Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:43:29 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc đời và chiến trận  (Đọc 52048 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #10 vào lúc: 09 Tháng Ba, 2011, 11:48:49 am »

 Đứng trước tình thế nhạy cảm và khẩn trương đó, tôi tuy còn bình tĩnh hơn nhưng trong lòng vẫn còn sự hồi hộp lo lắng cho trận đánh ác liệt.
 Đại đội trường Mai Văn Thiềng nhận lệnh: "Phải kiên quyết chiếm lại đoạn hào đã mất”. Giây phút nóng bỏng đó in sâu mãi mãi vào tâm trí của cán bộ, chiến sỹ quân xung kích. Khi thấy chính trị viên đại đội cùng đơn vị không chút ngần ngại lao vụt ra sân bay, chiến sỹ trẻ Nguyễn Quốc Ân, một thiếu sinh quân Việt Nam mới nhập ngũ, lại vừa qua cơn ốm, mặc quần đùi xách súng xông ra bám tổ chiến đấu Phan Văn Diện. Trung liên, súng trường quét hạ gục quân thù như ngả rạ. Từ điểm cao 206, các anh dũng cảm diệt địch, bảo vệ sườn trái cho đại đội tôi phối hợp đánh phản xung phong thắng lợi.
 Và giờ phút hào hùng, khoảnh khắc lịch sử vinh quang đã điểm: Quân ta đánh bại hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Đó cũng là ánh hào quang chiến thắng tỏa sáng cuộc đời chiến trận của tôi.
 53 năm đã qua, bao giờ nhớ về buổi chiều hôm ấy, lòng tôi vẫn còn hồi hộp xúc động. Buổi chiều quang vinh của quân ta và buổi chiều dịnh mệnh của quân thù. Sau này, văn học và phim ảnh đã làm sống lại khúc khải hoàn ca hùng tráng ấy. Nhưng có lẽ không ai hết, những người trong trận, những chiến sỹ cơm vắt ngủ hầm ngày ấy, mới thấm thía hết giá trị thiêng liêng và ý nghĩa sâu sắc và to lớn của chiến thắng Điện Biên Phủ.
 Sau này, khi đối đầu với giặc Mỹ và quân Ngụy ở chiến trường Nam Bộ, tôi đã vận dụng kinh nghiệm Điên Biên để áp dụng linh hoạt các kế sách như: Bao vây và tấn công, phòng ngự trận địa và tiến công, tấn công linh hoạt trong hành tiến, đánh tiêu diệt cứ điểm và cụm cứ điểm, tấn công tiêu diệt địch phòng ngự kiên cố v.v…
 Có thể nói cách đánh địch ở Điện Biên Phủ của quân đội ta thời chống Pháp được lặp lại, nâng cao, linh hoạt, biến hóa, đạt hiệu quả cao trong cuộc chiến đấu kiên cường khốc liệt của quân và dân ta chống quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai sau này.
 Trong các trận công đồn diệt địch ở Điện Biên Phủ tôi là một đại đội trưởng xung kích; đến khi đánh Xuân Lộc tôi đã là sư đoàn trưởng. Dù ở cương vị chỉ huy nào tôi vẫn xông pha cùng đồng đội, đi với từng đơn vị nhỏ,không chỉ cùng họ đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, mà cùng cán bộ chiến sỹ tiếp cận tình thế chiến đấu để cùng họ bàn cách đánh giặc sao cho có hiệu quả và ít tổn thất thương vong.
 Tôi ở trong quân ngũ trên 56 năm, ba phần tư cuộc đời có mặt trên các chiến trường. Dấu ấn sâu đậm trong ký ức tôi vẫn là Điện Biên Phủ oai hùng, lừng lẫy chiến công, vô vàn gian khổ, đầy hy sinh. Chính tại nơi đó, qua thực tế đầy biến động, những người” lính Cụ Hồ” như tôi đã được rèn luyện để trưởng thành.
 Sau này, giữa thập niên 80, tôi được Đảng, Nhà nước, quân đội cho đi học ở các trường  học viện quân sự cấp cao. Khi tiếp thu bài giảng về lý luận quân sự, về nghệ thuật tổ chức, chỉ đạo chiến tranh Cách mạng, tổ chức thực hành chiến dịch, tôi tâm niệm phải luôn ôn lại thực tiễn chiến đấu trên chiến trường Điện Biên Phủ; lấy nó làm trung tâm so sánh, đối chiếu và áp dụng. Tôi hiểu rõ vì sao chiến thắng Điện Biên Phủ đã được học thuyết về lý luận quân sự Cách mạng Việt Nam lên một tầm vóc mới về chất và lượng. Chiến thắng Điện Biên 1954, soi sáng ý nghĩa tác dụng to lớn và quyết định của chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của chúng ta.
 Tôi là một trong số anh em may mắn còn sống và khỏe mạnh sau khi toàn quân và toàn dân ta thực hiện trọn vẹn Di chúc của Bác Hồ: “ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Hình dung lại toàn cảnh hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ kéo dài tới 30 năm, thì thấy rõ một điều: Điện Biên Phủ là một trường học lớn, như một thao trường vĩ đại, mà ở đó đã đào tạo ra nhiều tướng lĩnh tài ba cho dân tộc, cho quân đội. Lớp cán bộ có mặt trong 55 ngày đêm ở Điện Biên Phủ, nếu không bị hy sinh, đã trưởng thành nhanh chóng để nối tiếp nhau đi tiếp cuộc trường chinh dưới ngọn cờ” Quyết chiến quyết thắng” của Đảng và của Bác, để giành toàn thắng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Rồi khi Tổ quốc bị xâm lăng, cùng với lớp đàn em kế cận, nhiều chiến sỹ Điện Biên tiếp tục chiến đấu, không chỉ làm tròn nhiệm vụ giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc mà còn giúp nước bạn Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng. Tại dinh Độc Lập, trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đã gặp các đồng đội, nhiều người là đồng cấp, hồi chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Tại Phnom Penh, ngày 17 tháng 1 năm 1979, tôi lại cùng nhiều anh em chiến sỹ Điện Biên hân hoan chúc mừng thắng lợi. Nếu tôi nhớ không lầm thì những người làm công tác nghiên cứu nghệ thuật quân sự trên thế giới xác định, chiến dịch Biên Giới (1950) và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) nằm trong số ít trận đánh hay nhất lịch sử chiến tranh của nhân loại.
 Thật tự hào thay được làm “ CHIẾN SỸ ĐIỆN BIÊN”!
    
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Ba, 2011, 05:06:37 pm gửi bởi macbupda » Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #11 vào lúc: 26 Tháng Tư, 2011, 12:09:50 am »

  Những chiến sỹ Điện Biên năm xưa, ngày nay còn lại đều là những nhân chứng lịch sử và họ được quyền tự hào, được nhân dân kính trọng. Tôi lại thầm nhủ từ đáy lòng mình; trong cuộc đời chiến trận, mình đã chứng kiến bao nhiêu kỳ tích anh hùng, nhìn thấy những tấm gương hy sinh cao cả, đã từng được kề vai sát cánh với những đồng đội, đồng chí đã vĩnh viễn ra đi vì sự nghiệp của Tổ quốc. Họ nằm lại trên đồi Him Lam, đồi Độc Lập, Hồng Cúm, trên những cánh đồng Mường Thanh đầy máu lửa, và trên đồi A1 vinh quang, mang đầy sự tích anh hùng.
 Hàng năm, những ngày kỷ niệm chiến thắng Điên Biên Phủ, tôi lại tìm kiếm thăm hỏi, gặp gỡ, tâm sự cùng đồng đội, cán bộ chiến sỹ Điện Biên năm xưa. Nếu còn sống, lớp người đó đều trên tuổi “Thất Thập”. Phần lớn đều đã trưởng thành. Nhiều người trong số đó đã trở thành những vị tướng thao lược, tài năng, dày dạn kinh nghiệm trận mạc của quân đội chúng ta.
 Bản thân tôi những lúc chỉ huy đơn vị đánh giặc, khi gặp trở ngại khó khăn, dù nguy hiểm đến bao nhiêu hay trong hoàn cảnh và tình huống xấu đến đâu tôi cũng quyết tâm xác định;”nếu biết cách đánh giặc thì có thể thắng giặc”. Bài học Điên Biên Phủ đã ngấm sâu vào tâm can và đầu óc của tôi.
 Chính nhờ đó, những ngày gian lao nhất trong chiến dịch Nguyễn Huệ, đường 13 lịch sử, đối với quân thù trang bị hiện đại, được yểm trợ hỏa lực máy bay, pháo binh, tên lửa, xe tăng thiết giáp tối đa, chúng tôi, Sư đoàn 7 Anh hùng, vẫn trụ vững hơn 150 ngày đêm với hàng trăm trận đánh ác liệt. Cuối cùng, cũng giống như Điện Biên Phủ năm xưa, chúng tôi đã thắng, thắng oanh liệt, oai hùng và giòn giã.
 Khi gặp khó khăn trên chiến trường Xuân Lộc trong chiến dịch lịch sử mùa xuân 1975, tôi suy nghĩ đến việc thay đổi cách đánh ở trận Đông Khê, việc “kéo pháo vào, kéo pháo ra”, việc Đại đoàn Quân tiên phong tạm thời rời Điện Biên Phủ tiến quân sang Thượng Lào. Nên mới hiến kế sách cùng lãnh đạo quân đoàn tìm phương án giải tỏa bế tắc, rút quân ra vòng ngoài, tổ chức bao vây, tiến công ngăn chặn, diệt viện chia cắt lực lượng của cả cụm phòng ngự, cô lập khu trung tâm đề kháng Xuân Lộc. Phải quan niệm, Mỹ- Ngụy tổ chức phòng ngự ở đây như một dạng cứ điểm quy mô kiên cố.  So với Điện biên Phủ, không gian tác chiến của nó rộng lớn hơn, đầy đủ hơn. Thời gian lịch sử tuy xa, địa hình đặc điểm địa lý khác nhau, cứ điểm phòng thủ Xuân Lộc lại nằm ngay trong đô thị, xen kẽ với nhân dân.
 Nhờ thay đổi cách đánh, áp dụng chiến thuật mới, đánh địch từ ở vòng ngoài, sau đó tiêu diệt từng cứ điểm nhỏ, tiến lên tiêu diệt cứ điểm lớn của địch, để cuối cùng bao vây chặt khu trung tâm đề kháng Xuân Lộc, đánh bại chúng ngay trận tuyến thép này, mở ra chiến thắng lịch sử cho Quân đoàn 4 năm 1975, phá tan cánh cửa thép Đông Bắc cho Đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn - Gia Định.
 Đó chính là bài học kinh nghiệm quý báu mà chiến dịch Điện Biên Phủ đã để lại cho quân đội ta.
 Chiến thắng Điện Biên Phủ là “cây cột mốc bằng vàng” (lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh) trong lịch sử đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc ta.
 Ngày nay khi nghiên cứu học tập về “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, tôi càng thấy được sự anh minh sáng suốt của Người về những luận điểm và phương pháp tổ chức, chỉ đạo chiến tranh cách mạng, tư tưởng “tất thắng” trong cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện của Người, tạo ra niềm tin “Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi!”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chia cuộc chiến tranh dài lâu làm 3 giai đoạn: Phòng ngự- cầm cự- tổng phản công. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh điều đó.
 Khi cờ trắng đầu hàng của thực dân Pháp xuất hiện ngày càng nhiều ở chiến trường Điện Biên Phủ và quân đội ta ào ạt xông lên, tung mũ, tung nguy trang lên trời mừng chiến thắng, chúng tôi tưng bừng khí thế, bây giờ nhớ lại lòng còn rưng rưng xúc động. Không hiểu sao lúc ấy, sau khi chấm dứt chiến sự ở Điện Biên, tôi tin chắc có một cuộc mít tinh, và như vậy tôi sẽ thấy mặt mấy ông sư đoàn trưởng. Một nhà lý luận quân sự thế giới đã nói một câu rất hay: Làm người lính chân chính phải có ước mơ trở thành tướng giỏi. Thật tình khi làm đại đội trưởng, tôi đã mơ có ngày làm sư đoàn trưởng như các ông Vương Thừa Vũ, Sư trưởng Sư 308. Lê Trọng Tấn, Sư Trưởng Sư 312, Lê Quảng Ba, Sư trưởng Sư 316, Hoàng Minh Thảo, Sư trưởng Sư 304. Nhưng ngoài cả sức tưởng tượng của tôi, trong lễ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi không chỉ thấy mấy vị “Sư” mà còn được nhìn thấy Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, người trực tiếp cầm quân đánh Điện biên, người đã viết thư động viên từng chiến sỹ ở chiến hào. Sau này về Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu hoặc xuống chỉ huy đơn vị, nhiều lần được tiếp xúc và gần gũi Đại tướng, tôi nhận ra rằng, nhìn vào đôi mắt của ông, ta sẽ nhận ra được hai điều: mắt ông vừa sắc sảo vừa ấm áp. Sắc sảo là tài thao lược và ấm áp là tấm lòng nhân hậu. Anh em có điều may mắn làm việc bên cạnh anh Văn kể với tôi rằng, kết thúc mỗi trận đánh lớn nhỏ, sau khi hỏi kết quả, bao giờ Đại tướng Tổng tư lệnh cũng hỏi đến thương vong của ta và nhiều lần ông đã khóc! Tài năng và đức độ của người Anh cả trong quân đội hòa quyện vào nhau – đó là hạnh phúc của toàn quân.
 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ta đạt được ký kết Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ. Hòa bình được lập lại trên toàn cõi Đông Dương.
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Tư, 2011, 06:23:45 am gửi bởi macbupda » Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #12 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2011, 07:35:47 pm »

  Quân đội ta lại bắt tay vào những nhiệm vụ mới, Đại đoàn Quân tiên phong cùng các đơn vị bạn, vinh quang được về tiếp quản Thủ đô sau ngày chiến thắng. Nhớ khi quân Pháp mở rộng chiến tranh, đoàn quân Cách mạng rời Thủ đô khói lửa ngập trời và “Người ra đi đầu không ngoảnh lại "Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. Sau chín năm kháng chiến trường kỳ và gian khổ, chúng tôi hiên ngang và tự hào đi trong rừng cờ rừng hoa. Bộ đội Cụ Hồ ngày nay trở về trong quân phục chỉnh tề, đội ngũ trang nghiêm, hùng dũng . Hàng chục vạn đồng bào Thủ đô hân hoan náo nức chào đón, đúng như lời ca “Năm cửa Ô đón mừng đoàn quân tiến về”.
 Tôi là người nông dân trở thành chiến sỹ, đã cầm súng mười năm, lòng tự hào phơi phới, nghĩ thấy bản thân mình được vinh dự lớn trong ngày 10 tháng 10 năm 1954 vẻ vang này, được tiếp quản và làm quân quản Thủ đô là điều mấy tháng trước trên chiến trường chưa hề nghĩ tới. Đó là lần thứ nhất tôi đi tiếp quản, để rồi 21 năm sau lại tiếp quản Thủ đô của ngụy ở Sài Gòn - Gia Định. Và 25 năm sau tiếp quản Thủ đô Phnom Penh của nước bạn trong chiến thắng thắm tình hữu nghị Việt Nam _ Căm-pu-chia. Thực là vinh dự và sung sướng cho đời một người lính ba lần được dự phần đại thắng trên một chiều dài thời gian 30 năm chiến đấu liên tục.

 Mùa đông năm 1954 sang Xuân 1955 là những ngày tháng vui vẻ, hòa bình phấn khởi trên đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Bộ đội 308 được giao làm công tác quân quản Thủ đô; đồng chí Vương Thừa Vũ, Đại đoàn trưởng, làm Trưởng ban Quân quản. Đồng chí Trần Duy Hưng làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố, đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ Công an, là đại diện của Trung ương ở bên cạnh.
 Ngày 1 tháng 1 năm 1955, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ làm lễ ra mắt nhân dân Thủ đô ở quảng trường Ba Đình lịch sử. Đơn vị tôi được tham gia lễ diễu binh trong dịp đó. Bộ đội chủ lực và các đơn vị phòng không, pháo binh, thiết giáp rồi hải quân, dân quân, du kích, tự vệ diễu hành qua lễ đài. Lần đó, Bác Hồ cùng đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có mặt trên lễ đài và đích thân Đại tướng duyệt đội quân danh dự.
 Bác Hồ vui cười, vẫy chào đoàn quân chiến thắng trở về. Nhân dân vô cùng xúc động phấn khởi. Sau khi Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc diễn văn khai mạc, Bác Hồ đã nói chuyện với nhân dân Thủ đô và bộ đội. Buổi lễ đó mang tính chất lễ mừng chiến thắng của cả dân tộc ta sau 9 năm kháng chiến.
  Những năm tháng làm công tác quân quản ở Hà Nội, chúng tôi phải vừa công tác vừa học hỏi để có thể hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho. Chúng tôi chưa am hiểu nếp sống của một thành phố nhiều năm bị giặc chiếm đóng, bị tuyên truyền xuyên tạc và nô dịch. Việc đoàn kết các tầng lớp nhân dân, phát động quần chúng giữ an ninh trật tự, xây dựng nếp sống văn minh là những nhu cầu lớn. Cần phải tuyên truyền giải thích, phổ biến chính sách của Đảng và Nhà nước cho toàn dân hiểu biết để thực hiện.
 Sau một thời gian làm công tác quân quản, tôi được cấp trên cho nghỉ phép. Thế là sau 9 năm xa cách, tôi được về thăm gia đình, quê hương, xóm làng xưa. Bấy giờ tôi đã là cán bộ tiểu đoàn. Từ cậu bé thanh niên nghịch ngợm ngày xưa, từ chàng Lê Hoàng Thống ở làng quê Phú Mỹ, nay về làng trở thành anh chỉ huy bộ đội “oai phong hùng dũng”, súng ngắn, quân phục chỉnh tề. Gia đình quá đỗi mừng vui, làng quê xôn xao chào hỏi, thanh niên trai gái trong làng ríu rít đến gặp gỡ chuyện trò. Tôi hỏi chuyện quê hương còn bà con bạn bè hỏi chuyện chiến đấu và thành tích của tôi. Tôi được chính quyền địa phương tuyên dương thành tích công trạng. Quê nhà vừa hoàn thành công tác cải cách ruộng đất, xóm làng đã có nhiều thay đổi. Lớp nông dân nghèo khó ngày trước đã bắt đầu mở mày mở mặt. Sau khi được chia quả thực công điền và ruộng đất của địa chủ, một quan hệ sản xuất mới được hình thành để chuẩn bị bước vào thời kỳ sản xuất tập thể dưới hình thức “hợp tác xã” nông nghiệp.
 Mẹ già cùng các em và bà con đều mong tôi sớm lập gia đình. Tôi cũng thấy đây là một việc cần thiết cho bản thân. Thế là trong một buổi gặp mặt với thanh niên phụ nữ trong làng, vẫn lối tếu nghịch ngày xưa, sau khi kể chuyện chiến đấu ở Điện Biên Phủ, tôi hỏi: “Có O mô ưng lấy tau không?”. Nhiều người tưởng tôi nói đùa. Chị em có nhiều người giơ tay, trong đó có O Mai là người giơ tay lên nhanh nhất và cao nhất, O Mai chính là vợ tôi sau này. Mấy ngày sau mẹ tôi nói, O Mai là con người cô họ Lê của tôi. Tôi tìm tới, bà nói: “Tau có hai đứa con gái, cho mi một đứa, tùy mi chọn”. Hết kỳ nghỉ phép, được hai gia đình ưng thuận, tôi đón O Mai ra Hà Nội, lên đơn vị ở bên cầu Chui, Gia Lâm, ngoại ô Hà Nội. Lễ thành hôn do Trung đoàn 88 tổ chức, đồng chí Trung đoàn trưởng Bùi Nam Hà làm chủ hôn.
 Khi đã yên bề gia thất, vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn, sang năm 1956 tôi nhận được quyết định đi học bổ túc văn hóa gấp rút tại Kiến An, bồi dưỡng trình độ để đi học ở Học viện Quân sự nước ngoài. Trường này do đồng chí Lê Quang Hòa làm hiệu trưởng. Hồi đó văn hóa của tôi mới hết cấp một (tương đương lớp 4). Hoàn thành chương trình bổ túc cơ bản, tôi phải nỗ lực phấn đấu hết mình, ngày đêm phấn đấu, học tập không biết mệt mỏi, và tự đặt mục tiêu phải học tập để còn học cao nữa. Nhờ ý chí và quyết tâm đó, cuối cùng tôi đã hoàn thành các khóa học bổ túc văn hóa.
 Cùng trong năm đó, ở nhà vợ tôi sinh cháu trai đầu lòng đặt tên là Lê Việt Hà.
 Tiếp sau trường bổ túc văn hóa quân đội, tôi được Bộ quốc phòng tuyển chọn cho đi học ở Học viện Quân sự Hoàng Phố (Nam Kinh-Trung Quốc). Đây là một Học viện quy mô với nhiều phân ban và chuyên ngành, đào tạo bồi dưỡng các sỹ quan cấp cao. Trường này có lịch sử từ thời nhà đại Cách mạng Tôn Trung Sơn sáng lập, đến thời Quốc-Cộng hợp tác chống Nhật. Nơi đây từng có nhiều nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc giảng dạy, nhiều cán bộ quân sự cao cấp của Hồng Quân-Bát Lộ Quân, Tân Tứ Quân đã học tập trưởng thành ở đây. Trong quân đội ta, nhiều cán bộ chỉ huy, tướng lĩnh từng học tập ở Học viện Hoàng phố. Vì vậy, được đến học ở Hoàng Phố là một vinh dự lớn. Nó đánh dấu giai đoạn trưởng thành của tôi về mặt tri thức quân sự, tư duy chiến thuật, nghệ thuật tổ chức chỉ huy tác chiến. Sau này tôi đã vận dụng vào thực tế chiến đấu trên chiến trường.
 Sau 5 năm học tập tại Học viện, tốt nghiệp trở về nước năm 1960, tôi được điều về Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu. Là sỹ quan mới ra trường về nhận nhiệm sở, ban đầu tôi rất e dè, khiêm tốn học hỏi các cán bộ đi trước, đến trước. Phần lớn, họ đều có trí thức, văn hóa cao, chững chạc và oai vệ. Tôi tuy có kinh nghiệm chiến đấu, nhưng dù sao vẫn là người chưa quen nếp làm việc cơ quan, nhất là ở cơ quan Bộ, cấp chiến lược, phần tôi văn hóa thấp hơn, lại xuất thân từ một nông dân mộc mạc. Phải xong một thời gian tôi mới phát huy được năng lực công tác, và bộc lộ được năng khiếu tham mưu của mình.
 Thời gian công tác ở Cục tác chiến, tôi học hỏi them ở các đàn anh, mở rộng nhiều hiểu biết về lý luận quân sự cũng như thực tế tham mưu ở các chiến trường.
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Tư, 2011, 06:20:58 am gửi bởi macbupda » Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #13 vào lúc: 17 Tháng Tám, 2011, 02:27:50 pm »

  Tháng 4 năm 1964, Bộ Quốc phòng điều động tôi đi bổ sung chiến đấu ở chiến trường B. Ngày 18 tháng 4 năm 1964, tôi được gọi lên giao làn Đoàn trưởng Đoàn 707 với 100 cán bộ quân sự chính trị của Quân đội gồm đủ ba miền, tập trung ở trạm 66 Hà Nội, sau đó tập kết ở Thành Nhà Hồ thuộc xã Yên Định, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Trước ngày xuất quân, Cục Cán bộ Tổng cục chính trị giữ 3 đồng chí lại để nhận nhiệm vụ khác, Đoàn 707 còn 97 đồng chí. Từ Thanh Hóa ngày 18 tháng 5 năm 1965 đoàn chúng tôi hoàn toàn đi bộ suốt gần 5 tháng, vào thẳng Chiến Khu D - miền Đông Nam Bộ. (chiến trường B2)
  
 Nhớ buổi tiễn đưa, anh em trong Đoàn đã lên xe để vào Thanh Hóa. Đến điểm tập kết, vợ tôi rất lo âu và bịn rịn, nghẹn ngào nức nở. Tôi đứng lại làm công tác tư tưởng động viên an ủi, khích lệ lòng tin tưởng để vợ tôi an tâm ở lại, thay tôi làm nhiệm vụ nuôi dưỡng giáo dục các con, chăm sóc gia đình nội ngoại. Cuộc chia tay dùng dằng khiến tôi trễ giờ. Tôi đành phải vội vã ngồi nhờ thùng xe tải chở nước mắm đuổi theo đoàn. Ngồi trên xe, lòng tôi xúc động xao xuyến vô cùng. Tôi nghĩ đến mẹ già ở quê hương, nghĩ về 3 đứa con nhỏ, trong lòng trào dâng thương yêu vợ con đến vô hạn. Mai sẽ phải gánh trên vai trách nhiệm và bổn phận nặng nề của người mẹ, giống như ngàn vạn phụ nữ việt Nam chúng ta trong thời chiến, đảm đương việc nhà, vẹn toàn việc nước. Tôi liên tưởng đến mẹ già, nhớ hồi còn nhỏ, bà ru những câu trong Chinh phụ ngâm. Tôi loáng thoáng nhớ đoạn bà Đoàn Thị Điểm tả cảnh chia ly và tâm sự người vợ lính tiễn chồng ra trận:

                        " Ngoài đầu cầu nước trong như lọc
                             Đường bên cầu cỏ mọc còn non
                             Đưa chàng lòng dằng dặc buồn
                             Bộ không bằng ngựa thủy không bằng thuyền
                             Nước có chảy mà buồn không chảy
                             Cỏ có xanh mà dạ chẳng khuây
                             Nhủ rồi tay lại trao tay
                             Bước đi một bước giây giây lại dừng ..."


  Thật đúng tình, đúng cảnh của vợ chồng tôi khiến người tôi nao nao, lòng dạ trùng hẳn xuống!

  Đến Thanh Hóa quần áo mình mẩy hôi dình mùi nước mắm. Có người trong đoàn nói vui:

  " Nam Phong là dân xứ Nghệ đi đâu cũng mang theo mùi nước mắm !". Trước đó 2 ngày, anh em trong Cục tác chiến chia tay tiễn chào tôi và anh Hoàng Dũng (nay là thiếu tướng hưu trí ở Thành phố Hồ Chí Minh) mời mỗi người ăn một que kem. Nhiều năm tháng đi xa, tôi vẫn nhớ và thèm que kem Hà nội thuở nào. Những việc nhỏ nhặt đó, đến nay tuổi đã già tôi vẫn không bao giờ quên!

  Chỉ huy đoàn 707 còn có đồng chí Trần Tấn Hưng là chính trị viên, đồng chí Đoàn Mạnh Sấn làm phó trưởng đoàn. Trong thời gian ngắn nhất, đoàn đã nỗ lực hoàn tất mọi mặt về biên chế, tổ chức, làm tốt công tác bảo đảm hậu cần "trên đôi vai" của từng người để đúng thời gian quy định của Bộ cấp tốc hành quân đi bộ từ Thanh Hóa vào đến bờ Bắc sông Bến Hải. Trước đó là những đoàn cán bộ vượt Trường Sơn năm 1959: đoàn B500 gồm 28 người do đồng chí Tăng Thiện Kim làm trưởng đoàn; họ được xe ô tô chở vào Vĩnh Linh. Năm 1960, đoàn "Phương Đông" lên đường vào dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ (ngày 7 tháng 5) gồm 600 đồng chí do đồng chí Trần Văn Quang làm trưởng đoàn, cũng hành quân bằng ô tô vào đèo Mụ Giạ rồi theo dọc tuyến biên giới của rừng Trường Sơn, sau đó lội bộ vào Nam. Đặc biệt lần này, đoàn chúng tôi đi bộ từ Bắc vào Nam. Từ Thanh Hóa vào tới làng Ho, đoàn đã hành quân ròng rã một tháng trời. Đêm vượt sông Gianh, có nữ du kích chèo thuyền. Không biết do nguyên tắc bí mật hay do cả thẹn mà mấy o nón đội đầu, khăn che kín mặt. Chúng tôi tán mãi, cuối cùng mấy o cũng xúc động thương người ra trận, đã đáp lời. Có o còn bạo dạn đề nghị bộ đội làm thơ tặng người ở lại. Anh Phan thiệu Cơ đã ứng khẩu đọc thơ, trong đó có đoạn khá hóm:

                                  Hai ả cùng chèo một chiếc thuyền
                                     Mắt nhìn bộ đội miệng cười duyên
                                     Hẹn ngày thống nhất anh gặp lại
                                     Bến cũ đò xưa... em vẫn nguyên

  
  Con đò chao nghiêng bởi cả bộ đội, dân quân cùng ôm bụng ... nín cười! Anh Phan Thiệu Cơ trong cuộc họp truyền thống Đoàn 707 mới đây kể rằng, 13 năm sau, tức là sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, anh gặp lại một trong hai cô chở đò năm ấy. Có điều bây giờ Hoa đã là bà nội, không vẫn nguyên như lời thơ!

  Điểm dừng chân cuối cùng là làng Ho, chúng tôi được nghỉ 1 ngày để bổ sung lương thực, vũ khí, trang bị cho mỗi người, có cả súng ngắn lẫn súng dài. Ngày đầu tiên của cuộc vượt Trường Sơn, sau khi đã vượt qua sông Bến Hải, chúng tôi qua đèo 1001, đèo này có tên là dốc Tù Mù hay dốc Nguyễn Chí Thanh. Từ đó bằng đôi chân và dũng khí của tuổi trẻ, chúng tôi cắt rừng vượt suối băng đèo, nhìn về miền Nam mà tiến bước. Những ngày hành quân đầy gian nan vất vả, đói cơm thiếu áo, thiếu nước uống, thời tiết khắc nghiệt bệnh tật hoành hành...
  
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Tám, 2011, 03:33:25 pm gửi bởi macbupda » Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #14 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2011, 11:35:05 am »

  Dù đã là cán bộ, có sự rèn luyện kỹ càng về ý chí và thể lực trước lúc đi "B", một số đồng chí vẫn phải tìm cách giảm nhẹ trọng lượng trên vai: Xén ngắn tay áo, ống quần, cắt bớt nút áo, bỏ đình màn, bẻ ngắn cán bàn chải đánh răng và thậm chí có người đòi trả súng dài, vì "là cán bộ rồi, chỉ đeo súng ngắn"...Vượt sông Sê-rê-pốc được hai ngày, tiểu đội trinh sát gom quần áo đổi được con heo (lợn) nhỏ, chỉ đủ luộc lên ăn một bữa. Nào ngờ đồng chí Lê Văn Đặng bị "Tào Tháo đuổi", đành phải nằm lại trạm. Thật xui xẻo. Nhờ "đi bằng đầu", vài ngày sau Đặng đã đuổi kịp đoàn.

  Cuộc hành quân bí mật 125 ngày đêm xuyên rừng vượt núi ấy từng ngày từng đêm, từng trạm đều có những chuyện vui buồn đầy ấn tượng. Nó trở thành kỷ niệm không quên của mọi thành viên trong đoàn.

  Hồi đó, để cải thiện bữa ăn, chống lại sự thiếu thốn đói khát, anh em trong đoàn thường xuyên phải tự túc tìm thêm rau củ, săn bắt thú rừng, và liên hệ với dân bản làng đổi thực phẩm. Sáng sớm, khi hai đồng chí ra đi thì trời quang mây tạnh nhưng đến chiều mây đen vần vũ, sấm chớp ì ầm, giông tố nổi lên, rồi một cơn mưa rừng dữ dội... Đã gần chín giờ đêm mà hai đồng chí vẫn chưa về. Anh em sợ họ bị lạc rừng, sợ gặp phải thú dữ, chia nhau nhiều tốp đi tìm kiếm. Thời gian kéo dài, không gặp ! Đang lo lắng bồn chồn thì một đồng chí nghe tiếng hú ban đêm, lần tới nghe rõ tiếng người. thì ra hai đồng chí tới bản xa, lúc trở về gặp cơn mưa, nước suối dâng cao chảy xiết, đêm tối mịt mù, thấp thoáng nhớ đường mà không về được. Gần 10 giờ đêm mò mẫm tới khu vực này, hai người vừa đi vừa hú để liên lạc với nhau và mong báo hiệu cho đoàn biết.

  Đón được hai anh, mọi người vô cùng mừng rỡ. Họ thân thể nhem nhuốc và súng nước, mỗi người chỉ còn một chiếc xà lỏn che thân. Lạ nhất là đồng chí Mười Khoan lại cõng một con chó to, chân bị buộc vào lưng người giống như phụ nữ người dân tộc địu con... Hình ảnh đó thật ý nghĩa. Nó thể hiện tinh thần trách nhiệm trước tập thể, ý thức tận tụy phục vụ đồng đội, tấm lòng vì mọi người. Chuyện có vẻ hài hước những lại vô cùng cảm động.

  Lại một không may mắn khác, đáng nhớ. Trong một đêm mưa to gió lớn, người đi sau dán mắt vào lân tinh của miếng gỗ mục trên ba lô người đi trước, miệng nhắc nhau đừng ngủ gật. Sau một tiếng đồng hồ hành quân căng thẳng và mệt mỏi, tôi ra lệnh nghỉ chân. Chợt có tiếng kêu chói lói trong hàng quân. Anh em báo cáo "nhà thơ" Phan Thiệu Cơ bị con dao găm trong ba lô đâm vào mông, vết thương khá sâu, máu chảy loang cả quần dài. Bác sĩ Nguyễn Sanh Dân, người con Nam Bộ Tập kết ra Bắc, nay trở về Nam, đã có mặt, cầm máu và khâu vết thương lại. Mọi người xúm lại san hết đồ đạc trên lưng để anh Thiệu cơ ráng chống gậy theo đoàn. Nhờ có tình đồng đội, nhất là sự tận tình của bác sĩ Sanh Dân và đồng chí Văn Lâm,  thương binh Thiệu Cơ đã về được tới đích mặc dù đã sút mất 21 ký !

  Làm trưởng đoàn 707 suốt hơn 4 tháng trời, tôi mới thấm thía rằng, làm Tư lệnh một đơn vị đoàn là quan rất khổ. Họ dễ hồi tưởng về thời làm thủ trưởng chỉ huy đơn vị, vất vả đấy nhưng có quyền; nhớ lúc công tác ở cơ quan, chiều thứ bảy là mặc nhiên "cắt cơm bơm xe", nhớ lúc ở trường quần là áo lượt, thậm chí có anh tiếc lúc đi không treo đôi giầy " Cô-xư-ghin" da thiệt nơi cổ để lúc này ninh nhừ cho vào bụng ! Một đêm, tôi đang ngủ say thì bất chợt tỉnh giấc bởi tiếng cãi cọ la lối om sòm. Tưởng gì, hóa ra có một cán bộ đêm đến sợ biệt kích, sợ rắn độc, thú rừng... Đã đại tiện ngay đầu võng người khác. Do nhiều lý luận, họ đấu khẩu "bất phân thắng bại", phải kéo đến yêu cầu trường đoàn phân xử! Bệnh thương vợ nhớ con là căn bệnh chung của mọi người trong đoàn và phương thuốc chữa trị hữu hiệu là chuyện tiếu lâm, cần thiết nữa thì kích thích ngọn lửa vì miền Nam ruột thịt.

  Còn biết bao chuyện vui buồn, kì lạ và xúc động trong những ngày anh em đoàn 707 hành quân xuyên rừng Trường Sơn ngày ấy. Nếu ghi chép được hết mọi chuyện lớn nhỏ thấm đậm tình cảm đồng chí đồng đội thì sẽ có một tập sách gồm những bài ký sự trường thiên sinh động và hấp dẫn.

  Gặp muôn ngàn gian khổ, các cán bộ, chiến sỹ kiên trung đã không bị quật ngã. Cùng với chiếc gậy Trường Sơn, sau 4 tháng 15 ngày, Đoàn 707 đã vào tới đích là trạm T14 ở suối Dây, sông Tha La (chân núi Bà Đen tỉnh Tây Ninh).

  Từ đầu năm 1965, qua các chiến dịch ở các chiến trường, anh em trong Đoàn 707 đã thể hiện là một tập thể anh hùng, có tinh thần ngoan cường dũng cảm trên mọi mặt công tác và chiến đấu. Một số đồng chí đã hy sinh anh dũng như đồng chí Đoàn Mạnh Sấn quê miền Bắc, hy sinh ở Dầu Tiếng năm 1965; đồng chí Huỳnh Thìn quê Tiền Giang, đồng chí Mười Trí quê Sài Gòn, về Sư đoàn 5, hy sinh ở khu vực quốc lộ 2 Đồng Nai, đồng chí Phước (Chuột) hy sinh trong trận chống càn Chen La 2 trên đất Cam-pu-chia và đồng chí Khánh Trường, Võ Văn Thời, Nguyễn Văn An quê Tiền Giang cũng đã hy sinh anh dũng...

 Trong 30 năm gần đây, có đồng chí qua đời vì bệnh tật như đồng chí Đỗ Mạnh Thứ, có đồng chí tuổi cao sức yếu gặp bệnh hiểm nghèo.

  Hàng năm, mỗi lần họp mặt truyền thống, Đoàn 707 chúng tôi lại cùng nhau ôn lại kỷ niệm sâu lắng và thắm đậm tình đồng đội, an ủi động viên cổ vũ lẫn nhau, mong cùng tiếp tục giữ gìn truyền thống và dũng khí của chiến sĩ Đoàn 707 từng vượt Trường Sơn thắng lợi. Ngày nay còn sống và làm việc, phải cố gắng cống hiến phần còn lại của đời mình cho sự nghiệp chung của quân đội và nhân dân.

  

 
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Tám, 2011, 03:32:36 pm gửi bởi macbupda » Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #15 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2011, 09:13:32 pm »

  Cuối năm 1964, tôi được Bộ Tư lệnh Miền phân công về công tác ở Phòng Tham mưu. Một lần đi chiến dịch ở Dầu Tiếng, đêm nằm nói chuyện với đồng chí Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân giải phóng Miền. Đồng chí thăm hỏi quá trính công tác và nguyện vọng cá nhân. Tôi nói, tôi từ chiến sĩ bộc phá đi lên, sinh ra có sở trường và sở thích là trực tiếp chiến đấu. Nay vào chiến trường, tôi có một nguyện vọng duy nhất được xuống đơn vị chứ không hề muốn làm cán bộ phòng ban. Tôi đề nghị đồng chí cho tôi xuống đơn vị nào, địa phương nào, mặt trận nào cũng được.

  Nhờ vậy, ngay sau chiến dịch Dầu Tiếng, đồng chí Trần Văn Trà cho tôi về ngay Trung đoàn 3, Sư đoàn 9.
  Như vậy là đã 10 năm kể từ ngày trực tiếp dẫn đại đội "đầu trọc" đánh đồi Độc Lập, Bản Kéo, Mường Thanh, nay tôi được trực tiếp chỉ huy cả trung đoàn bộ binh đánh thẳng vào các trận tiền của giặc Mỹ. Mười năm ấy là chặng đường dài, tôi được Đảng, quân đội rèn luyện, giáo dục rất nhiều.

  Lúc tôi đi B, vợ ở nhà sinh hạ thêm cháu trai Lê Anh Dũng. Đằng đẵng xa gia đình, xa quê hương 10 năm, tôi lăn lộn mỏi nẻo đường chiến trường cam go, máu lửa, đối mặt với quân thù.

  Vợ tôi, người đàn bà xuất thân từ nông thôn, vốn dĩ chất phát, hiền thục, đã phải cố gắng rất nhiều, qua bao năm tháng khó khăn cực nhọc ở hậu phương, nuôi dạy 3 con nhỏ và phụng dưỡng mẹ già. Nhờ vậy, sau ngày đất nước thống nhất, gia đình tôi được xum họp đầy đủ. Đó là công lao của người vợ đảm đang mang lại cho anh bộ đội Cụ Hồ. Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, những người mẹ anh hùng, những người vợ chung thủy, giỏi giang đã làm tròn phận sự thiêng liêng, cao cả của mình để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

  Họ xứng đáng được thưởng 8 chữ vàng mà Bác Hồ kính yêu ban tặng: ANH HÙNG - BẤT KHUẤT - TRUNG HẬU - ĐẢM ĐANG.



                                     VI. TRÊN CHIẾN TRƯỜNG MIỀN ĐÔNG NAM BỘ.


  Năm 1964, tôi vừa tròn 35 tuổi, được Bộ điều vào B2. Sau khi thành lập Sư đoàn 9 ở suối Nhung ( Phước Thành), tôi được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng một trung đoàn. Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 là đồng chí Hoàng Cầm, chính ủy là đồng chí Nguyễn Văn Tưởng, tức Hai Chân. Anh Tưởng tôi không thật rành nhưng anh Hoàng Cầm tôi đã nghe tiếng từ Điện Biên Phủ. Hồi ấy, khi tôi là "đại đội trưởng đầu trọc" trong Sư đoàn 308 thì anh là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209, Sư đoàn 312. Chính anh chỉ huy giải phóng Him Lam, tạo thế cho Trung đoàn 88 (Sư 308) và Trung đoàn 165 (Sư 312) giải quyết đồi Độc Lập. Năm 1963 anh Hoàng Cầm đang làm Sư trưởng Sư đoàn 312 thì được "đi B" bằng đường công khai tới Cam-pu-chia rồi về Nam, làm Sư trưởng Sư đoàn 9 ngay từ lúc mới thành lập và mang tên mới: Năm Thạch. Suốt thời kỳ ở Sư đoàn 9 rồi Quân đoàn 4 (anh Hoàng Cầm làm Quân đoàn trưởng đầu tiên - Tháng 7 năm 1974), tôi đã học tập được nhiều điều ở anh Năm Thạch - Hoàng Cầm và các đồng chí khác. Tham mưu trưởng là anh Nguyễn Thế Bôn. Tôi biết anh Thế Bôn từ lâu. Nay làm cấp dưới trực tiếp của anh cũng dễ làm việc, đặc biệt là khi anh lên làm Sư đoàn trưởng và tôi lên làm Tham mưu trưởng sư đoàn. Anh và tôi cùng máu mê chinh chiến, ham tác chiến chính quy, bài bản và đời thường đều khoái vui vẻ, tiếu lâm, bom đạn ngập đầu vẫn không mất tiếng cười. Năm 1969 tình hình hết sức khó khăn. Anh Bôn ốm rất nặng, dái huyết sắc tố; cấp trên cấp dưới đều lo, cả sư đoàn tình nguyện hiến máu để cứu sư trưởng. Khi thảo luận quyết tâm chiến đấu, anh Thế Bôn rất chú trọng và kĩ tính với bản đồ. Biết tính thủ trưởng cơ quan. Tham mưu, Tác chiến chuẩn bị bản đồ thật công phu nhưng rồi vẫn bị anh bỏ. Có lần, bao nhiêu công sức đổ ra sông ra bể, tôi tức quá, bảo: "Tham mưu mà không vẽ được bản đồ thì làm gì. Thôi, sư trưởng làm luôn cho tiện!". Sau vụ ấy, tưởng anh Tám Bôn sẽ giận, nhưng không, lần sau, thay vì vứt bản đồ đi, anh yêu cầu Tham mưu làm lại.

  Trở lại chuyện về Sư đoàn 9 nhận công tác. Đúng lúc tôi có mặt thì Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Tạ Minh Khâm được điều về cơ quan làm tham mưu phó. Anh Sáu Khâm là bạn cũ, đích thân tôi xuống trung đoàn nhưng vừa tới nơi thì có điện Tư lệnh Trần Văn Trà gọi về. Tưởng lại phải về làm việc ở cơ quan Bộ Tư lệnh Miền, tôi hoảng hồn. Nhưng không, trên quyết định bổ nhiệm tôi làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3. Ở đây tôi gặp đồng chí Lê Thanh (chính ủy), anh Chính Hiền, trung đoàn trưởng anh Ba Hồng, trung đoàn phó; sau đó nhận bàn giao trực tiếp của ah Chính Hiền. Vậy là từ đây tôi thực sự trở lại vị trí chỉ huy đơn vị chiến đấu như bấy lâu hằng mong ước. Ở Sư đoàn 9, tôi gặp lại những người quen cũ như các anh Tạ Minh Khâm (Sáu Khâm), Bùi Thanh Vân (Út Liêm), Nguyễn Văn Tưởng (Hai Chân), Nguyễn Văn Quảng (Năm Phòng), Nguyễn Thới Bưng (Út Thới) và Trương Văn Đàn (Năm Đàn) v.v...

  Trước ngày diễn ra trận Bông Trang - Nhà Đỏ các trung đoàn 1, 2, 3 của Sư đoàn 9 đã chuẩn bị chiến trường chờ đón đánh giặc, khi quân ta biết tin Mỹ sẽ đổ mấy lữ đoàn xuống đây để đánh vào chiến khu Đ. Tôi chỉ huy Trung đoàn 3, đồng chí Bùi Thanh Vân (Út Liêm) chỉ huy Trung đoàn 1. Những ngày nhộn nhịp chuẩn bị và bình tĩnh chờ đợi trước khi mở màn chiến dịch, lãnh đạo chỉ huy và chiến sĩ của sư đoàn có dịp tiếp xúc với các nhà báo, các nhà quay phim, các nhạc sĩ, cùng lực lượng văn công xung kích của sư đoàn và của Miền đi chiến dịch. Các anh Phạm Khắc, Hồng Sến , nhà nhiếp ảnh Chí Anh, nhà báo Đinh Phong, Ngọc Anh, Anh Ngọc đều ra sát tiền duyên cùng bộ đội. Tôi đã từng gặp anh Đinh Phong mấy lần. Có lần gặp anh trên đường hành quân, thấy anh chỉ có một chiếc dao găm để tự vệ, tôi rất lo, liền tháo dây lưng đeo khẩu súng ngắn và chiếc bi đông đưa cho anh Đinh Phong. Nhà báo thốt lên: "cám ơn anh". Tôi chúc anh "an toàn, viết tốt". Lúc anh vừa quay đi tôi chợt nhớ trong bình-toong là rượu, vội nói, giọng thân mật: "Này, cho súng nhưng trả lại tớ cái bình-toong".
 
  Với tôi, Đinh Phong là một nhà báo chiến trường xông xáo, sôi nổi, có tài lại vừa là em ruột của bác sĩ Nguyễn Văn Lâm, người đồng đội trong đoàn cán bộ 707 vượt Trường Sơn đi "B" cùng tôi.

  Mãi tới bây giờ, mỗi khi gặp lại Đinh Phong, tôi vẫn nhớ mãi câu chuyện "cho súng, không cho bình-toong rượu" của mình.

  Tôi vào miền Đông Nam Bộ được gần một năm, cũng là lúc quân ta chuẩn bị các trận đánh lớn ác liệt, đối mặt với quân thù trong mùa khô năm 1965-1966. Lúc này kẻ địch đã tăng cường tối đa hỏa lực, đủ cả pháo binh, xe tăng, thiết giáp, không quân chiến lược, kể cả B52.

  Chúng thay đổi thủ đoạn tác chiến, gây cho ta những tổn thất và khó khăn nhất định. Đầu năm 1966, Bộ Tổng tư lệnh điều vào chiến trường B2 những đơn vị thiện chiến như Trung đoàn bộ binh 141, Trung đoàn bộ binh 165 (Sư đoàn 312), đó là những đơn vị lừng lẫy chiến công trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân đội ta.

  Tôi chỉ huy trung đoàn đánh trận dã ngoại Bầu Bàng, sau đó trận tập kích quân Mỹ tại Bông Trang - Nhà Đỏ. Chiến thắng Bầu Bàng để lại trong ký ức tôi những kỷ niệm đáng nhớ. Hồi đó, sau chiến thắng Play Me - Vạn Tường, Bầu Bàng là đòn đánh phủ đầu trực tiếp vào quân đội viễn chinh Mỹ. Sau 3 giờ chiến đấu, chúng tôi đánh thẳng vào sở chỉ huy của cụm đóng quân dã ngoại. Trung đoàn đã thọc sâu đánh trúng vào sở chỉ huy và đài thông tin địch. Bộ đội bất ngờ và dũng mãnh hiệp đồng chia cắt quân địch thành nhiều mảng, làm chúng rối loạn, hoảng sợ. Gần 2000 lính của sư đoàn "Anh cả đỏ" bị thương hoặc bỏ xác nơi chiến trường, 30 xe tăng xe bọc thép bị phá hủy. Đó là lần đầu tiên lực lượng chủ lực Miền đánh trực diện quân xâm lược Mỹ với quy mô lớn nhất, tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, thu được thắng lợi vang dội. Cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 9 vô cùng tự hào về chiến thắng Bầu Bàng được vinh dự đi vào thơ chúc Tết của Bác Hồ:
   "Nhiều Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Play-me, Đà Nẵng"/ Giặc Mỹ leo cao ngày càng thua nặng.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #16 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2011, 11:55:01 am »

  Ngày nay những kỷ niệm về Bầu Bàng cũng như Bông Trang - Nhà Đỏ - Dầu Tiếng còn in đậm trong ký ức tôi. Những ngày tháng gian lao, hào hùng nhưng đầy thử thách và khốc liệt trong thời quân ta "tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt:, thắng lợi trong trận Bầu Bàng chứng minh luận điểm "dám đánh Mỹ sẽ tìm ra được cách đánh Mỹ và sẽ thắng Mỹ" mà đồng chí  Đại tướng Nguyễn Chí Thanh từng nêu lên. Ngày 3 tháng 6 năm 1966, Sư đoàn bộ binh 7 ra đời gồm 2 trung đoàn 141, 165, rồi đến giữa năm 1968, trung đoàn 209 vào chiến trường, được về Sư đoàn 7; như vậy là cả 3 trung đoàn của Sư đoàn 312 thời kháng chiến chống Pháp, nay vào chiến trường chống Mỹ lại tập hợp trong đội hình Sư đoàn bộ binh 7 - Sư đoàn Chiến thắng của Miền Đông Nam Bộ. Năm 1967, từ Trung đoàn 3 Sư đoàn 9, tôi được điều động về làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 141 của Sư đoàn 7.

  Đơn vị chúng tôi chuyển về Tây Ninh - Bình Long, chiến đấu trong đội hình của khối chủ lực Miền.

  Miền Đông Nam Bộ, miền đất gian lao mà anh dũng, vang dội chiến công, từ nay lại đùm bọc và nuôi dưỡng thêm những đứa con trung thành và dũng cảm quyết hy sinh chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ Quốc. Đó là những đơn vị chủ lực đã lớn mạnh  như các Sư đoàn 9 - Sư đoàn 7 - Sư đoàn 5, những đơn vị xây đắp nền móng cho sự ra đời của một binh đoàn chủ lực sau này của miền Đông và cả chiến trường Nam Bộ - Binh đoàn Cửu Long - tức Quân đoàn 4 Anh hùng bây giờ.

  Bộ đội được đồng bào chăm lo đùm bọc, yêu thương vô hạn. Tình cảm cao quý xuất phát từ lòng yêu nước thiêng liêng của nhân dân Việt Nam nói chung, của đồng bào các dân tộc ở miền Đông Nam Bộ nói riêng. Trong đạn lửa và bão táp của chiến tranh cách mạng, quân đội ta tồn tại, phát triển và trưởng thành khắp các chiến trường đều nhờ vào lòng dân, dựa vào sức dân và tinh thần đoàn kết quân dân keo sơn như máu thịt.

  Tôi được sống nhiều năm cùng đồng bào đồng chí ở miền Đông Nam Bộ , cũng là người có mặt từ đầu trong đội quân chủ lực Miền, liên tục tham gia chiến đấu trên chiến trường này, nên vô cùng thấm thía. Tôi luôn mang theo lòng tri ân, kính mộ đồng bào các dân tộc ở vùng căn cứ cách mạng anh hùng nơi đây.

  Sư đoàn 7 sau khi thành lập, đã xuất trận chiến đấu trực tiếp với đội quân xâm lược Mỹ. Bấy giờ quân viễn chinh Mỹ trên chiến trường lên tới 30 vạn tên.

  Tập trung 20 vạn quân, Mỹ - ngụy mở cuộc phản công chiến lược lần thứ 2, có tên Át-tơn-bo-rơ đánh vào căn cứ Dương Minh Châu.

  Tiếp theo, chúng mở cuộc hành quân, tổ chức trận càn lớn mang tên Sê-đa-phôn đánh vào Củ Chi, Bến Lức, Bến Súc. Sư đoàn 9 Quân giải phóng đã đập tan mọi kế hoạch của chúng.

  Tháng 2 năm 1967, quân Mỹ mở cuộc càn quét lớn mang tên Gian-xơn Ci-ty. Viên tướng Oét-mo-len (C.Westmoreland) đã huy động 4 5000 ngàn quân lính,11.000 xe cơ giới, 600 máy bay các loại cùng 200 khẩu pháo để tiến công. Dựa vào thế trận để chuẩn bị, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 đã đập tan, làm thất bại hoàn toàn âm mưu tiến công của địch. Đánh bại cuộc càn quét quy mô chưa từng có này, quân dân ta đã làm sụp đổ và phá sản hoàn toàn cuộc phản công chiến lược lần thứ 2 của Mỹ, góp phần to lớn và cơ bản làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.

  Cuối năm 1967, và tháng 1 năm 1968, hướng tới cuộc tấn công qui mô lớn vào Tết Âm Lịch năm sau, khắp các chiến trường đều sôi sục. Ở chiến trường B2, khẩu hiệu "Tiến về đồng bằng giải phóng thành phố" càng thôi thúc trong lòng mỗi người. Mặt trận B2 có thêm 2 trung đoàn hỏa tiễn, các đơn vị được bổ sung quân số và súng đạn. Mục tiêu số 1 của cuộc tổng tấn công và nổi dậy là Sài Gòn - Gia Định.

  Đêm rạng sáng ngày 30 tháng 1 năm 1968, là đêm giao thừa Tết Mậu Thân, các chiến trường phát hỏa. Trong lúc các đơn vị đánh lớn và tiến về Sài Gòn, thì nhiệm vụ của Sư đoàn 7 là chốt chặn đường 13, đoạn từ Bầu Bàng - Bến Cát đến đường 16 đi Tân Uyên, nhằm ngăn chăn Sư đoàn bộ binh 1 và Trung đoàn thiết giáp 11 của Mỹ về cứu viện Sài Gòn. Trận chiến đối kháng ở đây cực kỳ ác liệt. Chúng tôi đã đội bom đạn của kẻ thù, tổ chức chốt kết hợp với vận động tấn công, quần nhau với địch. Có một chuyện vui trong chiến dịch này mà đến nay tôi vẫn nhớ như in, đó là Phó Tư Lệnh Quân giải phóng B2, Lê Trọng Tấn xuống kiểm tra. Anh hỏi tôi:

  - Cả hai chiến đoàn nó xuống, cậu lấy gì chặn?

  - Báo cáo anh, phải cắt nó làm nhiều đoạn.

  - Cắt bằng gì?

  Câu hỏi nhằm ngay chỗ bí, nên tôi đành nói thật:

  - Dựa vào lòng dũng cảm hy sinh, cộng với linh hoạt sáng tạo sử dụng lực lượng và hỏa lực đang có trong tay.

  Không ngờ Phó Tư Lệnh truy tiếp:

  - Thằng nào lập kế hoạch này?

  - Báo cáo anh, thằng Miền. Anh chứ ai!

  Đến đay thì anh dịu hẳn đi, tình thương yêu hiện rõ nơi ánh mắt:

  - Không, mình ở hướng Đông cơ. Nhiệm vụ trên giao, cố gắng phấn đấu.

  Khi làm Đại đội trưởng, Đại đội 211, tôi đã ước có ngày ngồi vào ghế sư trưởng như anh Lê Trọng Tấn. Mừng chiến thắng Điện Biên ở Mường Thanh ngày 13 tháng 5 năm 1954, tôi không chỉ thấy anh mà còn thấy cả Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Bây giờ tôi đã là Sư đoàn trưởng, anh là Phó Tư Lệnh Miền. Trước Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), gặp tôi ở Thành Phố Hồ Chí Minh, Đại tướng Lê Trọng Tấn là Tổng Tham mưu trưởng còn tôi là Phó Tham mưu trưởng tiền phương Bộ Quốc phòng . Đồng chí Lê Trọng Tấn là niềm tự hào của Quân đội nói chung và của Sư đoàn 312 nói riêng.
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Tám, 2011, 03:31:19 pm gửi bởi macbupda » Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #17 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2012, 02:32:27 pm »

 Quay lại năm 1968, sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, tôi được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Sư đoàn 7 và có một kỷ niệm nhớ đời ở Trung đoàn 209 - đó là trận Núi Cậu (Dầu Tiếng). Nhận lệnh xuống giúp 209, tôi đã không thường xuyên tự dặn mình rằng mới ở Bắc vào, chưa có kinh nghiệm chiến trường, dễ xảy ra bố phòng không khoa học, cảnh bị thiếu chu đáo. Tối hôm đó cán binh đều chủ quan, liên hoan một bữa rau càng cua xào thịt heo cuốn bánh tráng rồi lăn ra ngủ như chết bởi vừa trải qua cuộc hành quân chiến đấu căng thẳng. Rạng sáng, nghe tiếng động cơ thì xe tăng địch đã lù lù trước mặt. Sư đoàn 4 Mỹ tấn công rồi! Tiểu đoàn 7 dính. Trong thế bị động, đơn vị phải rút. May mà chỉ huy Mỹ không gan, nếu vào tôi, tôi sẽ dùng kế Khổng Minh cho Quan Công phục binh ở Hoa Dung tiểu lộ, nhất định Trung đoàn 209 sẽ ... bể!

 Về nơi an toàn, tôi kiểm tra, tổng hợp rồi báo cáo Sư đoàn trưởng Nguyễn Thế Bôn, Chính ủy Vương Thế Hiệp, xin bổ sung quân số, vũ khí đạn được và phương tiện thông tin liên lạc để tổ chức đánh Mỹ ngay. Chắc sợ tôi cay cú làm ẩu mà anh Tám trả lời cả 3 thứ đều không có. Tôi bốc máu nóng lên đầu nhưng vẫn kịp nhớ mình vừa rút chạy và anh Tám rất nguyên tắc, đành đấu dịu bằng câu nói đùa: " Sư trưởng thêm cái lắc "đặc sản" nữa cho đủ "bốn lắc".

 Kỷ niệm nhớ đời thứ hai, cũng năm 1968, là với Trung đoàn 141, khi tập kích quân Mỹ ở Lộc Ninh. Chính ủy Vương Thế Hiệp gọi tôi lên nói, có một tiểu đoàn Mỹ đang hành quân dã ngoại ở Lộc Ninh. Sư đoàn định sử dụng 3 tiểu đoàn Quân giải phóng (Trung đoàn 141) tiêu diệt nó. Trung đoàn trưởng Doãn Khiết ốm, tôi xuống chỉ huy thay. Tôi vui ra mặt, nhận lệnh đi liền, trước khi đi tôi không quên nhắc đồng chí Nhung, trợ lý tác chiến mang thêm bình-toong rượu. Tôi có tật đánh nhau hay nhấp ngụm nước cho mát giọng và nhai vài búp ổi non cho tỉnh. Thói quen thứ hai là đi với trinh sát đến tận thực địa quan sát rồi mới hạ quyết tâm.

 Lần này cũng vậy, mắt nhìn rõ Mỹ đào chiến hào, giao thông hào đỏ lừ ở chân đồi cách con suối không xa. Về chỗ tập kết quân, tôi gọi điện cho Sư đoàn trưởng và Chính ủy: "Tôi sẽ bóp tiểu đoàn Mỹ này". Đêm sắp đến giờ G. (Giờ nổ súng tập kích), để chắc ăn, tôi cho trinh sát lên kiểm tra trước. Trinh sát báo cáo không có địch. Tôi thót tim, khi biết bị lừa thì đã muộn. Bộ đội đồng loạt ào lên, kẻ bắn găm người ném lựu đạn hô xung phong và lướt tới, nhưng đánh vào chỗ không người. Hóa ra quân Mỹ đã bí mật lội qua nằm im bên này suối. Tôi ra lệnh rút. Pháo địch bấy giờ mới lên tiếng chặn đường mòn. Lần này nữa, tôi thấy chỉ huy Mỹ không biết đón lõng. Trên đường rút, tôi vừa xấu hổ vì đã cẩn thận thế còn bị địch lừa vừa uất vì qua trăm trận còn dại, liền ngửa cổ nốc cạn bi đông rượu. Về sở chỉ huy sư đoàn, Chính ủy nhìn thấy quay ngay mông lại. Tôi im lặng sẵn sàng chịu lôi đình ... Tôi không sợ lôi đình và biết rõ trách nhiệm của mình. Mấy ông bạn trong hội tiếu lâm trêu: "Nam Phong định bóp d. Mỹ không ngờ bị nó bóp lại, đau há miệng mà không dám kêu". Thật chỉ muốn chui xuống lỗ nẻ!

 Là người lính trận mạc, sau này tôi vẫn thường tranh thủ thời gian nghe đài, đọc các sách, xem phim nói về hai cuộc chiến tranh giành độc lập và cuộc chiến bảo vệ Tổ Quốc - làm nghĩa vụ quốc tế xem họ viết gì. Có những "tác giả" cố tình xuyên tạc, bóp méo lịch sử cũng có những cây bút non nớt, thiếu vốn sống nên tác phẩm còn hời hợt. Lương tâm tôi nổi giận, phản ứng mạnh mẽ khi có kẻ bôi nhọ người lính chúng tôi và tâng bốc kẻ thù, viết sai bản chất cuộc chiến và cũng khó chịu khi có người nói lính Pháp và lính Mỹ đều kềnh càng, ngớ ngẩn, lính cổ da Mỹ (lính thủy quân lục chiến) công tử bột. Quân đội Mỹ chỉ biết ăn đồ hộp, nhai kẹo cao su và chờ trực thăng chở nước từ Hô-nô-lu-lu (Honolulu) sang làm mưa để tắm thôi, chẳng biết đánh chác gì. Cả Mỹ và Ngụy, chỉ huy thì dốt mà lính thì nhát vân vân và vân vân. Còn ta, dùng chông tre, ong vò vẽ, phân trâu cũng thắng được địch.

 Trong chiến tranh, có thể ta phải tô đậm mảng này làm nhạt mảng kia để động viên sĩ khí, nhưng cũng phải chừng mực. Nay chiến tranh đã lùi xa, người cầm bút hãy cố gắng tái tạo cuộc chiến như nó vốn có. Dù thế nào cũng phải thừa nhận, thế kỷ trước, do sự sắp đặt oái oăm của lịch sử, Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia, những đất nước không rộng người không đông, kinh tế kém phát triển, đã phải đụng độ với hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Pháp là thực dân cáo già, tham lam còn Mỹ là một đế quốc cực kỳ giàu có, hiện đại, bài bản, thực dụng và ... không kém phần ranh ma. Có ý kiến cho rằng quân Mỹ rất máy móc, điều đó chỉ đúng với bọn sỹ quan, binh lính mới sang Việt Nam. Thực ả chỉ huy Mỹ khá thông minh được đào tạo tốt, thực dụng, rút kinh nghiệm và thay đổi cách đánh, thay đổi thủ đoạn nhanh. Quân đội rất cơ động, phản ứng mau lẹ, hỏa lực phát huy uy lực kịp thời.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #18 vào lúc: 19 Tháng Mười, 2012, 12:41:37 pm »

 Với một đối thủ mạnh như vậy, làm sao ta thắng - đó là một bài toán cực khó. trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, nhất là chống Mỹ, từ các đồng chí trung ương đến người dân thường, từ các tư lệnh người chiến sĩ đã chung sức chung lòng tìm đáp số. Tôi nghĩ, Đảng, Bác Hồ giỏi ở chỗ tập trung trí tuệ của toàn dân tộc để tìm ra lời giải để thắng Pháp và thắng Mỹ. Không phải ngay khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam trực tiếp tham chiến. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã có được khẩu hiệu "nắm thắt lưng Mỹ mà đánh" hay "tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt", nhưng lúc đó anh đã nêu được phương châm chỉ đạo rất sáng suốt: "Cứ đánh Mỹ đi rồi sẽ tìm ra cách đánh". Và khi một chiến sĩ đã trực tiếp đánh được Mỹ rồi, trả lời Đại tướng: "Đánh Mỹ phải đánh thật gần, luôn bám chặt lấy chúng để hạn chế được phi pháo địch" thì Đại tướng Nguyễn Chí Thanh "chớp" ngay được đáp án: "Nắm thắt lưng Mỹ". Tôi cũng như vậy, (dĩ nhiên ở tầm thấp hơn), từ thực tế đánh nhau với Mỹ, tôi tìm ra cách tránh chỗ mạnh của họ. Phi pháo Mỹ là chỗ mạnh đáng gờm, bởi nó nhanh, chính xác và dữ dội như bão lửa. Để tránh phi pháo Mỹ (và cả ngụy), đánh mà san bằng được trận địa thì rút nhanh theo con đường bất ngờ nhất. Đánh không dứt hết thì không rút ngay, dừng lại ép sát, đợi phi pháo địch dập nát chung quanh và đường về rồi mới rút. Nhờ hiểu được sức mạnh và thói quen của Mỹ mà nhiều phen tôi đã "dĩ dật đãi lao". Lại nữa, nên hiểu rằng đánh Mỹ là phải huy động tổng lực của toàn dân tộc, có dùng chông tre, ong vò vẽ, muỗi mòng, phân trâu vv... nhưng không thể thiếu Mích, SAM, xe tăng, pháo lớn.

 Ngoài sức mạnh quân sự còn phải huy động tối đa ưu thế chính nghĩa của ta trong hoạt động chính trị, ngoại giao; huy động sức mạnh của phe Xã hội chủ nghĩa và loài người tiến bộ, kể cả nhân dân Pháp và Mỹ.

 Đánh giá thấp kẻ thù là tự hạ thấp mình.

 Mặt khác, nói "trăm trận trăm thắng" phải nhớ gắn bó với vế trước trong câu nói của nhà quân sự thiên tài Tôn Vũ: "Biết người, biết mình", "Tri bỉ tri kỉ" mới có "Bách chiến bách thắng". Ta thắng được Pháp, được Mỹ vì ta đánh giá đúng mặt yếu và cả mặt mạnh của họ. Tôi nhớ hồi đó, nói về mặt mạnh của Mỹ ta thường thêm "mặt mạnh tạm thời" cho kín kẽ. Người bình luận nói vậy rồi còn phân tích sâu thêm: Nếu ta khéo điều hành thì sẽ chuyển hóa mặt mạnh của Mỹ thành mặt yếu của chúng. Tài thật!

 Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân thực sự đã làm rung chuyển nước Mỹ, buộc lầu Năm góc phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán và tổng thống Lin-đơn Giôn-Xơn (Lydon B.Johnson) không ứng cử nhiệm kỳ hai. Thắng lợi Xuân 1968 có tầm chiến lược thì đã rõ. Tuy vậy, đánh giá cho thật khách quan, khoa học thật đầy đủ và toàn diện nó là cả một vấn đề, cần phải có thời gian và sự đầu tư về trí tuệ. Tôi có may mắn được dự nhiều cuộc hội thảo "Xuân 68" ở nhiều cấp, trong lòng đau đáu một lỗi lo, thời gian trôi mau, nhiều người góp phần quan trọng chủ chốt làm lên chiến thắng Mậu Thân và những chứng nhân lịch sử khác sẽ vê cõi vĩnh hằng ...

 Đến cuối tháng 4 năm 1970, Tổng thống mới của Mỹ là Ních-xơn (R.Nixon) ra lệnh huy động 34% lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam, tiến công trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Camphu-chia.

 Sư đoàn 7 chúng tôi cùng Sư đoàn 9 phối hợp với các đơn vị chủ lực cấp lữ đoàn của bạn, cùng đồng bào các dân tộc Camphu-chia, chủ động và kiên quyết phản công, tiến công địch, loai khỏi vòng chiến đấu 4 vạn tên, giải phóng một vùng rộng lớn gồm hàng chục tỉnh sát biên giới, tạo nên một hậu phương vững chắc rộng lớn cho cách mạng Việt Nam và Camphu-chia.

 Tuy bị thất bại nặng nề, đế quốc Mỹ không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược. Đầu năm 1971, dưới sự chỉ huy và chi viện của Mỹ, cùng một lúc quân địch mở 3 cuộc hành quân chiến lược:

 - Đường số 9 Nam Lào.

 - Tây Nguyên.

 - Đông Bắc Cam-pu-chia.

 Các sư đoàn 9, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7 lại chặn đánh địch trên toàn tuyến, từ đường 22 lên đường 7 đi xuống Chúp, đường liên tỉnh số 2 đi Xơ-nun, đánh bại cuộc hành quân lên vùng đông Bắc Cam-pu-chia của quân ngụy Sài Gòn.

 Chúng ta rút kinh nghiệm kịp thời, lập cơ quan chỉ huy tiền phương (thống nhất) của Bộ Tư lệnh Miền (vào ngày 17 tháng 3 năm 1971) mật danh là "Đoàn 301". Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, một cơ quan chỉ huy cấp quân đoàn được thành lập. Lực lượng Đoàn 301 gồm Sư đoàn 9, Sư đoàn 7, Sư đoàn 5 và Trung đoàn pháo binh 28, một tiểu đoàn súng máy phòng không và các đơn vị binh chủng phục vụ.

 150 ngày đêm trong chiến dịch Nguyễn Huệ (đường số 13) để lại trong tâm khảm tôi những hình ảnh và kỷ niệm sâu đậm của một đời chiến trận.

 Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 tăng cường cho Sư đoàn bộ binh 5, tiêu diệt một chiến đoàn thiết giáp ngụy ở bắc Lộc Ninh. Sư đoàn bộ binh 5 tiêu diệt chiến khu Lộc Ninh. Trung đoàn 209 thuộc Sư đoàn bộ binh 7 tăng cường cho Sư đoàn 9 tiêu diệt chiến đoàn 52 ngụy ở ngã ba Đồng Tâm.

 Tháng 3 năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.

 Ở miền Đông Nam Bộ, chiến dịch Nguyễn Huệ bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 năm 1972. Sư đoàn 9, Sư đoàn 7 và sư đoàn 5 mở hướng tiến công chủ yếu, đột phá tuyến phòng thủ của địch trên đường 13, sau khi Sư đoàn 5 cùng Trung đoàn 209 của Sư đoàn 7 diệt gọn bọn địch đóng tại Đồng Tâm, giải phóng huyện Lộc Ninh. Đến tháng 5 năm 1972, quân địch tăng cường chi viện và tiếp tế cho An Lộc, chúng phản kích quyết liệt để giải phóng đường 13. Sư đoàn 5 giải phóng Lộc Ninh, Trung đoàn 209 (Sư 7) diệt chiến đoàn 52 tại Hồng Tâm, Sư đoàn 9 làm lực lượng dự bị, đã đánh chiếm Hớn Quảng.

 Bộ Tư lệnh Đoàn 301 quyết định chuyển từ tiến công sang bao vây, kiềm chế địch ở An Lộc, tổ chữ đánh xuống trung tuyến, dựng trận địa chốt chặn trên đường 13, không cho địch cứu nguy cho An Lộc. Nhiệm vụ tổ chức chiến đấu từ thị xã Bình Long tới Chơn Thành, dài 25km được giao cho Sư đoàn 7. Khi tôi thay cho Sư đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy, lên Bộ Tư lệnh Miền báo cáo quyết tâm, Tư lệnh trưởng Trần Văn Trà nghe xong, nói: "Nhiệm vụ chốt chặn đường 13 rất quan trọng và rất khó khăn. Tớ mà có một sư đoàn nữa sẽ giao cho cậu".

 Trong cuộc đời chiến trận kéo dài gần 30 năm của tôi có biết bao kỷ niệm, bao dấu ấn hào hùng oanh liệt lẫn với bao hình ảnh bi tráng trên mọi chiến trường.

 Những đồng đội cùng vào sinh ra tử, những anh hùng dũng sĩ đã lẫm liệt hy sinh trong những giờ phút khốc liệt của chiến tranh.

 Từ Điện Biên Phủ năm xưa xuống đến đường 13 hôm nay, tôi đã trải qua gần 20 năm rèn luyện thử thách, vượt qua mọi gian nguy, hiểm nghèo, cùng đồng bào đồng chí xốc tới ...

 Giờ đây, trên đường 13 máu lửa, sư đoàn chúng tôi sẽ đối mặt với một đội quân hung bạo, được trang bị vũ khí hiện đại và tối tân.

 Đây là những trận đánh kéo dài, liên tiếp, với cường độ bão lửa to lớn, giằng co, khốc liệt ...
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #19 vào lúc: 19 Tháng Mười, 2012, 02:31:51 pm »

 Nó khắc sâu vào tâm khảm tôi nhiều kỷ niệm, đồng thời để lại cho tôi nhiều bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu về thực tế chỉ huy chiến đấu cũng như lý luận về nghệ thuật tác chiến của chiến tranh nhân dân. Tôi là Sư đoàn trưởng của Sư đoàn 7. Đơn vị chốt chặn chúng tôi trên chiến trường sôi sục, rực lửa ấy có ý nghĩa rất đặc biệt. Đây là tuyến bàn đạp cực kỳ quan trọng về mặt chiến lược cũng như giá trị tác chiến, chiến thuật. Nếu giữ được, quân ta có thể phát triển xuống trung tuyến; nếu mất, địch sẽ có cơ hội để chiếm lại các vùng giải phóng Lộc Ninh, Tây Ninh, Bình Long, Phước Long.

 Vì vậy, quân địch đã huy động 3 sư đoàn bộ binh (21,25,5), 2 lữ đoàn dù, 3 lữ đoàn biệt động quân, 2 trung đoàn thiết giáp cùng hàng trăm khẩu pháo, hàng ngàn lượt máy bay cùng phi pháo luân phiên và liên tục phản kích hòng đẩy chúng tôi ra khỏi trận địa chốt chặn.

 Có lúc quân địch đã chiếm được một số chốt cô lập, gây tổn thất cho các chốt còn lại. Nhưng với ý chí kiên cường, lòng dũng cảm và hy sinh, Sư đoàn 7 đã chiến đấu quyết liệt, giành giật và giữ vững từng tấc đất của trận địa, ngoan cường, đứng vững trong các chốt hầm chữ A dưới mưa bom bão đạn của quân thù.

 Khi cuộc chiến đấu đang diễn ra rất quyết liệt thì ngày 15 tháng 8 năm 1972, tôi được giao nhiệm vụ Sư đoàn trưởng thay cho anh Đàm Văn Ngụy. Đồng chí Nguyễn Hải Bằng được bổ nhiệm làm Sư đoàn phó, đồng chí Nguyễn Văn Thái được bổ nhiệm làm Phó Chính ủy Sư đoàn 7 bộ binh.

 Hơn 150 ngày đêm, Sư đoàn 7 Anh Hùng, Sư đoàn 9 Anh Hùng và Sư đoàn 5 - cả 3 đều lập thành tích kỳ diệu, nêu cao tấm gương sáng chói về tinh thần, chiến đấu ngoan cường, sự hy sinh oanh liệt, dũng cảm của quân đội cách mạng Việt Nam.

 Ngọn cờ Quyết chiến quyết thắng rách tươm trong đạn lửa, thấm máu bao cán bộ, chiến sĩ ta vẫn ngạo nghễ dương cao cho đến ngày kết thúc chiến dịch thắng lợi.

 Tổng kết chiến dịch, Sư đoàn 7 được thưởng cờ "Quyết chiến quyết thắng" có gắn ảnh Chủ Tịch Hồ Chí Minh; cũng giống như  năm 1954 Sư đoàn 312 được trao cờ Quyết chiến quyết thắng có gắn ảnh Bác  ở mặt trận Điện Biên Phủ.

 Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày tháng gian khổ và oanh liệt đó. Hình ảnh oai phong, dũng mãnh của hàng trăm, hàng ngàn cán bộ dũng cảm, chiến sĩ thân quý đã chiến đấu kiên cường bất khuất. Tôi càng vô cùng thương tiếc và nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ của đơn vị đã hy sinh trong chiến cuộc đường 13 năm 1972. Cũng trong những ngày đỏ lửa ấy, đồng chí Cao Xuân Tới, chiến sĩ nuôi quân, được phong tặng danh hiệu Anh Hùng của lực lượng vũ trang nhân dân.

 Hàng năm, cứ vào tháng 7 là tôi về thăm đường 13 - viếng mộ chiến sĩ, thăm đài liệt sĩ và bia tưởng niệm, khắc sâu chiến công của Sư đoàn 7 trên chiến trường năm xưa ở Tầu Ô, Xóm Ruộng.
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM