Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:52:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 8  (Đọc 102822 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #120 vào lúc: 21 Tháng Ba, 2011, 08:27:34 am »

Nắm chắc lại lực lượng địch, ta trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, xét thấy thời cơ đánh địch trong hành tiến đã chín muồi, sáng ngày 14-4, Bộ Tư lệnh cánh quân Duyên hải lệnh cho Sư đoàn 3 Sao Vàng được tăng cường Trung đoàn 25 Tây Nguyên, tiến công vào cụm phòng ngự tiền duyên của tuyến phòng thủ Phan Rang. Phối hợp với cánh quân duyên hải, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 6 do đồng chí Trần Lê làm Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy, đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên làm Tư lệnh quân khu, đã chỉ thị cho Sở chỉ huy tiền phương quân khu trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận chỉ đạo các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương tăng cường đánh địch ở vùng ven, kìm chân, chia cắt, không cho chúng hỗ trợ nhau. Hàng nghìn dân công (phần lớn là người thiểu số) khu căn cứ Bác Ái tham gia sửa đường, bắc cầu trên đoạn đường từ Trại Cá (Khánh Hòa) xuyên rừng qua Suối Ra, Tà Lú, Ma Ty ra đường 11, đảm bảo đường hành quân cho các đoàn xe chở quân vào miền Đông Nam Bộ.

Ngày 14-4-1975, giữa lúc quân và dân ta trên các hướng tiến công đang khẩn trương tạo thế,tạo lực cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, Bộ Chính trị gửi đến mặt trận bức điện số 37/TK vào hồi 19 giờ: “Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh”. Thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ký tên.

Quyết định chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh của Bộ Chính trị không chỉ đáp ứng được nguyện vọng của toàn dân tộc đối với vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu suốt đời hy sinh vì dân, vì nước, mà còn khẳng định ý chí, niềm tin quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vào chiến dịch lịch sử mang tên Người - giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Như được tiếp thêm sức mạnh chiến đấu, ngày 14-4-1975, Sư đoàn 3 - Quân khu 5 và Trung đoàn 25 Tây Nguyên tiếp tục đột phá vào tuyến phòng thủ Phan Rang, chiếm một số chốt điểm quan trọng án ngữ vùng ngoại vi thị xã, trong đó có cảng Ninh Chữ, chặn đường rút chạy ra biển của địch. Địch tập trung lực lượng, dựa vào trận địa phòng ngự kiên cố, chống trả quyết liệt. Trước tình hình đó, Trung đoàn 52 - Sư đoàn 3 sử dụng Tiểu đoàn 2 luồn sâu vào phía nam, bất ngờ đánh chiếm hai chốt điểm, giải phóng ấp chiến lược Ba Râu, chia cắt đường số 1. Trong khi đó, từ hướng tây bắc, Trung đoàn 25 Tây Nguyên theo đường 11 đánh bại các đợt phản kích của Lữ đoàn dù 2, áp sát sân bay Thành Sơn, chiếm toàn bộ dải phòng ngự vòng ngoài thị xã Phan Rang.

Sáng hôm sau, ngày 15-4, Sư đoàn 3 tiếp tục cho Trung đoàn 2 tiến công cứ điểm Kiền Kiền, Ba Tháp, phá vỡ dải phòng ngự bên trong (còn gọi là tuyến 2). Cùng lúc, Trung đoàn 141 có xe thiết giáp hỗ trợ, đã vượt qua quốc lộ 1. đè bẹp các ổ đề kháng của địch, tiến về hướng đông; Trung đoàn 25 Tây Nguyên được tăng cường Tiểu đoàn 6 - Trung đoàn 12 phát triển áp sát phía bắc sân bay Thành Sơn. Toàn bộ các mục tiêu trọng yếu của địch trong thị xã Phan Rang bị ta vây chặt. để nhanh chóng phá vỡ tuyến phòng thủ chiến lược Phan Rang, Trung đoàn 101 - Sư đoàn 325 và 1 tiểu đoàn xe tăng của Lữ đoàn xe tăng 203 - Quân đoàn 2 được đưa vào chiến đấu.

Sáng sớm ngày 16-4, được hỏa lực pháo binh chi viện, bộ binh và xe tăng ta đồng loạt tiến công vào tất cả các mục tiêu trong thị xã. Trước sức tiến công mãnh liệt của ta, lực lượng phòng thủ hoang mang, núng thế; xuất hiện sự rối loạn trong hàng ngũ địch. 9 giờ 30 phút cùng ngày, Trung đoàn 101 ở hướng bắc đã chiếm được dinh tỉnh trưởng, bắt toàn bộ nhân viên trong bộ máy hành chính tỉnh, trong đó có viên Đại tá Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Tư. 10 giờ, Trung đoàn 25 Tây Nguyên trên hướng tây cũng đánh chiếm được sân bay Thành Sơn, khóa chặt mọi con đường tháo chạy của địch. Nguyễn Vĩnh Nghi - Trung tướng, Tư lệnh và Phạm Ngọc Sang - Chuẩn tướng, Phó Tư lệnh cùng Bộ Tham mưu tiền phương Quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn bị bắt. Tối ngày 16-4-1975, tỉnh Ninh Thuận và một phần phía bắc tỉnh Bình Thuận được giải phóng.

Cùng thời gian bộ đội cánh quân duyên hải tiến công tuyến phòng thủ Phan Rang, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, lực lượng vũ trang Khu 6 tích cực tác chiến thu hút, kìm giữ, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Trong bốn ngày (từ ngày 14 đến ngày 17-4), Trung đoàn bộ binh 812 và Tiểu đoàn đặc công 200C (bộ đội chủ lực Khu 6) được dân quân, du kích địa phương hỗ trợ, mở cuộc tiến công cụm cứ điểm Chi khu Thiện Giáo (Ma Lâm) cách Phan Thiết 30 km về phía tây bắc, diệt và bắt hơn 100 tên địch. Mất Chi khu Thiện Giáo, 2 tiểu đoàn bảo an địch chốt giữ tỉnh lộ 8 dao động mạnh, tự động lui dần về phía sau. Bộ đội địa phương và dân quân, du kích lợi dụng tổ chức truy đuổi địch ở Phú Long, Tân Điền, kêu gọi đồng bào nổi dậy phá ấp chiến lược Tân Hưng, Bình Lâm, An Phú. Trung đoàn 812 phát triển, tiến công đánh chiếm các điểm cao phía bắc thị xã, bức địch rút khỏi Lương Sơn rút về giữ cầu Sông Cái cách thị xã Phan Thiết 9 km về phía bắc.

Trước sự mất còn của thị xã Phan Thiết, các lực lượng còn lại của địch gồm Liên đoàn 21 biệt động quân, 6 tiểu đoàn bảo an và phòng vệ dân sự, được pháo hạm và không quân yểm trợ, nống ra phản kích hòng chiếm lại các chốt điểm Gộp, Tuy Hòa, Phú Long… phía bắc và đông bắc thị xã. Mặc dù bị thương vong do phi pháo địch, nhưng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 812 và Tiểu đoàn 200C vẫn kiên cường bám trụ, đánh bật các đợt phản kích, giữ vững các bàn đạp Phú Long, Tân Điền, chuẩn bị cho trân đánh then chốt giải phóng thị xã Phan Thiết.

Trưa ngày 18-4, sau khi giải phóng 4 quận lỵ Phan Rí, Tuy Phong, Sông Mao, Hòa Đa, Quân đoàn 2 đã áp sát thị xã Phan Thiết. Vào lúc đó, Trung đoàn 812 và lực lượng vũ trang địa phương Khu 6 bắt đầu đột phá phía tây bắc phòng tuyến Sông Cái. Mũi tiến công thọc sâu của Quân đoàn 2 - Trung đoàn 18 bộ binh, Tiểu đoàn 5 xe tăng, thiết giáp, tiểu đoàn pháo cao xạ thuộc - Trung đoàn 284 đột phá đánh chiếm cầu Sông Cái, hỗ trợ cho Trung đoàn 812 phát triển sâu vào bên trong đánh chiếm ty cảnh sát, dinh tỉnh trưởng… Đến 21 giờ cùng ngày, hai mũi tiến công của Trung đoàn 18 thuộc Sư đoàn 325 - Quân đoàn 2 và Trung đoàn 12 - Khu 6 đã làm chủ thị xã Phan Thiết.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Tư, 2012, 07:18:08 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #121 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2011, 07:46:51 pm »

Tình hình chiến trường miền Nam chuyển biến rất mau lẹ. Những chiến thắng trên chiến trường miền Nam tác động mạnh mẽ đến tình hình cách mạng Campuchia và cách mạng Lào. Hạ tuần tháng 3-1975, quân và dân Campuchia đồng loạt tiến công, phá vỡ tuyến phòng thủ phía tây và tây bắc Phnôm Pênh, hơn 1000 vị trí địch bị tiêu diệt. Mặc dù dốc sức phản kích trên các hướng Ba Xót, Tun Liep, Angxnúc, Takhaman, nhưng quân Lonnon vẫn liên tiếp bị đánh bại. Cuối tháng 3, đường tiếp tế duy nhất còn lại của chúng sông Mê Công cũng bị cắt đứt. Ngày 1-4-1975, căn cứ Neck Luông - căn cứ duy nhất còn lại ở phía đông, bị tiêu diệt. Thành phố Phnôm Pênh hoàn toàn bị cô lập.

Trên đà thắng lợi lịch sử của quân và dân các nước Đông Dương, ngày 10-4, quân và dân Campuchia mở cuộc tổng tiến công vào Phnôm Pênh. Không còn có thể cứu vãn được sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Lonnon, ngày 12-4, Mỹ buộc phải tổ chức cuộc hành quân Diều hâu, rút cố vấn khỏi Phnôm Pênh. Ngày 15-4, sân bay Pôchengtông bị đánh chiếm. Ngày 17-4-1975, sau một tuần tiến công vào một loạt vị trí then chốt sào huyệt địch, Quân giải phóng Campuchia đã làm chủ Phnôm Pênh, quân đội và chính quyền Lonnon buộc phải đầu hàng không điều kiện. Phnôm Pênh được giải phóng là sự kiện chính trị lớn của đất nước Chùa Tháp. Sự kiện này cho thấy rõ đế quốc Mỹ đã bị suy yếu nhiều mặt trên chiến trường Đông Dương. Ở Lào, trung tuần tháng 4-1975, được sự hỗ trợ của quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang Pathét Lào liên tiếp tiến công lực lượng phái hữu Viên Chăn, nổi bật là trận đánh Lữ đoàn 2 Vàng Pao ở ngã ba Xala Phukhum. Tiếp đó, với sự yểm trợ của pháo binh và xe tăng quân tình nguyện Việt Nam, bộ đội Lào liên tục truy kích địch dọc đường số 13, thu thắng lợi lớn. Bị thất bị nặng nề, Vàng Pao bỏ vị trí chỉ huy, để mặc cho các đơn vị thuộc quyền “tùy nghi di tản”. Thừa thắng, lực lượng Pathét Lào và lực lượng trung lập yêu nước đã triển khai 40 trên 44 tiểu đoàn vào các khu vực thuộc lực lượng của Chính phủ Viên Chăn kiểm soát, tạo thế vững chắc về quân sự trên những địa bàn quan trọng, làm chỗ dựa cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam (30-4-1975) và Campuchia (17-4-1975) thúc đẩy tình thế cách mạng trực tiếp ở Lào thêm chín muồi, làm cho tình hình chính trị chuyển biến mau lẹ. Làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của các tầng lướp nhân dân đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân hóa, suy sụp và tan rã của chính quyền phái hữu và quân ngụy Lào.

Tình hình Campuchia và Lào càng khiến cho chính quyền Sài Gòn thêm hoang mang, lo sợ. lúc này, trong nội bộ chính quyền Sài Gòn mâu thuẫn giữa các phe phái đang gia tăng rất nhanh. Ngày 2-4-1975, Thượng viện Việt Nam Cộng hòa với 42 phiếu thuận và 10 phiếu chống, đã quyết định kết tội Nguyễn Văn Thiệu về những thất bại đang xảy ra, yêu cầu Thiệu thành lập nội các mới với đại diện của nhiều thành phần chính trị đối lập. Ba ngày sau, ngày 5-4, Chủ tịch Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Bá Cẩn được chỉ định làm Thủ tướng thay cho Trần Thiện Khiêm vừa từ chức trước đó. Trong những ngày đầy bi đát này, Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Sài Gòn trong một báo cáo gửi Nguyễn Văn Thiệu đã thừa nhận: “Quốc gia đang trong tình trạng nguy ngập thật sự. Sự sống còn chỉ có thể tính từng ngày, từng tuần, không thể tính từng tháng. Với khả năng trù bị dồi dào, hỏa lực của địch trội hẳn so với các đơn vị của ta, việc chống trả sẽ rất khó khăn”(1).

Tại Xuân Lộc, sáng ngày 15-4, thực hiện cách đánh mới, Sư đoàn 6, Trung đoàn 95B mở đợt tiến công mãnh liệt vào một loạt vị trí Túc Trưng, Kiệm Tân, ngã ba Dầu Giây tiêu diệt Chiến đoàn 52, thu 12 khẩu pháo 105 mm và toàn bộ xe tăng, xe thiết giáp của Chi đoàn 13 quân đội Sài Gòn. Để giữ vững Xuân Lộc, Bộ Chỉ huy Quân đoàn 3 địch sử dụng một lực lượng lớn với hơn 200 xe tăng, xe thiết giáp, 100 khẩu pháo ở căn cứ Nước Trong, Hốc Bà Thức, Long Bình, Đại An và trên 100 lần chiếc máy bay chiến đấu chi viện cho khu vực này. Các trận chiến đấu diễn ra ác liệt, kéo dài hàng giờ liền ở Hưng Nghĩa, điểm cao 122. Nhiều cuộc phản kích của địch bị đẩy lùi buộc chúng phải rút về Bàu Cá.

Trên chiến tuyến bao quanh thị xã Xuân Lộc, Sư đoàn 7, Sư đoàn 341 được hỏa lực pháo binh và pháo phòng không chi viện, liên tục phản công, tiến công, đánh thiệt hại nặng hai chiến đoàn 43 và 48 thuộc Sư đoàn 18 và 1 tiểu đoàn dù quân đội Sài Gòn. Bộ đội địa phương và du kích Long Khánh phối hợp với bộ đội chủ lực, tổ chức các trận phục kích, tập kích, bức rút nhiều đồn bốt của địch trên các trục đường giao thông và vùng ven thị xã.

Cuối trung tuần tháng 4-1975, sau khi giải phóng Phan Thiết, Hàm Tân, cánh quân Duyên Hỉa tiến vào khu Rừng Lá thuộc tỉnh Long Khánh (cách thị xã Xuân Lộc 10 km). Sự xuất hiện của cánh quân Duyên Hải ở cửa ngõ Xuân Lộc càng tăng thêm áp lực đối với Sư đoàn 18 quân đội Sài Gòn. Lúc này, đường bộ tiếp vận từ Biên Hòa lên đã bị Quân giải phóng khống chế. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, Tướng Lê Minh Đảo đề nghị rút bỏ Xuân Lộc và đề nghị đó được Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn chấp thuận. Nhưng để bảo toàn lực lượng, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 chỉ thị cho Lê Minh Đảo phải thành công “dư tản” thật chặt chẽ và phải hết sức bí mật để khỏi bị truy diệt. Nhằm nghi binh thu hút sự chú ý của ta, tối 20-4, hàng chục khẩu pháo đặt ở Nước Trong, Trảng Bom bắn hàng trăm quả đạn vào các khu vực trận địa Quân đoàn 4 đang chốt giữ. Cùng lúc đó, lực lượng địch ở thị xã Xuân Lộc được lệnh rút quân. Hơn 200 xe chở đầy binh lính tranh nhau tháo chạy theo đường số 2 về hướng Bà Rịa rồi vòng về Biên Hòa. Mặc dù Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 đã có phương án đánh dịch rút chạy theo hai hướng đường số 1 và đường số 2, nhưng do phát hiện và xử lý tình huống chậm, nên khi truy kích, bộ đội ta chỉ tiêu diệt được một bộ phận đi sau cùng, bắt giữ hàng chục tên, trong đó có Phạm Văn Phúc là Đại tá Tỉnh trưởng Long Khánh. Ngày 21-4-1975, tuyến phòng thủ Xuân Lộc - “cánh cửa thép” bảo vệ phía đông Sài Gòn, đã bị đập tan, thị xã Xuân Lộc và tỉnh Long Khánh hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng Xuân Lộc - Long Khánh tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân trên hướng đông - đông bắc chuẩn bị lực lượng, thế trận cùng quân và dân trên các hướng sau này tiến công vào Sài Gòn - Gia Định.


(1) Dẫn theo Lịch sử quân sự Việt Nam, Sđd, t.11, tr. 437.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #122 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2011, 07:47:47 pm »

Cùng thời gian này, để góp phần cùng quân và dân miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trong Bộ chiến đấu tạo thế, tạo lực cho trận quyế chiến chiến lược trong chiến dịch Hồ Chí Minh, quân và dân các tỉnh miền Tây Nam Bộ đẩy mạnh tiến công và nổi dậy. trong tuần đầu tháng 4-1975, hai Bộ Tư lệnh Quân khu 8 và 9 chỉ đạo lực lượng vũ trang ba thứ quân mở đợt hoạt động quân sự ở hầu khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trọng điểm là Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Mỹ Tho, Long An - nơi có quốc lộ 4 đi qua, nhằm cắt đứt sự chi viện đường bộ từ Cần Thơ đi Sài Gòn và ngược lại của quân đội Sài Gòn.

Ở Mặt trận đường vòng cung - nam sông Hậu, ngày 8-4, mặc dù thời gian chuẩn bị chiến đấu gấp (2 ngày) nhưng bộ đội địa phương tỉnh Cần Thơ chủ yếu là lực lượng biệt động thành đội và phân đội pháo binh quân khu) đã táo bạo tập kích, pháo kích vào sân bay Trà Nóc và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 địch liên tục trong 4 ngày, hỗ trợ đắc lực cho bộ đội Sư đoàn 4 chủ lực quân khu đột phá hàng loạt chốt điểm quan trọng trên đường vòng cung nhằm tạo bàn đạp đánh vào thành phố Cần Thơ.

Tại Vĩnh Long, đêm 11 rạng ngày 12-4, Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu 9 tập kích Chi khu Ba Càng, phá hủy 2 khẩu pháo 105 mm; Trung đoàn 3 đánh chiếm Chi khu Bình Minh, diệt và bức rút 13 đồn bốt, giải phóng vùng bắc sông Hậu. Sau đó, Trung đoàn 3 kết hợp với Tiểu đoàn 1 bộ đội địa phương tỉnh Vĩnh Long diệt Phân chi khu Mỹ Thuận A, Mỹ Thuận B và Thành Lợi. Phần lớn các chi khu, phân chi khu, đồn bốt này đều nằm trên quốc lộ 4. Phân đội pháo (dùng pháo 105 mm mới thu được của địch đặt ở phía bắc Cái Vồn bắn vào Sở chỉ huy Quân đoàn 4 ở Cần Thơ và sân bay Trà Nóc. Bộ Chỉ huy Quân đoàn 4 địch phản ứng mạnh. Ngày 12-4, chúng sử dụng Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 16 - Sư đoàn 9 và chi đoàn xe thiết giáp M113 từ thị xã Vĩnh Long xuống giải tỏa, đánh bật Tiểu đoàn 307 - Trung đoàn 1 khỏi Ba Càng. Hôm sau, sáng 13-4, địch dùng trực thăng đổ Trung đoàn 31 - Sư đoàn 21 từ Cần Thơ xuống đông nam Chi khu Bình Minh để truy tìm trận địa pháo ta. Chiều cùng ngày, địch đổ tiếp Trung đoàn 16 - Sư đoàn 9, Trung đoàn 32 - Sư đoàn 21, 4 tiểu đoàn bảo an, 2 chi đoàn M 113. Toàn bộ lực lượng này, tỏa ra lùng sục khắp các cánh đồng thuộc xã Mỹ Hòa, Đông Thành (huyện Bình Minh) Mãi Tứ (huyện Tam Bình) để tìm trận địa pháo ngăn không cho bắn vào thành phố Cần Thơ. Trung đoàn 1, Trung đoàn 3 chủ lực Quân khu 9 lúc này chuyển sang hoạt động phân tá, đánh nhỏ lẻ, kìm chân địch ở đường 4 và vùng ven, sẵn sàng chớp thời cơ đánh chiếm hai thị xã Vĩnh Long, Trà Vinh…

Trên hướng Quân khu 8, Bộ Tư lệnh Miền sử dụng Sư đoàn 5, Sư đoàn 3 và lực lượng vũ trang địa phương đánh dịch mở thông hành lang Tây Ninh - Đồng Tháp Mười, phát triển xuống vùng sâu Châu Thành, Cai Lậy (Mỹ Tho), chia cắt đường 4, tạo bàn đạp tiến công Sài Gòn - Gia Định từ hướng tây. Ngày 6-4, Trung đoàn 88, Trung đoàn 24 và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Long An tiến công diệt 50 đồn, bốt, giải phóng 12 xã thuộc khu vực phía nam tỉnh Long An. Trong khoảng thời gian này, theo mệnh lệnh tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh, Đoàn 232 được bổ sung lực lượng và phương tiện tương đương biên chế cấp quân đoàn, gồm Sư đoàn 5, Sư đoàn 3, Sư đoàn 9 và một số đơn vị chủ lực Quân khu 8, và một số đơn vị xe tăng, pháo binh, công binh, do Trung tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh, đồng chí Lê Văn Tưởng làm Chính ủy, đang chuẩn bị vượt sông Vàm Cỏ Đông tiến vào Sài Gòn từ hướng tây và tây nam.

Ở miền Đông Nam Bộ, phối hợp với đon tiến công của Quân đoàn 4 vào phòng tuyến Xuân Lộc, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 chỉ đạo bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, các đột biệt động thành, đặc công, các đội công tác bí mật đưa lực lượng vào vùng căn cứ Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Thủ Đức (Sài Gòn), Bến Cát, Tân Uyên (Bình Dương), Dĩ An, Thống Nhất (Đồng Nai)…, đẩy mạnh hoạt động tác chiến ở Phú Hòa Đông, Tân Thông Hội, Tân Thạnh Tây, Tổng Thôn, Thới Mỹ; đánh chiếm Sở chỉ huy Tiểu đoàn 86 biệt động quân ở Tân Túc, tiêu hủy kho hóa chất Sicôna Thủ Đức, kho xăng Vũng Béo, gây áp lực bức hàng, bức rút nhiều đồn. bốt địch đóng trên hành lang dẫn vào khu vực nội đô.

Nhìn chung cho đến khi chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đã lần lượt đập tan các tuyến phòng ngự then chốt vòng ngoài từ Bà Rịa, Long Khánh Đồng Nai, Bình Dương đến Tây Ninh, Long An, Mỹ Tho, Gò Công; hình thành các bàn đạp bao quanh sào huyệt địch, hoàn thành những mặt chuẩn bị rất cơ bản về lực lượng, thế trận cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Trên miền Bắc, thanh niên nô nức tòng quân. Hậu phương lớn dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng, to lớn cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy giành toàn thắng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #123 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2011, 07:49:22 pm »

II - ĐÁNH CHIẾM ĐỊA BÀN VÙNG VEN
TỔNG CÔNG KÍCH VÀO NỘI ĐÔ

Những chiến thắng liên tiếp của chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ (đặc biệt là chiến thắng Xuân Lộc - Long Khánh) mở toang “cánh cửa thép” phía đông Sài Gòn của quân và dân ta đã làm cho giới lãnh đạo Mỹ và chính quyền Sài Gòn vô cùng hoảng sợ. Đại sứ Mỹ Martin tại Sài Gòn phải khẩn cấp báo cáo với Tổng thống G. Pho: “Các đơn vị quân Bắc Việt Nam đang cùng một lúc hội tụ về khu vực Sài Gòn từ mọi hướng với một lực lượng hậu bị to lớn… Có khả năng bao vây và cô lập thành phố này trong một hay hai tuần nữa. Chính phủ (Việt Nam Cộng hòa) có thể tăng viện một hoặc hai mặt trận bằng các rút lực lượng từ khu vực Cân Thơ hoặc Mỹ Tho, nhưng cũng không thể làm gì hon là sư kéo dài thêm sự tồn tại của Sài Gòn khoảng một tuần, bởi vì quân Bắc Việt có khả năng hầu như lập tức, loại trừ những lực lượng tăng cường này”(1). Đối với Mỹ, lúc này, việc cấp bách là đảm bảo an toàn cho người Mỹ rút khỏi Sài Gòn và ráo tiết tìm giải pháp hòng dựng lên một chính phủ có khả năng “thương lượng” với đối phương. Trước áp lực của tình hình và sức ép của Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu buộc phải miễn cưỡng chấp nhận tự chức để được an toàn ra nước ngoài, sống lưu vong trước khi bị lật đổ. Sáng ngày 21-4-1975, trước 200 nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu đọc bài diễn văn kịch liệt đả kích sự “bội ước” của Mỹ và tuyên bố từ chức, giao lại quyền cho Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Hương.

Ngay sau khi lên làm Tổng thống Trần Văn Hương được Mỹ ủng hộ, đã ra nhật lệnh “Chống cộng đến giọt máu cuối cùng”, yêu cầu Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn lập tức chấn chỉnh, khôi phục lực lượng, điều chỉnh thế bố trí, giữ các địa bàn còn lại của Quân khu 3 và Quân khu 4.

Trận địa bàn Quân khu 4 - Quân đoàn 4, địch có khoảng 175.000 quân, trong đó chủ lực là 66000 được biên chế thành 3 sư đoàn bộ binh, 1 lữ đoàn, 366 khẩu pháo, 493 xe tăng thiết giáp, 409 máy bay (118 máy bay chiến đấu các loại. Toàn bộ lực lượng này được bố trí thành các cụm phòng ngự xung quanh các thành phố, thị xã, các trục đường giao thông (chú trọng bảo vệ thành phố Cần Thơ và quốc lộ 4).

Trên địa bàn Quân khu 3, dựa vào lực lượng chủ yếu của Quân đoàn 3 với 245.000 quân, 406 khẩu pháo, 624 xe tăng, 800 máy bay, 852 tàu chiến cùng số tàn quân của Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 dồn về và lực lượng tổng trù bị còn lại, địch tổ chức hệ thống phòng thủ Sài Gòn thành ba tuyến (vòng ngoài, ven đô và nội thành). Tuyến vòng ngoài địch bố trí 5 sư đoàn, 2 lữ đoàn, trong đó, Sư đoàn 22 bộ binh ở Long An, Bến Lức chốt giữ đường 4; Sư đoàn bộ binh 25 chốt giữ căn cứ Đồng Dù, chịu trách nhiệm phòng giữ Tây Ninh, Trảng Bàng, Củ Chi, Hậu Nghĩa; Sư đoàn bộ binh 5 ở Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương; Sư đoàn lính thủy đánh bộ (có 2 lữ đoàn) chốt giữ Long Bình; Sư đoàn bộ binh 18 ở Bàu Cá, Trảng Bom, Suối Đĩa; Lữ đoàn kỵ binh 3 chốt giữ Biên Hòa - Long Bình; Lữ đoàn dù 1 chốt giữ Bà Rịa.

Tuyến ven đô, ban đầu, địch bố trí 3 liên đoàn biệt động có các chi đoàn thiết giáp hỗ trợ cơ động bảo vệ khu vực Bình Chánh, Hóc Sơn, Bình Triệu, ngăn chặn ta tiến công vào Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Nhưng đến ngày 24-4-1975, khi phát hiện được 12 sư đoàn Quân giải phóng đã triển khai trên tất cả các hướng từ Biên Hòa, Tân Uyên đến Củ Chi, Long An, sẵn sàng tiến vào nội thành,địch vội vàng thành lập bốn khu chiến vành đai cách trung tâm đô thành từ 14 đến 20 km. Khu chiến bắc gồm khu vực Hóc Môn, Cầu Bông (dọc trục đường số 10 vào đến sây bay Tân Sơn Nhất, do Liên đoàn biệt động quân 9, 2 liên đoàn công binh và binh lính, sĩ quan thuộc Trung tâm huấn luyện Quang Trung chốt giữ. Khu chiến tây gồm khu vực Vĩnh Lộc, Tân Hiệp, Bà Hom, Bình Chánh do 2 liên đoàn biệt động quân (7, 8) và Liên đoàn bảo an 239 đảm nhiệm. Khu chiến nam gồm Nhà Bè, Nhân Trạch, do lực lượng bảo an và dân vệ tại chỗ bảo vệ. Khu chiến đông gồm khu vực Gò Vấp, quận 9, Thủ Đức do Lữ đoàn dù 4, Liên đoàn địa phương quân 931 và lực lượng tại Quân trưởng Thủ Đức phòng giữ.

Ở nội thành, địch tổ chức thành năm liên khu, mỗi liên khu gồm hai quận (liên khu 1: quận 1 và 3, liên khu 2: quận và 6; liên khu 3, quận 2 và 4; liên khu 4: quận 7 và 8; liên khu 5: quận 10 và 11), do toàn bộ lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự phụ trách. Nhiệm vụ của các liên khu là chống quân Giải phóng xâm nhập và ngăn chặn sự nổi dậy của quần chúng.

Bênh cạnh việc tổ chức các liên khu, địch còn phân chia các khu vực được cho là tối quan trọng, thành các yếu khu, yếu điểm. Yếu khu Tân Sơn Nhất do lực lượng phòng thủ tại sân bay canh phòng, trường hợp sân bay bị tấn công mạnh, có nguy cơ bị mất, sẽ có lực lượng tăng viện từ Bộ Tổng tham mưu; yếu điểm Bộ Tổng tham mưu chủ yếu do Liên đoàn biệt kích dù 81 và lực lượng bảo vệ Bộ Tổng tham mưu đảm nhiệm. Dinh Tổng thống, ngoài lực lượng Liên đoàn an ninh Thủ đô canh giữ, con được tăng cường 1 lữ đoàn dù bảo vệ. Ngoài ra, mỗi đặc khu ở ven đô còn có 2 đại đội địa phương quân; mỗi khóm (phố) trong nội thành có 1 trung đội nghĩa quân tham gia bảo vệ. Ở các ngã ba, ngã tư, trên các tòa cao ốc, địch gấp rút xây dựng hệ thống chướng ngại vật, thiết lập các ổ đề kháng có cả xe tăng, xe thiết giáp hỗ trợ, hòng ngăn chặn các mũi tiến công của ta và phong trào nổi dậy của quần chúng.


(1) Bộ Quốc phòng - Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương - Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh: Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.213.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #124 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2011, 07:51:25 pm »

Nắm bắt kịp thời toàn bộ diễn biến của tình hình chiến trường trong nước, trong khu vực có liên quan, trong bức diện gửi cho Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 22-4-1975, Bộ Chính trị chỉ trõ: “Thời cơ để mở cuộc tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là đảm bảo chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi về quân sự và chính trị”(1).

Căn cứ sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và thông qua diễn biến mới về hình thái địch, ta trên chiến trường Nam Bộ (đặc biệt là chiến trường miền Đông Nam Bộ), ngày 22-4-1975, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh đã họp thông qua và phê duyệt kế hoạch tiến công tiến công Sài Gòn - Gia Định. Nắm chắc lực lượng và thế trận phòng thủ của địch ở thành phố có diện tích gần 120 km2, dân số trên 3 triệu người là trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế đầu não của chế độ Sài Gòn, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh xác định rõ tư tưởng chỉ đạo: Phải chuẩn bị chu đáo, phải đánh chắc thắng; chú trọng những trận đánh quan trọng ở vòng ngoài, ven đô, không cho địch co cụm về Sài Gòn, tạo và thúc đẩy sự tan rã lớn và nhanh. Tổ chức các mũi thọc sâu, có đầy đủ sức mạnh để đột kích thật nhanh, đánh thẳng vào các mục tiêu chủ yếu để nhanh chóng “đánh ngã” địch. Tiến công quân sự phải đi trước một bước và phải giữ vai trò quyết định. Phát huy sức mạnh tổng hợp, đột kích liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng. Coi trọng công tác bảo đảm vật chất, bảo đảm cơ động,bảo đảm thông tin liên lạc, bảo đảm dẫn đường… Phải giữ bí mật về thời gian, về lực lượng, về triển khai khu vực tập kết và công tác chuẩn bị chiến trường. Tăng cường và đẩy mạnh công tác đảng, công tác chính trị trong chiến dịch.

Với quyết tâm giành thắng lợi trọn vẹn cho chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tập trung chỉ đạo Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng toàn bộ các quân đoàn chủ lực cơ động 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) gồm 15 sư đoàn, 5 trung đoàn, lữ đoàn bộ binh; 20 lữ đoàn binh chủng kỹ thuật (pháo mặt đất, pháo phòng không, công binh); 3 lữ đoàn, trung đoàn và 6 tiểu đoàn tăng thiết giáp; 8 trung đoàn, lữ đoàn đặc công; 4 trung đoàn thông tin; 1 trung đoàn tên lửa; một số đơn vị không quân, hải quân; 2 sư đoàn ôtô vận tải. Lực lượng vũ trang địa phương trong khu vực tác chiến có 2 trung đoàn, nhiều tiểu đoàn, đại đội tỉnh, thành đội, huyện đội; 6 trung đoàn đặc công, 60 tổ biệt động; toàn bộ lực lượng chính trị, binh vận… thuộc Quân khu 7 và thành phố Sài Gòn - Gia Định. Tổng cộng lực lượng tham gia chiến đấu là 270.000 (trong đó 250.000 bộ đội chủ lực, 20.000 bộ đội địa phương) và 180.000 lực lượng hậu cần chiến dịch.

Hầu hết các binh đoàn chủ lực tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh vừa lập nên những chiến thắng lẫy lừng ở Tây Nguyên, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Xuân Lộc. Những đơn vị đặc công, biệt động thành, những đội công tác vũ trang bi mật rất thông thuộc địa bàn, nắm chắc mục tiêu, đã vào trong nội đô để phát động và tổ chức các lực lượng nổi dậy phối hợp với các đơn vị chủ lực từ ngoài vào. Như thế, trong chiến dịch lịch sử này, ta đã tạo được sức mạnh quân sự, chính trị ưu thế hơn hẳn địch cả về số lượng và chất lượng. Trên cơ sở thế trận và lực lượng áp đảo, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh xác định cách đánh: “Dùng một lực lượng thích hợp trên từng hướng đủ sức hình thành bao vây, chia cắt, chặn giữ quân địch không cho chúng rút chạy hoặc lùi dần về Sài Gòn. Tiêu diệt và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch phòng thủ vòng ngoài; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ở vùng ven, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu chủ yếu đã được chọn trong nội thành: Bộ Tổng tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát và Dinh Độc Lập”(2).

Để tiến vào nội đô, các binh đoàn tham gia chiến dịch phải thành công những trận đánh lớn, ác liệt với quân địch ở vòng ngoài. Trên hướng Hố Nai - Biên Hòa, Long Bình, Nước Trong xuống Bà Rịa, Vũng Tàu, các binh đoàn đảm nhiệm tiến công từ hướng đông phải tiêu diệt Sư đoàn 18, Sư đoàn lính thủy đánh bộ và 2 lữ đoàn dù. Các binh đoàn đảm nhiệm tiến công từ hướng bắc, tây bắc phải đột phá các căn cứ Phú Lợi, Lai Khê, Bến Cát, thị xã Thủ Dầu Một (thuộc Bình Dương), căn cứ Gò Dầu, Trảng Bàng (Tây Ninh), Đồng Dù (Củ Chi) diệt Sư đoàn 25. Binh đoàn đảm nhiệm thướng tây nam phải tiêu diệt các căn cứ Tân An, Bến Lức (Hậu Nghĩa) diệt Sư đoàn 22 và cắt đứt đường số 4. Đồng thời, để phát triển vào nội đô được thuận lợi, việc bảo vệ và ngăn chặn địch phá hoại cầu Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn (phía đông), cầu Ghềnh, cầu Mới, cầu Bình Phước, cầu Bình Triệu (phía tây bắc), cầu Tân An, cầu Bến Lức (tây nam) là hết sức quan trọng.

Do đó, để kết hợp với các binh đoàn chủ lực mạnh từ ngoài đánh vào, tiến nhanh, đánh đúng lúc vào các mục tiêu đã định, nhiệm vụ của các lực lượng đặc công, biệt động, an ninh, tự vệ, các tổ chức chính trị quần chúng (tại chỗ) là phải chủ động đánh chiếm và giữ các cầu không để địch phá; hướng dẫn và chỉ đường cho các mũi đột kích của chủ lực, khống chế các lực lượng địch tại địa bàn, ngăn cản địch cơ động chi viện lẫn nhau, phát động quần chúng nổi dậy.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.167.
(2) Văn Tiến Dũng: Đại thắng mùa Xuân 1975, Sđd, tr. 229.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #125 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2011, 07:52:09 pm »

Trên cơ sở nắm chắc thế trận và lực lượng của ta và của địch trên từng hướng, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định không tổ chức đội hình thê đội trong quá trình tác chiến, không chia bước, chia đợt như các chiến dịch thông thường mà giao khu vực tác chiến và mục tiêu tiến công cụ thể cho từng quân đoàn trên từng hướng.

Đảm nhiệm hướng tây bắc - hướng chủ yếu là Quân đoàn 3 (gồm 3 sư đoàn bộ binh 10, 320A, 316, các trung đoàn, lữ đoàn trực thuộc) do Thiếu tướng Vũ Lăng làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy cùng với lực lượng vũ trang Tây Ninh, Củ Chi, 2 trung đoàn Gia Định (1 và 2), các tiểu đoàn đặc công, biệt động của Thành đội Sài Gòn, được hỏa lực pháo mặt đất và pháo phòng không chiến dịch chi viện. Trên hướng này, trong giai đoạn 1, dùng 1 sư đoàn bộ binh có tăng cường một số tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật, bao vây tiến công tiêu diệt các cụm địch ở Gò Dầu, Trảng Bàng, chiếm cắt đường 1, không cho địch lùi về căn cứ Đồng Dù và quận lỵ Củ Chi phòng thủ. Giai đoạn 2, sử dụng 1 sư đoàn bộ binh được tăng cường các tiểu đoàn cơ giới tiến công căn cứ Đồng Dù, tiêu diệt và ngăn chặn Sư đoàn bộ binh 25 không cho chúng co cụm về Sài Gòn; đồng thời, tổ chức mũi đột kích binh chủng hợp thành quy mô sư đoàn tăng cường, nhanh chóng thọc sâu vào nội đô, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, chiếm lĩnh các quận Tân Bình và Phú Nhuận, đưa một bộ phận lực lượng cơ động về hợp điểm ở Dinh Độc Lập.

Đảm nhiệm hướng bắc là Quân đoàn 1 gồm Sư đoàn 312, Sư đoàn 320 B, Lữ đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn tăng - thiết giáp 202, Lữ đoàn công binh 299, Sư đoàn cao xạ 367, được tăng cường Lữ đoàn pháo binh 38, Trung đoàn tên lửa 263, 3 trung đoàn công binh 239, 249, 279, ba tiểu đoàn pháo độc lập, một trung đoàn cao xạ hỗn hợp, do Thiếu thướng Nguyễn Hòa làm Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Minh Thi làm chỉ huy. Trên hướng này, ta sử dụng 1 sư đoàn bộ binh và lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Bình Dương đánh chiếm căn cứ Phú Lợi, Lai Khê, Bến Cát, Tây Uyên, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 5; tiếp đó, tổ chức mũi đột kích binh chủng hợp thành quy mô sư đoàn tăng cường, thọc sâu vào nội đô đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu và các bộ tư lệnh binh chủng quân đội Sài Gòn ở quận Gò Vấp; đồng thời, tổ chức một lực lượng cơ động tiến về dinh Độc Lập.

Hướng đông, Quân đoàn 4 gồm Sư đoàn 7, Sư đoàn 341 và Sư đoàn 6 (Quân khu 7) cùng các đơn vị binh chủng được tăng cường Lữ đoàn 52 bộ binh (Quân khu 5), một tiểu đoàn pháo 130 mm, 3 tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp, một trung đoàn cao xạ hỗn hợp, do Thiếu tướng Hoàng Cầm làm Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy. Nhiệm vụ của các đơn vị trên hướng này là đánh chiếm khu Biên Hòa, Hố Nai (trong đó có Sở chỉ huy Quân đoàn 3 - Quân khu 3 và Sư đoàn 18), tiếp đó, tiến thẳng vào Sài Gòn đánh chiếm Dinh Độc Lập, quận 1, quận 3, Bộ Tư lệnh hải quân, Bộ Quốc phòng, Đài Phát thanh Sài Gòn…

Hướng đông nam, Quân đoàn 2 gồm 3 sư đoàn bộ binh (304, 325, 3), Lữ đoàn pháo binh 164, Lữ đoàn xe tăng 203, Lữ đoàn công binh 219, Sư đoàn cao xạ 673 (khoảng 40.000 người) do Thiếu tướng Nguyễn Hữu An làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Linh làm Chính ủy, được sự phối hợp của Trung đoàn đặc công 116 miền, lực lượng vũ trang Bà Ria - Vũng Tàu, có nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ Nước Trong, Chi khu Long Bình, chi khu Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, bến phà Cát Lái, Chi khu Đức Trạch, thị xã Bà Rịa, thị xã Vũng Tàu; vượt sông Đồng Nai đánh chiếm quận 9, quận 4; trong trường hợp nếu đơn vị bạn phát triển chậm thì chủ động đánh chiếm quận 1, quận 3 và Dinh Độc Lập.

Hướng tây và tây nam, Quân đoàn 232 có 3 sư đoàn bộ binh (3, 5 và Sư đoàn 9 thuộc Quân đoàn 4) và 4 trung đoàn độc lập (16, 88, 24, 27B), 1 trung đoàn đặc công, 3 tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật và một số đơn vị thuộc Quân khu 8 (quân số khoảng 42.000 người) do Trung tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Văn Tưởng làm Chính ủy. Sư đoàn 232 có nhiệm vụ: tiêu diệt 2 trung đoàn (Sư đoàn 25 quân đội Sài Gòn, mở tuyến sông Vàm Cỏ, phát triển xuống Tân An, cắt đứt triệt để đương số 4 (đoạn Bến Lức - Trung Lương), chặn địch rút chạy từ Sài Gòn về miền Tây, hoặc từ miền Tây lên tăng viện cho Sài Gòn, tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Hậu Nghĩa; sau khi hoàn thành các nhiệm vụ trên, tổ chức một mũi thọc sâu binh chủng hợp thành quy mô sư đoàn tăng cường đánh chiếm Biệt khu Thủ đô; một mũi khác (lực lượng tương đương sư đoàn), đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, Tổng nha Cảnh sát, quận 5, 6, 7, 8.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #126 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2011, 07:53:51 pm »

Các đoàn đặc công, các đội biệt động của Miền, Quân khu 7 và Thành đội Sài Gòn(1) có nhiệm vụ chủ động tổ chức tập kích các sân bay, bến cảng, kho tàng, trận địa hỏa lực; phát động nhân dân nổi dậy diệt các đồn bốt nhỏ lẻ, mở rộng địa bàn đứng chân, đánh chiếm và giữ các đầu cầu. Khi chiến dịch nổ ra, các đội này sẽ đảm nhận việc dẫn đường, phối hợp cùng các hướng, các mũi đánh chiếm những mục tiêu trong thành phố, làm nòng cốt cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ. Với vị trí, tính chất, sở trường của từng đơn vị, Bộ Tư lệnh chiến dịch giao nhiệm vụ: Trung đoàn đặc công 116 phối hợp với lực lượng vũ trang huyện Thủ Đức luồn sâu, bí mật chiếm giữ các cầu Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn (trên xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn), diệt tàu chiến trên sông, dẫn đường cho Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 thọc sâu đánh vào nội thành; Đoàn đặc công 112 được biệt động hỗ trợ đánh chiếm cầu Ghềnh, cầu Bình Triệu và dẫn đường cho bộ đội chủ lực thọc sâu đánh vào quận 1…; Đoàn đặc công 115 đánh chiếm cầu Bình Phước, dẫn đường vào phối hợp với Quân đoàn 1 tiến công Bộ Tư lệnh các binh chủng, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn; Đoàn đặc công 198 phối thuộc cùng Quân đoàn 3, giai đoạn đầu luồn sâu đánh chiếm và chốt giữ cầu Bông, cầu Sáng, bảo đảm đường cơ động cho Quân đoàn 3 tiến vào Hóc Môn, phát triển đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất; Đoàn đặc công 117 đánh chiếm cầu Bến Lức, cầu Bình Điền, tập kích trận địa pháo, khu truyền tin Phú Lâm, dẫn đường cho Sư đoàn 9 thọc sâu đánh chiếm Biệt khu thủ đô; Đoàn đặc công 429 đánh chiếm các trận địa pháo, dẫn đường và phối hợp cùng chủ lực đánh chiếm Tổng nha Cảnh sát, cầu chữ Y và các quận 6, 7, 8; Đoàn 10 (đặc công Rừng Sát) phối hợp với đơn vị bạn đánh chiếm khu vực Nhà Bè, chặn cắt sông Lòng Tàu không cho tàu thuyền địch chạy ra biển.

Trong kế hoạch tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định, lực lượng binh khí, kỹ thuật, quân chủng, binh chủng tham gia chiến dịch sẽ được sử dụng như sau: pháo binh tầm xa triển khai trận địa ở Hiếu Liêm, Tân Phước Khánh, Tân Phước Trung, Mỹ Hạnh, Việt Cần, Nhơn Trạch… tập kích phá hủy và khống chế các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc Lập, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát… theo kế hoạch hiệp đồng và yêu cầu của bộ binh tác chiến trên từng hướng; đồng thời, chuẩn bị các trận địa, đài quan sát theo dõi, sẵn sàng bắn phá các tàu thuyền trên sông Sài Gòn, Lòng Tàu và phá hủy các trận địa hỏa lực cố định, hoặc cơ động của địch. Các trận địa pháo phòng không hỗn hợp bảo vệ tuyến vận tải chiến lược, chiến dịch, các trận địa pháo, sở chỉ huy binh chủng hợp thành trong hành tiến và chiến đấu; khi tiến công (nếu kỹ thuật xạ kích thuận lợi), bắn thẳng vào các mục tiêu xuất hiện trên đường phố, trên các nhà cao tầng. Các trận địa tên lửa bố trí ở hướng bắc và tây bắc sẵn sàng tiêu diệt mục tiêu trên không, bảo vệ đội hình chủ yếu của chiến dịch; khi phát triển tiến công, cơ động vào các khu vực khống chế vùng trời Sài Gòn. Không quân tham gia đánh phá sân bay, phối hợp, hỗ trợ bộ binh, hải quân đánh chiếm các đảo, vận tải và tiếp quản các sân bay. Hải quân phối hợp với bộ binh giải phóng các đảo, tiếp quản các căn cứ hải quân địch. Công binh bảo đảm đường cho bộ binh, cơ giới hành tiến, chuẩn bị vật chất, kỹ thuật khắc phục cầu phà hư hỏng. Thông tin liên lạc bảo đảm thông tin chỉ huy thông suốt, chú trọng hai hướng đông và tây nam, đặc biệt là các đơn vị binh chủng hợp thành thọc sâu chiến dịch. Bộ đội vận tải đảm nhiệm vận chuyển vật chất, đạn dược xuống các hướng và trực tiếp chở bộ đội cơ động chiến đấu, chủ yếu là lực lượng thọc sâu.

Do địa bàn tác chiến rộng lớn và tác chiến phức tạp của các khu vực mục tiêu, chiến dịch dự kiến sẽ diễn ra thành hai đợt, trong khoảng thời gian từ 4 đến 5 ngày.

Đợt một (từ ngày 26 đến ngày 28-4), thực hành tác chiến ở vùng ven (vòng ngoài; các quân đoàn trên hướng bắc, tây bắc bao vây tiêu diệt hai sư đoàn địch (5, 25) ở Tân Uyên, Phú Lợi (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh), Đồng Dù (Củ Chi); các binh đoàn ở hướng đông và đông nam đồng loạt đánh chiếm các trọng điểm phòng thủ Trảng Bom, Biên Hòa, Long Bình, Nước Trong, Long Thành, Bà Rịa, cắt đường 15 và sông Lòng Tàu; cánh quân hướng tây nam bao vây Tân An, Hậu Nghĩa, diệt Sư đoàn 22, cắt đứt đường 4. Mục đích tác chiến của đợt một là tập trung cô lập và tiêu diệt cơ bản quân địch phòng thủ ở Biên Hòa, Bình Dương, Tây Ninh, Long An, tạo điều kiện cho các đơn vị binh chủng hợp thành trên từng hướng thọc sâu, áp sát khu vực nội đô, di chuyển các trận địa pháo tầm xa vào bên trong, phối hợp với không quân khống chế, bắn phá tất cả các mục tiêu chủ yếu.

Đợt hai (từ ngày 29 đến ngày 30-4): toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch hành tiến tiêu diệt những mục tiêu án ngữ ở các khu vực ven đô, chiếm các địa bàn, các trục đường quan trọng, sau đó nhanh chóng triển khai đội hình thọc sâu đột phá vào nội đô; lực lượng vũ trang ở vùng ven bao gồm bộ đội đặc công, biệt động thành dội, các đội vũ trang công tác của Thành ủy… chiếm giữ các đầu cầu, các mục tiêu kinh tế quan trọng, không cho địch phá hoại, đồng thời tổ chức vận động nhân dân nổi dậy phối hợp với đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực đánh chiếm các mục tiêu then chốt trong nội thành.

Trên hai hướng đông - đông nam và tây nam, Bộ Tư lệnh chiến dịch phân công Trung tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm Phó Tư lệnh chiến dịch, trực tiếp chỉ huy Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4; Trung tướng Lê Đức Anh - Phó Tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ huy Đoàn 232. Sở chỉ huy cơ bản chiến dịch được dự kiến sẽ chuyển từ Lộc Ninh lên khu vực Dầu Tiếng khi bộ đội tổng công kích vào các mục tiêu trong nội đô.


(1) Ngoại thành có 7 đoàn, 4 tiểu đoàn, hàng chục đội biệt động; nội thành có Trung đoàn Thành đội, 60 tổ biệt động, 300 quần chúng vũ trang và lực lượng quần chúng có tổ chức do bộ đội biệt động trực tiếp chỉ huy; các đại đội, tiểu đoàn địa phương các huyện, quận; chưa kể hàng trăm cán bộ, hàng trăm đội viên vũ trang tuyên truyền, hàng trăm đảng viên và hàng nghìn đoàn viên các đoàn thể Thành ủy Sài Gòn - Gia Định đã vào nội đô.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #127 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2011, 07:57:24 pm »

Sài Gòn đang trong những ngày trở nên hỗn loạn người Mỹ và nhiều nhân vật cao cấp của chế độ Sài Gòn gấp rút di tản khỏi miền Nam. Lực lượng đặc nhiệm Mỹ với 35 tàu chiến, 4 tàu sân bay cùng hàng trăm máy bay các loại được huy động vào chiến dịch di tản này. Núp dưới chiêu bài “nhân đạo”, Mỹ đã đưa hàng trăm trẻ em người Việt trong một số cô nhi viện ở miền Nam sang Mỹ nhằm phục vụ mưu đồ chính trị sau này.

Từ Hà Nội, trong khi chỉ đạo quân dân cả nước dồn sức cho chiến dịch lịch sử mang tên Bác, các cơ quan chiến lược đồng thời có những chủ trương, giải pháp nhằm ổn định những vùng mới giải phóng, chuẩn bị cho việc tiếp quản thành phố Sài Gòn. Ngày 18-4-1975, Ban Bí thư Trung ương ra chỉ thị Về chính sách đối với tù, hàng binh trong tình hình mới, trong đó chỉ rõ:

“1 - Binh sĩ khởi nghĩa: về chính trị, được coi như quần chúng cách mạng, về sinh hoạt vật chất được đãi ngộ như cán bộ, chiến sĩ ta, được sắp xếp công tác tùy theo trình độ giác ngộ chính trị và năng lực của từng người (…).

2 - Binh sĩ giác ngộ trở về với cách mạng: được hưởng quyền công dân, được đối xử về tinh thần và vật chất như những công dân bình thường.

3 - Tù binh: được đối xử nhân đạo theo đúng chính sách của ta”(1).

Lúc này, trước sức tiến công và nổi dậy mạnh mẽ của quân và dân ta, nhiều thành phố và tỉnh đã hoàn toàn được giải phóng; nhiều binh lính, sĩ quan nhân viên quân đội và chính quyền Sài Gòn ở lại địa phương. Để mau chóng thiết lập và ổn định trậ ttự an ninh, đưa sinh hoạt vùng mới giải phóng sớm trở lại bình thường, Đảng và Nhà nước đã cử nhiều đoàn cán bộ dân - chính - đảng từ miền Bắc vào, tăng cường cho các vùng giải phóng, đồng thời, ban hành một số chính sách, biện pháp đối với binh lính, sĩ quan, nhân viên quân đội và chính quyền cũ. Trong chỉ thị ngày 19-4-1975, Ban Bí thư cho rằng: “Chính sách của Mỹ - ngụy trong vùng tạm bị chiếm là bôi đen mọi người để bắt theo chúng. Cho nên trong công tác đấu tranh chống bọn phản cách mạng, ta phải đánh mạnh, đánh đúng những phần tử ác ôn ngoan cố, bọn chống phá cách mạng một cách có ý thức, bọn phản cách mạng hiện hành. Nhưng ta không được lẫn lộn bọn này với những người bị địch cưỡng ép vào những tổ chức chính trị hay vũ trang của chúng. Đối với những người bị địch cưỡng ép, ta phải thi hành chính sách khoan hồng, giáo dục cải tạo, mở đường cho họ tiến bộ”(2). Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu mới của tình hình, nhờ quản lý tốt các thành phố, thị xã và vùng nông thôn mới giải phóng, trong bức diện số 19, ngày 19-4-1975, gửi Trung ương Cục, Khu ủy Khu 5, Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế và Tỉnh ủy Quảng Trị, Ban Bí thư đã nêu rõ chủ trương và một số giải pháp cấp bách về tổ chức bộ máy đảng, nhà nước và các tổ chức quần chúng ở những vùng này. Đối với thành phố Sài Gòn, để chuẩn bị cho công tác tiếp quản, ngày 21-4-1975, Ban Bí thư gửi cho Thường vụ Trung ương Cục bức diện số 178, trong đó khẳng định: “Công tác tiếp quản Sài Gòn chẳng những có ý nghĩa quan trọng, biểu hiện trình độ chính trị và trình độ tổ chức của chính quyền cách mạng đối với nhân dân thành phố, mà còn đối với cả thế giới nữa”(3) Ban Bí thư yêu cầu công tác tiếp quản Sài Gòn - Chợ Lớn phải đạt được các yêu cầu sau đây:

“a) Tiếp quản tốt các cơ sở quân sự, kinh tế, chính trị, hành chính, văn hóa, v.v. của địch, giữ gìn tốt tài sản quốc gia.

b) Lập lại nhanh và giữ vững an ninh trật tự, quản lý tốt bọn ngụy quân, ngụy quyền, trấn áp kịp thời bọn phản cách mạng hiện hành.

c) Khôi phục nhanh chóng sinh hoạt bình thường của nhân dân.

d) Phát động được phong trào cách mạng của quần chúng.

e) Đạt được ảnh hướng chính trị tối trong và ngoài nước”(4).

Bên cạnh công tác chuẩn bị tiếp quản Sài Gòn - Gia Định, Ban Bí thư cũng yêu cầu Trung ương Cục, Khu ủy Khu 5, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế báo cáo ngay về tình hình an ninh, trật tự các địa phương; về kiểm kê, thu hồi,bảo quản, bảo vệ, quản lý tài sản quốc gia hiện có tại các vùng giải phóng; về những vấn đề cấp bách trong đời sống nhân dân, nhất là ở các thành phố, thị xã, thị trấn; việc phục hồi sản xuất, khôi phục kinh tế, văn hóa, tìm và tạo công ăn việc làm cho nhân dân.

Trước tội ác của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trong những ngày còn lại của chế độ tay sai do Mỹ dựng lên cưỡng ép đồng bào ta di cư, đặc biệt là việc bắt các trẻ em đưa đi Mỹ và một số nước khác, trong bức diện số 191, ngày 26-4-1975, Ban Bí thư chỉ rõ âm mưu và thủ đoạn thâm độc của phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn “là vấn đề chính trị nghiêm trọng…”. Vì thế, “phải kịp thời và liên tục tố cáo chúng, chặn đứng âm mưu “di tản đó”(5) của địch. Trên mặt trận thông tin, tuyên truyền, “đi đôi với đài, báo tiếp tục lên án, cần mở một chiến dịch tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng vùng mới giải phóng, vạch trận hành động dã man này của địch… gây thành một phong trào rầm rộ trong quần chúng”(6).

Những ngày cuối cùng của tháng 4-1975, trước diễn biến mau lẹ của tình hình chiến trường, trước sức tiến công áp đảo của Quân giải phóng, nội bộ chính quyền, quân đội Sài Gòn tiếp tục có sự phân hóa mạnh mẽ. Ngày 26-4-1975, Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên và nhiều quan chức cao cấp của chính quyền Sài Gòn chạy ra nước ngoài. Lúc này, một số tướng lĩnh chóp bu của quân đội Sài Gòn đang xúc tiến chiếm ghế tổng thống nhưng tính toán ấy không nhận được sự ủng hộ của Mỹ và Pháp… Vào lúc đó, Sài Gòn đã bị vây chặt; các cánh quân của ta đã tập kết tại các bàn đạp tiến công.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.122.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.150.
(3), (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.158-59, 173..
(5), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.173, 171
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #128 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2011, 08:02:38 pm »

Sáng ngày 26-4-1975, bộ phận tiền phương của Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh chuyển xuống Căm Xe phía bắc Dầu Tiếng.

17 giờ ngày 26-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu.

Các binh đoàn tham gia chiến dịch trên năm hướng(1) tiến công tuyến phòng thủ vùng ven, phá vỡ các mắt xích phòng thủ vòng ngoài của quân đội Sài Gòn, cắt đứt giao thông đường bộ, đường thủy xuống đồng bằng sông Cửu Long và ra biển, khống chế các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Trà Nóc (Cân Thơ), chế áp các trận địa pháo quan trọng, vây ép Sài Gòn trên tất cả các hướng, không cho các sư đoàn chủ lực quân đội Sài Gòn co cụm về vùng ven và nội đô, tạo điều kiện cho bước kế tiếp tiến công đồng loạt vào sào huyệt địch.

Ở hướng đông và đông nam, 18 giờ ngày 26-4-1975, sau màn hỏa lực bắn phá dồn dập của hàng chục trận địa pháo binh dội xuống mục tiêu địch ở Trảng Bom, Hố Nai, Biên Hòa, Nước Trong, Long Thành, Đức Thạnh, Bà Rịa, các sư đoàn bộ binh của Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 bắt đầu mở cuộc tiến công.

Trên khu vực Quân đoàn 4 (hướng đông), Sư đoàn bộ binh 341 được tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ hỗn hợp và hỏa lực chiến thuật cấp trung đoàn, tiểu đoàn do Đại tá Trần Văn Trân làm Sư đoàn trưởng, Đại tá Nguyễn Đô làm Chính ủy trực tiếp chỉ huy, nổ súng đánh chiếm yếu khi Trảng Bom - mắt xích trọng yếu trên tuyến phòng ngự phía trước của địch. Nhiều trận chiến đấu dữ dội kéo dài hàng giờ giữa xe tăng, xe thiết giáp của ta và xe tăng, xe thiết giáp của địch diễn ra khốc liệt. Đến sáng ngày 27-4, địch bị thiệt hại nặng ở tiền duyên, núng thế và buộc phải lùi dần, nhưng vẫn ngoan cố dựa vào hệ thống công sự và nhà cao tầng trong thị trấn kháng cự điên cuồng. Bộ đội pháo cao xạ 23 mm, 37 mm và xe tăng của ta phải hạ thấp nòng ngắm bắn trực tiếp vào các ổ đề kháng để hỗ trợ cho bộ binh dùng những khối bộc phá 5 kg, 10 kg phá hủy lô cốt, hầm ngầm của địch. Không chịu nổi những đòn đánh táo bạo, quyết liệt, địch ở Trảng Bom phải tháo chạy về Hố Nai. 8 giờ 30 phút ngày 27-4, Sư đoàn bộ binh 341 làm chủ hoàn toàn yếu khu Trảng Bom, đánh thiệt hại nặng hai trung đoàn của Sư đoàn 18 địch, loại khỏi vòng chiến đấu 2.000 tên, thu và phá hủy gần 100 xe cơ giới các loại (một nửa là xe tăng, xe thiết giáp), làm chủ 14 km đường số 1.

Cùng thời gian, Sư đoàn bộ binh 6 do Sư đoàn trưởng Đặng Ngọc Sỹ chỉ huy được tăng cường Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7), 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 tiểu đoàn pháo cao xạ tiến theo phía nam đường 1 để đập tan các khu vực phòng thủ của địch ở suối Ông Hoàng, làm tan rã Trung đoàn 5 thiết giáp địch ở ngã ba Yên Thế; nhưng khi phát triển đến Long Lạc, Hố Nai thì bị địch co cụm tại đây chống trả quyết liệt.

Mũi thọc sâu Sư đoàn bộ binh 7 (do đại tá Lê Nam Phong làm Sư đoàn trưởng, Đại tá Phạm Liên làm Chính ủy) được tăng cường Lữ đoàn bộ binh 52, 2 đại đội xe tăng, 50 xe cơ giới, tổ chức thành hai thê đội: thê đội 1 là Trung đoàn 165, thê đội 2 là Trung đoàn 141. Đêm ngày 28-4, mũi thọc sâu của Sư đoàn 7 hành tiến theo đường quân sự làm gấp đến Suối Đỉa, sau đó theo đường 1 vào Long Lạc, Hố Nai thì bị địch chặn lại. Tại đây, 2 Sư đoàn bộ binh (341, 6) đang tập trung lực lượng đột phá Hố Nai, nên Sư đoàn 7 phải tạm dừng. Đòn tiến công của Quân đoàn 4 từ Hốn Nai đến Tam Hiệp diễn ra cực kỳ ác liệt. Sử dụng tăng - thiết giáp 3, Lữ đoàn dù 4 và lực lượng địa phương quân Sài Gòn dựa vào hệ thống phòng thủ khá vững chắc, gồm nhiều tuyến hào chống tăng, trận địa hỏa lực, bãi mìn, vật cản dày đặc, ngoan cố chống trả các đợt tiến công của ta, khiến cuộc tiến công của quân đoàn gặp rất nhiều khó khăn. Trước sức tiến công liên tục, quyết liệt, áp đảo cả về xung lực, hỏa lực, nên rạng sáng ngày 29-4, địch phải di chuyển máy bay ở sây bay Biên Hòa về sân bay Tân Sơn Nhất, rút Sở chỉ huy Quân đoàn 3 về Gò Vấp, Sài Gòn.


(1) Hướng tây bắc: Quân đoàn 3, hướng bắc: Quân đoàn 1, hướng đông nam: Quân đoàn 2, hướng đông: Quân đoàn 4, hướng tây và tây nam: Đoàn 232 và Sư đoàn 8 thuộc Quân khu 8.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #129 vào lúc: 23 Tháng Ba, 2011, 02:02:28 pm »

Phối hợp chặt chẽ với Quân đoàn 4, trên hướng đông nam, chiều ngày 28-4, Quân đoàn 2 cho Sư đoàn bộ binh 3, được tăng cường 1 đại đội xe tăng T.54 do Sư đoàn trưởng Lâm Bá Khuê chỉ huy, đánh chiếm chi khu Đức Thạnh. Sau 2 giờ chiến đấu trong thế áp đảo, bộ đội ta đã làm chủ các khu vực Bình Giã, Ngãi Giao, Núi Đất, hỗ trợ du kích và nhân dân địa phương nổi dậy giải phóng Xuyên Mộc, Long Lễ; sau đó, sư đoàn chuyển sang truy kích địch rút chạy. 21 giờ cùng ngày, Trung đoàn bộ binh 141 và Đại đội xe tăng 4 được pháo binh quân đoàn chi viện hỏa lực, tiến công thị xã Vũng Tàu. Trước sức mạnh vượt trội của lực lượng tiến công, quân địch phản ứng yếu ớt rồi bỏ chạy. Trưa ngày 27-4, quân ta giải phóng thị xã Bà Rịa, chiếm trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Trên đà thắng lợi, sư đoàn 3 cho bộ đội phát triển đánh chiếm Vũng Tàu. Địch tập trung lực lượng khá lớn ở phía đông cầu Cỏ May (đã bị phá sập) để chặn đường quân ta. Do vậy, sư đoàn phải đưa một bộ phận luồn sâu xuống Long Điều, dùng thuyền của dân vượt sông, tạo mũi vu hồi uy hiếp phía sau, buộc địch phải rút chạy khỏi cầu Cỏ May tạo điều kiện cho công binh khôi phục cầu. Được bộ đội chủ lực hỗ trợ, 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương Bà Rịa, 2 đại đội địa phương Long Đất và du kích tại chỗ tiến công giải phóng Bình Đà, Hòa Long, Long Phước, Phú Nhơn. 17 giờ ngày 27-4, ta làm chủ khu vực Long Hải, Bà Rịa. 16 giờ ngày 29-4, ta giải phóng thị xã Vũng Tàu.

Ở mũi trung tâm của Quân đoàn 2, Sư đoàn bộ binh 325 do Sư đoàn trưởng - Đại tá Phạm Minh Tâm chỉ huy, được sự chi viện đắc lực của pháo binh chiến dịch, nhanh chóng đánh chiếm ngã ba đường 10 và 15. 17 giờ ngày 26-4, quân ta làm chủ trận địa. Tiếp đó, sư đoàn tiến công Chi khu quân sự Long thành. Qua gần một ngày, đêm chiến đấu dũng cảm, táo bạo, chiều ngày 27-4, Sư đoàn bộ binh 325 đã diệt 3 tiểu đoàn (trong đó có 1 tiểu đoàn dù), bắt 500 tù binh, làm chủ Chi khu Long Thành; một bộ phận của sư đoàn phát triển tiến công giải phóng Thái Lạc, Phước Thiềng, Phú Lợi, bao vây cứ điểm Long Tân. Một bộ phận khác của sư đoàn được giao nhiệm vụ đánh chiếm Nhơn Trạch để triển khai pháo chiến dịch tập kích vào sân bay Tân Sơn Nhất. ngày 27-4, ta bắt đầu tiến công Nhơn Trạch. Địch dựa vào hầm hào cố thủ chống trả quyết liệt, khiến quân ta không thể chiếm được mục tiêu theo đúng thời gian quy định. Sáng ngày 28-4, sư đoàn tập trung lực lượng và hỏa lực, chai thành nhiều mũi, đồng loạt tiến công, mãnh liệt vào Nhơn Trạch. Sau nhiều giờ chiến đấu, ta đã làm chủ Nhơn Trạch. Sư đoàn bộ binh 325 nhanh chóng đưa một bộ phận Lữ đoàn pháo binh 164 vào chiếm lĩnh trận địa, nã đạn xuống sân bay Tân Sơn Nhất.

Sư đoàn bộ binh 304 do Đại tá Nguyễn Ân làm Sư đoàn trưởng, Đại tá Trần Bình làm Chính ủy, là mũi tiến công bên phải đội hình Quân đoàn 2, có nhiệm vụ tiến công căn cứ Nước Trong. Chiều ngày 26-4, một bộ phận của sư đoàn gồm 2 trung đoàn 9, 24 được pháo binh và xe tăng chi viện, đánh chiếm Trường huấn luyện thiết giáp, Trường huấn luyện bộ binh, Trường huấn luyện biệt kích. Địch huy động toàn bộ lực lượng học viên, Lữ đoàn 468 phản kích. Không quân địch nhào tới đánh xuống đội hình tiến công của ta. Hỏa lực chống tăng và cả xe tăng chôn ngầm của quân đội Sài Gòn khống chế quyết liệt các mũi phát triển của Trung đoàn 24. Bốn xe tăng ta bị bắn cháy, lực lượng bị thương vong. Dù vậy, bộ đội ta vẫn trụ bám trận địa, tổ chức đánh địch phản kích, chờ thêm quân tăng viện. Được quân đoàn tăng cường 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội xe tăng, Sư đoàn 304 nhanh chóng giành lại ưu thế, đập tan các đợt phản kích của địch. Sáng ngày 29-4, ba mũi chính diện, thọc sâu, vu hồi chia cắt địch của sư đoàn mở cuộc tiến công vào các mục tiêu. 10 giờ ngày 29-4, sư đoàn đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, làm chủ căn cứ Nước Trong và các khu vực lân cận. Trên đà thắng lợi, Sư đoàn phát triển tiến công, đánh chiếm căn cứ Long Bình, tạo điều kiện cho mũi thọc sâu bộ binh cơ giới của quân đoàn phát triển ra xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn.

Phối hợp tác chiến với các binh đoàn chủ lực trên hướng đông và đông nam, các đơn vị bộ đội chủ lực miền bao gồm đặc công, biệt động được du kích ven đô hỗ trợ, cũng chủ động đánh chiếm các mục tiêu quan trọng theo kế hoạch. Đêm ngày 27-4, Đoàn đặc công 113 chia thành ba mũi luồn sâu mật tập cầu Ghềnh, cầu Rạch Chiếc, cầu Rạch Cát. Địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt, chiếm lại các đầu cầu. Đêm ngày 28-4, được tăng cường một bộ phận của Đoàn đặc công 193, Đoàn đặc công 113 mở cuộc tiến công giành lại và chốt giữ các đầu cầu. Cuộc chiến đấu diễn ra trong thế giằng cho hết sức ác liệt. Ở cầu xa lộ Đồng Nai, mặc dù địch tổ chức bố phòng nhiều tầng cả dưới sông và trên hai đầu cầu, nhưng sau hơn 3 giờ bí mật tiếp cận thành công, một bộ phận lực lượng của Đoàn đặc công 116 bất ngờ nổ súng đánh chiếm và trụ lại chốt giữ cầu, bảo đảm cho các mũi thọc sâu bộ binh cơ giới hành tiến vào nội đô. Ngày 29-4, Đoàn đặc công 116 cho 2 đại đội tăng cường mật tập, đánh chiếm Bộ chỉ huy tiếp vận và kho xăng trong khu vực tổng kho Long Bình. Đại đội 10 đánh chiếm cầu Bến Gỗ (Cát Lái). Đoàn 10 đặc công Rừng Sát tập kích đồn Phước Khánh, ngã ba Đồng Tranh, diệt 10 tàu chiến đấu trên sông Sài Gòn của địch.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Tư, 2012, 07:20:21 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM