông Dương, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào vừa từ rừng núi xuống các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung. Trong những năm tiến hành chiến tranh cục bộ, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Mỹ (MACV) đã bố trí Sư đoàn 1 kỵ binh không vận đóng ở An Khê và Sư đoàn 4 bộ binh ở Hòn Rồng - Bàu Cạn thuộc tỉnh Gia Lai để phối hợp với quân Mỹ trên toàn chiến trường, mở các cuộc hành quân “tìm giệt” chủ lực Quân giải phóng. Sau Hiệp định Pari, mặc dù phải rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ vẫn tăng cường trang bị quân đội Sài Gòn củng cố hệ thống phòng thủ trên địa bàn chiến lược này. Dọc đường số 14, quân đội Sài Gòn bố trí hệ thống căn cứ quân sự dày đặc, trong đó có các căn cứ lớn cấp quân đoàn và sư đoàn ở Kon Tum, Plâyku, Buôn Ma Thuột. Hệ thống phòng ngự đường 14 được tổ chức vững chắc, là tuyến phòng ngự cơ bản của toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên, đồng thời là tuyến ngăn chặn chủ lực Quân giải phóng từ phía tây xuống đông Tây Nguyên. Dọc trục đường số 19 và 21, địch tổ chức các tuyến phòng thủ mạnh để bảo đảm mạch máu giao thông từ Tây Nguyên xuống các tỉnh đồng bằng duyên hải, đồng thời cũng là tuyến ngăn chặn từ Bắc vào Nam.


(1) Điện số 01/TK-G6/1 của Quân ủy Trung ương ngày 14-2-1974
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #65 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2011, 06:38:57 am »

Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, lực lượng địch ở Quân khu 2 được bố trí trên hai vùng:

- Vùng duyên hải: có Sư đoàn bộ binh 22, 45 tiểu đoàn bảo an, 5 tiểu đoàn pháo (146 khẩu), 1 thiết đoàn và 8 chi đội thiết giáp (117 chiếc), 12 phi đoàn không quân (337 máy bay, trong đó có 102 máy bay chiến đấu, 164 trực thăng). Toàn bộ lực lượng này được bố trí dọc theo trục đường số 1 trong hệ thống phòng ngự vững chắc và khu vực các sân bay Quy Nhơn, Đông Tác (Tuy Hòa), Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa), Thành Sơn (Phan Rang).

- Vùng Tây Nguyên: có Sư đoàn bộ binh 23 (gồm 3 trung đoàn: 44, 45, 53), 7 tiểu đoàn biệt động quân (4, 6, 21, 22, 23, 24, 25), 36 tiểu đoàn bảo an, 4 thiết đoàn thiết giáp, 230 khẩu pháo, Sư đoàn không quân số 6 (150 máy bay trong đó có 24 máy bay chiến đấu). Sở chỉ huy Quân đoàn 2 - Quân khu 2 được đặt tại Plâyku, Sở chỉ huy Sư đoàn 23 đặt ở Buôn Ma Thuột. trong tổ chức phòng ngự ơ Tây Nguyên, địch bố trí lực lượng phòng ngự mạnh ở phía bắc (Kon Tum, Plâyku) còn khu vực Buôn Ma thuột phía nam, chúng xem như hậu phương chiến dịch nên bố trí lực lượng mỏng hơn.

Tháng 12-1974, Thiếu tướng Phạm Văn Phú - chỉ huy Trung tâm huấn luyện Quang Trung được Nguyễn Văn Thiệu điều tới thay Trung tướng Phạm Văn Toàn làm Tư lệnh Vùng 2 - Quân khu 2.

Về phía ta, sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã tập trung chỉ đạo quân và dân Tây Nguyên triển khai các bước chuẩn bị, sẵn sàng đón thời cơ mới. Để mở rộng vùng giải phóng, tạo thế đứng chân cho các đơn vị chủ lực của ta, sau khi đánh chiếm căn cứ Chư Nghé ở phía tây thị xã Plâyku, tháng 4-1974, Sư đoàn 320A tiếp tục tiến công các căn cứ Lệ Ngọc, 711 và 601. Tháng 5-1974, Trung đoàn 25 đánh chiếm căn cứ Ea Súp, giải phóng một vùng khá rộng lớn ở phía tây vùng đất nằm giữa hai tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc, dồn địch vào sát các thị trấn, thị xã.

Trên hướng Kon Tum, tháng 3-1974, Sư đoàn 10 mở cuộc tiến công địch ở cao điểm Kon Rốc, tiêu diệt 1 tiểu đoàn và 2 đại đội. Tiếp đó, hai quận lỵ Đắc Pét và Mang Đen cũng bị Sư đoàn 10 đánh chiếm. Phối hợp với dòn tiến công của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương Kon Tum bức rút địch ở quận lỵ Măng Bút, ép địch sát vào thị xã Kon Tum, giải phóng một vùng phía bắc thị xã Kon Tum, tạo ra thế đứng chân vững chắc cho các đơn vị Quân giải phóng.

Giữa năm 1974, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cử đồng chí Vũ Lăng làm Tư lệnh, đồng chí Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên, thay đồng chí Hoàng Minh Thảo và đồng chí Trần Thế Môn đi nhận nhiệm vụ khác. Trước khi vào chiến trường, đồng chí Vũ Lăng được các đồng chí ở Cục Tác chiến Bộ Tổng tham trao đổi, gợi ý sơ bộ về nhiệm vụ năm 1975, trong đó có nhiệm vụ của khối chủ lực Tây Nguyên.

Trước yêu cầu của nhiệm vụ trong thời kỳ mới, từ tháng 6-1974, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên đã ra nghị quyết về xây dựng khối chủ lực Tây Nguyên theo hướng tổ chức thành binh đoàn chiến dịch, đảm bảo cho khối chủ lực này có khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng và có sức cơ động cao. Theo phương hướng đó, các sư đoàn pháo binh, lực lượng pháo binh của mặt trận được tổ chức thành 2 trung đoàn hoàn chỉnh. Lực lượng phòng không thành công lại thành 2 trung đoàn (234 và 575). Trung đoàn 198 đặc công, Trung đoàn 273 xe tăng, Trung đoàn 29 thông tin đều được bổ sung thêm quân số, vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại. Công tác huấn luyện nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của các đơn vị được xúc tiến khẩn trương, trong đó rất chú trọng huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh chủng. Bộ tư lệnh Mặt trận mở các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, lý luận về nghệ thuật tác chiến chiến dịch cho đội ngũ cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên. Thực tiễn các chiến dịch đường 9 - Nam Lào năm 1971, chiến dịch tiến công năm 1972 và một số chiến dịch trong năm 1973-1974 đều được đem ra thảo luận, phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng lúc này tập trung vào việc quán triệt Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21, triển khai các cuộc vận động: “Nâng cao chất lượng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu”; “Nâng cao ý thức sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật đạt hiệu quả cao”, phát động phát triển thi đua giết giặc lập công trong các đơn vị…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #66 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2011, 06:39:41 am »

Đảm bảo đường cơ động lực lượng và đường vận chuyển vật chất từ bắc xuống nam Tây Nguyên là một nhiệm vụ cấp bách, nặng nề đặt ra cho cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận. Từ tháng 9-1974, hệ thống đường cơ động chiến dịch ở Nam Tây Nguyên bắt đầu được triển khai. Phía bắc Đức Lập, các đường 6B, 2B, N1, N5, 14C, 22, 23, 128 được xây dựng. Lực lượng công binh của các sư đoàn và các binh chủng mở các trục đường nhánh đảm bảo cơ động cho đơn vị mình. Tháng 11-1974, công binh ta bắc 3 cầu: Pô Cô Hạ, Diên Bình, Đắc Mót và tiếp tục là cầu phao lớn trọng tải 50 tấn qua sông Pôkô và sông Sêrêpốc. Từ cuối tháng 1-1975, ta tập trung khôi phục đường 50 và đường 48 ở bắc Buôn Ma Thuột; đến tháng 2-1975 mở thêm tuyến đường mới 503, 500, 50B dài 61 km; các đường 51, 57B, 57C dài 75 km. Việc mở đường 20C ở phía tây sông Sêrêpốc và làm 2 bến phà 3A và 3B trên sông này, chúng ta gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn. Để đảm báo bí mật khi mở đường, lực lượng công binh có sáng kiến là chỉ cưa các cây lớn (khoảng 2/3 tiết diện cây). Hai bến phà máy chỉ được triển khai khi bộ đội bắt đầu nổ súng (2 giờ sáng ngày N) tiến công Buôn Ma Thuột để giữ bí mật bất ngờ. Ngoài ra, bộ đội công binh còn trinh sát và lập kế hoạch tận dụng hệ thống đường lâm nghiệp để phục vụ cơ động bộ đội khi cần. Hệ thống đường lâm nghiệp và hệ thống đường mới mở khoảng 560 km, đảm bảo cho lực lượng và các phương tiện tham gia chiến dịch cơ động triển khai thuận lợi.

Đường chiến dịch mở rộng, vươn xa tới đâu, hệ thống kho tàng, dự trữ vật chất, hậu cần bảo đảm cho chiến dịch cũng được xây dựng tới đó. Các trạm kho ở Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc mỗi đêm tiếp nhận khoảng 120 xe tăng. Nhờ sự nỗ lực vượt bậc của Đoàn 559, những tháng đầu của năm 1975, số vật chất mà hậu cần chiến dịch nhận được đã vượt 10% so với kế hoạch cả năm. Đến tháng 3-1975, hục chiến dịch đã chuyển giao cho các đơn vị đạt 78% kế hoạch, trong đó, lương thực, thực phẩm đạt 114%, vũ khí 83%, xăng dầu 24%. Trước ngày chiến dịch mở màn, mỗi cán bộ, chiến sĩ được cấp phát 2 bộ quân phục, 50% quân số được cấp bổ sung giày, dép, mũ cứng, 30% được phát nilông che mưa. Lúc này, hậu cần chiến dịch tổ chức được căn cứ ở suối Đắc Đam và phân cụm ở tây Ea Hleo, bảo đảm phục vụ trên cả hai hướng chiến dịch. Những yếu tố trên góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội ta.

Cùng với công tác chuẩn bị chiến trường, công tác trinh sát nắm địch cũng được Bộ Quốc phòng và mặt trận hết sức chú trọng. Từ tháng 9-1974, ta đã tổ chức lực lượng trinh sát vào nam Tây Nguyên để nắm địch và địa hình; mọi hoạt động của địch từ Đức Lập đến Cẩm Ga, đặc biệt là thị xã Buôn Ma Thuột, đều được báo cáo kịp thời về Bộ Tư lệnh Mặt trận.

Tháng 9-1974, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chính thức giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh B3 mở chiến dịch nam Tây Nguyên. Khu vực tác chiến lúc đầu được xác định chủ yếu la Thuần Mẫn, Đức Lập. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận đã nghiên cứu, quán tiệt nhiệm vụ và phổ biến sơ bộ cho các đơn vị liên quan chuẩn bị trước.

Để mở rộng vùng giải phóng, tạo thế trận mới ở bắc đông bắc Kon Tum, nam - tây nam Gia Lai, từ ngày 3 đến ngày 10-10-1974, lực lượng vũ trang Tây Nguyên mở các cuộc tiến công tiêu diệt các chi khu quân sự, quận lỵ Măng Đen, Măng Bút, cùng hệ thống đồn bốt cứ điểm dọc đường 19 từ đồn Tầm, làng Dịt đến Thanh Bình… Ngày 13-11-1974, Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ lần thứ hai cho Mặt trận Tây Nguyên, theo đó, phạm vi, quy mô và mục tiêu của chiến dịch nam Tây Nguyên được mở rộng với yêu cầu lớn hơn:

- Tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch: diệt, làm bị thương từ 4 đến 5 vạn tên, trong đó diệt từ 3 đến 4 trung đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ 1 đến 2 sư đoàn chủ lực quân đội Sài Gòn, diệt nhiều tiểu đoàn bảo an, trung đội dân vệ, làm tụt nhanh quân số của chúng; mở rộng hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống ba tỉnh Khu 5.

- Giải phóng nhân dân và phần lớn vùng đất nam Plâycu và Cheo Reo, xung quanh Buôn Ma Thuột; đánh bại kế hoạch bình định nống lấn và thủ đoạn giải tỏa của địch, giữ vững, phát huy quyền làm chủ chiến trường, thực hiện chia cắt chiến lược; tích cực phối hợp với mặt trận chống phá bình định ở đồng bằng. Cụ thể, diệt từ 1 đến 3 tiểu khu, chi khu từ 1 đến 2 tỉnh lỵ (Gia Nghĩa, Cheo Reo).

- Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm cho tiềm lực kinh tế địch bị giảm sút nghiêm trọng; khi có thời cơ, thực hiện chia cắt hẳn các đường 14, 12, 21 - trọng điểm là đường 19.

- Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã; ra sức xây dựng cơ sở tự vệ mật, các tổ chức biệt động, diệt ác ổn đầu sỏ, tạo thế làm chủ cơ sở.

- Xây dựng ba thứ quân, xây dựng vùng giải phóng, đường chiến dịch, chiến lược, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.

Trong 5 mục tiêu trên, yêu cầu tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng địa bàn được xác định là nhiệm vụ trung tâm quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của chiến dịch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #67 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2011, 06:41:44 am »

Từ ngày 1 đến ngày 5-12-1974, Đảng ủy Mặt trận họp mở rộng quán triệt nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao. Trên cơ sở đánh giá quân đội Sài Gòn đang có bước suy yếu mới, toàn diện không gượng dậy được, xu thế của chúng là lùi về phòng ngự bị động; ta đang có bước phát triển mới cả về thế và lực, Đảng ủy Mặt trận cho rằng phải nắm vững khâu chủ yếu là tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy phương tiện chiến tranh, giải phóng địa bàn; đồng thời, phải tích cực khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho đánh tiêu diệt lớn khi thời cơ đến. Căn cứ nhiệm vụ được giao, Đảng ủy Mặt trận xác định phương châm và tư tưởng chỉ đạo tác chiến của chiến dịch nam Tây Nguyên là: “Mạnh bạo, chắc thắng, chủ động, cơ động, linh hoạt, bí mật bất ngờ”; đồng thời chủ trương: “Bằng mọi biện pháp thích hợp với tình hình cụ thể, tiến hành công tác tư tưởng và tổ chức một cách tích cực, kể cả phía trước và phía sau, cơ quan và đơn vị, nhằm tạo nên chuyển biến căn bản, toàn diện, có khí thế và hành động cách mạng sục sôi, tự giác”, bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ ý chí quyết tâm chiến đấu cao, “vững vàng trước mọi diễn biến của tình hình, tích cực tiến công địch trong mọi hoàn cảnh; mục tiêu nào cũng đánh được, lực lượng nào cũng đánh, đánh liên tục, dẻo dai, dũng cảm mưu trí, sáng tạo, đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, quyết tâm giành thắng lợi cao nhất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”(1).

Lúc này, trên khắp chiến trường, quân và dân ta đang đẩy mạnh tiến công địch về quân sự và chính trị. Ở Khu 9, từ tháng 12-1974 đến tháng 2-1975, địch đã bị mất 800 đồn bốt, chi khu, căn cứ, 287 ấp với 400.000 dân. Ở Khu 8, địch mất 320 đồn bốt, 193 ấp với 100.000 dân. Đặc biệt, khi toàn bộ tỉnh Phước Long (miền Đông Nam Bộ) bị quân ta đánh chiếm, địch phản ứng yếu ớt và tỏ ra bất lực trong việc tổ chức lực lượng phản kích nhằm giành lại địa bàn quan trọng này.

Trước thời cơ và những diễn biến thuận lợi ở các chiến trường, ngày 21-1-1975, đồng chí Lê Ngọc Hiền - Phó Tổng tham mưu trưởng, được Bộ Tư lệnh cử vào Tây Nguyên phổ biến chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ mới của chiến dịch nam Tây Nguyên. Đây là lần giao nhiệm vụ thứ ba của Quân ủy Trung ương cho Mặt trận Tây Nguyên, trong đó xác định một số yêu cầu, mục tiêu chủ yếu như:

- Tiêu diệt sinh lực địch; xác định phải tiêu diệt được bộ phận quan trọng (cỡ sư đoàn địch), đánh thiệt hại nặng Quân đoàn 2 Sài Gòn, diệt 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 thiết đoàn, nhiều liên đoàn, tiểu đoàn, đại đội bảo an, trung đội dân vệ; phá rã mảng hệ thống kìm kịp trong khu vực tác chiến của chiến dịch; bắt nhiều tù binh, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thu nhiều binh khí kỹ thuật của địch để đánh địch và làm dự trữ cho ta.

- Giải phóng, mở hành lang: mục tiêu đặt ra là giải phóng các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức (trọng điểm là Đắc Lắc), 3 thị xã Che Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột và ba quận lỵ quan trọng là Đức Lập, Cẩm Ga, Kiến Đức, mở rộng hành lang chiến lược nối liền Tây Nguyên với Nam Bộ và đồng bằng Liên khu 5, từ đường số 14 qua Gia Nghĩa xuống đường số 20 đi Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống ba tỉnh vùng duyên hải; thực hiện chia cắt chiến lược, cô lập địch, mở địa bàn, tăng thêm khả năng cơ động mới cho bộ đội chủ lực Tây Nguyên, tạo cục diện mới về chiến lược; củng cố, xây dựng vùng giải phóng, phát triển lực lượng tại chỗ (du kích, bộ đội địa phương), đánh bại mọi âm mưu lấn chiếm và thủ đoạn giải tỏa của địch, giữ vững vùng ta mới mở.

- Kết hợp với lực lượng địa phương phá bình định, giành dân ở các khu trọng điểm và vùng đất bằng Tây Nguyên.

- Rèn luyện nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến cấp chiến dịch và chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô tương đối lớn, đánh vận động và đánh địch trong công sự vững chắc, đặc biệt là trong thị xã, đánh thành phố, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tiếp theo.

Từ cuối năm 1974 đầu năm 1975, Bộ Tổng Tư lệnh đã tăng cường cho Mặt trận Tây Nguyên các sư đoàn bộ binh và nhiều đơn vị binh chủng, đồng thời tiến hành các hoạt động nghi binh lừa địch.

Sư đoàn 968 (thiếu Trung đoàn 39)(2) lúc bấy giờ đang đứng chân tại Nam Lào) được lệnh phải có mặt ở Tây Nguyên trước ngày 6-1-1975 để nhận nhiệm vụ. Khi sư đoàn về đến Tây Nguyên, đồng chí Hoàng Minh Thảo thay mặt Bộ Chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ cụ thể cho Sư đoàn 968: nhanh chóng thay cho Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A đang đứng chân trên địa bàn hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum để hai sư đoàn này cơ động về hướng chính làm nhiệm vụ. Yêu cầu mà Bộ Tư lệnh chiến dịch đặt ra là khi thay phiên, các đơn vị phải tuyệt đối giữ bí mật, không để địch nghi ngờ hoặc phát hiện việc ta đã rút hai sư đoàn đó đi. Với Sư đoàn 968, bằng mọi biện pháp, sư đoàn phải thu hút sự tập trung đối phó của địch lên hướng bắc Tây Nguyên, ghìm chân địch ở hướng này càng lâu càng tốt cho đến ngày hướng chính nổ súng.


(1) Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên tháng 12-1974.
(2) Trung đoàn 39 ở lại Nam Lào hoạt động nhưng lấy phiên hiệu của Sư đoàn 968 để liên lạc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #68 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2011, 06:43:28 am »

Để giữ bí mật, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A không sử dụng vô tuyến diện để liên lạc. Theo quy ước chung trong lúc thay phiên, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A để lại toàn bộ các mật danh vô tuyến liên lạc, bộ và Sư đoàn 968 giữ mối liên lạc thường xuyên như cũ. Ngày 17-1-1975, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A di chuyển hết lực lượng về nam Tây Nguyên nhận nhiệm vụ mới mà địch vẫn tưởng hai sư đoàn chủ lực này của ta vẫn còn đang ém quân sát Plâyku và Kon Tum.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Sư đoàn 968 sử dụng một tiểu đoàn tăng cường vào đánh giao thông trên đường 19, đoạn từ Thanh An, Bầu Cạn kéo dài từ đường 19 đến đường 21, cắt đứt vận chuyển tiếp tế của địch, buộc địch phải sử dụng lực lượng chủ lực giải tỏa và bảo vệ giao thông vận chuyển, hình thành thế bao vây, chia cắt Plâyku, cô lập chi khu quận lỵ Thanh An, Lệ Ngọc; làm sẵn các trận địa pháo ở các khu vực điểm cao 946, bắc Ngọc Quặn (Kon Tum) và bắc đường 5A (Plâyku), chuẩn bị trước các điều kiện xạ kích để khi được lệnh, sẽ bắn vào thị xã Kon Tum, sân bay Củ Hanh và La Sơn; mở đường mới ở tây Plâycu, bắc đường 5A đến điểm cao 734, mở đường ở nam Lệ Ngọc, nam Thanh An ra sát đường 14 (cách đường 14 khoảng 4 km), sửa chữa đường 220 xuống đến bắc thị xã Kon Tum; đồng thời, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để sẵn sàng giải phóng Kon Tum, Plâyku.

Trong khi Sư đoàn 968 nhận lệnh vào thay phiên cho sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A, thì tại Nghệ An, ngày 15-1-1975, Sư đoàn 316 được lệnh hành quân bằng xe cơ giới vào Tây Nguyên. Ngày 3-2-1975, sư đoàn vào tới Đắc Đam. Tại khu vực giấu quân này, sư đoàn khẩn trương triển khai mọi công tác chuẩn bị theo mệnh lệnh tác chiến, sẵn sàng tham gia chiến dịch Tây Nguyên.

Để tăng cường sự lãnh đạo và chỉ huy chiến dịch tiến công chiến lược Xuân 1975, đặc biệt là bảo đảm cho chiến dịch Tây Nguyên, với trận mở màn then chốt Buôn Ma Thuột, giành thắng lợi, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định cử các đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng, Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Lê Ngọc Hiền - Tổng Tham mưu phó và một số cán bộ của Bộ Tổng tham mưu vào chiến trường, hình thành bộ phận đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh ở chiến trường miền Nam (mang mật danh Đoàn A75). Như vậy, cơ quan chỉ huy quân sự của Bộ Tổng Tư lệnh - Bộ Tổng tham mưu đã được hình thành ở cả phía trước và phía sau, vừa sâu sát mặt trận, nắm bắt diễn biến tình hình tại chỗ; vừa bao quát ở thầm chiến lược, đảm bảo chỉ huy đúng đắn, kịp thời.

Trước ngày đoàn lên đường, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái có cuộc họp bàn về cách đánh trong chiến dịch Tây Nguyên; tất cả đều thống nhất: đòn tiến công chiến lược đầu tiên phải tranh thủ bất ngờ, tập trung cao độ giải quyết Buôn Ma Thuột, bảo đảm chắc thắng trận đầu; tiếp đó, nhanh chóng phát huy thắng lợi, tiến công liên tục, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, giải phóng và giữ cho được địa bàn chiến lược quan trọng ở Tây Nguyên. Để đảm bảo bí mật, theo quy ước, đồng chí Võ Nguyên Giáp có mật danh là Chiến; đồng chí Văn Tiến Dũng mang mật danh là Tuấn; các đồng chí thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu, các tổng cục Chính trị, Hậu cần đều có mật danh riêng.

Ngày 5-2-1975, Đoàn A75 lên đường. Những biện pháp bảo mật, nghi binh được thực hiện nghiêm ngặt. Một số đồng chí do yêu cầu nhiệm vụ đã lên đường vào chiến trường trước, một số đồng chí gia nhập đoàn trên đường hành quân(1). Ngay khi vào đến Sở Chỉ huy của bộ ở phía tây nam thị xã Buôn Ma Thuột, đồng chí Văn Tiến Dũng đã thay mặt Quân ủy Trung ương công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên gồm: Tư lệnh - Trung tướng Hoàng Minh Thảo; Chính ủy - Đại tá Đặng Vũ Hiệp; Phó Tư lệnh - Thiếu tướng Vũ Lăng và các Đại tá Phan Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang; Phó Chính ủy - Đại tá Phí Triệu Hàm.

Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San - Phó Bí thư Khu ủy và các đồng chí lãnh đạo khác cùng đồng chí Nguyễn Cần - Bí thư, Lê Chí Quyết - Phó Bí thư tỉnh ủy Đắc Lắc và một số đồng chí Tỉnh ủy viên ở bên cạnh Bộ Tư lệnh và đảng ủy chiến dịch chỉ đạo hoạt động nổi dậy của quần chúng; đồng chí Ma H’Oanh - Bí thư Thị ủy Buôn Ma Thuột cùng một số cơ quan khu ủy, tỉnh ủy ở Tây Nguyên chỉ đạo các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực, đồng thời lãnh đạo phong trào nổi dậy của quần chúng đứng lên giành quyền làm chủ, thiết lập chính quyền cách mạng và các vùng giải phóng.


(1) Đồng chí Đinh Đức Thiện nhập vào Đoàn A75 trên đường hành quân, còn trước đó, đồng chí Lê Ngọc Hiền đã vào chiến trường từ cuối tháng 1-1975.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #69 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2011, 06:45:58 am »

Từ ngày 17 đến ngày 19-2-1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên họp mở rộng để bàn phương án tác chiến. Đánh giá về các khả năng ứng phó của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch dự kiến: ngoài lực lượng hiện đang chiếm đóng, Quân đoàn 2 quân đội Sài Gòn có thể huy động cao nhất từ 5 đến 7 trung đoàn bộ binh để lần lượt tổ chức phản đột kích(1). Trong điều kiện nếu không phải đối phó trên nhiều hướng, địch có thể huy động cả lực lượng ở các quân khu khác và lực lượng dự bị chiến lược, khoảng 9 đến 12 trung đoàn. Lực lượng này sẽ được cơ động bằng ô tô, theo các trục đương 19, 14, 21; nếu phải đối phó trên nhiều hướng, địch chỉ có thể huy động được 3 đến 4 trung đoàn. Nếu địch tổ chức đổ bộ đường không, thì mỗi ngày chỉ có thể thực hiện được khoảng một trung đoàn. Ngoài ra, địch có khả năng chi viện từ 1 đến 2 tiểu đoàn thiết giáp, từ 3 đến 5 tiểu đoàn pháo cơ giới cho hướng chủ yếu, 60 đến 80 lần chiếc máy bay; nếu có không quân Mỹ tham gia, có thể huy động từ 100 đến 120 lần chiếc/ngày.

Về phía ta, lực lượng tham gia chiến dịch gồm 5 sư đoàn bộ binh (10; 320A; 316; 968; 3) và 4 trung đoàn bộ binh (25; 271; 95A, 95B); Trung đoàn đặc công 198 và 2 tiểu đoàn đặc công (14; 27); Trung đoàn xe tăng - thiết giáp 273; 2 trung đoàn pháo binh (40; 675); 3 trung đoàn pháo phòng không (232; 234; 593); 2 trung đoàn công binh (7; 575); Trung đoàn thông tin 29; Trung đoàn ôtô vận tải và lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh Đắc Lắc, Kon Tum, Gia Lai.

Trên cơ sở so sánh lực lượng giữa ta và địch, căn cứ mục tiêu, nhiệm vụ chiến đấu được giao, Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định:

- Hướng và khu vực tác chiến chủ yếu: Buôn Ma Thuột - Đức Lập. Mục tiêu quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột.

- Hướng và mục tiêu quan trọng: Thuần Mẫn (Cẩm Ga), nhằm cắt đứt đường 14, thực hiện chia cắt địch về chiến dịch, ngăn chặn dự bị địch từ Plâyku xuống Buôn Ma Thuột.

- Hướng phát triển: Phú Bốn, Quảng Đức, chủ yếu là Phú Bổn - bao gồm cả thị xã Cheo Reo.

- Hướng bao vây chia cắt chiến dịch: khu vực đường số 19 (cắt đoạn từ đông Plâyku qua An Khê tới đông Bình Khê), chặn đứng mọi sự chi viện từ đồng bằng lên Plâyku và ngăn không cho địch từ Plâyku cơ động về đồng bằng; cắt đường số 21 (trên đoạn đông tây Chư Cúc), chặn địch từ Khánh Hóa lên Buôn Ma Thuột và từ Buôn Ma Thuột tháo chạy về đồng bằng.

- Hướng nghi binh: có nhiệm vụ nghi binh, kiềm chế, giam chân khối chủ lực Quân khu 2 ở Kon Tm, Plâyku.

Về trận then chốt quyết định giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh chiến dịch dự kiến hai phương án:

Một là, đánh địch khi chúng chưa phòng ngự dự phòng (địch chưa đưa Sư đoàn 23 về phòng thủ Buôn Ma Thuột). Đây là phương án lý tưởng nhất, đảm bảo đánh chiếm nhanh các mục tiêu mà ít gây thiệt hại cho thị xã. Vấn đề cốt yếu nhất của phương án này là làm sao nghi binh, thu hút, giam hân được 8 trung đoàn chủ lực quân đội Sài Gòn ở bắc Tây Nguyên, không cho chúng về Buôn Ma Thuột trước khi quân ta nổ súng đánh vào thị xã.

Hai là, đánh địch đã tăng cường phòng ngự dự phòng. Đây là tình huống sẽ diễn ra chiến đấu giằng co rất gay go, ác liệt. Bộ Tư lệnh chiến dịch yêu cầu các đơn vị trong công tác chuẩn bị lấy phương án 2 làm cơ bản, nhưng trong thực hiện phải hết sức tạo thời cơ và điều kiện đánh địch theo phương án thứ nhất.

Quá trình bàn bạc kế hoạch tác chiến, đại diện Quân ủy Trung ương và các đồng chí trong Bộ Tư lệnh chiến dịch nhất trí nhanh về nhiệm vụ và mục tiêu của chiến dịch, “nhưng về cách đánh đã phải suy nghĩ, cân nhắc rất nhiều, phải mất nhiều thì giờ thảo luận mới đi đến nhất trí và có những sự phát triển mới”(2).

Rút kinh nghiệm những chiến dịch trước đây và xuất phát từ yêu cầu chiến lược của giai đoạn kết thúc chiến tranh, căn cứ vào điều kiện chiến trường, vào thế và lực của ta, đại diện Quân ủy Trung ương và bộ Tư lệnh chiến dịch, sau một quá trình bàn bạc, đã xác định rõ cách đánh trong chiến dịch Tây Nguyên là:

- Sử dụng lực lượng tương đối lớn (cỡ trung đoàn, sư đoàn) để cắt các đường giao thông (14, 19, 21), tạo ra thế chia cắt địch về chiến lược, tách Tây Nguyên với đồng bằng ven biển; phải cô lập Buôn Ma Thuột với Plâyku, Plâyku với Kon Tum; đồng thời, tích cực hoạt động nghi binh, giam chân địch, thu hút sự chú ý và lôi kéo lực lượng của chúng về phía bắc Tây Nguyên, tạo điều kiện cho ta có thể giữ bí mật bất ngờ ở phía nam cho đến khi nổ súng đánh Buôn Ma Thuột.

- Tổ chức thực hiện chắc thắng trận then chốt mở màn chiến dịch, đánh chiếm Buôn Ma Thuột bằng cách tổ chức lực lượng đột kích binh chủng hợp thành tương đối mạnh cỡ trung đoàn; tập kích từ xa vận động đến, bỏ qua các mục tiêu địch bảo vệ vòng ngoài, bất ngờ thọc sâu vào bên trong thị xã, phối hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh bí mật bố trí sẵn từ trước, nhanh chóng tiêu diệt ngay các mục tiêu chỉ huy đầu não và vị trí xung yếu, đánh chiếm vững chắc các bàn đạp bên trong xong rồi mới từ trong thị xã đánh ra ngoài tiêu diệt những cứ điểm cô lập đã mất chỉ huy. Trong quá trình đó, ta phải nhanh chóng hình thành ngay một lực lượng dự bị binh chủng hợp thành mạnh, sẵn sàng đánh bại các cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột.


(1) Phản đột kích: công kích của liên binh đoàn được tiến hành trong chiến dịch phòng ngự nhằm tiêu diệt, tiêu hao lực lượng đột nhập trận địa, khôi phục một phần hoặc toàn bộ khu vực phòng ngự đã mất, tạo điều kiện chuyển sang tiến công, phản công hoặc cho các hoạt động tác chiến tiếp theo.
(2) Đại tướng Văn Tiến Dũng: Cuộc kháng chiến chống Mỹ thoàn thắng, Sđd, t.2, tr. 187.
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Ba, 2011, 06:53:36 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM