Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 03:55:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc đời và chiến trận  (Đọc 52108 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #20 vào lúc: 19 Tháng Mười, 2012, 03:26:56 pm »

                                                                             VII. KỶ NIỆM  
                                                                               VỀ QUÂN ĐOÀN 4 ANH HÙNG.



 Tháng 10 năm 1973, hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung ương Đảng họp, bàn thực hiện phương hướng và nhiệm vụ của Cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới.

 Sau hội nghị đó, nghị quyết được triển khai. Hai Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 xuống Tây và Đông  đường 13 để xây dựng thế trận mới ở vùng trung tuyến, vùng căn cứ. Chiến trường nhiều năm tôi hoạt động, chiến đấu và quen thuộc.

 Bấy giờ quân Mỹ đã rút, tình thế đã khác trước. Ta và địch (ngụy quyền, ngụy quân) đóng xen kẽ ở thế da báo. Chúng tôi phải gấp rút tổ chức dân quân du kích, xây dựng lực lượng tự vệ, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, để sau đó từ thế phản công đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm, bộ đội ta phải bắt đầu chuyển qua tiến công mở rộng vùng giải phóng.

 Đầu năm 1973, trước khi đi đến ký kết hiệp định Pa-ri, ở miền Đông Nam Bộ, Mỹ-ngụy tiếp tục đưa quân đi phản kích hòng lập lại cân bằng thế trận, vì ở một số địa phương quan trọng chúng không còn chỗ đứng chân. Chúng âm mưu đẩy khối chủ lực của ta ra khỏi địa bàn vùng tam giác Chơn Thành - Bến Cát - Dầu Tiếng.

 Trận tác chiến mang tính chiến thuật của Dầu Tiếng hồi đó để lại trong ký ức tôi những hình ảnh sinh động, nổi bật là tính sáng tạo của Sư đoàn 7 trong khi thực hiến chiến thuật phản kích, vây ép địch. Lúc này, quân địch huy động toàn bộ Sư đoàn 5, Chiến đoàn 46 (Sư đoàn 25), các liên đoàn biệt động của Quân đoàn 3 (ngụy), cùng các cụm pháo địch của các sư đoàn, với sự yểm trợ của không quân, để tiến công ta.

 Chúng chia làm 4 mũi:

 - Chiến đoàn 8 từ Bến Cát đánh vào vùng Chơn Thành - Bến Cát - Dầu Tiếng.

 - Chiến đoàn 7 cùng lữ đoàn tâng thiết giáp ở Bầu Bàng sẵn sàng đưa một mũi vào vùng tam giác.

 - Chiến đoàn 46 ở Dầu Tiếng, từ hướng tây bắc đánh xuống. Chúng dùng thủ đoạn "áp sát trước mặt, ép chặt bên sườn, bịt kín phía sau để có thể tiến công vững chắc". Chúng muốn tiêu diệt lực lượng quân chủ lực ta và đẩy Sư đoàn 7 chúng tôi lên hướng Minh Hòa, Minh Thạnh.

 Ở hướng Sư đoàn 7, quân địch dùng Chiến đoàn 8 (Sư đoàn 5) ngụy được xe tăng thiết giáp yểm trợ đánh thẳng vào Rạch Bắp - Bến Súc - Thanh An. Chúng tách tiểu đoàn 3 ra khỏi đội hình, hành quân từ Bến Tranh băng lên.

 Theo dõi quá trình hành quân của địch, tôi cùng Bộ Tư Lệnh sư đoàn và đồng chí Đỗ Mười Thứ, tham mưu trưởng và các đồng chí Vũ Việt Hồng, Trung đoàn trưởng trung đoàn 209, Nguyễn Văn Lối, Trung đoàn trưởng trung đoàn 141cunfg phân tích, phán đoán và quyết định phải dụ địch vào một trảng trống trên hướng hành quân của chúng để tiêu diệt.

 Thực hành kế sách đó, chúng tôi đưa tiểu đoàn 1 Trung đoàn 141 cùng 2 Tiểu đoàn 8 và 9 của Trung đoàn 209 bám sát 2 bên sườn đội hình Chiến đoàn 8 (ngụy), buộc chúng phải đi vào khu vực dự kiến. Sau đó bí mật chuyển 2 tiểu đoàn của trung đoàn 209 tách khỏi đội hình, vòng lên phía bắc trảng trống ở Đồng Tranh (Dầu Tiếng), bố trí đội hình đón lõng đó, sẵn sàng tiêu diệt địch. Dùng Trung đoàn 165 bao vây, đón lõng.

 Đêm 18 tháng 1, địch ném bom rải thảm khu vực phía bắc trảng trống mở đường cho Chiến đoàn 8 rút chạy. Nhưng chúng đã lọt vào vòng vây hiểm yếu của quân ta.

 5 giờ sáng ngày 19 tháng 1 năm 1973, tôi lệnh cho các đơn vị đồng loạt tiến công vào đội hình Chiến đoàn 8 ngụy.

 Bộ đội 2 trung đoàn 209 và 141 linh hoạt dùng 12 khẩu đại liên 12,8 ly hạ nòng quét thẳng vào quân địch, đồng thời xung kích xung phong mãnh liệt, tiến công bất ngờ, chớp nhoáng. Quân địch không kịp chống trả, bị tiêu diệt ngay tại trận từ những phút đầu.

 Sau 5 giờ chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn Chiến đoàn 8, tiêu diệt hai tiểu đoàn và ban chỉ huy nhẹ của chúng, bắt sống 500 tên, thu toàn bộ vũ khí, khí tài và nhiều đồ dùng quân sự.

 Trận đánh đó, nhờ mưu trí, linh hoạt, sáng tạo trong cách đánh và dũng cảm trong chiến đấu, Sư đoàn 7 đã lập công hiển hách, được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhì. Phá tan cuộc hành quân đánh chiếm của giặc lần này, Sư đoàn 7 góp một phần công lao có ý nghĩa chính trị quan trọng đối với mặt trận ngoại giao trong thời kỳ chuẩn bị ký kết hiệp định đình chiến Pa-ri (1973).

 Đó là một bài học quý giá cho bản thân tôi về: "Vận dụng linh hoạt và sáng tạo nghệ thuật chỉ huy tác chiến chiến thuật vận động tấn công".

 Hiệp định Pa-ri ký kết là một thắng lợi to lớn của nhân dân và quân đội ta. Quân Mỹ và chư hầu buộc phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam; quân ta vẫn được duy trì. Ta có một hậu phương liên hoàn từ Nam ra Bắc. So sánh lực lượng trên chiến trường thấy rõ là rất có lợi cho ta. Thế và lực của quân ngụy tiếp tục bị suy yếu. Cục diện chiến trường có nhiều thay đổi lớn và nhanh chóng. Chiến tranh như đã có dấu hiệu bước vào giai đoạn cuối.

 Đến tháng 10 năm 1973, Bộ Chính trị đã phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn chủ lực theo dự án của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng.

    
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #21 vào lúc: 19 Tháng Mười, 2012, 08:03:20 pm »

 Ngày 20 tháng 7 năm 1974, đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Cục, chính thức công bố thành lập Quân đoàn 4.

 Hơn 30 năm đã trôi qua, tôi còn nhớ như in không khí trang trọng, thiêng liêng cùng tình cảm phấn khởi chan chứa tình đồng chí chiến đấu trong buổi lễ dưới ngôi nhà lợp lá trung quân bên suối Bà Chiêm năm xưa.

 Các đồng chí trong Bộ tư lệnh Miền: Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Lê Văn Tưởng và đồng chí Tham mưu trưởng Nguyễn Minh Châu, chủ nhiệm chính trị Trần Văn Phác, chủ nhiệm hậu cần Bùi Phùng đều có mặt tại hội trường.

 Đồng chí Hoàng Cầm được thụ phong Tư lệnh Quân đoàn.

 Sư đoàn 9 có các đồng chí Võ Văn Dần và Tám Tùng.

 Sư đoàn 7 có tôi (Lê Nam Phong) và anh Phan Liêm.

 Sư đoàn 5 có anh Bùi Thanh Vân và anh Ba Cúc.

 Các ngành chuyên môn có đồng chí Hai Phong (đặc công), Nam Lê (pháo binh), đồng chí Xuyên Khung và Bảy Triết (công binh), Tư Hải (thiết giáp).

 Không khí buổi lễ thành lập Quân đoàn tràn đầy niềm phấn khởi, xúc động và tự hào. Mọi người ôm lấy nhau ôn lại những kỷ niệm sâu nặng của chặng đường 10 năm gian khổ, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng chủ lực để có được ngày hôm nay. Ước mơ bao nhiêu năm để bây giờ chúng ta có được một đơn vị quân đoàn chủ lực hùng mạnh ngay tại chiến trường trọng điểm: Miền Đông Nam Bộ.

 Chúng tôi thăm hỏi nhau, hỏi thăm những đồng chí đồng đội hiện còn ở các đơn vị, cùng chia sẻ sự tiếc thương đối với những đồng chí đã hy sinh trong chặng đường 10 năm đánh Mỹ. Và tưởng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ ở tất cả các đơn vị và các binh chủng hợp thành trên chiến trường Nam Bộ, mà hôm nay không còn nữa!

 Chúng tôi nắm tay nhau hẹn thề quyết thắng. Từ ngày hôm đó, Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), đơn vị chủ lực cơ động gồm nhiều đơn vị và binh chủng hợp thành ra đời trong thế trận mới của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam nước ta.

 Sau hội nghị, chúng tôi trở về sư đoàn, làm nhiệm vụ tổ chức huấn luyện nâng cao trình độ tác chiến và kỹ thuật chiến tranh với trang bị hiện có. Đặc biệt tổ chức nâng cao trình độ về nguyên tắc đánh địch trong công sự vững chắc, cách đánh vây, lấn, tấn diệt ..., tiến lên học cách đánh hiệp đồng binh chủng v.v ...

 Quân đoàn đã chỉ đạo cho Sư đoàn 7 chúng tôi diễn tập phương án đánh chiếm chi khu quân sự Đồng Xoài. Lấy căn cứ dã chiến Mỹ ở Bà Chiêm làm thao trường.

 Sau khi ổn định một bước về tổ chức, biên chế, tăng cường trang bị, bồi dưỡng trình độ chính trị cho các cấp cán bộ, chiến sĩ, Sư đoàn 7 lại ra quân cùng các đơn vị xây dựng ý chí quyết chiến quyết thắng trận đầu để lập công lớn mừng quân đoàn xuất trận.

 Theo kế hoạch của Bộ tư lệnh B2, ta sẽ đánh căn cứ Đồng Xoài. Biết căn cứ này của địch khá mạnh, tôi triển khai công tác điều nghiên rất kỹ lưỡng. Lực lượng trinh sát đặc công đã cắt xong ba lớp hàng rào kẽm gai. Đột nhiên có lệnh của Bộ là không đánh Đồng Xoài mà đánh Bù Đăng - Bù Na. Đồng chí Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh Quân giải phóng Miền, yêu cầu Sư đoàn 7 phải nối lại hàng rào kẽm gai của địch ở căn cứ Đồng Xoài để giữ bí mật ý đồ của ta. Các chiến sĩ làm công việc này trong điều kiện nguy hiểm và với một tâm lý nặng nề. Dù thế nào thì mệnh lệnh vẫn là mệnh lệnh! Sàu này gặp đồng chí Lê Đức Anh, tôi nói vui: "Không thấy chỉ huy nào gắt như anh Sáu trong trận Đồng Xoài, bắt cấp dưới nối lại hàng rào của địch". Anh vỗ vai tôi: "Cậu phải học lại bài giữ bí mật bất ngờ". Tôi cười: "Học anh khó quá!" Mọi người đứng đó đều cười ý nhị.

 Quân ta đánh chiếm Bù Đăng, yếu khu Bù Na và một đoạn dài 100km trên quốc lộ 14. Đấy là một bất ngờ và là thất bại lớn của quân địch. Cùng lúc đó ở phía tây, quân ta chiếm được núi Bà Đen, uy hiếp Tây Ninh. Phía đông bắc, giải phóng Tánh Linh, bao vây chi khu Hoài Đức. Pháo binh bắn phá Phước Bình.

 Tình hình Phước Long trở lên sôi động.

 Do e sợ Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9, nên Sư đoàn 5 ngụy Lữ đoàn thiết giáp 3 không dám di động ứng cứu cho đường 14.

 Những ngày ấy, ngay sau khi quân đoàn 4 ra đời và xuất trận, diễn biến chiến trường miền Đông Nam Bộ rất mau lẹ. Tôi được lệnh đưa Trung đoàn 14 và Trung đoàn 209 cùng một tiểu đoàn bộ binh đơn vị bạn, hai tiểu đoàn pháo cao xạ, 7 khẩu pháo 85 ly, 105 ly và 122 ly cùng súng cối 120 ly và 160 ly chuẩn bị tiến công Đồng Xoài theo hướng chính.

 Đồng Xoài là một căn cứ quân sự khá lớn, dài 600m rộng 300m, một đầu mối giao thông chiến lược quan trọng ở miền Đông Nam Bộ.

 Ngày 22 tháng 12, đồng chí Trung đoàn trưởng Trung đoàn 141 Dương Liễu và Chính ủy Nguyễn Ngọc Doanh dẫn quân chiếm lĩnh trận địa. Đêm 25 tháng 12, các đơn vị các tiểu đoàn 1, 2 và 3 đến vị trí xuất phát xung phong. 5 giờ 7 phút ngày 26 tháng 12, pháo 85 ly nhanh chóng đánh phá các chốt ngoại vi và một đơn vị bộ binh thọc sâu vào tung thâm. Quân địch dựa vào hầm ngầm và công sự chống trả quyết liệt. Cuộc chiến đấu kéo dài và gay go đến 8 giờ 40 phút. Địch thấy nguy cơ bị tiêu diệt, lần lượt ra hàng. 19 giờ 30 phút quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa.

 Chi khu quân sự Đồng Xoài bị diệt gọn. Chiều ngày 26, Trung đoàn 141 phối hợp cùng các đơn vị bạn tiêu diệt nốt các đồn ngoại vi như Tà Bế, Phước Thiện ...

 Chiến thắng Đồng Xoài là chiến công của Sư đoàn 7 góp phần khai hỏa cho chiến thắng của Quân đoàn 4.

 
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #22 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2012, 02:56:03 pm »

                                                                   VIII. TỪ PHƯỚC LONG
                                                                                             ĐẾN XUÂN LỘC



  Sau khi Đồng Xoài thất thủ, phạm vi chiếm đóng của địch còn lại ở thế chân vạc trong một hình tam giác, mà đỉnh của nó là thị xã Phước Long - chi khu Phước Bình và điểm cao Bà Rá (điểm cao 736m). Chúng ta quyết phá thế chân vạc để giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long.

  Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tư lệnh Miền, Quân đoàn 4 khẩn trương điều động lực lượng hình thành một thế trận tiến công lớn. Sư đoàn 7 chúng tôi được vinh dự đóng vai trò công kích chính. Bộ đội pháo binh, cao xạ, các đơn vị hộ chiến đã bí mật tiếp cận khu vực tác chiến. Các đơn vị hiệp đồng theo lệnh của Tư lệnh quân đoàn đã sẵn sàng vào vị trí.

  Thời điểm đó, là người trực tiếp chỉ huy, tôi vô cùng hồi hộp, xúc động. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ đang nô nức phấn khởi chờ đón một trận đánh lớn. Trận chiến sẽ hiệp đồng quy mô lớn, có tổ chức chu đáo, kỹ lưỡng.

  Đánh Phước Long là một trận đánh lớn, bởi địch ở đây đông, mạnh và tổ chức trận địa phòng ngự kiên cố. Sư đoàn xin được tăng cường thêm hỏa lực. Lúc đầu cấp trên không cho vì còn đầu tư cho chiến dịch đánh lớn hơn. Sau, các anh đồng ý cho thêm một tiểu đoàn pháo 130 ly (4 khẩu) và một tiểu đoàn tăng 20 xe, (sử dụng 10 xe). Đánh giải phóng Phước Long vừa là yêu cầu mở rộng vùng giải phóng, vừa là thăm dò chiến lược thái độ của Mỹ đối với chiến tranh Việt Nam.

  Trong ngày sôi động để chuẩn bị chiến dịch Phước Long đường 14, cán bộ, chiến sĩ đoàn kết thân ái. Tình cảm của cán bộ, chiến sĩ hòa quyện trong một tập thể lớn trên khắp các đơn vị của sư đoàn, quân đoàn. Tôi cũng thường xuyên tiếp xúc thân mật, chuyện trò cởi mở, bình đẳng, thân ái với cán bộ chiến sĩ. Mặc dù cá tính tôi đôi lúc nóng nẩy, nhưng cán bộ chiến sĩ trong đơn vị vẫn đáp lại bằng sự ứng xử thân mật. Hôm chuẩn bị đến Phước Long, xe tôi đi sau xe tiểu đoàn vận tải. Tài xế bóp còi, xe tải không tránh. Tôi nổi nóng cho xe vòng ngược lên đầu, hỏi tiểu đoàn trưởng: "Tại sao không nhường đường cho xe của chỉ huy Sư đoàn?". Đồng chí ấy trả lời: "Chở "bộ đồ lòng" của ông Nam Phong nặng quá, tránh sợ đổ!". Tôi cười : "Tao thua mày 1-0". Câu nói của cậu em hồn nhiên mà ẩn dụ, mang hai hàm ý, vừa vui tếu lại vừa nghiêm chỉnh. Tôi bất giác liên tưởng đến sự vất vả khó nhọc của các chiến sĩ vận tải đi phục vụ chiến trường.

  Từ lâu cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 cũng đã phong tặng cho tôi mấy biệt danh mà nhiều người còn nhắc tới ngày nay:

  - "Năm Bình Toong" (là vì tôi đánh trận hồi đó tôi thường đem theo bên mình bi-đông rượu đế. Chiến sĩ cần vụ cũng hăng hái mang theo rượu cho tôi).

  - "Năm Hỏa Lực" (là vì đi đánh trận, khi công đồn diệt giặc trên chiến trường, tôi luôn quyết đoán, khẩn trương và táo bạo, buộc chiến sĩ phải nhất mực tuân thủ để hành động kịp thời, không chần chừ bàn cãi. Tuyệt đối phải chấp hành mệnh lệnh khi đã có quyết định tiến công).

  Ngày nay, khi đã bước qua ngưỡng "cổ lai hi" rồi, nhớ lại những điều ấy, tôi càng thấy thấm thía, có lúc thấy tự hào, có lúc phải tư lự, suy ngẫm.

  Chỉ 4 ngày sau khi giải phóng Đồng Xoài, Quân đoàn 4 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích lại ào ạt xốc tới. Bản hùng ca chiến trận trên đường 14 lại vang lên rộn rã. Quân dân ta một lần nữa lại đổ lửa, thử sức gan hùng với quân đội ngụy đang trên đà suy thoái, rệu rã, mặc dù chúng còn đông quân, còn nhiều trang bị vũ khí, khí tài, nhiều bom đạn máy bay và xe tăng hỏa tiễn.
 
                                                                                                      ***

  Rạng sáng ngày 31 tháng 12 năm 1974, bộ đội ta nổ súng. Đạn pháo 130 ly bắt đầu dội xuống căn cứ Phước Bình. Đòn đánh phủ đầu bất ngờ của pháo binh đã phối hợp nhịp nhàng với cuộc tiến công mãnh liệt của Trung đoàn 165. Kẻ địch điên cuồng, phản kích quyết liệt. 11 giờ, chúng đưa thêm Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 7 tiến đánh vào sườn quân ta. Tốc độ tấn công bị chậm lại.

  Tôi đề nghị cấp trên cho xe tăng vào tham chiến, được đồng chí Hoàng Cầm, Tư lệnh quân đoàn nhất trí. Nhờ có xe tăng yểm trợ, các Tiểu đoàn 4 và 5 nhanh chóng đánh chiếm được các mục tiêu. Đến 15 giờ 39 phút, chi khu quân sự Phước Bình, căn cứ quấn sự án ngữ trực tiếp cho tiểu khu Phước Long, bị quân ta chiếm hoàn toàn.

  Sáng ngày 31 tháng 12, pháo 37 ly bắn thẳng lên chốt Bà Rá, tiếp theo là pháo và cao xạ của quân đoàn chi viện, Tiểu đoàn đặc công 479 đã đánh chiếm điểm cao Bà Rá; "Con mắt thần" của Phước Long bị "chột". Như vậy, chúng ta đã bẻ gãy được 2 chân vạc của địch.

  Chỉ còn lại thị xã Phước Long.

  Phước Long nằm trên một dãy đồi cao, phía tây bắc là núi Bà Rá, bao quanh là dòng sông Bé. Phía tây và nam là đồi Sai Giang, suối Dung và hồ Long Thủy. Sình lầy rậm rạp, quang cảnh thiên nhiên rất hùng vĩ, tạo lên vẻ đẹp đặc biệt của một tỉnh lỵ miền núi.

  Nhưng Phước Long lại là một cứ điểm thuận lợi cho việc tổ chức phòng ngự. Chính vì vậy, muốn đánh Phước Long, ta phải lựa chọn và vận dụng chiến thuật tác chiến trong thành phố.

  Từ mọi hướng, bộ đội ta nhanh chóng điều quân áp sát thị xã. Vòng vây của ta bắt đầu khép chặt. Thị xã Phước Long chỉ còn 2 ki-lô-mét vuông là phạm vi phòng thủ của địch. Chiều ngày 31 tháng 12, cảnh tượng hỗn loạn đã diễn ra trong toàn thị xã.

  Đêm ngày 1 tháng 1 năm 1975, lực lượng Quân đoàn 4 đã vào vị trí xuất phát xung phong. Kể từ trận đánh tiêu diệt chi khu ấp Hòa bình, đây cũng là lần đầu tiên ở Miền Đông Nam Bộ, được dùng xe tăng và pháo lớn.

  Sáng ngày 2 tháng 1 năm 1975, pháo ta bắt đầu trút đạn vào các mục tiêu quân sự trong thị xã, chế áp các trận địa pháo địch.

  5 giờ sáng ngày 4 tháng 1 năm 1975, pháo binh chiến dịch lại tiếp tục bắn phá dữ dội vào các mục tiêu quan trọng trong thị xã.

  Nhưng sang ngày 5 tháng 1 năm 1975, Trung đoàn 271 thuộc Sư đoàn 3, cùng phối hợp với Trung đoàn 165, được tăng cường 4 xe tăng, đột phá qua phía bắc sân vận động rồi tiến về dinh tỉnh trưởng. Đến đây tình huống chiến đấu càng thêm khó khăn, chiến sự càng khốc liệt. Đại đội 7 dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Phạm Xuân Thiệu đã qua 2 ngày đêm kiên cường độc lập chiến đấu trong trung tâm thị xã.

  Để nhanh chóng dứt điểm, Bộ Tư lệnh quân đoàn đã kịp thời tung Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 2 của Sư đoàn bộ binh 9 (lực lượng dự bị) do đồng chí Nguyễn Đăng Nguyện Tiểu đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Văn Thành, Đại đội trưởng xe tăng vào tham chiến, phối hợp cùng trung đoàn 165 và trung đoàn 141 của Sư đoàn 7. Để tạo thêm sức mạnh, trên tăng cường thêm 10 xe tăng, đánh thẳng vào tung thâm đề kháng của quân địch. Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Trung đoàn 165, Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7) và Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) đã cắm trên nóc tòa nhà tỉnh trưởng tỉnh Phước Long vào trưa ngày 6 tháng 1 năm 1975, báo hiệu thị xã Phước Long đã được giải phóng. Hình ảnh đồng chí Nguyễn Đăng Hoan lưu lại mãi trong tâm hồn và ký ức tôi. Người chiến sĩ dũng cảm đã cắm cờ lên dinh tỉnh trưởng Phước Long ấy, đến khi đánh chiếm chi khu Đinh Quán hạ tuần tháng 3 năm 1975 đã xông pha quyết liệt, đối mặt với quân thù trên từng lô cốt, gộp đá. Hoan chỉ huy Trung đội 3 của mình dẫn đầu trung đoàn tiến sát chân đồi, rồi cho một bộ phận nghi binh đánh chính diện, còn mình dẫn số còn lại đánh phía sau, dùng lối trồng người để leo lên gộp đá. Trong những phút giây quyết định của trận đánh cuối cùng, Hoan đã đứng được lên vai một chiến sĩ, dùng hai tay bíu vào bờ đá đu mình lên, rút trong bao một chùm lựu đạn tung vào sau lưng địch đang cố thủ trong lô cốt. Lựu đạn nổ. Anh quờ tay rút cây cờ dắt sẵn sau lưng ... Nhưng anh chưa kịp phất cờ thì một loạt đạn M16 của quân thù đã bắn trúng vào anh. Anh hy sinh rồi nhưng tay vẫn nắm chặt cán cờ.

  Tiếng thét vang lên đầy uất hận: "Trung đội trưởng hy sinh rồi! các đồng chí tiến lên! tiến lên!".

  Nguyễn Đăng Hoan, người chiến sĩ can đảm, trung đội trưởng xung kích, mưu trí và dũng cảm đến tuyệt vời trong cả hai trận đánh khốc liệt Phước Long và Đinh Quán đã hy sinh trên gờ đá Định Quán, để lại trong lòng đồng bào đồng chí, trong các đơn vị Sư đoàn 7 chúng tôi nỗi thương tiếc và lòng kính trọng, biết ơn vô hạn!.

  Trong ký ức đời trận mạc, tôi luôn ngưỡng mộ, đặt anh ngang tầm cùng các anh hùng liệt sỹ ở chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa.

  Trở lại Phước Long. Sau 25 ngày đêm liên tục chiến đấu, Quân đoàn 4 đã giành toàn thắng giải phóng Phước Long vào ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #23 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2012, 08:05:28 pm »

  Đó cũng là ngày đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, quân ta đã giải phóng hoàn toàn một tỉnh ngay phía bắc Sài Gòn, một địa bàn có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng của giặc.

  Đối với những cán bộ chiến sĩ chúng tôi ở Sư đoàn 7 cũng như ở Quân đoàn 4, chiến thắng Phước Long là một bước nhảy vọt và là bước khởi động cho những chiến thắng sau này ở Định Quán, Lâm Đồng, Xuân Lộc trước khi bước vào cuộc quyết chiến mùa xuân lịch sử năm 1975 trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

  Chiến thắng Phước Long có tầm quan trọng trong thời điểm mà cuộc chiến đang sắp vào hồi kết thúc.  Nó báo hiệu một thời cơ mới đã xuất hiện. Nó tạo lên một bàn đạp vững chắc, trở thành một căn cứ hậu phương của các chiến dịch sau này. Chiến thắng Phước Long đóng vai trò quyết định để Bộ chính trị hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong thời gian sớm nhất.

  Sau chiến thắng Phước Long, đối với Quân đoàn 4 là những nhiệm vụ được đặt ra trong cục diện mới, vừa tham gia chiến đấu vừa xây dựng lực lượng để tạo thế trận tiến công Sai Gòn - Gia Định. Quân đoàn được bố trí chuẩn bị địa bàn tạo thế trận phía đông bắc và tây bắc Sài Gòn. Chúng tôi bắt đầu tổ chức trinh sát chiến dịch trên hai hướng Dầu Tiếng và Định Quán (đường 20).

  Ngày 4 tháng 3 năm 1975, quân dân ta trên các chiến trường đồng loạt nổ súng tiến công địch. Ngụy quyền Sài Gòn hoàn toàn bất ngờ trước quy mô, thời điểm và hướng tiến công cùng lực lượng của quân ta.

  Bấy giờ, Sư đoàn 7 do tôi chỉ huy, phối hợp cùng một bộ phận lực lượng vũ trang Quân khu 7, Quân khu 6, chuẩn bị đánh chiếm chi khu Định Quán, giải phóng đường 20, tỉnh Lâm Đồng, mở hành lang và bàn đạp trên hướng tiến công vào Sài Gòn.

  Ở hướng bắc Sài Gòn, từ Dầu Tiếng xuống Chơn Thành, trên đường 13, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 341 phụ trách tác chiến.

  Trước thời cơ chiến lược mới, Sư đoàn 9 đã đánh chiếm được chi khu quân sự Dầu Tiếng trong khi ở Tây Nguyên ta đã giải phóng được Buôn mê Thuột.

  Sư đoàn 7 đã nhanh chóng chuyển sang hướng đông, chuẩn bị tấn công hệ thống phòng ngự Xuân Lộc. Ngày 5 tháng 3 năm 1975 đồng chí Lê Đức Anh, phó Tư lệnh Quân giải phóng B2 trực tiếp giao nhiệm vụ cho Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 (tại căn cứ Đồng Xoài) khẩn trương mở mặt trận mới ở đông bắc Sài Gòn: Đánh chiếm Định Quán, giải phóng đường 20 và tỉnh Lâm Đồng.

  Khi đồng chí Lê Đức Anh giao nhiệm vụ cho Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 khẩn trương đánh chiếm Xuân Lộc, mở cửa vào Sài Gòn, đội hình Sư đoàn 7 đang bố trí tại thị xã Phước Long đến Nam Đồng Xoài. Tôi còn nhớ trong hội nghị quân chính triển khai nhiệm vụ, đồng chí Nguyễn Can, Chính ủy Trung đoàn 165 nêu thắc mắc là trung đoàn hiện đứng sát thị xã Phước Long, theo bản đồ tỷ lệ 1/100.000 (hơn 3 gang tay) làm sao cơ động kịp được. Ngay lúc đó, Phó Tư lệnh Miền, đồng chí Lê Đức Anh, quyết định cho Sư đoàn 7 nhận 35 xe Zin để thực hiện việc cơ động lực lượng.

  Chi khu Định Quán là một cứ điểm kiên cố trên tuyến phòng thủ đông bắc Sài Gòn. Địa hình ở đây đặc biệt có lợi cho việc phòng thủ của địch. Hơn nữa, chúng vừa tăng cường thêm lực lượng.

  Để chuẩn bị đánh Định Quán, chúng tôi dùng các căn cứ cũ của địch ở cầu Nha Bích, cấu trúc lại gần giống cách bố phòng của địch ở chi khu Định Quấn để huấn luyện đơn vị, đồng thời tổ chức thao diễn trên sa bàn lần cuối ở Vĩnh An.

  Đêm 16 rạng ngày 17 tháng 3 năm 1975, tôi ra lệnh nổ súng tiến công. Pháo binh ta bắn vào chi khu và các vị trí địch ở Phương Lâm, La Ngà, núi Tràm, đồi Đăng Ca, điểm cao 112. Trung đoàn 209 nhanh chóng tiêu diệt địch ở cụm phòng thủ núi Tràm, chia cắt Định Quán với Quân đoàn 3 ngụy.

  Đối với cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 7 nói chung, các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn nói riêng. Trận Định Quán tháng 3 năm 1975 là trận đánh nhớ đời. Trong ba yếu tố "Thiên thời - địa lợi - nhân hòa" thì ta thiếu yếu tố "địa lợi" - địch chiếm mất địa lợi. Đánh ngày thứ nhất, đơn vị hết đạn bắn thẳng. Đại đội 7 bị lạc. Cao điểm 124, một điểm cao hết sức lợi hại, địch thực hiện tử thủ, ta sức không đủ tiêu diệt. Tư lệnh Hoàng Cầm điện hỏi và đốc liên tục. Anh còn vặn: " Sao Phước Long khó vậy mà mày đánh được?" và chỉ thị "Phải giải quyết cho được cao điểm 124". Tôi nói, Định Quán khác Phước Long ở chỗ gộp đá rải cùng khắp, có chỗ cụm lại thành thế liên hoàn. Anh có làm sư trưởng cũng chịu". Xe tăng không lên được, ông chửi. Tôi nói, xe tăng sao bò lên gộp đá được? Ông bảo, thế thì không dùng xe tăng nữa, dùng xung lực tiềm nhập. Tôi nói: "Anh quên rồi sao, xe tăng ngoài tính năng đột phá còn tính năng hù dọa". Anh đồng ý, cấp thêm đạn và cho thời gian chuẩn bị. Chúng tôi trong Bộ Tư lệnh suy nghĩ nội dung "la lối" của Tư lệnh Quân đoàn, cùng trao đổi và rút ra cách đánh phù hợp: Dùng phương pháp dương đông kích tây và tổ chức thật tốt đơn vị mật tập để giải quyết cao điểm 124. Chúng tôi thực hiện phương án trên đồng thời cho một đại đội xe tăng đồng loạt gầm rú. Địch trên cao điểm 124 mất tinh thần, bị ta tiêu diệt, một số tháo chạy. Toàn bộ thế trận của quân ngụy ở Định Quán bị vỡ.

  Ngày nay, mỗi lần đi qua Định Quán là lòng tôi lại bồi hồi, nước mắt ứa ra. Những hòn đá lớn như giả sơn, nhẵn nhụi, nằm ở tư thế khác nhau; có chỗ hòn nọ trồng lên hòn kia, chon von và ngoạn mục. Cảnh đẹp như tranh đấy, nhưng du khách đâu có biết cách đây mấy chục năm, người lính đã đổ biết bao nhiêu là xương máu! Tôi thường dừng xe, lững thững bước vào triền núi, tay sờ sẫm lên những gộp đá, miệng thầm thì trò chuyện với vong linh đồng đội đã ngã xuống nơi đây!

  Hồi đó, sau 2 ngày liên tục chiến đấu giằng co ác liệt, Sư đoàn 7 và các lực lượng địa phương đã diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân địch trong hệ thống đồn bốt từ Túc Trưng đến Phương Lâm dài gần 60km trên trục đường 20, bị tiêu diệt hoặc bị bức rút.

  Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, Sư đoàn 7 để lai 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 209 giữ bắc Túc Trưng nhằm ngăn chặn Chiến đoàn 52 thuộc Sư đoàn bộ binh 18 ngụy.

  Chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, toàn bộ Sư đoàn 7 lần đầu thần tốc tiến công bằng cơ giới lên Lâm Đồng, nhằm đập tan ý đồ lập tuyến phòng thủ Sài Gòn từ xa - bắt đầu từ Tây Ninh, qua Lâm Đồng đến Nha Trang của ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu.

  Để bảo đảm chiến thắng, tôi đề nghị phương án tấn công giải phóng Lâm Đồng theo 2 hướng:

  - Trung đoàn 141 , hành quân theo đường bộ tiếp cận, thực hiện tiến công từ phía bắc đánh vào thị xã.

  _ Các lực lượng còn lại của sư đoàn: Trung đoàn bộ binh 209, Trung đoàn bộ binh 165, Trung đoàn pháo 210, các lực lượng pháo binh, xe tăng, cao xạ, hành quân tiếp theo trục đường 20. Từ 16 giờ ngày 28 tháng 3, vừa đi vừa đánh địch, mở đầu bằng trận đánh của Trung đoàn bộ binh 165, tiêu diệt chi khu quân sự Đạ Hoai rồi tiếp tục hành tiến đến cách thị xã Lâm Đồng 3 km (nam cầu Đại Lão) trước 4 giờ ngày 29 tháng 3.

  Đúng 0 giờ 30 phút ngày 29 tháng 3 năm 1975, sau khi liên lạc nắm chắc cả 2 cánh quân, tôi ra lệnh đồng loạt tiến công vào thị xã. 5 giờ 30 phút, ta làm chủ hoàn toàn thị xã. Trung đoàn bộ binh 165 tiếp tục truy kích địch đến thị trấn Di Linh (trên đường đi Đà Lạt) cách thị xã Bảo Lộc gần 60km.

  Sư đoàn 7 trong thế thắng, khí thế bừng bừng, đang nhằm tới Đà Lạt thì có lệnh của tê lệnh Quân giải phóng Miền (B2) quay trở về xuôi, chuẩn bị tham gia trận Xuân Lộc. Ngày mồng 4 tháng 4 phải có mặt ở điểm tập kết.

  Cuộc chiến ở Xuân Lộc là cuộc đọ sức đối mặt với kẻ thù hung hãn do đế quốc Mỹ tạo dựng ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Cứ điểm Xuân Lộc được trang bị đầy đủ và được chi viện hỏa lực tối đa. Chúng dùng đến cả vũ khí hủy diệt nguy hiểm nhất. Đó cũng là trận chiến sống mái của Sư đoàn 7 đối với kẻ thù của nhân dân và tổ quốc mình trước giờ giải phóng hoàn toàn miền Nam.

  Thị xã Xuân Lộc là điểm chốt quan trọng của tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ Phan Thiết qua Xuân Lộc đến Tây Ninh mà quan thày Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đã bày binh bố trận. Xuân Lộc là điểm trọng tậm để ngăn chặn quân ta, là điểm phòng ngự mạnh của địch ở cửa ngõ đông bắc Sài Gòn. Tướng Way-en, tham mưu trưởng lục quân Mỹ, sau khi thị sát chiến trường, đã cảnh báo Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu: Mất Xuân lộc là mất Sài Gòn!

  Quân đoàn giao cho Sư đoàn 7 tiến công ở hướng chủ yếu, đánh chiếm sở chỉ huy Sư đoàn 18 ngụy, Sư đoàn 341 đảm nhiệm hướng quan trọng, đánh chiếm dinh tỉnh trưởng ngụy quyền. Sư đoàn 6 đánh ngăn chặn địch từ ngã ba Dầu Giây đến đèo Mẹ Bồng Con.

  Trước khi đánh chiếm căn cứ Xuân Lộc, Quân đoàn 4 được biên chế thêm sư đoàn 341 (Sư đoàn Sông Lam) mới từ miền Bắc vào, rất sung sức, tinh thần chiến đấu cao, khí thế bừng bừng. Sư đoàn trưởng là đòng chí Trần Văn Trân, Chính ủy là đồng chí Trần Nguyên Độ.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #24 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2012, 05:58:45 pm »

  Ngày 3 tháng 4 năm 1975, tại sở chỉ huy Quân đoàn ở đông cầu La Ngà có cuộc họp bàn về phương án đánh Xuân Lộc. Tất cả đều xác định căn cứ này rất vững chắc vì nó là cánh cửa thép của Thủ đô ngụy. Những căn cứ địch và hỏa lực chi viện cho Xuân Lộc đều được nêu ra. Tuy nhiên bàn về cách đánh thì lại có những ý kiến khác nhau. Một số đồng chí còn liên hệ Xuân Lộc với Điện Biên Phủ và sự kiện "kéo pháo vào kéo pháo ra" để đánh chắc thắng. Trong thế giành thắng lợi như chẻ tre từ sau khi địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, vỡ luôn các tuyền miền Trung, nhiều ý kiến nghiêng về sức mạnh giải phóng Xuân Lộc.

  5 giờ 40 phút ngày 9 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 4 nổ súng tấn công Xuân Lộc. Các cụm pháo của Quân đoàn, Sư đoàn đồng loạt khai hỏa.

  Trong ngày chiến đấu đầu tiên, quân ta đã mau chóng chiếm được 2 phần 3 thị xã, đưa được 3 tiểu đoàn vào chốt trong thị xã. Riêng hướng Sư đoàn 7 không đột phá được, lực lượng bị tiêu hao.

  Bộ Tư lệnh vẫn quyết định tấn công, Sư đoàn 7 đưa lực lượng dự bị là Trung đoàn 141 và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 165 tiến đánh căn cứ của Sư đoàn 18 ngụy.

  Quân ta bị Chiến đoàn 52 và Trung đoàn thiết giáp 5 phản kích quyết liệt, do đó không mở được cửa đột phá. Các đơn vị bạn vẫn tiếp tục tiến công đánh địch phản kích nhằm giữ các mục tiêu đã chiếm được.

  Ngày 11 tháng 4, chiến sự tiếp tục giằng co ác liệt. Qua 3 ngày chiến đấu, ta tuy đã chiếm được một số mục tiêu, tiêu diệt được một phần sinh lực địch và giữ một số bàn đạp quan trọng nhưng Sư đoàn 7 của chúng tôi bị thương vong nhiều.

  Chiến sự Xuân Lộc diễn biến phức tạp! Mặc dù về chiến lược, địch đang bị rối loạn, đổ vỡ, nhưng do Xuân Lộc là vị trí then chốt sống còn của quân địch, có tổ chức phòng ngự kiên cố, đã được chuẩn bị kỹ và được tăng cường mạnh nên địch gây cho ta nhiều tổn thất và tạm thời ngăn chặn được sức tiến công của quân ta.

  Trước tình hình khó khăn đó, chúng tôi đã phải nhanh chóng thay đổi cách đánh. Từ nhận định và kết luận: "Xuân Lộc là điểm phòng ngự mạnh chỉ khi nó được nối liền với Biên Hòa", ta đã ngừng tiến công các mục tiêu và vị trí trong thị xã, chuyển sang đánh đường 1 để cô lập Xuân Lộc. Cấp trên quyết định chỉ để lại lực lượng giữ những bàn đạp đã chiếm được. Sư đoàn bộ binh 6 thuộc Quân khu 7 được phối thuộc cho Quân đoàn 4 đánh Dầu Giây - Núi Thị, giải phóng thêm các cứ điểm đường số 20, đoạn còn lại từ Gia Kiệm xuống, đoạn đường quốc lộ 1 - đèo Mẹ Bồng Con.

  Địch lầm tưởng đã thực sự đẩy lùi được quân ta. Nguyễn Văn Thiệu quảng bá ầm ỹ tin "chiến thắng Xuân Lộc". Tướng Lê Minh Đảo, Sư trưởng Sư đoàn 18 ngụy huyênh hoang : "Việt Cộng dù có thêm mấy sư đoàn nữa cũng không chiếm được Long Khánh".

  Rạng sáng ngày 20 tháng 9, ta vận động đánh tập kích tiêu diệt Chiến đoàn 52 ngụy tại Gia Kiệm, sau khi ta bắn phá sân bay Biên hòa bằng pháo 130 ly.

  Trong hai ngày 16 và 17 tháng 4, quân ngụy sài Gòn với lực lượng 200 xe tăng và bọc thép, được hơn 100 khẩu pháo ở Nước Trong - hốc Bà Thức, Long Bình, Đại An bắn chi viện yểm trợ cùng 125 lần chiếc máy bay chiến đấu chi viện hỏa lực, quyết giữ vững thế trận. Những trận chiến ác liệt dồn dập diễn ra tại Hưng Nghĩa và ở cao điểm 122. Chúng ta quyết chiến ở Bầu Cá, đánh mạnh vào Chiến đoàn thiết giáp ở Trảng Bom ... Thế trận đã nghiêng về quân ta. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, Lê Minh Đảo đành phải xin rút bỏ khỏi Xuân Lộc. Và chúng đã bí mật rút chạy khỏi trong đêm mưa.

  Ngày 21 tháng 4 năm 1975, thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh  được hoàn toàn giải phóng.

  Quân đoàn 4 và lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, lập chiến công có ý nghĩa to lớn và quan trọng trong thời điểm đó.

  Xuân Lộc là nơi xảy ra trận đánh vô cùng ác liệt được ghi nhận vào sử sách, là nơi quân dân ta đã bước qua những thử thách vô cùng to lớn đầy khốc liệt. Nơi đây lực lượng chúng ta tuy có tổn thất nhưng cũng là nơi quân đội ta đã nêu cao phí phách anh hùng quyết chiến, quyết thắng. Quân ta đã hy sinh nhiều xương máu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước ngay ở cửa ngõ tiến về sài Gòn này.

  Chiến dịch đánh Xuân Lộc là trận công kích quy mô lớn nhất của Quân đoàn 4 kể từ ngày thành lập. Lần đầu tiên quân đoàn 4 sử dụng hết cả 3 sư đoàn bộ binh cùng toàn bộ hỏa lực, tăng, pháo, trang thiết bị kỹ thuật và hậu cần cho các trận đánh.

  Phá tung cánh cửa thép Xuân Lộc, Quân đoàn đã mở rộng cánh cửa phía đông bắc Sài Gòn cho đại quân ta tiến vào, làm rung chuyển toàn bộ tuyến phòng ngự chiến lược của giặc để chuẩn bị cho cuộc quyết chiến cuối cùng.

  Ngày 26 tháng 4, Quân đoàn 4 đã tiêu diệt và bức rút  quân địch ở Trảng Bom, nhanh chóng đập tan tuyến phòng thủ ở núi Ông Hoàng, đánh tan trung đoàn 5 thiết giáp ở ngã ba Yên Thế ... để rồi sau đó đánh thẳng vào giải phóng Hố Nai, Biên Hòa, Long Bình. Ngày 27 và 28 tháng 4, Quân đoàn 4 đánh chiếm sở chỉ huy Quân đoàn 3 - Vùng 3 chiến thuật ở Biên Hòa.

  Đến 9 giờ sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 4 vinh dự nhận mệnh lệnh mở đầu cuộc tiến công lịch sử vào sài Gòn - Gia định cùng với các cánh quân khác.

  Bộ Tư lệnh Mặt trận trong chiến dịch Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho cánh quân phía đông bắt đầu công kích vào nội đô Sài Gòn. 16 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, là thời khắc lịch sử tôi suốt đời ghi nhớ.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #25 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2012, 02:23:17 pm »

                                                                         IX. KHÚC KHẢI HOÀN
                                                                                       CỦA MÙA XUÂN ĐẠI THẮNG.



  Sau khi giải phóng được Xuân Lộc, cả Quân đoàn chuẩn bị gấp rút, việc triển khai công tác tư tưởng để nhận nhiệm vụ mới, song song với việc tập trung những nỗ lực cao truy quét, tiêu diệt lực lượng còn lại của Sư đoàn 18 bộ binh ngụy và trung đoàn 5 thiết giáp của chúng, để đánh chiếm yếu khu Trảng Bom trên đường tiến quân về Hố Nai - Biên Hòa.

  Tôi còn nhớ không khí sôi động, khẩn trương của hội nghị Đảng ủy Quân đoàn họp bàn công tác lãnh đạo các đơn vị thực hiện các nhiệm vụ cấp bách của chiến dịch. Ngày 23 tháng 4 năm 1975, Đảng ủy đã nêu quyết tâm: "Tập trung mọi ưu thế binh lực, hỏa lực, phát huy sức mạnh đột kích cơ giới, xe tăng, nhanh chóng đạp tan tuyến phòng thủ Biên Hòa, mở cửa đột kích vào Sài Gòn, nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trong nội đô".

  Những ngày đó, quân ta ào ạt với khí thế một ngày bằng 20 năm, tiến công Trảng Bom, đánh chiếm từ Hưng Nghĩa đến Bàu Cá.

  Ngày 29 tháng 4, trước lúc xuất quân tiến công vào nội đô Sài Gòn, đồng chí Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4, đã trao lá cờ "Quyết chiến, quyết thắng" cho Sư đoàn 7 chúng tôi để cắm trên nóc dinh Độc Lập.

  Đó là một vinh dự to lớn cho sư đoàn và cá nhân tôi và các cán bộ chỉ huy của Sư đoàn 7 Anh hùng. Vậy là sau 30 năm xông pha chiến trận để đánh giặc cứu nước, ngày hôm nay cùng toàn quân, toàn dân, tôi sắp được bước tới phút vinh quang và thiêng liêng của lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc, ngày quân ta xông thẳng vào sào huyệt cuối cùng của chế độ Mỹ - ngụy, chứng kiến sự thất bại thảm hại của chúng! Ngày quân ta tiến vào Sài Gòn - Gia Định để ca khúc khải hoàn.

  Cánh quân phía Đông, được sự chỉ huy của đồng chí Trung tướng Phó Tổng tham mưu trưởng, Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh - Lê Trọng Tấn, gồm hai Quân đoàn là Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4.

  Bộ Tư lệnh QD4 đã gia nhiệm vụ đánh chiếm Sở chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy (Biên Hòa), sân bay Biên Hòa, Sở chỉ huy vùng 3 chiến thuật và Sở chỉ huy Sư đoàn không quân ngụy cho Sư đoàn 6 và Sư đoàn 341. Còn Sư đoàn bộ binh 7 được tổ chức thành lực lượng thọc sâu, binh chủng hợp thành tiến thẳng vào nội đô tiêu diệt địch, đánh chiếm Quận I, mục tiêu chủ yếu là dinh Độc Lập và đài phát thanh.

  Cuộc tiến công đánh chiếm các mục tiêu ở Biên Hòa gặp nhiều khó khăn. Bọn địch ngoan cố nấp ở các nhà cao tầng vẫn bắn vào quân ta. Theo phương án đã duyệt, tôi ra lệnh giải quyết thật nhanh các cuộc cản phá của địch để thần tốc tiến vào Sài Gòn. Nhưng thật không may, đoàn quân đang hối hả chạy đua với thời gian thì chựng lại ở đầu cầu Ghềnh vì cầu quá hẹp và yếu, xe tăng không lọt qua được. Lòng tôi như lửa đốt, lệnh bỏ đường Biên Hòa - Thủ Đức, quay ra đường I.

  Trong hoàn cảnh khó khăn ác liệt và phức tạp ấy, bộ đội vẫn giữ vững khí thế tiến công là nhờ trước chiến dịch Hồ Chí Minh, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh rất chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Ngoài việc họp Đảng ủy, Bộ Tư lệnh sư đoàn đã quán triệt nhiệm vụ vinh quang được giao cắm cờ trên dinh Độc Lập, tôi và đồng chí Chính ủy Phan Liêm và Phó Chính ủy Nguyễn Văn Thái còn trao đổi và bàn bạc kỹ càng về công tác giáo dục chính trị, động viên khí thế quyết tâm cho bộ đội.

  Đồng chí Thái về làm Phó Chính ủy Sư đoàn 7 từ năm 1971. Khi đồng chí Phan Liêm bị thương, đồng chí Thái được bổ nhiệm quyền Chính ủy, rồi Chính ủy sư đoàn. Anh dường như sinh ra để làm chính trị. Với tác phong, phong độ trí thức, điềm đạm, sâu sát, hòa đồng, cách nói năng nhỏ nhẹ, có lý có tình, anh có khả năng thuyết phục quần chúng. Tôi nóng như lửa còn anh mát tính. Anh lo về tư tưởng tình cảm và đời sống tinh thần để tôi quyết tâm về phương án đánh địch và đời sống vật chất. Không những anh sâu về công tác Đảng, công tác chính trị và sáng kiến quân sự của anh khi lâm trận khá sắc sảo. Nhớ năm 1973, thời gian trước ngày hiệp định Pa-ri có hiệu lực, địch thực hiện âm mưu "tràn ngập lãnh thổ", chiếm đất. Trong trận Bố Lá (Bình Dương) tôi và anh Thái đi phía trước, bị máy bay B52 đánh trúng, sở chỉ huy bị thương vong gần hết. Anh Thái thoát được nhờ mảnh pháo băm trúng đuôi khẩu súng ngắn. Trong hòa cảnh ấy, mọi người trông vào những người chỉ huy lãnh đạo và anh Nguyễn Văn Thái đã góp phần quan trọng ổn định tư tưởng, xốc lại đội hình chiến đấu. Rồi lúc sư đoàn đánh Chiến đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 ngụy. Nó cơ động nhanh, ta toàn đánh vuốt đuôi. Ngày thứ hai, anh Thái góp ý: Trinh sát nắm địch không chắc. Địch ở rừng le rất khó quan sát. Nó lại đặt chốt tiền tiêu, ta nhầm là lực lượng chủ lực của địch nên phán đoàn sai. Tôi đồng ý, cho trinh sát lại và tổ chức lực lượng đánh chia cắt. Ngày thứ 3 đơn vị chiến đấu giành thắng lợi.

  Anh không chỉ kỹ càng trong việc lớn mà cả trong sinh hoạt thường ngày, điều đó tạo cho sư đoàn trưởng sự yên tâm, ổn định. Chẳng hạn đơn vị có chiếc Honda 90 để cơ động. Lái xe trở anh mà phóng nhanh vượt ẩu, anh bắt dừng lại, giảng một bài về luật lệ giao thông, về an toàn tính mạng "tòng đầu triệt vĩ" dài đến ... bàn chân mọc rễ, khiến lái xe cạch đến già!

  Trong cuộc đời binh nghiệp của tôi có một lần thử làm tuyên huấn. Ấy là năm 1953 ở Thái Nguyên, bộ đội học tập về chủ trương cải cách ruộng đất. Chính ủy Trung đoàn 88 (Sư đoàn 308) Đặng Quốc Bảo thấy tôi mồm mép cũng khá, xuất thân là bần cố nông, nên cho giảng một bài chính trị có đầu đề: "Ngồi mát ăn bát vàng" với nội dung lên án bọn địa chủ, cường hào. Sau màn dạo đầu xuôi sẻ, vào nội dung chính, tôi nói được đúng 15 phút thì hết vốn. Trung đoàn trưởng Thái Dũng, Chính ủy Đặng Quốc Bảo và Trung đoàn phó Nam Hà quyết định để tôi chuyển ngành quân sự và cho đi học trường Hoàng Phố.

  Kể lại chuyện trên đây để muốn nói rằng, làm công tác chính trị phải có năng khiếu mới giỏi được. Không rõ người khác nghĩ sao, còn tôi, chế độ chính uỷ, chính trị viên của quân đội ta là tuyệt vời! Từ khi là đại đội trưởng, trải qua các cấp, lên đến quân đoàn trưởng, tôi ở và làm việc với nhiều chính trị viên và chính ủy, nhưng chưa bao giờ cảm thấy mình không muốn có họ. Vì vậy, lúc biết tin bỏ chế độ chính ủy, chính trị viên trong quân đội, tôi và anh Hoàng Cầm đã khóc. Khóc thật sự, bởi vì tiếc cho một cơ chế đã trở thành truyền thống quí báu của Quân đội nhân dân Việt Nam và vì lưu luyến, bịn rịn khi phải chia tay cơ chế ấy.

  Thực ra, tôi không chỉ nhìn cán bộ chính trị đồng cấp mà nhìn lên cả cấp trên. Đó là Chính ủy sư đoàn Vương Thế Hiệp (khi tôi là trung đoàn trưởng) và Chính ủy quân đoàn Hoàng Thế Thiện (khi tôi là cán bộ sư đoàn). Anh Vương Thế Hiệp rất tỉ mỉ, cụ thể trong công việc, có khả năng khái quát tư tưởng chỉ đạo bằng những khẩu hiệu ngắn gọn, dễ nhớ và đặc biệt anh rất chân tình với mọi người. Biết tôi mắc tật thích rượu, một lần anh vỗ vai: "Mày sẽ lên tướng nhưng phải bỏ rượu!". Tôi rút bi đông đặt trước mặt anh, xin bỏ. Tuy nhiên, sau đó, mấy em giúp việc thấy tôi thần sắc kém, đã dùng túi nhựa của xe tăng đựng rượu, nhét vào túi mìn clay-mo và bắt vòi lên cổ áo. Tất nhiên là việc này không qua được mắt Chính ủy Hiệp vì mọi khi, không bao giờ tôi dùng túi hay cặp. Sau này về làm Tư lệnh Quân đoàn I, Chính ủy Đỗ Mạnh Đạo cũng rất hợp với tôi và giúp đỡ tôi rất nhiều.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #26 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2012, 01:31:56 pm »

  Trở lại sáng 30 tháng 4 năm 1975. Quay ra đường xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, tôi ngồi trên chiếc xe bọc thép tiến về nội đô. Những đoàn xe bên đường ùn tắc lại do biển người chào đón chen lấn hò reo làm xe không đi được. Đã thấy có thể trễ thời gian, không kịp thực hiện nhiệm vụ trên giao cắm cờ chiến thắng trên dinh Độc Lập, nên tôi bàn giao nhiệm vụ liên lạc với quân đoàn cho đồng chí Chính ủy Nguyễn Văn Thái rồi nhảy khỏi xe bọc thép, gọi một chiến sĩ lái xe Honda chạy thẳng vào Thành phố. Đến đầu cầu Thị Nghè, gặp đồng chí Minh, trợ lý tác chiến, tôi nóng ruột hỏi ngay:

  - Đại đội 7 có cắm cờ được không?

  Đồng chí nét mặt trầm xuống, trả lời:

  - Quân đoàn 2 đã cắm cờ trước. Đại đội 7 chúng ta đến sau 30 phút. Gần 12 giờ trưa chiếc xe tăng đầu tiên của Đại đội 7 chúng ta mới tiến đến cửa dinh Độc Lập!

  Trong lòng tôi thoáng dậy một nỗi buồn tiếc; nhưng trấn tĩnh lại, tôi nói với đồng chí trợ lý tác chiến và cũng là an ủi mình:

  - Chúng ta mất nhiều thời gian trên đường tiến quân ở Biên Hòa. Thôi đồng chí ở lại đón Trung đoàn 12, Trung đoàn 209 và Trung đoàn 210 ... vào chiếm các mục tiêu đã được phân công. Tôi vào dinh Độc Lập, có việc gì liên lạc gặp tôi ở đó.

  Mấy phút sau, chiến sĩ lái xe Honda đưa thẳng tôi vào dinh Độc Lập.

  Tôi bước qua cổng, bỗng có nhiều tiếng gọi:

  - Nam Phong! Hoan hô Nam Phong!

  Tại đây, tôi gặp các anh Hoàng Đan, Phó Tư lệnh Quân đoàn 2; Trung tướng Nam Long, phái viên của Bộ; anh Nguyễn Ân, Sư trưởng Sư đoàn 304. Trước khi đi vào dinh, tôi gặp đồng chí Hoàng Cao Đại, chính trị viên Đại đội 7 đang chờ sẵn. Trong nét mặt anh buồn, tôi hiểu tâm trạng cán bộ của mình và an ủi:

  - Ta đến được thứ hai cũng là tốt lắm rồi. Các đồng chí cứ ở đây. Đại đội 7 sẽ vào tiếp quản dinh Độc Lập.

  Thông cảm với tôi anh Hoàng Đan thân mật nói:

  - Chúng tôi thuận lợi hơn nên vào được trước. Nhưng thôi, thế cũng là vui vẻ cả ... Chúng tôi đang đợi lệnh để "bàn giao mục tiêu" cho Quân đoàn 4 làm nhiệm vụ quân quản, chứ đâu đến phần chúng tôi. Nội các Dương Văn Minh đang ở trên tầng 2, chúng tôi đã cho canh gác cẩn thận.

  Ngày hôm đó, tôi luôn động viên an ủi các cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 7 và thường dùng câu nói đùa: "Quân đoàn 2 cắm cờ cao thì chúng ta cắm cờ thấp. Cũng đều cắm cờ "Quyết chiến quyết thắng" cả. Bởi vì tất cả chúng ta đều là người chiến thắng!".

  Trong những giờ phút thiêng liêng ấy, tôi nhớ đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cha thân yêu của lực lượng vũ trang đã sáng lập, giáo dục và rèn luyện quân đội ta. Vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc. Người vĩnh biệt nhân dân ta khi miền Nam chưa được giải phóng, đất nước chưa được thống nhất nhưng trong tim Người lúc nào cũng có hình ảnh miền Nam. Chính tư tưởng của Người đã dẫn dắt cho nhân dân ta, quân đội ta đi đến chiến thắng ngày hôm nay.

  Bộ đội ta với tinh thần quyết chiến quyết thắng và ý chí quyết tâm cao, đã nhanh chóng khai thác được thời cơ lịch sử của giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, tạo được thế áp đảo, nâng cao tốc độ tiến công, thần tốc và táo bạo. Sư đoàn 7, Sư đoàn 6, Sư đoàn 9 đều lập công vang dội, tiêu diệt làm tan rã nhanh chóng từng trung đoàn, sư đoàn của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch mang tên Bác Hồ kinh yêu.

  Cùng các cán bộ chiến sĩ trong đơn vị cũng như trong toàn quân, là người chỉ huy ở tư thế chiến thắng, lòng tôi vô cùng tự hào và tràn đầy xúc động, tin tưởng và hăng say mãnh liệt khi được nhận nhiệm vụ tiến quân vào Sài Gòn để giải phóng thành phố lớn nhất miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc giai đoạn chiến tranh đã kéo dài 30 năm của dân tộc ta.

  Tôi đã ra sức động viên cán bộ chiến sĩ thực hiện tốt những nhiệm vụ trong giai đoạn này. Cuộc tiến công của bộ đội ta kể từ Xuân Lộc đến Hố Nai - Biên Hòa là một chặng đường tuy ngắn mà đầy ác liệt, gian nguy, thử thách, nhiều hy sinh cao cả. Trong cuộc chiến cam go ác liệt ấy nổi lên nhiều tấm gương anh hùng dũng cảm vô song. Nhiều cán bộ chiến sĩ ta đã nằm xuống trong thời điểm lịch sử này. Đó là những tổn thất, những hy sinh mất mát vô cùng đau đớn ... Nó khắc sâu trong tâm trí và ký ức đời chiến trận của tôi.

  Mỗi khi nhớ lại hình ảnh hàng trăm, hàng ngàn cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 7, Sư đoàn 6, Sư đoàn 341 đã hy sinh và thương vong trong những ngày tháng đó, tôi vô cùng bùi ngùi thương tiếc. Một nỗi xúc động sâu xa tận đáy lòng hòa với lòng ngưỡng mộ chân thành đối với các đồng chí anh hùng liệt sỹ ấy.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #27 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2012, 05:10:09 pm »

                                                                           X. QUÂN QUẢN
                                                                           THÀNH PHỐ SÀI GÒN-GIA ĐỊNH.


  Sau khi giải phóng, ngay chiều 30 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn được giao nhiệm vu quân quản thành phố. Nhiệm vụ thật mới mẻ, nặng nề và phức tạp. Chế độ cũ vừa xụp đổ, chính quyền mới bắt đầu thiết lập, quân đội ta vừa mới vào thành phố. Công tác duy trì và thực hiện nghiêm ngặt việc giữ gìn an ninh trong thành phố, trấn áp bọn phản cách mạng bảo vệ các cơ sở kinh tế, chính trị của cách mạng đặt ra những vấn đề vừa khó khăn vừa cấp bách. Nó đòi hỏi cấp lãnh đạo phải sâu sát, chặt chẽ và ý thức chính trị phải nhạy bén và hiểu biết về văn hóa - xã hội phải cao.

  Bộ đội phải nêu cao được phẩm chất và đạo đức cách mạng, ý thức "cần, kiệm, liêm, chính", phải hết lòng vì dân vì nước mới hoàn thành tốt các nhiệm vụ khó khăn giai đoạn này. Lực lượng quân quản phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đảng và các đoàn thể cách mạng của Thành ủy, nhanh chóng xây dựng chính quyền và thiết lập trật tự xã hội. Chúng tôi đã nỗ lực vượt bậc, ngày đêm đem hết sức mình, dựa vào dân, cùng các đại phương ổn định đời sống của nhân dân, truy lùng bọn phản cách mạng và những kẻ trốn tránh khai báo trình diện. Tôi phổ biến và luôn nhắc nhở bộ đội, từ cán bộ đến chiến sĩ, phải nghiêm chỉnh chấp hành chính sách của Đảng và Nhà nước, sâu sát và chăm sóc tầng lớp nhân dân lao động nghèo; phải động viên khích lệ các nhân sỹ, trí thức và các nhà tư bản tiến bộ, các doanh nghiệp của người Việt người Hoa đã từng tích cực giúp đỡ đóng góp công sức tiền của cho cách mạng. Khi được nhận nhiệm vụ quân quản Sài Gòn, tôi nhớ lại có lần đã được vị tướng là một giáo viên trường Hoàng Phố (Trung Quốc) kể lại trong một tiết học về "tình quân dân".

  Tháng 5 năm 1949, Quân giải phóng trung Quốc vượt sông Dương Tử đánh bại quân Tưởng ở Hoa Nam, vào giải phóng và thực hiện chế độ quân quản thành phố Thượng Hải, một thành phố lớn bậc nhất Trung Quốc với trên 10 triệu dân. Công tác quân quản vô cùng khó khăn, phức tạp. Việc thực thi các chính sách của Đảng Cộng sản trung Quốc khi vừa mới lập chính quyền cách mạng chủ yếu dựa vào lực lượng của các Quân đoàn Quân giải phóng nhân dân trung Quốc, đồng thời phát động phong trào tự quản của nhân dân lao động và các tầng lớp thanh niên trí thức tiến bộ ở Thượng Hải. Có một lần, một vị chỉ huy cấp sư đoàn khi tiếp quản một doanh nghiệp tư doanh, ông ta tịch thu toàn bộ tài sản, nhà cửa, của cải, đẩy cả gia đình ấy vào hoàn cảnh khó khăn. Nhà tư sản ấy đã chửi rủa "Giải phóng quân" là vong ơn bội nghĩa! Vị chỉ huy tức giận bắt giam ông ta và đưa ra toàn án quân sự xét xử ... Sau đó nhờ Nguyên soái Bành Đức Hoài và một số cán bộ đảng ở Thượng Hải xác nhận mới biết người này là một trí thức tư bản tiến bộ, yêu nước, đã hết lòng phục vụ, cống hiến tài lực công sức cho cách mạng và giúp đỡ các cán bộ Quân giải phóng qua nhiều thời kỳ khó khăn. Do không đi sâu sát và không nắm vững chính sách chủ trương cụ thể nên vị sư đoàn trưởng nọ đã phạm sai lầm trong công tác "quân quản". Vị chỉ huy ấy bị kỷ luật, giáng xuống 3 cấp.

  Suy nghĩ từ ví dụ của giáo viên trường Hoàng Phố, tôi rất thận trọng cân nhắc, và hỏi ý kiến Đảng ủy Quân đoàn cũng như liên hệ với thành ủy, ủy ban nhân dân mỗi khi gặp những vấn đề phức tạp khó khăn.

  Quân đoàn trải trên địa bàn công tác rất rộng và kiểm soát nhiều mục tiêu quan trọng như: dinh Độc Lập, Bộ Quốc phòng (ngụy), Bộ chỉ huy sư đoàn thủy quân lục chiến, Bộ Tư lệnh hải quân, cảng Bạch Đằng, đài phát thanh. Và trực tiếp quân quản các quận 1, 2, 3, 4, 10, 11 ở nội thành và quận Bình Thạnh.

  Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Thiếu tướng, Chính ủy Quân đoàn Hoàng Thế Thiện giao nhiệm vụ cho tôi và anh Nguyễn Văn Thái, chiều ngày 2 tháng 5 năm 1975, tổ chức buổi lễ để ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định công bố quyết định của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam, trả tự do cho các thành viên nội các ngụy quyền Sài Gòn, nội các Dương Văn Minh, và tổ chức đưa họ về với gia đình.

  Chiều ngày 2 tháng 5 năm 1975, sau buổi lễ, đồng chí Trung tướng Trần Văn Trà - Chủ tịch Ủy ban Quân quản, bảo anh Nguyễn Văn Thái, Chính ủy sư đoàn và tôi đưa tổng thống Dương Văn Minh, Phó Tổng thống Nguyễn Văn huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mậu lên gặp đồng chí Trà ở lầu trên. Sau đó, anh Nguyễn Văn Thái ở lại, còn tôi đi tổ chức anh em và chuẩn bị đưa họ về gia đình.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Trang: « 1 2 3   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM