Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:49:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 8  (Đọc 102590 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2011, 06:44:39 pm »

Đến hết mùa mưa năm 1974, ta vẫn chưa chiếm lại được Vùng 4 - Kiến Tường. Dù vậy, nhìn chung đến những tháng cuối năm 1974, lực lượng vũ trang Quân khu 8 đã có bước phát triển mới, đủ sức ngăn chặn các cuộc hành quân lấn chiếm của quân đội Sài Gòn, giữ vững vùng giải phóng. Ngày 22-10-1974, theo quyết định của Bộ Tư lệnh Miền, Quân khu 8 thành lập Sư đoàn 8 bộ binh gồm các Trung đoàn 88, Trung đoàn 24 và Trung đoàn 320. Đồng chí Huỳnh Văn Mến, Phó Tư lệnh Quân khu, làm Sư đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Văn Thạnh, Phó Chính ủy Quân khu làm Chính ủy(1). Sư đoàn 8 ra đời đánh đấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang Quân khu 8. Đây là quả đấm chủ lực quan trọng, tạo sức mạnh mới cho lực lượng ta trên chiến trường Trung Nam Bộ khi bước vào mùa khô 1974-1975. Cùng với việc củng cố, phát triển khối chủ lực, quân khu quyết định dời chuyển sở chỉ huy cơ bản từ vùng biên giới Campuchia về đứng chân trên chiến trường Mỹ Tho để tiện cho việc nắm bắt diễn biến chiến trường, tiến hành chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp, kịp thời lực lượng vũ trang quân khu trong giai đoạn mới.

Trên chiến trường Tây Nam Bộ, lực lượng vũ trang Quân khu 9 bước vào đợt hoạt động quân sự sớm hơn so với Đông Nam Bộ và Trung Nam Bộ. Tại đây, quân đội Sài Gòn, sau thất bại lớn ở Chương Thiện, đã có bước điều chỉnh lực lượng và thực hiện ngay một kế hoạch quân sự mới. Ngày 30-11-1973, Quân đoàn 4 - Quân khu 4 quân đội Sài Gòn sử dụng một bộ phận lực lượng gồm 1 sư đoàn bộ binh, 2 thiết đoàn, 8 tiểu đoàn bảo an, 4 giang đoàn mở cuộc tiến công vào khu vực tây nam Long Mỹ; đồng thời, sử dụng Trung đoàn 33 - Sư đoàn 21 yểm trợ lực lượng địa phương quân, tiến công khu vực Thới Bình (Cà Mau). Dồn một lực lượng lớn cho đợt hoạt động mùa khô 1973-1974, quân đội Sài Gòn quyết tâm thực hiện mục tiêu đặt ra trong năm 1974 - năm được chúng gọi là “năm chiến tranh lúa gạo”. Mục tiêu này đã được Trần Thiện Khiêm - Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, tuyên bố tại Cần Thơ ngày 20-11-1973, và giao cho Quân đoàn 4 - Quân khu 4 quân đội Sài Gòn thực hiện. Bước vào mùa khô 1974-1975, địch tăng cường hoạt động nhằm khóa chặt biên giới, bảo vệ an ninh lãnh thổ, đồng thời mở các cuộc tiến công đánh phá căn cứ và vùng giải phóng của ta. Song song với hoạt động quân sự, tại các vùng chiếm đóng, một mặt, địch sử dụng chính quyền cấp tiểu khu làm hạt nhân và cho phép cấp chính quyền này triệt để tận thu lương thực, trưng dụng tất cả các phương tiện vận tải của nhân dân, gấp rút tổ chức xây dựng các sân phơi, kho chứa; mặt khác, chúng thực hiện “quân sự hóa” bộ máy kìm kẹp cấp xã, ấp, trước hết, đưa 1.000 công chức về khu vực Chương Thiện nắm giữ chức vụ xã trưởng, ấp trưởng. Bằng các biện pháp trên đây, địch hy vọng chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng kháng chiến của cách mạng miền Nam trên địa bàn Tây Nam Bộ mặc dù ở khu vực vựa lúa vẫn sẽ bị thiếu đói, sức chiến đấu sụt giảm.

Nửa tháng sau khi quân đội Sài Gòn mở đợt hoạt động mới, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9(2) giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 10, Trung đoàn 1, Trung đoàn 20 và Trung đoàn 3 phối hợp với lực lượng tại chỗ của các địa phương, mở các đợt phản công, tiến công vào hệ thống đồn bốt của quân đội Sài Gòn trên các địa bàn, kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm, bình định, cướp lúa gạo của địch, đồng thời mở rộng vùng giải phóng của ta.

Tại Sóc Trăn,g Trung đoàn 10 và lực lượng tại chỗ tiến công hệ thống đồn bốt địch ở tây nam chi khu Thạnh Trị, giải phóng xã Mỹ Quới; Trung đoàn 1 bao vây, bức rút hai đồn ở Vĩnh Tân và Tân Long phía đông bắc Chi khu Thạnh Trị. Ở huyện Châu Thành, ta giải phóng xã Mỹ Phước, hình thành vùng giải phóng liên hoàn từ kênh Mỹ Phước đến kênh Cái Trầu.

Trên địa bàn tỉnh Rạch Giá, Trung đoàn 20 mở các cuộc tiến công đạt hiệu suất chiến đấu cao, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 - Trung đoàn 31 - Sư đoàn 21 quân đội Sài Gòn, giải phóng xã Ngọc Hòa (huyện Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá). Cùng với lực lượng vũ trang tỉnh Rạch Giá, trung đoàn tiến công bóc gỡ 81 đồn, bộ phận 6 xã với gần 160.000 dân. Phong trào tiến công bóc gỡ đồn bốt địch ở Cà Mau, Bạc Liêu(3), Sóc Trăng, Vĩnh Long và Trà Vinh đã thu được kết quả tốt. đến cuối năm 1974, quân và dân ở đây đã bức rút được 114 đồn, giải phóng cơ bản 16 xã và hơn 200.000 dân(4).


(1) Khu VIII - Trung Nam Bộ kc chống Mỹ, cúu nước (1954-1975), Sđd, tr. 691-694.
(2) Tháng 11-1973, sau khi Trung ương điều đồng chí Lê Đức Anh về Bộ Chỉ huy Miền, quân ủy Miền bổ nhiệm đồng chí Phạm Ngọc Hưng làm Tư lệnh quân khu, đồng chí Vũ Đình Liệu làm Chính ủy quân khu; ngoài ra, Bộ Tư lệnh quân khu còn có các đồng chí Bùi Như Nho, Phó Chính ủy; Nguyễn Đệ, Phó Tư lệnh kiêm Tư lệnh tiền phương Chương Thiện, chỉ huy khối chủ lực và lực lượng vũ trang 3 tỉnh Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng; Nguyễn Đình Chức (Tư Chức), Phó Tư lệnh kiêm Tư lệnh tiền phương Châu Hà, thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận Trung đoàn 101, Tiểu đoàn 6 được Bộ Chỉ huy Miền tăng cường và tổ chức bảo vệ tuyến đườngg 1 C xuống U Minh.
(3) Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Khu ủy, ngày 27-11-1973, tỉnh Bạc Liêu được thành lập trên cơ sở chia tách từ tỉnh Ba Xuyên, đồng chí Nguyễn Văn Đáng (Tư Hờn) làm Bí thư Tỉnh ủy.
(4) Ban Chỉ đạo và Ban biên tập truyền thống Tây Nam Bộ: Tây Nam Bộ 30 năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr. 727.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2011, 06:46:02 pm »

Đầu năm 1974, quân và dân các địa phương miền Tây Nam Bộ tiếp tục đẩy mạnh tiến công địch trên các hướng Chương Thiện, Vĩnh lợi (Bạc Liêu), quốc lộ 4 - đoạn qua huyện Châu Thành B, phía nam thành phố Cần Thơ, phía bắc vùng lòng chảo Giồng Riềng (giáp phía nam lộ Cái Sắn), khu vực Tân Hiệp (Rạng Giá). Tại Bác Liêu, lực lượng vũ trang của tỉnh tiến công đich ở những vùng tranh chấp để giành dân, giành lúa với địch. Tiểu đoàn 7 - Trung đoàn 10 luồn sâu xuống khu vực Vĩnh Lợi, mở các hoạt động diệt đồn tề ở xã Vĩnh lợi, kết hợp ba mũi giáp công bao vây 2 đồn khác. Tiếp đó, đơn vị đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 486 bảo an và 3 trung đội dân vệ khi chúng đang hành quân lấn chiếm, bắt 21 tù binh. Tiểu đoàn còn đánh thiệt hại nặng thêm một đại đội trinh sát (thuộc Sư đoàn 21), có 1 chi đoàn xe M113 yểm trợ, diệt 39 tên, buộc bộ phận còn lại phải bỏ chạy về Chi khu Thạnh Trị.

Phối hợp cùng với Tiểu đoàn 7, tỉnh đội Bạc liêu sử dụng một tiểu đoàn, tiến công địch ở xã Phong Thạnh và Phong Thạnh Tây, gây thương vong nặng cho 1 trung đội biệt kích, 1 tiểu đoàn bảo an của Tiểu khu Bạc Liêu và tiêu hao 2 tiểu đoàn bảo an khác. Tiểu đoàn đã phá được 7 trong số 23 đồn do quân bảo an chốt giữ, giải phóng hoàn toàn xã Phong Thạnh.

Trên hướng Sóc Trăng, Tiểu đoàn 1 phối hợp với lực lượng huyện Mỹ Xuyên, tiêu diệt 4 đồn, bức rút 13 đồn khác, giải phóng cơ bản hai xã Gia Hòa và Hòa Tú.

Trong đợt hoạt động này, Tiểu đoàn Tây Đô (Cần Thơ) vượt lộ 4, phối hợp với bộ đội huyện Châu Thành B và Phụng Hiệp vây ép hệ thống đồn bốt của địch dọc lộ 4, uy hiếp tuyến phòng thủ của địch ở phía nam thành phố Cần Thơ; tạo điều kiện để Trung đoàn 20 chủ lực khu đánh hại nặng 2 đại đội của địch tại nam chi khu Giồng Riềng, bức rút 6 đồn bốt.

Cùng trong thời gian này, Tiểu đoàn 2 của tỉnh Rạch giá bức rút 2 đồn Xẻo Cạn Ngọn và Xẻo Cạn Vàm, giải phóng kênh Xẻo Cạn và phối hợp với Đoàn 6 pháo binh, đánh phá đồn Cái Nước Vàm. Trên hướng Vĩnh Long, Trà Vinh, Trung đoàn 3 chủ lực của quân khu phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang của các địa phương này, bức rút 7 đồn địch tại hai xã Tích Thiện và Vĩnh Xuân; đồng thời, đánh bại các cuộc hành quân của nhiều đơn vị bảo an địch hòng tái chiếm lại các vị trí vừa mất.

Hoạt động đều khắp, mạnh mẽ của lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta buộc quân đội Sài Gòn trên địa bàn này phải căng kéo, dàn mỏng lực lượng để đói phó. Do luôn trong tình trạng phân tán lực lượng, ở nhiều khu vực, quân đội Sài Gòn đã không đứng vững trước sức tiến công của quân ta. Cho đến cuối tháng 1-1974, quân và dân Tây Nam Bộ đã bóc gỡ thêm được 123 đồn địch, giải phóng 9 xã với hàng vạn dân.

Từ kết quả hoạt động tiến công và phản công đánh bại các đợt hoạt động lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari của địch trên địa bàn Tây Nam Bộ, Hội nghị sơ kết đợt đầu chiến dịch mùa khô của Quân khu 9 họp vào cuối tháng 1-1974 đã phân tích ý nghĩa quan trọng của những kết quả này và chỉ rõ: ta đã chủ động phá được âm mưu, kế hoạch mùa khô của địch; chống không cho địch chiếm đất, giành dân, bảo vệ vững chắc các vùng giải phóng. Hội nghị cũng rút ra những kinh nghiệm về mở rùng, chuyển vùng, sử dụng lực lượng phối hợp cả ba thứ quân và kết hợp ba mũi giáp công trong quá trình chống địch lấn chiếm.

Nhận thấy kế hoạch bình định lấn chiếm bị chống trả quyết liệt, lại bị mất nhiều địa bàn quan trọng, tinh thần chiến đấu của binh lính sút giảm mạnh, cuối tháng 1-1974, Nguyễn Văn Thiệu xuống Cần Thơ họp bàn với Bộ Tư lệnh Quân khu 4 - Vùng 4 chiến thuật tìm biện pháp cải thiện tình hình, xác định rõ mục tiêu và địa bàn tranh chấp chủ yếu với ta vẫn là Chương Thiện, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 - Vùng 4 chiến thuật tiến hành săp xếp lại thế bố trí lực lượng. Trung đoàn 32 thuộc Sư đoàn 21 được điều sang hoạt động ở Thạnh Trị (Sóc Trăng), Trung đoàn 15 thuọc Sư đoàn 9 giao khu vực Lái Thiêu cho lực lượng bảo an để chuyển xuống hoạt động ở khu vực Châu Thành và Mỹ Xuên (Sóc Trăng). Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 21 từ tây nam Long Mỹ (Cần Thơ) chuyển sang Giồng Riềng (Rạch Giá). Với cách bố trí như vậy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 - Vùng 4 chiến thuật hy vọng sẽ chặn đứng được hoạt động của ta ở địa bàn Rạch Giá, Sóc Trăng, Cần Thơ, đồng thời ghìm một bộ phận lực lượng ta ở những địa bàn này nhằm làm giả sự uy hiếp đối với Chương Thiện.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2011, 06:46:53 pm »

Trong lúc địch đang bố trí lại lực lượng và thế trận, thì ngày 16-2-1974, ta đã đồng loạt nổ súng mở màn đợt tiến công mới trên chiến trường miền Tây Nam Bộ.

Mở đầu cho đợt tiến công này, Trung đoàn 1 cùng lực lượng địa phương huyện Phùng Hiệp phối hợp diệt 19 đồn, giải phóng tuyến kênh Ngang từ ngã tư Cây Dương đế ngã năm Búng Tàu, giải phóng cơ bản xã Hiệp hưng, nối liền khu vực phía đông bắc Long Mỹ với tây lộ 4. Trước tình hình đó, Trung đoàn 15 - Sư đoàn 9 quân đội Sài Gòn đánh phải bỏ cuộc hành quân tái chiếm Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) quay về Phụng Hiệp và lực lượng này đã chiếm lại được 4 đồn xung quanh thị trấn Phụng Hiệp.

Ở khu vực phía tây nam Long Mỹ, Trung đoàn 10 tiến công tiêu diệt 1 đồn do tề xã chiếm giữ và một số đồn bốt khác, uy hiếp Chi khu Long Mỹ. Địch vội điều Trung đoàn 31 đang hành quân ở kênh Xà Nó chung chi đoàn xe M113 tới giải tỏa. Thế nhưng, lực lượng chi viện này của địch đã bị ta phục kích, đánh diệt 8 xe M113. Tại Giồng Riềng, Trung đoàn 210 diệt đồn tề xã Vĩnh Thạnh, kìm chân Trung đoàn 33 quân đội Sài Gòn.

Phối hợp với các địa bàn xung quanh, trong các ngày từ 17 đến 22-2-1974, dân quân, du kích các xã Biển Bạc, Trí Phải (Cà Mau) đã bức rút thêm 5 đồn bốt. Trong lúc đó, trên toàn tỉnh lực lượng ta bao vây 46 đồn bốt, buộc địch phải sử dụng máy bay để tiếp tế cho lực lượng tại các đồn bốt này. Ở Vĩnh Long và Trà Vinh, Trung đoàn 3 phối hợp với lực lượng địa phương bóc gỡ 9 đồn thuộc khu vực phía nam sông Mang Thít, đẩy lùi nhiều cuộc hành quân bình định lấn chiếm của địch, giải phóng hoàn toàn xã Thuận Thới.

Tiếp đó, trong tháng 3-1974, Đoàn 6 pháo binh cùng Tiểu đoàn 2 của tỉnh Rạch Giá đánh chiếm 2 đồn địch và kết hợp với lực lượng tại chỗ bức rút 11 đồn khác, giải phóng cơ bản 2 xã Đông Yên và Tây Yên. Địch điều 1 giang đoàn từ căn cứ Xẻo Rô vào giải tỏa, nhưng lực lượng này đã bị Đoàn 6 pháo binh bắn chìm và bắn cháy 3 tàu. Cũng trong tháng 3, lực lượng bộ đội ở Rạch Giá còn gỡ và diệt thêm 32 đồn bốt địch.

Ngày 5-3-1974, Trung đoàn 101 chủ lực miền diệt căn cứ Trà Tiên, đánh thiệt hại năng Trung đoàn 16 - Sư đoàn 9 của địch, giải phóng xã Phú Mỹ (huyện Hà Tiên).

Ngày 21-3-1974, bộ đội huyện Cái Nước cùng du kích bao vây, bức rút 1 đồn và uy hiếp 1 đồn khác thuộc xã Tân Hưng Tây. Địch tung quân tái chiếm. Tỉnh đội Rạch Giá điều 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn U Minh 3 và 1 đại đội pháo binh tiến công, bắn phá đồn địch. Lúc này, Tiểu đoàn bảo an cơ động 412 được trực thăng đổ xuống khu vực Bình Hưng. Các Tiểu đoàn U Minh 2 và U Minh 3, đại đội huyện Cái Nước, trung đội nữ pháo binh đã bố trí lực lượng phục kích, đón đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn bảo an này, loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên, bắt sống 47 tên, thu toàn bộ vũ khí và 21 máy thông tin.

Đầu tháng 4-1974, địch tập trung một bộ phận lực lượng bộ binh, xe tăng và xe thiết giáp cùng các giang đoàn, hải đoàn chủ lực mở cuộc hành quân giải tỏa, hòng nối lại trục sông Cái Lớn. Đoàn 6 pháo binh Quân khu 9 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tập kích căn cứ hải quân Xẻo Rô, diệt 1 giang đoàn với 16 tàu và 1 chi đội xe M113 ở Bầu Môn, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn bộ binh khác, đập tan cuộc hành quân giải tỏa này của địch.

Trên đà thắng lợi, ngày 26-4-1974, Tiểu đoàn U Minh 2 tập kích phân khu Cái Rắn, tiêu diệt và bắt sống 44 tên, thu 36 súng, trong đó có 1 cối 106,7mm và 5 máy thông tin.

Từ tháng 5-1974, địch phải điều Trung đoàn 15 - Sư đoàn 9 tăng cường cho khu chiến thuật Tiền Giang. Nắm bắt kịp thời kế hoạch này của địch, lực lượng vũ trang Quân khu 9 tiến công Tiểu khu Bạc Liêu, Tiểu khu Phong Dinh. Cùng thời gian, quân và dân các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh kết hợp hai mũi tiến công, phát triển phong trào “bao vây, đánh lấn” nhằm vào hệ thống đồn bốt địch. Kết quả, trong 15 ngày đầu tháng 5, bộ đội địa phương của ta đã bóc gỡ thêm 22 đồn. Quân và dân tỉnh Rạch Giá diệt thêm 14 đồn; giải phóng hoàn toàn 2 xã Vĩnh Hòa (Vĩnh Thuận) và xã Thúy Liễu (Gò Cao); mở rộng vùng giải phóng ở 2 xã Hóa Quản và Bình An (Châu Thành B). Ngày 20-5-1974, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tổ chức cuộc míttinh ra mắt nhân dân ở 2 xã vừa mới giải phóng; hơn 5.000 người và hàng trăm trí thức, nhân sĩ yêu nước tham gia buổi lễ này.

Trước sự phát triển thuận lợi của phong trào tiến công địch, Sở Chỉ huy tiền phương tỉnh Cà Mau quyết định dời chuyển từ căn cứ U Minh Hạ lên sông Ông Đốc để trực tiếp chỉ huy các đơn vị đánh chiếm căn cứ Bình Tây (Phân chi khu chữ Y). Ta sử dụng 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội pháo binh, vượt sông Ông Đốc để đánh căn cứ này. Căn cứ Bình Tây nằm trên địa bàn xã Khánh Bình, do 1 đại đội bảo an địch chốt giữ. Đây là căn cứ được xây dựng khá kiên cố, do đó, ta đã dùng kế nghi binh, kéo địch thoát ly khỏi căn cứ để Tiểu đoàn U Minh 2 phục kích, tiêu hao một số sinh lực địch. Bọn còn lại cố thủ trong căn cứ. Lực lượng ta bao vây, dùng súng cối 120 mm bắn phá công sự và đồn trại của chúng. Không chịu nổi sức ép của ta, địch bỏ căn cứ hòng thoát thân. Quân ta truy kích, diệt thêm một số; số còn lại chạy về đồn Trảng Cò. Căn cứ Bình Tây mất, lực lượng bảo an ở đồn kênh Công Nghiệp Giữa cũng tháo chạy. Phát huy thắng lợi, ta tiếp tục bao vây đồn Trảng Cò, pháo kích buộc địch phải rút khỏi đồn Rạch Cui Phố, đồn Chủ Kịch (xã Trần Hợi) và đồn Ông Tự (xã Phong Lạc). Đêm 30 rạng 31-5-1974, ta bức rút thêm 5 đồn, khiến cho quân địch ở đồn Rạch Cui Phố cũng hoảng sợ bỏ chạy. Chỉ trong một thời gian ngắn, trên tuyến sông Ông Đốc, địch chỉ còn đóng ở thị trấn sông Ông Đốc, Chi khu Rạch Giá, nhưng trong thế bị quân ta bao vây, cô lập.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2011, 06:48:09 pm »

Cùng với đoàn tiến công quân sự, phong trào nổi dậy của quần chúng ở nhiều địa phương cũng có bước phát triển mới, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của hơn 1.000 tăng ni, phật tử thuộc 46 chùa của tỉnh Rạch Giá vào ngày 13-6-1974. Đây là cuộc xuống đường tương đối lớn, thu hút đông đảo quần chúng tham gia, với khẩu hiệu đấu tranh chống bắt lính, chống tàn sát sư sãi chùa Cù Là (thị trấn Minh Lương, Rạch Giá). Thường vụ Khu ủy Khu 9 kịp thởi cử đồng chí Ma Hanh Thông, Khu ủy viên, Trưởng ban Khme vận, cùng với tỉnh Rạch Giá phát động quần chúng biẻu dương lực lượng, thị uy trước các cơ quan chính quyền và quân đội Sài Gòn trong các thị xã, thị trấn. Cuộc đấu tranh này buộc địch phải cón những nhượng bộ, không còn dám mạnh tay đàn áp như trước được nữa.

Như vậy, cho đến mùa hè năm 1974, quân và dân miền Tây Nam Bộ đã giành được những thắng lợi quan trọng trên mặt trận đấu tranh quân sự và chính trị. Lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta đã giải phóng thêm được đất, giành thêm được dân, củng cố thế đứng an toàn ở vùng giải phóng. Địch chẳng những không thực hiện được kế hoạch lấn chiếm, không cướp được lúa gạo, mà còn chịu nhiều tổn thất về lực lượng và suy giảm về thế trận. Nhiều đồn bốt dọc các hành lang vận chuyển đã bị bóc gỡ, nhiều địa bàn quan trọng có ý nghĩa về quân sự, chính trị, kinh tế cũng bị ta đánh chiếm. Trên thực tế, ở Tây Nam Bộ, địch chỉ còn chiếm giữ các thành phố, thị xã, vùng giáp ranh và một phần khu vực Chương Thiện - lộ 4. Cùng với quá trình giành đất, giành dân, lực lượng vũ trang của quân khu đã có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Trước tình hình đó, quân khu quyết định mở tiếp đợt tiến công trên diện rộng vào mùa mưa, nhằm chuẩn bị cho đợt hoạt động vào mùa khô 1974-1975. Trong đợt này, hướng trọng điểm Rạch Giá, quân khu sử dụng Trung đoàn 3, Trung đoàn 10, Tiểu đoàn 6 và các đơn vị vũ trang địa phương tiến công bức rút 65 đồn địch trên các tuyến kênh Xẻo Rô, kênh Tân Hội, kênh Mỹ Lâm, mở rộng hành lang vận chuyển, nối Châu Hà xuống căn cứ U Minh, tạo điều kiện để củng cố căn cứ Ba Hòn và xây dựng căn cứ Bảy Núi.

Trên hướng Sóc Trăng, Trung đoàn 1 sau khi đánh chiếm một loạt đồn bốt của địch ở Phân chi khu Đức Bà, Phương Bình 2, Phương Phú, Phương Phú 2, đã làm chủ một đoạn kênh xáng Quảng Lộ, đoạn từ Trà lĩnh đến Búng Tàu. Trước sức tiến công của ta, địch điều một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 31 - Sư đoàn 21 và 1 tiểu đoàn bảo an đến giải tỏa khu vực này. Dựa vào công sự, trận địa được chuẩn bị, Trung đoàn 1 của ta chặn đánh lực lượng này ở Xẻo Xu và Xẻo Cỏ. Cuối tháng 7-1974, địch điều thêm 1 chi đoàn xe M113, 2 tiểu đoàn và 1 đại đội thuộc Trung đoàn 15 - Sư đoàn 9 mở cuộc tiến công tái chiếm khu vực này nhưng không thành công.

Ở Cần Thơ, Tiểu đoàn Tây Đô và Tiểu đoàn 303 đánh chiếm Phân chi khu Thạnh An (Châu Thành B), bức rút đồn Mù U (Thường Thạnh), đồn Kế Sách, mở rộng diện làm chủ của ta ở khu vực ven sông Hậu. Trong lúc đó, bộ đội địa phương huyện Phụng Hiệp phối hợp với lực lượng tại chỗ, giải phóng kênh xáng Rạch Gòi, đoạn từ Rạch Gòi đến ngã ba Cây Dương.

Trung đoàn 20, sau khi mở rộng vùng giải phóng Giồng Riềng, đã bàn giao địa bàn này cho Trung đoàn 2 để chuyển qua hoạt động trên địa bàn huyện Ô Môn. Tại đây, trung đoàn tổ chức nhiều trận đánh, bức rút 30 đồn địch, giải phóng các xã Trường Xuân, Trường Long, Thới Lai và Nhon Thành (huyện Châu Thành).

Tại Trà Vinh và Vĩnh Long, phối hợp với đòn tiến công quân sự, ban binh vận tỉnh mở đợt tiến công binh vận ở thị xã Trà Vinh, Vĩnh Long và các thị trấn Tam Bình, Trà Ôn, Cầu Kè, Vũng Liêm, Càng Long. Lực lượng binh vận đã phối hợp với 60 cơ sở nội tuyến, sử dụng chất nổ, đánh phá cơ quan chính quyền, căn cứ quân sự, kho tàng, bến bãi, diệt nhiều tên ác ôn. Trong đợt này, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.300 tên địch, gỡ 40 đồn bốt, thu 1.000 súng.

Cuộc tiến công mùa mưa năm 1974 của quân và dân Quân khu 9 thu được những kết quả quan trọng. Trong cuộc tiến công này, phong trào chiến tranh nhân dân phát triển rộng khắp, uy hiếp hệ thống đồn bốt, căn cứ địch trên một diện rộng gồm 315 trong số 420 xã và 2.444 ấp trong số 3.400 ấp trên địa bàn quân khu; giải phóng hoàn toàn 56 xã, giành quyền làm chủ cho hơn hai triệu nhân dân. Đến cuối năm 1974, quân số của địch trên địa bàn Tây Nam bộ chỉ còn 15 vạn tên (giảm hơn 4 vạn so với năm 197); quân bảo an không còn khả năng cơ động và mất dần khả năng tiến công lấn chiếm vùng giải phóng(1).


(1) Ban Chỉ đạo và Ban biên tập truyền thống Tây Nam Bộ: Tây Nam Bộ 30 năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr. 749.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2011, 06:50:39 pm »

Trên chiến trường Tây Nguyên, vào đầu năm 1974, Quân đoàn 2 - quân đội Sài Gòn vẫn giữ thế bố trí theo hai hướng Gia Lai và Kon Tum. Trên hướng Gia Lai, địch sử dụng 11 tiểu đoàn, 3 chi đội thiết giáp và hai tiểu đoàn pháo binh làm nhiệm vụ phòng giữ địa bàn và tiến công lấn chiếm khu vực Đức Cơ - phía tây đường 19. Hướng Kon Tum, địch tập trung một bộ phận lực lượng khá mạnh gồm Sư đoàn 23 tăng cường, 9 tiểu đoàn biệt động, 2 trung đoàn thiết giáp và 15 trận địa pháo, đồng thời, trên hướng này, chúng thường xuyên sử dụng máy bay ném bom, bắn phá vùng giải phóng, vùng căn cứ của ta. Trên cả hai hướng, kể từ sau Hiệp định Pari được ký kết, địch thường xuyên tiến hành các cuộc tiến công lấn chiếm căn cứ và vùng giải phóng của ta.

Sau chiến thắng Chư Nghé (Lệ Minh) của Sư đoàn 320 đánh bại các hoạt động lấn chiếm của địch, bảo vệ vùng giải phóng ở Gia lai, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định tách trung đoàn 95 ra khỏi đội hình Sư đoàn 10, sử dụng Trung đoàn này làm nhiệm vụ đánh phá thường xuyên đoạn đường 19 chạy qua đèo An Khê - Mang Yang. Bộ Tư lệnh mặt trận cũng quyết định tổ chức lực lượng mở đường 220 nối từ Võ Định qua Kon Rẫy vòng xuống phía đông, phục vụ việc cơ động lực lượng và bảo đảm hậu cần cho Trung đoàn 95 hoạt động ở phía bắc đường 19. Nhằm rút ngắn thời gian mở đường, ngoài lực lượng thi công cơ giới, ta bố trí lực lượng chiến đấu sẵn sàng đánh trả các cuộc hành quân ngăn chặn, phá hoại của địch. Ngay trong những này đầu mở đường, Trung đoàn 28, được tăng cường Tiểu đoàn 6 - Trung đoàn 24, đã đánh chiếm căn cứ Kon Rẫy do Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 40 quân đội Sài Gòn đóng giữ.

Đầu tháng 3-1974, địch sử dụng Tiểu đoàn 95 và 2 đại đội hòng ngăn chặn lực lượng mở đường của ta. Được sự chi viện hiệu quả của pháo binh bắn thắng, Trung đoàn 28 và Tiểu đoàn 6 chủ lực Mặt trận Tây Nguyên đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 95 và 2 đại đội địch.

Mở con đường chỉ cách thị xã Kon Tum 20 km để vận chuyển vũ khí - trang bị kỹ thuật, hậu cần đảm bảo cho lực lượng ta hoạt động trên đường 19 là một bước đi có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ chiến trường Tây Nguyên. Đây là hướng vu hồi quan trọng nhằm kéo và ghìm lực lượng địch tại khu vực đường 19, tạo điều kiện cho hoạt động của ta trên hướng Kon Tum. Do vậy, cuộc đụng độ giữa ta và địch trong những tháng đầu của năm 1974 chủ yếu diễn ra ở các khu vực mà con đường 220 đi ngang qua. Mặc dù liên tiếp ở các cuộc hành quân đánh phá ngăn chặn quyết liệt, nhưng địch đã không thể nào cản được quyết tâm mở đường của ta. Cho đến đầu tháng 3-1974, trên toàn tuyến đường, địch chỉ còn giữ cứ điểm Kon Rốc - điểm cao 1.227 m thuộc khu vực đông bắc thị xã Kon Tum, do 1 tiểu đoàn bảo an và các phân đội quân báo, biệt động chốt giữ. Nhưng ngay cả cứ điểm này, địch cũng không giữ được bao lâu. Ngày 3-4-1974, được pháo binh bắn thắng chi viện, sau 2 giờ chiến đấu, Trung đoàn 24 đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng địch ở Kon Rốc. Con đường 220 từ đây vươn nhanh tới khu vực bắc đường 19 - nơi Trung đoàn 95 đứng chân, thực hiện nhiệm vụ đánh phá giao thông địch.

Cuối tháng 4-1974, ở Kon Tum, địch còn lại 3 căn cứ, căm sâu vào vùng giải phóng của ta, gồm Đắc Pét án ngữ đường 14, sát biên giới Việt Nam - Lào; Chi khu quận lỵ Mặng Đen và Chi khu quận lỵ Măng Búc (bắc Kon Tum). Bộ Tư lệnh Mặt trận giao cho Trung đoàn 66 và Trung đoàn 28 - Sư đoàn 10 đảm nhiệm đánh chiếm các căn cứ này.

Ngày 15-5-1974, Trung đoàn 66 được xe tăng, pháo binh chi viện, tiến công tiêu diệt và bắt sống toàn bộ Tiểu đoàn biệt động quân 88 ở căn cứ Đắc Pét (tây bắc Đắc Lắc). Phối hợp với Trung đoàn 66, Trung đoàn 3 (Quân khu 5) cùng lực lượng địa phương tiến công giải phóng Chi khu quận lỵ Đắc Pét. Khu vực Đắc Pét giải phóng, đường 14 được nối thông với tuyến vận tải chiến lược đông Trường Sơn.

Trong lúc các lực lượng ta đang tiến đánh các căn cứ địch ở Kon Tum thì tại Đắc Lắc, Trung đoàn 25 tiến công tiêu diệt căn cứ Ea Súp, giải phóng toàn bộ khu vực xung quanh căn cứ này.

Trên hướng bắc Kon Tum, Trung đoàn 28 cũng nhanh chóng đánh chiếm căn cứ Măng Đen, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ Ban chỉ huy Tiểu khu Chương Nghĩa và Ban Chỉ huy Tiểu đoàn bảo an 254, với gần 400 tên, trong đó có viên trung tá chỉ huy trưởng tiểu khu và 25 sĩ quan khác.

Đắc Pét, Măng Đen mất, địch ở quận lỵ Măng Búc lo sợ. Nhân lúc địch đang hoang mang, bộ đội địa phương cùng với nhân dân tiến công và nổi dậy, bức rút chi khu quận lỵ Măng Búc(1).

Từ đây, toàn bộ khu vực phía bắc và đông bắc thị xã Kon Tum trở thành vùng hoàn toàn giải phóng. Như vậy, ở Kon Tum địch chỉ còn giữ được thị xã và một só vị trí vùng ven.

Cũng vào thời gian này, trên hướng Gia Lai, Sư đoàn 320 đẩy mạnh các hoạt động vùng sau lưng địch. Sau khi đánh chiếm căn cứ Lệ Ngọc - thuộc tuyến bảo vệ vòng ngoài thị xã Plâycu, ngày 14-14-1974, sư đoàn sử dụng Trung đoàn 48, tiến công cụm quân hỗn hợp của địch gồm bộ binh, pháo binh, xe tăng - thiết giáp ở căn cứ 711 và điểm cao 601, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn biệt động quân số 82, 1 chi đoàn xe tăng, bắn rơi 5 máy bay, thu 2 pháo 155mm, 1 khẩu cối 106,7mm và nhiều quân trang, quân dụng(2). Đây là trận đánh có quy mô lớn nhất trên chiến trường Tây Nguyên kể từ sau ngày Hiệp định Pari được ký kết. Trong trận này, phần lớn các loại pháo mặt đất của ta được cơ động vào sát vị trí địch, ngắm bắn trực tiếp, nên hiệu quả và sức uy hiếp mạnh . Mặt khác, pháo cao xạ được bố trí tập trung trên hướng chủ yếu và trong đội hình chính, đã đánh trả rất hiệu quả không quân địch, bảo vệ vững chắc đội hình tiến công ta.

Bước vào những tháng cuối năm 1974, trên chiến trường Tây Nguyên, địch đã bị đẩy vào thế co cụm ở các thị xã và một số vị trí quan trọng trên các trục đường giao thông huyết mạch 14, 19, 21. Giờ đây, quân Sài Gòn ngày càng lún sâu vào thế bị động chống đỡ, tinh thần và khả năng chiến đấu của binh lính và sĩ quan giảm sút nghiêm trọng. Trên thực tế, quân địch ở đây không còn đủ sức làm nòng cốt cho kế hoạch “lấn chiếm, bình định” được nữa.

Như vậy, sau gần hai năm đẩy mạnh hoạt động tiến công địch trên chiến trường Tây Nguyên, ta đã đập tan các hoạt động lấn chiếm của địch; bảo vệ, mở rộng và nối thông vùng giải phóng, vùng căn cứ từ bắc Kon Tum đến nam Đắc Lắc, nối liền tuyến vận tải chiến lược từ miền Bắc vào tới chiến trường Nam Bộ. Trải qua những tháng ngày chiến đấu quyết liệt với địch, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã có bước phát triển vững mạnh, có điều kiện và có khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn.


(1) Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp: Ký ức Tây Nguyên (Đại tá Lê Hải Triều thể hiện), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 378-381.
(2) Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Sđd, tr. 269.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 06:47:42 am »

Trong khi đó, ở các tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ, ta và địch ở thế giằng co. Tại vùng giáp ranh, mặc dù ta vẫn giữ vững được một số khu vực quan trọng như Hiệp Đức (Quảng Nam), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Hoài Ân (Bình Định), nhưng ở đây, căn cứ Thượng Đức - vị trí trọng yếu nằm phía tây nam Đà Nẵng, uy hiếp tuyến đường cơ giới phía tây của ta, quân Sài Gòn vẫn chiếm giữ. Căn cứ Thượng Đức là mục tiêu tiến công của yếu của lực lượng vũ trang Quân khu 5 và nhiệm vụ này đã được Hội nghị mở rộng của Thường vụ Khu ủy Khu 5 xác định cho hoạt động quân sự trong năm 1974. Bên cạnh nhiệm vụ tiến công dứt điểm các cứ điểm địch, Hội nghị nghị Thường vụ Khu ủy cũng nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị, gây rối loạn hậu phương địch, nhất là ở các đô thị.

Trong đợt xuân - hè, Quân khu 5 chỉ sử dụng 1 phần 3 lực lượng chủ lực phối hợp với lực lượng tại chỗ đẩy mạnh tiến công quân sự, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng. Trong nửa đầu năm 1974, quân và dân Quân khu 5 đã bức rút 300 cứ điểm, giải phóng thêm 60.000 dân, giành quyền làm chủ khu vực Đức Phú (Quảng Nam).

Tiếp đó, tháng 6-1974, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chủ trương sử dụng phần lớn lực lượng chủ lực mở đợt tiến công trên các địa bàn trọng yếu là Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi nhằm vào các khu vực Thượng Đức, Nông Sơn - Trung Phước, đường 16 - Quế Sơn và Nghĩa Hành. Quân khu quyết định thành lập Mặt trận A4 phụ trách hoạt động của chủ lực tại 4 khu vực kể trên và Mặt trận này đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 5, do đồng chí Chu Huy Mân làm Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Chánh làm Phó Tư lệnh.

Trên cơ sơ lực lượng và nhiệm vụ đã xác định, Bộ Tư lệnh Mặt trận A4 quyết định mở chiến dịch Nông Sơn - Trung Thượng Đức, nhằm đánh bật quân địch ra khỏi khu vực này, mở thông hành lang vận chuyển từ căn cứ của ta từ tây Quảng Đà xuống vùng đồng bằng Quảng Nam, Đà Nẵng, đồng thời tạo thế thuận lợi cho đợt hoạt động mùa khô 1974-1975.

Lực lượng Quân khu 5 sử dụng trong chiến dịch này gồm: Sư đoàn 2, Sư đoàn 304 (có 2 trung đoàn 66 và 3), một bộ phận Trung đoàn pháo binh 572 Trung đoàn phòng không 573, Trung đoàn công binh 270, Trung đoàn thiết giáp 574; lực lượng tại chỗ có 9 tiểu đoàn và hàng ngàn du kích trụ bám địa bàn .

Để chuẩn bị cho chiến dịch, quân khu điều gần 1.500 cán bộ, chiến sĩ công binh, cùng với hàng trăm phương tiện xe máy, mở mới 126 km đường cơ động lực lượng; hậu cần quân khu vận chuyển hơn 4.000 tấn hàng hóa, 50 tấn thuốc nổ, tổ chức 2 đội điều trị, 9 đội phẫu thuật và 14 bệnh xá dã chiến.

Sau khi hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công, rạng sáng ngày 17-7-1974, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu 5, được pháo binh của mặt trận chi viện, nổ súng tiến công cụm cứ điểm Nông Sơn - Trung Phước là cụm cứ điểm dài 4 km, rộng 3 km, nằm bên bờ sông Tĩnh Yên, thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Trong cụm cứ điểm này, Nông Sơn là cứ điểm trung tâm, nằm trên một mỏm núi, với hệ thống công sự vững chắc, kiên cố với 3 tầng hỏa lực. Ta tiến công cụm cứ điểm này vào lúc địch vừa điều Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 56 - Sư đoàn bộ binh 3 - tăng cường cho Tiểu đoàn biệt động biên phòng 78, nâng số đơn vị phòng giữ cứ điểm này lên 2 tiểu đoàn chủ lực, cùng với lực lượng địa phương quân gồm Đại đội 4 thuộc Tiểu đoàn bảo an 146, 10 trung đội dân vệ và 10 toán phòng vệ dân sự. Với một lực lượng mạnh và hệ thống công sự vững chắc, địch chủ quan tưởng rằng, vào thời điểm này, Quân giải phóng chưa đủ sức đánh chiếm một cụm cứ điểm có hướng chính diện rộng như Nông Sơn - Trung Phước. Chính vì thế, khi ta nổ súng tiến công, địch bị bất ngờ, choáng váng. Đặc biệt, trong trận này, ta sử dụng nhiều pháo lớn, ngắm bắn trực tiếp tiêu diệt 38 trong tổng số 41 lô cốt, hòa điểm địch. Sau gần một ngày chiến đấu, ta hoàn toàn làm chủ cụm cứ điểm quan trọng này.

Hôm sau, ngày 18-7-1974, Tư lệnh Quân đoàn 1 quân đội Sài Gòn lệnh cho viên Tư lệnh Sư đoàn 3 - Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp, tổ chức lực lượng tái chiếm Nông Sơn - Trung Phước. Ngay sau đó, địch sử dụng Trung đoàn 2 - Sư đoàn 3, chi đoàn 2 thiết giáp cùng 3 pháo đội cơ động tới khu vực phía nam An Hòa, mở cuộc hành quân Sóng thần Nam nhằm chiếm lại các khu vực vừa bị mất.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 399.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 06:50:27 am »

Theo dõi sát các động thái mới của địch, ta chủ động tổ chức trận địa đón đánh; đồng thời, sử dụng Tiểu đoàn 60 - Trung đoàn 1 (Trung đoàn Ba Gia) - Sư đoàn 2 và 1 đại đội công binh mở các trận đánh nhỏ, tiêu diệt một bộ phận lực lượng đi đầu, nhử địch vào khu vực điểm cao Kỳ Vỹ, Văn Chỉ, sông Sử, Khương Quế, 136, 238, 284, bãi bằng Dương Côi và đồi Dương Côi.

Ngày 23-7, Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 2 - Sư đoàn 3 quân đội Sài Gòn đã lọt vào trận địa chuẩn bị sẵn của ta. Mờ sáng ngày 24-7, sau những loạt pháo bắn phá chuẩn bị, bộ đội ta bắt đầu tiến công. Địch chống cự quyết liệt, đặc biệt là ở Kỳ Vỹ. Đây là điểm cao gồm 2 mỏm, có vách núi dựng đứng, do hai đại đội địch đóng giữ. Ta phải tổ chức lực lượng nhỏ, bám vào vách núi, leo lên đánh chiếm từng bàn đạp để nhích dần đội hình.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong quá tình triển khai đội hình và vấp phải sự chống trả quyết liệt của địch, nhưng với thế trận tiến công vững chắc, khả năng đột phá tốt, bộ đội ta đã mau chóng dứt điểm trận đánh vào sáng ngày 25-7. Trong trận này, ta đã đánh thiệt hại nặng cả hai tiểu đoàn của Trung đoàn 2 quân Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 700 tên. Cuộc phản kích lần thứ nhất của quân Sài Gòn hòng chiếm lại Nông Sơn - Trung Phước bị đập tan; lực lượng phản kích buộc phải rút về An Hòa củng cố.

Trong lúc địch đang dồn sức đối phó với ta ở Nông Sơn - Trung Phước, thì 5 giờ ngày 29-7-1974, Sư đoàn 304(1) (thiếu) được tăng cường Trung đoàn 3 Sư đoàn 324(2), nổ súng tiến công Chi khu quân sự - quận lỵ Thượng Đức. Chi khu - quận lỵ Thượng Đức(3) cùng với Nông Sơn là tiền đồn trọng yếu của địch, bảo vệ cửa ngõ phía tây, ngăn chặn Quân giải phóng tiến xuống vùng đồng bằng Khu 5 và khu liên hợp quân sự Đà Nẵng. Nơi đây, địch bố trí ba khu vực phòng thủ: khu vực chính gồm sở chỉ huy và 1 đại đội của Tiểu đoàn biệt động biên phòng 79, 2 khẩu pháo 105mm, 2 khẩu cối 106,7mm, 2 khẩu cối 81mm, 3 khẩu đại liên và một sân bay trực thăng; khu vực ngoại vi (khu biệt động) do 1 đại đội biệt động đóng giữ, khu quận lỵ - khu hành chính của Thượng Đức. Ngoài ra, địch còn bố trí 1 đại đội biệt động đóng ở chợ Hà Tân, Đại đội bảo an 704 ở Đông Phước 2 và 17 trung đội dân vệ ở các khu vực tiền đồn A, B, C. Hệ thống công sự, vật cản được địch tổ chức vững chắc, xen kẽ với các khu dồn dân, tạo thành “lá chắn sống” bảo vệ căn cứ chính Thượng Đức(4).

Hệ thống phòng ngự kiên cố này đã khiến cho phương châm tiến công ban đầu của ta là “vây chặt, đánh mạnh, đánh dứt điểm trong thời gian ngắn” không thể thực hiện được. Trong 3 ngày đầu, Trung đoàn 66 - lực lượng chủ công của chiến dịch, tiến công theo hai hướng tây bắc và tây nam, nhưng không thể đột phá vào khu trumg tâm căn cứ địch, buộc phải lui về giữ bàn đạp, chuẩn bị cho đợt tiến công mới.

Trong lúc cuộc giao tranh giữa ta và địch đang diễn ra quyết liệt tại Thượng Đức, chiều ngày 31-7-1974, Trung đoàn 38 nổ súng tiến công tuyến phòng thủ ngoại vi của địch ở thung lũng Quế Sơn. Trận Quế Sơn diễn ra tương đối thuận lợi. Sau khi ta đánh chiếm các điểm cao Hòn Chiêng, núi Giai, Lạc Sơn thuộc tuyến phòng thủ cơ bản của địch ở phía tây quân lỵ Quế Sơn, địch ở cứ điểm Việt An, Gò Mè, Chóp Chài hốt hoảng bỏ đồn tháo chạy. Nhân lúc địch hoang mang, trung đoàn phong trào tiến công tiêu diệt cụm quân địch đóng tại điểm cao 210, Đồng Mông, Đá Hàm. Trung đoàn 56 quân đội Sài Gòn chiếm giữ khu vực này buộc phải rút về cố thủ sát quận lỵ Quế Sơn.

Trên hướng Nông Sơn - Trung Phước, Liên đoàn biệt động số 12 được tung vào phản kích chiếm lại Nông Sơn - Trung Phước lần thứ hai nhưng không thành. Địch buộc phải từ bỏ ý định chiếm lại cụm căn cứ này để tập trung lực lượng đối phó với ta ở Thượng đức. Ngày 3-8, sau 4 ngày tiến công và liên tục vây ép, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 6 đại đội thuộc 3 tiểu đoàn trong đội hình lực lượng phản kích của địch.

Bị tiến công trên nhiều hướng, cả trước mặt và ngay sau lưng, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 quân đội Sài Gòn buộc phải điều Trung đoàn 54 - 3đ 1 từ Thừa Thiên tăng cương cho lực lượng phòng thủ An Hòa; Trung đoàn 4 - Sư đoàn 2 từ Quảng Ngãi ra phối hợp với Trung đoàn 56, giải tỏa khu vực Quế Sơn lúc bấy giờ đang bị vây ép mạnh.

Thế nhưng, khi Trung đoàn 4 quân đội Sài Gòn vừa rời khỏi vị trí đóng quân ở Quảng Ngãi, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 lập tức cho Lữ đoàn 52 chuyển sang tiến công một loạt mục tiêu trên địa bàn Quảng Ngãi. Ngày 3-08-1974, sau 3 giờ chiến đấu, lữ đoàn đã làm chủ cụm cứ điểm ở khu vực cầu Cộng Hòa (Phú Lâm Tây). Tiếp đó, lữ đoàn đánh chiếm dãy điểm cao Định Cuông; phối hợp với lực lượng tại chỗ, giải phóng 3 xã phía nam huyện Nghĩa Hành. Tuyến phòng thủ của địch dọc theo đường số 5 bị vỡ, đường liên lạc, tiếp tế giữa Nghĩa Hành và Minh Long bị cắt đứt. Với thắng lợi ở khu vực này, ta đã hình thành thế uy hiếp quận lỵ Nghĩa Hành, đồng thời bao vây cô lập quận lỵ Minh Long.


(1), (2) Hai Sư đoàn này đều nằm trong đội hình Quân đoàn 2.
(3) Chi khu - quận lỵ Thượng Đức, nằm ở phía tây tỉnh Quảng Đà, cách Đà Nẵng hơn 40km. Vào các năm 1968, 1969, 1970, quân ta nhiều lần tiến đánh Thượng Đức nhưng đều không thành công. Sau mỗi lần bị ta tiến công, địch lại tăng cường hệ thống phòng ngự kiên cố, vững chắc hơn và chúng tuyên bố: “Bao giờ nước sông Vu Gia chảy nược thì Việt Cộng mới lấy được Thượng Đức”.
(4) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Một số trận đánh trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, t.5, tr. 393.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 06:52:53 am »

Cuộc chiến ở Thượng Đức diễn ra quyết liệt, đợt tiến công đầu tiên của Sư đoàn 304 không thành công. Ngày 1-8-1974, Bộ Chỉ huy chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức lệnh cho Sư đoàn 304 tạm dừng tiến công để bổ sung, củng cố lực lượng. Nhằm tăng cường công tác chỉ đạo, Thiếu tướng Nguyễn Chánh, Phó Tư lệnh Quân khu 5 và đồng chí Phan Hàm, phái viên của Bộ Quốc phòng, xuống Sư đoàn 304 nắm tình hình tại chỗ, củng cố tư tưởng và tổ chức, rút kinh nghiệm trận đánh. Phương châm tiến công lần này của sư đoàn được xác định rõ là đánh chắc thắng. Đồng chí Lê Đắc Long - Tham mưu trưởng Sư đoàn 304 được phân công làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 66; đồng chí Nguyễn Văn Sơn - Trung đoàn phó Trung đoàn 66 trực tiếp làm tiểu đoàn trưởng(1). Cùng với việc sắp xếp lại tổ chức, Sư đoàn 304 khẩn trương hoàn chỉnh hệ thống công sự trận địa, làm đường đưa pháo 85 mm từ điểm cao 118 lên điểm cao 296, cách vị trí địch 1 km để chi viện cho bộ đội xung phong, lực lượng trên các hướng tiến công cũng được bố trí lại: Đại đội 5 - Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 66 cùng với Đại đội súng máy 12,7 mm được điều lên chốt ở Chảng Chổi, Hữu Trình; Tiểu đoàn 10 bộ đội địa phương cơ động sang phía nam sông Vu Gia, hình thành thế bao vây địch từ nam Thượng Đức.

Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị, 6 giờ sáng ngày 6-8-1974, đợt tiến công Thượng Đức lần thứ hai của ta bắt đầu. Khi hỏa lực bắn phá chuẩn bị vừa chuyển làn, Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 66 trên hướng tây bắc và Tiểu đoàn 9 - Trung đoàn 66 trên hướng tây nam đồng loạt xuất kích đánh chiếm các cứ điểm địch. Trên hướng chủ yếu, Tiểu đoàn 8 do vấp phải sự chống trả quyết liệt của lực lượng biệt động nên không phát triển tiến công được. Cùng lúc, trên hướng thứ yếu, Tiểu đoàn 9 tiến công thuận lợi hơn. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 304 quyết định chuyển mũi tiến công thứ yếu thành mũi tiến công chủ yếu; đồng thời, tập trung hỏa lực bắn thẳng chi viện tối đa cho Tiểu đoàn 9 tiến công. Được hỏa lực chi viện, Tiểu đoàn 9 sau khi chiếm khu vực đóng quân của lực lượng bảo an, nhanh chóng cơ động sang khu biệt động hỗ trợ cho Tiểu đoàn 8. Sáng ngày 7-8-1974, lực lượng chủ công của ta đánh chiếm dứt điểm các cứ điểm còn lại và hoàn toàn làm chủ Chi khu - quận lỵ Thượng Đức. Qua 10 ngày, với 2 đợt tiến công, Sư đoàn 304 đã loại khỏi vòng chiến đấu Tiểu đoàn biệt động biên phòng 79 và 10 trung đội bảo an, dân vệ, giải phóng Chi khu - quận lỵ Thượng Đức(2).

Mất Thượng Đức và bị tổn thất nặng ở khu vực nam An Hòa, địch buộc phải tổ chức tuyến phòng thủ từ nam An Hòa đến Hà Sống, đồng thời lập kế hoạch tái chiếm Thượng Đức. Theo đề nghị của viên Trung tướng Ngô Quang Trưởng - Tư lệnh Quân khu 1 - Vùng 1 chiến thuật, Bộ Tổng Tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa tức tốc điều Lữ đoàn 1 quân dù từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, Lữ đoàn 3 quân dù từ Thừa Thiên vào phía tây Đà Nẵng, Lữ đoàn 3 quân dù từ Thừa Thiên vào phía tây Đà Nẵng (khu vực Đại La). Cùng với việc lực lượng dự bị chiến lược được tung vào phản kích nhằm chiếm lại Thượng Đức, quân đội Sài Gòn còn khẩn trương tăng cường và điều chỉnh bố trí lực lượng trên tuyến phòng thủ; Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 57) tăng cường cho Trung đoàn 2 đang phòng thủ khu vực Hà Sống; Trung đoàn 54 thay thế Liên đoàn 12 biệt động, phòng thủ khu vực nam An Hòa; Trung đoàn 56 trở lại vị trí đóng quân trước đây ở phía tây Duy Xuyên (Quảng Nam). Trung đoàn 4 - Sư đoàn 2 giải tỏa Gia Mốc Xa và đánh chiếm lại các cụm cứ điểm trên đường 16.

Phán đoán được ý định của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định mở đợt tiến công thứ 3 nhằm phá kế hoạch phản kích chiếm lại Thượng Đức của quân địch. Từ ngày 14-8-1974, ta sử dụng Trung đoàn 3 - Sư đoàn 30 tiến công đập vỡ các cứ điểm Ba khe, Bàn Tân, Lâm Phụng trên tuyến phòng thủ của địch; đẩy lực lượng buộc Trung đoàn 57 và Trung đoàn 2 quân Sài Gòn lui về vùng ven quận lỵ Ái Nghĩa. Phát triển tiến công, từ ngày 15-8 đến 25-8, Trung đoàn 3 liên tục tập kích các cụm quân thuộc Lữ đoàn 1 dù ở khu vực phía đông và tây bắc Hà Sống, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên địch.

Cùng thời gian này, trên hướng tiến công của ta ở nam An Hòa và Quế Sơn, Sư đoàn 2 bằng các đòn đánh nhỏ và sử dụng chiến thuật chốt kết hợp với vận động tiến công, đánh đãnh bại cuộc phản kích của Trung đoàn 54 quân Sài Gòn. Tiếp đó, Sư đoàn 2 tổ chức lực lượng, chặn đánh hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 4 quân Sài Gòn trên khu vực đường 16. Mục tiêu chiến dịch đã hoàn thành, ngày 25-8-1974, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch tiến công Nông Sơn - Thượng Đức. Sau hơn một tháng liên tục tiến công, quân ta đã đánh chiếm hai cụm cứ điểm quận lỵ - chi khu, giải phóng các khu vực Nông Sơn - Trung Phước, Thượng Đức, tây nam Quế Sơn, tây bắc Tam Kỳ, với hơn 117.000 dân; loại khỏi vòng chiến đấu hơn 10.000 quân địch (trong đó bắt 2.338 tên), đánh tiêu diệt 4 tiểu đoàn, đánh thiệt hại 9 tiểu đoàn khác, thu hơn 2.000 súng, pháo các loại, phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến đấu(3).


(1) Binh đoàn Hương Giang, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 37.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Sđd, tr.409-410.
(3) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Sđd, tr.410-413.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 06:54:19 am »

Vào lúc cuộc chiến ở Nông Sơn - Thượng Đức đang diễn ra và phần lớn lực lượng cơ động quân đội Sài Gòn ở Quân khu 1 - Vùng 1 chiến thuật bị hút vào khu vực nóng bỏng này, thì ở các địa phương, lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân các địa phương Quân khu 5 đẩy mạnh tiến công và nổi dậy. Đêm 17-7-1974, lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Nam đánh chiếm các chốt điểm Đá Bàn, Đá Đen; tập kích quân địch ở đồn Kỳ Bích, đánh sập cầu Bà Bầu, phá đồn Dương An. Những đêm sau, ta nã pháo vào tiểu khu Quảng Tín và Sở chỉ huy Sư đoàn 2 quân đội Sài Gòn ở Chu Lai. Cứ điểm Chà Vu, Gia Mốc Xa, Hòn Giang, Hòn Đất của địch lần lượt bị đánh chiếm. Địch ở các cứ điểm khác như Dương Bà Bông, Lạc Sơn, Sơn Lộc, Bình Lãnh… hoang mang, bỏ đồn rút chạy. đầu tháng 8-1974, hơn 3.000 quần chúng ở các xã Sơn Trung, Sơn Thượng, Phú Thọ, Phú Hương, Phú Diên đổ về trụ sở chính quyền và sở chỉ huy quân đội Sài Gòn, đấu tranh đòi xác chồng con, kêu gọi binh sĩ quân đội Sài Gòn không ra trận.

Đêm 23-7, lực lượng vũ trang Quảng Đà tiến công cứ điểm ngã ba Trùm Giao, bao vây cứ điểm Giáng La và bắn phá các cứ điểm Bồ Bồ, Bình Long. Phối hợp với đòn tiến công Thượng Đức, Tiểu đoàn pháo phản lực 575 bắn phá sân bay Đà Nẵng, phá hủy, phá hỏng 11 máy bay của địch; lực lượng đặc công nước bí mật tiếp cận mục tiêu, đánh chìm 1 tàu chở hàng quân sự ở Cảng Sâu. Cũng trong thời gian này, lực lượng tại chỗ chặn cắt đường 100. Địch đưa một bộ phận lực lượng thuộc Trung đoàn 54 và lực lượng bảo an đến giải tỏa. Thế nhưng, lực lượng ứng cứu này vấp phải sự chặn đánh quyết liệt của Tiểu đoàn 76 Hải Phòng - đơn vị kết nghĩa với Quảng Đà và bại tổn thất hơn 100 tên. Ngày 2-8-1974, một đoàn tàu chở vũ khí của địch bị trúng mìn, lật nhào ở khu vực đèo Hải Vân.

Hòa chung với khí thế tiến công địch đang dâng cao, quân và dân các tỉnh Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Phú Yên đẩy mạnh tiến công giành đất, giành dân, giành quyền làm chủ. Ở Quảng Ngãi, sau khi ta quét sạch địch ở 8 xã thuộc hai huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh, vùng giải phóng phía bắc của tỉnh nối liền từ vùng rừng núi Trà Bồng kéo dài đến vùng ven biển. Đêm 21-7-1974, Tiểu đoàn đặc công 407 của Khánh Hòa tập kích khu căn cứ của địch ở Nhà Trang và quân cảng Cam Ranh, phá nổ gần 3 vạn tấn bom đạn, đốt cháy 1 triệu lít xăng dầu. Cho đến cuối tháng 8-1974, trên địa bàn Phú Yên, ta đã phá tan hệ thống ấp chiến lược dọc tuyến quốc lộ 1, từ bắc quận lỵ Tuy An đến nam thị trấn Sông Cầu, làm chủ đoạn đường dài 20km; lực lượng vũ trang tại chỗ hỗ trợ tích cực cho nhân dân ba huyện Tuy An, Sông Cầu, Đồng Xuân nổi dậy giành quyền làm chủ phần lớn các xã của ba huyện này.

Trên địa bàn Bình Định, từ ngày 26-7, một bộ phận lực lượng Sư đoàn 3 chủ lực Quân khu 5 đánh chiếm nhiều vị trí thuộc khu vực phòng thủ của địch ở bắc Phù Mỹ và quận lỵ Hoài Ân. Ngày 27-7-1974, Liên đoàn 4 biệt động quân cùng một chi đoàn xe bọc thép từ Căn cứ Trà Quang, chia làm 2 mũi, tiến dọc theo hướng quốc lộ 1 và đường sắt, chiếm lại núi Nùng và Trực Đạo. Tại đây, địch bố trí phòng ngự thành ba cụm: một tiểu đoàn đóng ở khu vực Núi Nùng - Trà Lương, một tiểu đoàn ở khu vực Trực Đạo, còn sở chỉ huy liên đoàn cùng lực lượng dự bị đóng lui về phía sau.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 quyết định tập trung lực lượng, tiêu diệt cụm quân địch đóng tại Núi Nùng - Trà Lương. Sáng ngày 28-8, sau làn hỏa lực bắn thẳng của pháo binh, quân ta xung phong đánh chiếm các vị trí của địch. Địch chống trả mãnh liệt; ta đã không dứt điểm được Trà Lương, buộc phải quay sang bao vây cứ điểm và chuẩn bị đón đánh quân chi viện của địch. Ngày 29-8, từ Phù Mỹ, một tiểu đoàn thuộc Liên đoàn 6 biệt động quân được xe bọc thép yểm trợ, chia thành hai cánh, tiến công trận địa bao vây của ta. Ta bố trí lực lượng chặn đánh hai cánh quân của địch và tiếp tục bao vây Trà Lương. Đêm 30-7, quân ta chuyển sang tiến công Trà Lương, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ địch khi chúng chạy qua núi Chóp Vung trên đỉnh Đèo Nhông.

Trên hướng bắc Bình Định, Trung đoàn 141 tiến công cụm cứ điểm trên các điểm cao Núi Chéo, Phú Văn, đồi 82, Long Quang, Thiết Đính, đồi 30, chiếm nhiều vị trí của địch từng cắm sâu vào khu vực làm chủ của ta. Quân địch buộc phải lùi xuống sát quốc lộ 1 và ven thị trấn Bồng Sơn lập các chốt phòng ngự.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, lực lượng tại chỗ của ta ở Phù Cát, tiểu khu Bình Định cùng nhân dân các địa phương này tiến công giải phóng các khu dồn Mỹ Long, Hưng Mỹ, Càng Rang, An Nông…, đưa dân ở các khu dồn về quê cũ; đồng thời, bao vây, bức rút 28 chốt điểm, giải phóng hoàn toàn 5 xã Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Cát Trinh, Cát Thắng, Cát Nhơn và làm chủ một phần 2 xã Mỹ Tài, Cát Tài.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2011, 06:56:49 am »

Từ cuối tháng 8-1974, trên hướng Thượng Đức, quân ta gấp rút tiến hành các hoạt động chuẩn bị, sẵn sàng đón đánh cuộc phản kích của quân đội Sài Gòn hòng chiếm lại khu vực Thượng Đức. Bộ Chỉ huy chiến dịch sử dụng Trung đoàn 3 và Trung đoàn 66 tổ chức tuyến phòng ngự kéo dài từ điểm cao 52, qua Hà Nhà, Bàn Tân, qua sông Vu Gia vào thung lũng Hữu Trinh. Các trận địa phòng ngự đều được xây dựng trên những điểm cao có lợi thế chiến thuật. Ngoài lực lượng trên tuyến phòng ngự, Bộ Chỉ huy chiến dịch bố trí Tiểu đoàn 9 - Trung đoàn 66 bảo vệ Chi khu - quận lỵ Thượng Đức, Trung đoàn 24 làm lực lượng dự bị.

Dựa vào thế trận phòng ngự vững chắc, bộ đội ta ngay từ đầu đã đánh trả hiệu quả đợt phản kích của Lữ đoàn 1 quân dù Sài Gòn trên hướng đường số 4, làm thất bại ý đồ đánh chiếm khu vực điểm cao 52, Bàn Tân 2 của địch. Sau thất bại này, từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9-1974, Lữ đoàn 1 dù chuyển hướng tiến công sang phía tây Thượng Đức. Chúng huy động trực thăng chở toàn bộ lực lượng cỉa Lữ đoàn 1 đổ xuống các điểm cao thuộc dãy Sơn Gà; sử dụng trực thăng vũ trang, máy bay A37 cùng pháo binh bắn phá từng chốt điểm của ta, tạo điều kiện cho quân dù phát triển tiến công. Tuy nhiên, các đơn vị ta đã kiên cường trụ bám trận địa, dựa vào công sự vững chắc, chờ cho địch đến gần mới bất ngờ nổ súng và dũng mãnh xuất kích đánh địch ngoài công sự. Không thành công trong các đợt tiến công ồ ạt, quân dù quay sang dùng thủ đoạn “lấn dũi”, đào hào vào sát trận địa ta, chờ đêm tối, lợi dụng lúc trời đổ mưa, bất ngờ đánh chiếm một số công sự của ta để làm bàn đạp cho đợt tiến công vào ban ngày. Trước thủ đoạn của địch, ta tăng cường lực lượng cơ động, liên tục xuất kích, chặn đánh địch ngay khi chúng vừa tiến đến chân chốt.

Ngày 20-9, địch sử dụng pháo 155mm, bắn 400 quả đạn và cho máy bay A37 ném gần 100 quả bom xuống điểm cao 383. Ngay sau đó, Lữ đoàn 1 dù liên tiếp mở các đợt tiến công đánh chiếm điểm cao này, nhưng đều bị chặn đứng và bị thiệt hại nặng nề, buộc phải lui về phía sau củng cố(1).

Cuối tháng 10 đầu tháng 11, những trận mưa lớn kéo dài làm cho hầm hào, công sự của ta ở khu vực Thượng Đức bị ẩm ướt, ngập nước. Sự khắc nghiệt của thời tiết thử thách tinh thần và ý chí chiến đấu của quân ta. Dù phải dầm mưa quần nhau với địch hàng tháng trời, sức khỏe giảm sút, quân số thiếu hụt, nhưng bộ đội ta vẫn kiên trì trụ bám trận địa, lần lượt chặn đánh và đẩy lùi các đợt tiến công của lực lượng dù quân đội Sài Gòn. Tiêu biểu trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thượng Đức là trận đánh trên điểm cao 1.062. Đây là điểm cao có lợi thế về chiến thuật, khống chế hầu hết khu vực xung quanh Thượng Đức. Do vậy, quân dù Sài Gòn quyết tâm đánh chiếm bằng được. Ngày 28-10-1974, địch sử dụng hai tiểu đoàn dù thuộc Lữ đoàn 3 tiến chiếm điểm cao 1.062. Cuộc giao tranh giữa ta và địch trên khu vực điểm cao này diễn ra quyết liệt; cả ta và địch giành giật với nhau từng mỏm đồi, từng hốc núi. Địch sử dụng hỏa lực của không quân và pháo binh bắn phá các trận địa phòng ngự của ta; ta sử dụng pháo binh đặt trên điểm cao 1.000 m sát điểm cao 1.062 ngắm bắn trực tiếp, chi viện cho bộ binh chiến đấu. Với quyết tâm giữ vững điểm cao 1.062, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng Trung đoàn 24 tăng cường cho Trung đoàn 66, tổ chức nhiều trận đánh tiêu diệt, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc lực lượng phản kích thuộc Lữ đoàn 3 của địch phải lui quân.

Vào giai đoạn nửa cuối tháng 11-1974, quân Sài Gòn tung tiếp lực lượng dự bị của Sư đoàn dù - Lữ đoàn 2 vào để cứu nguy cho Lữ đoàn 1 và Lữ đoàn 3. Tuy nhiên, lực lượng này cũng chịu tổn thất nặng khi bị pháo binh ta bắn trúng đội hình, bị Trung đoàn 24 diệt gọn 1 tiểu đoàn ở phía tây điểm cao 700. Tiếp đó, ngày 25-11, lực lượng công binh thuộc Sư đoàn 304 dùng giàn phóng hỏa lực tự chế đánh trúng đội hình tiến công của địch ở khu vực điểm cao 338(2).

Đưa lữ đoàn cuối cùng vào cuộc phản kích chiếm lại Thượng Đức, quân Sài Gòn chẳng những không cứu vãn được tình thế thất bại của lực lượng dù, mà lữ đoàn này cũng không thể tránh khỏi những tổn thất nặng nề.

Với việc sử dụng sư đoàn dù - lực lượng dự bị chiến lược để chiếm lại Thượng Đức không thành công, từ đầu tháng 12-1974, quân Sài Gòn trên chiến trường Quảng Đà, Quảng Nam, Đà Nẵng chuyển sang phòng ngự nhằm giữ vững khu vực liên hợp quân sự Đà Nẵng, củng cố, tăng cường lực lượng và hệ thống công sự, trận địa ở các căn cứ lớn, các thị xã, thị trấn, một số vị trí quan trọng ở vùng ven đô thị và các con đường giao thông huyết mạch.

Chặn đứng, đẩy lùi các cuộc tiến công phản kích của địch, giữ vững Thượng Đức, đồng thời ghìm chặt một bộ phận thuộc lực lượng dự bị chiến lược cấp sư đoàn của địch, các đơn vị chủ lực bảo vệ Thượng Đức đã góp phần quan trọng vào chiến công của quân và dân ta trên toàn chiến trường miền Nam. Từ thực tiễn chiến trường, đặc biệt là qua các trận giao tranh ở Thượng Đức, cấp chiến dịch và chiến lược của ta nhận thấy: lực lượng chủ lực cơ động của ta đã có bước phát triển vượt bậc về trình độ và khả năng tác chiến phối hợp binh chủng hợp thành trong lúc lực lượng cơ động của địch không còn đủ sức đương đầu với chủ lực cơ động của ta.


(1) Bộ Tư lệnh Quân khu 5: Khu 5 - 30 năm chiến tranh giải phóng, Sđd, t. 3, tr. 161.
(2) Binh đoàn Hương Giang, Sđd, tr. 51-54.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM