Tunguska
Global Moderator
Bài viết: 519
|
|
« Trả lời #29 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 04:55:36 pm » |
|
CHIẾN DỊCH SA THÀY (Tiến công, từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 6 tháng 12 năm 1966)
Tháng 10 năm 1966, trong chỉ thị của Quân ủy Trung ương chỉ rõ "... Tây Nguyên là một chiến trường ta có điều kiện đánh tiêu diệt vừa và lớn, có điều kiện giữ ưu thế chiến dịch dài ngày, có thể thu hút và giam chân nhiều lực lượng địch...". Từ chỉ thị này, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 5 đã giao nhiệm vụ tác chiến cho các mặt trận. Căn cứ vào nhiệm vụ của Quân khu giao, Đảng ủy và Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định mở chiến dịch tiến công địch trên hướng Sa Thày (Chú thích: Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên: đồng chí Chu Huy Mân. Tư lệnh kiêm Chính ủy mặt trận.) nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, cụ thể từ 2 - 3 tiểu đoàn Mỹ, từ 3 - 5 tiểu đoàn ngụy, hỗ trợ cho phong trào phá ấp, giành dân của địa phương, thu hút và giam chân chủ lực địch để phối hợp chặt chẽ với các chiến trường trên toàn miền đánh bại cuộc phản công của địch.
Khu vực tác chiến chủ yếu xác định khoảng 500km2 nằm trên địa bàn huyện Sa Thày và một phần tây bắc huyện Chư Păh. Cụ thể từ biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia đến đường 15 từ Sùng Lễ đến Sùng Thiện. Địa hình có hai phần tương đối rõ rệt: từ sông Sa Thày đến sông Pô Kô núi cao liên tiếp thành dãy, ở khu vực phía tây cứ điểm Plây Jirăng có một số núi thấp, gần sát sông Sa Thày có một số bãi trống; từ sông Sa Thày đến sát biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia là rừng bằng, cây thưa có nhiều bãi trống, rất có thể địch sẽ lợi dụng đổ quân bằng máy bay lên thẳng. Đường bộ, phía bắc có đường 18, phía nam có đường 19. Đường thủy, có 2 con sông chảy dọc theo địa bàn mở chiến dịch, nước chảy xiết, sông Sa Thày rộng từ 100 đến 200m, sông Pô Kô từ 300 đến 500m.
Phương châm tác chiến là đánh địch ngoài công sự là chính, thực hiện đánh phía trước, đánh bên sườn và đánh phía sau địch, kết hợp với tích cực đánh phá giao thông; bố trí có chiều sâu, có dự bị mạnh, nhử địch vào sâu để tiêu diệt.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm sư đoàn bộ binh 1 (Chú thích: Sư đoàn bộ binh do đồng chí Hoàng Kiện. Tư lệnh; đồng chí Huỳnh Đắc Hương. Chính ủy.), trung đoàn bộ binh 95 (do đồng chí Lê Khắc Cần, trung đoàn trưởng; đồng chí Nguyễn Hữu Hưu, phó chính ủy), tiểu đoàn cối 120mm, 2 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm, đây là lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu của chiến dịch (ở khu vực tây cứ điểm Plây Jirăng gồm 4 khu: khu A, khu B, khu C và khu D) (Chú thích: Bốn khu A. B. C. D là địa danh từng khu vực tác chiến do Bộ tư lệnh chiến dịch đặt.). Khu vực quyết chiến là 2 khu C, D; trong đó, trung đoàn 95 làm nhiệm vụ đánh khêu ngòi. Hai hướng phối hợp: sử dụng tiểu đoàn bộ binh 6 và 1 đại đội cối 120mm tiến công địch ở khu vực đường 18, tiểu đoàn bộ binh 101 tiến công địch ở khu vực đường 19. Thời gian chiến dịch dự kiến là 1 tháng. Ngoài ra còn huy động lực lượng 2 trung đoàn 24 và 33 hoạt động cùng lực lượng vũ trang địa phương để nghi binh, thu hút địch về bắc Kon Tum và bắc Buôn ra
Ý định chiến dịch: Đợt 1, đánh khêu ngòi, tạo phản ứng nhỏ để diệt đại đội hoặc tiểu đoàn dịch, dụ chúng vào khu B, C. Đợt 2, tập trung đánh một số trận lớn ở khu C và D. Trước khi ta mở chiến dịch, lực lượng địch ở Tây Nguyên gồm quân Mỹ có lữ đoàn 2 thuộc sư đoàn 4 bộ binh, lữ đoàn 3 thuộc sư đoàn 25 bộ binh ở Kon Tum và Tân Cảnh. Quân ngụy có trung đoàn 42 bộ binh (gồm 2 tiểu đoàn ở Tân Cảnh và 1 tiểu đoàn ở Kon Tum), 2 tiểu đoàn (trung đoàn 45 bộ binh), sư đoàn bộ sư đoàn 23 bộ binh ở Buôn Ma Thuột, 2 tiểu đoàn biệt động quân (21, 23) và tiểu đoàn 91 biệt kích dù ở Plây Ku. Ngoài lực lượng trên còn có lực lượng bảo an, dân vệ và địch có thể sử dụng từ 1 đến 2 lữ đoàn thuộc sư đoàn kỵ binh không vận, lữ đoàn 101 dù Mỹ, 1 trung đoàn quân Nam Triều Tiên và từ 1 đến 2 chiến đoàn ngụy vào tham chiến. Thủ đoạn tác chiến của quân Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên vẫn chưa thay đổi: ỷ vào sức cơ động nhanh, hỏa lực mạnh, khi phát hiện chủ lực ta, thường nhảy cóc sâu vào phía sau, thực hiện bao vây, chia cắt, chặn đường tiếp tế và hợp điểm tiêu diệt.
Sau khi có kế hoạch tác chiến, các cơ quan và đơn vị tổ chức đi nghiên cứu và chuẩn bị chiến trường. Thực hiện quyết tâm của Đảng ủy và Bộ tư lệnh mặt trận, công tác đảng, công tác chính trị đã phối hợp chặt chẽ với các công tác khác, tập trung giáo dục, động viên bộ đội, trên cơ sở hiểu âm mưu, thủ đoạn hoạt động động của quân Mỹ, phát động bộ đội thực hiện dân chủ quân sự đề xuất được nhiều mưu kế nghi binh thu hút dịch và đánh địch sáng tạo. Thời kỳ này việc bảo đảm hậu cần là một công tác khó khăn, nhưng Đảng ủy và Bộ tư lệnh mặt trận và các địa phương đã huy động đồng bào căn cứ huyện Chư Prông, Chư Păh (Gia Lai), huyện Sa Thày (Kon Tum) đi dân công hoả tuyến gùi gạo, đạn và các cụm kho chiến dịch, trong điều kiện phải giữ bí mật tuyệt đối. Cho đến ngày nổ súng, hướng chủ yếu của chiến dịch đã nhận đủ 1.005 tấn gạo, thực phẩm và súng đạn bảo đảm cho bộ đội hoạt động. Ở các hướng phối hợp, trung đoàn 24 và trung đoàn 33 cùng lực lượng vũ trang địa phương bắt đầu hoạt động thu hút địch về bắc Kon Tum và bắc Buôn Ma Thuột.
Chiến dịch chia làm 3 đợt. Đợt 1, từ ngày 18 đến 29 tháng 10 năm 1966. Ngày 18 tháng 10 năm 1966, tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn bộ binh 95 tổ chức pháo kích và bao vây đồn biệt kích biên phòng Plây Jirăng mở màn chiến dịch. Các đơn vị công binh và thông tin của Mặt trận phối hợp với trung đoàn bộ binh 95 bắc 2 cầu treo qua sông Pô Kô và mắc đường dây hữu tuyến điện chạy dọc phía tây sông nghi binh địch.
Phát hiện chủ lực quân giải phóng, quân Mỹ vội vã mở cuộc hành quân "Pôn Ri Vơ 4" đánh vào khu vực đông và tây sông Sa Thày. Trước khi tiến quân, sư đoàn 4 Mỹ lập các trận địa pháo binh ở Sùng Lễ, Sùng Thiện, dùng máy bay B52 rải bom ở khu vực cầu treo, đặc biệt là khu vực đông bắc Plây Jirăng, cho biệt kích sục sạo phát hiện lực lượng của ta, chiếm tuyến bàn đạp ở đông sông Pô Kô. Ngày 20 tháng 10, địch dùng máy bay lên thẳng đổ 1 đại đội biệt kích xuống làng Nú. Ngày 23 tháng 10, 2 đại đội Mỹ đổ bộ xuống đông bắc Chư Bai. Ngày 25 tháng 10, 2 tiểu đoàn bộ binh Mỹ và 2 đại đội pháo được máy bay B52 và pháo binh bắn phá dọn đường đổ bộ sang khu vực tây nam Plây Jirăng.
Ngày 26 tháng 10, tiểu đoàn 2 trung đoàn bộ binh 95 tập kích 1 đại đội biệt kích ở tây bắc Plây Jirăng 10km, diệt 1 trung đội. Ngày 28 tháng 10, hai đại đội Mỹ hành quân bộ xuyên rừng tiến vào khu B và dừng lại ở B1 và B2 cao điểm 612; bị 2 tiểu đoàn 5 và 6, thuộc trung đoàn 320 tập kích diệt gọn. Cùng đêm, tiểu đoàn 2 tập kích 1 đại đội Mỹ ở bắc Sơn Ló, diệt 1 trung đội. Ngày 29 tháng 10, tiểu đội 6 thuộc trung đoàn 320 tập kích quân địch đóng ở làng Mít Dép, diệt 1 đại đội và 1 trung đội khác, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng. Đêm 29, tiểu đoàn 2 tập kích vào trận địa pháo địch ở bắc Chư Groll (khu A), phá hủy 2 khẩu 105mm, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng (sau trận này, trên đã điều tiểu đoàn chuyển thuộc trung đoàn 320). Do không nhận thức được nhiệm vụ nên trung đoàn bộ binh 320 chỉ để lại tiểu đoàn 6 ở lại đánh nhỏ lẻ còn toàn bộ trung đoàn hành quân di chuyển lên phía bắc, tách khỏi địch. Căn cứ vào tình hình cụ thể, Bộ tư lệnh chỉ thị cho các đơn vị kết thúc đợt 1 chiến dịch, củng cố và chuẩn bị bước vào đợt 2.
Trong đợt 1, các đơn vị của 2 trung đoàn 95 và 320 liên tục tập kích vào các mũi tiến công, diệt gọn từng đại đội đã gây cho địch tổn thất nặng. Thủ đoạn đổ bộ bằng máy bay lên thẳng kết hợp với từng đại đội biệt kích Mỹ hành quân bộ xuyên rừng đánh chiếm khu vực địa hình khống chế ở đông sông Sa Thày của địch đã thất bại, chúng đã cụm lại ở 2 khu vực: Đất Đỏ và điểm cao 621 (khu B), điểm cao 389, mỗi nơi địch có 1 tiểu đoàn bộ binh và 1 đại đội pháo 105mm, ở vòng ngoài có các đại đội biệt kích lùng sục. Địch đã dùng máy bay B52 đánh 4 lần dọc theo trục cơ động trung đoàn 320.
Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: địch đã phản ứng theo đúng dự kiến của ta, lữ đoàn 2 thuộc sư đoàn 4 Mỹ đã nhảy vào vòng chiến, có thể lữ đoàn 3 thuộc sư đoàn 25 Mỹ sẽ tiếp tục vào tham chiến. Nên đã lệnh cho trung đoàn 320 quay lại khu B, dùng một bộ phận nhỏ thu hút địch ra bờ sông Sa Thày cho công binh bắc một số cầu giả vượt sông tại 2 khu vực C và D.
Trước những hành động nghi binh của quân ta, địch đã cho nhiều toán quân biệt kích sục sạo ở hai bên bờ sông Sa Thày trong khu vực C và D, dùng máy bay B52 ném bom và tăng thêm quân hỏa lực ở khu vực đông Sa Thày, dùng biệt kích đánh mở đường sang bên bờ tây sông.
Đợt 2, từ ngày 5 tháng 11 đến ngày 26 tháng 1 năm 1966.
9 giờ ngày 5 tháng 11, tiểu đoàn 6 của trung đoàn 320 phục kích diệt 1 trung đội biệt kích địch ở bờ sông Sa Thày, mở màn cho đợt 2 chiến dịch. 14 giờ ngày 10 tháng 11, tiểu đoàn 9 của trung đoàn 66 phục kích tại D1 (khu D), diệt 100 tên biệt kích, bắt sống 3 tên, thu 4 súng tiểu liên. Sau đó địch đổ 1 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2 sư đoàn 25 Mỹ, 1 đại đội biệt kích và 1 đại đội pháo đóng thành 1 cụm tại bãi 10, nhưng trung đoàn 66 không nắm được địch. Ngày 11 tháng 11, một đại đội biệt kích tiến vào bãi 9, bị tiểu đoàn 3 trung đoàn 88 chặn đánh, diệt phần lớn đại đội này. 13 giờ, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn 2 sư đoàn 4 Mỹ, 1 đại đội biệt kích, 1 đại đội pháo 105mm, 1 đại đội cối 106,7mm đổ bộ xuống chốt cũ của chúng ở C1, điểm cao 289 (khu C). Như vậy ta đã dụ địch vào khu C theo đúng ý định của chiến dịch và cách bố trí của chúng gần đúng với dự kiến của ta. 17 giờ ngày 12 tháng 11 sau khi tiểu đoàn 32 (pháo cối) bắn gần 300 quả đạn cối 120mm và 82mm làm cho 2 đại đội pháo cối và sở chỉ huy tiểu đoàn 2 Mỹ bị tiêu diệt, bộ binh địch bị thương vong nặng, từ các hướng, các chiến sĩ trung đoàn 88 và tiểu đoàn 7 của trung đoàn 66 xung phong tiêu diệt gần hết cụm quân địch ở điểm cao 289 (còn 70 tên chạy thoát bằng máy bay), phá hủy 6 khẩu pháo 105mm, 6 khẩu cối 106,7mm, bắn rơi 7 máy bay lên thẳng. Ngày 13 tháng 11, dưới sự chi viện không quân, 1 đại đội Mỹ đổ bộ xuống điểm cao 289 nhặt xác đồng bọn rồi rút.
Cùng lúc, ở phía nam điểm cao 289, tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 tiến công diệt gọn 1 đại đội Mỹ. Cùng ngày, tiểu đoàn 1 thuộc lữ đoàn 3, sư đoàn 25 Mỹ đổ bộ xuống khu D, chúng cho 1 đại đội lùng sục ra phía tây khu D, bị 2 tiểu đoàn 8 và 9 của trung đoàn 66 diệt gọn. Ngày 16 tháng 11, địch phải điều lữ đoàn 2 thuộc sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ đến. Ngày 19 tháng 11, hai đại đội thuộc tiểu đoàn 1, lữ đoàn 3, sư đoàn 25 Mỹ tiến vào đúng khu vực do tiểu đoàn 8 bố trí, bị diệt gần hết (còn 40 tên lên máy bay chạy thoát). Ngày 22 tháng 11, tiểu đoàn 8 (trung đoàn 66) đánh tiếp 1 trận ở tây khu D, diệt 59 tên Mỹ (xác chết có phù hiệu kỵ binh không vận), bắn rơi 3 máy bay lên thẳng. Điểm cao 346 (khu D) và điểm cao 300 (khu C), mỗi nơi khoảng 1 tiểu đoàn bộ binh và 1 đến 2 đại đội pháo 105mm. Ngày 24 tháng 11, địch đổ tiếp 2 tiểu đoàn Mỹ xuống nam và bắc khu B, bị trung đoàn 320 bằng các trận đánh nhỏ liên tục tiến công tiêu hao nên chúng chùn lại. Do có khó khăn về lương thực nên Bộ tư lệnh chiến dịch rút 2 trung đoàn 95 và 320 về khu vực xóm 10 cũ, chỉ để lại tiểu đoàn 6 đánh nhỏ ở các khư vực làng Nú và đường 5B cho đến hết chiến dịch.
Trên khu vực đường 19, tiểu đoàn 101 đánh nhỏ, uy hiếp tây Thăng Đức bằng bắn máy bay, phục kích, buộc địch phải đổ bộ 1 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2 sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ xuống Thăng Đức vào ngày 21 tháng 11. Tiểu đoàn 101 tổ chức tập kích ngay khi địch vừa đổ quân, diệt 1 đại đội
Trên khu vực đường 18, ngày 15 tháng 11, tiểu đoàn 6 phục kích địch ở Plây Cần diệt 1 trung đội và liên tục bám địch đánh nhỏ để bảo vệ nhân dân thu hoạch lúa. Ngày 2 tháng 11, đại đội cối 120 bắn vào cụm quân địch tại Plây Dốc diệt 50 tên, phá hủy 1 pháo 105mm. Ngày 25 tháng 11, Đốc binh cùng du kích phục kích địch tại Cần Can, diệt 4 xe GMC. Để phối hợp với chiến dịch, đêm 26 tháng 11, ta tổ chức pháo kích diệt địch ở Plây Me và phục kích chúng trên đường từ Phù Mỹ về Plây Me.
Bộ tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị kết thúc đợt 2 của chiến dịch, củng cố, rút kinh nghiệm để bước vào đợt 3 và nhận định: địch ở trong khu chiến cụm lại ở điểm cao 346 (khu D) và điểm cao 300 (khu C), chúng mới hình thành một cụm ở Bơn Lơn. Ở phía bắc khu B xuất hiện 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận, trung đoàn 42 ngụy tiến ra Plây Leng, Plây Ke ... Sắp tới có thể địch sẽ dùng lữ đoàn 101 dù Mỹ với âm mưu và thủ đoạn mới, nên Bộ tư lệnh quyết tâm dụ địch vào khu C khu D để đánh một trận lớn nữa và kết thúc chiến dịch.
Đợt 3, từ ngày 2 tháng 12 đến ngày 6 tháng 12 năm 1966.
Liên tiếp bị đánh đau, địch dùng máy bay B52, máy bay phản lực và pháo binh yểm trợ tích cực cho bộ binh (bình quân mỗi ngày địch ném xuống khu chiến hơn 100 tấn bom và bắn hơn 100 tấn đạn pháo, trong toàn chiến dịch địch đã sử dụng 306 lần chiến máy bay B52 và 10.500 tấn bom đạn). Ngày 2 tháng 12, địch dùng 110 lần chiếc máy bay lên thẳng chuyển gần 2 tiểu đoàn từ các khu B, C, D đổ bộ lên xóm 10 (Cà Đin). Ngày 6 tháng 12, một tiểu đoàn của lữ đoàn 2 sư đoàn 4 Mỹ tiến vào Cà Đin; tiểu đoàn 200 (pháo cối) tập kích hỏa lực tiêu hao nặng tiểu đoàn này. Quân địch phải kết thúc cuộc hành quân và cũng để chuẩn bị cho các nhiệm vụ tiếp theo, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh ra cho các đơn vị kết thúc chiến dịch.
Kết quả, ta đánh 34 trận, diệt 1 tiểu đoàn, 8 đại đội và 4 trung đội Mỹ tiêu hao nặng, 1 tiểu đoàn Mỹ khác, diệt 5 đại đội và 2 trung đội ngụy, tổng số 2.410 tên (trong đó có 2.050 tên Mỹ), bắn rơi 21 máy bay các loại, phá hủy 26 khẩu pháo và 28 xe quân sự, thu 68 súng các loại.
Nghệ thuật khêu ngòi, dụ địch từng bước là nét nổi bật về nghệ thuật của chiến dịch Sa Thày. Qua kinh nghiệm từ chiến dịch Plây Me, từ các cuộc hành quân Pôn Ri Vơ 1, 2, 3 của địch, Bộ tư lệnh chiến dịch đã nắm được thủ đoạn của chúng. Với khả năng cơ động cao, hỏa lực mạnh, khi địch dùng biệt kích sục sạo, phát hiện được chủ lực của ta ở khu vực nào thì chúng kết hợp các mũi tiến quân, luồn rừng và phối hợp đổ bộ bằng máy bay trực thăng xuống khu vực tác chiến tạo một thế trận bao vây ta, rồi bằng các mũi tiến công chúng hợp điểm để tiêu diệt chủ lực ta. Bộ tư lệnh chiến dịch đã có kế hoạch tỉ mỉ, chu đáo, sử dụng lực lượng thích hợp, khôn khéo khêu ngòi nhử địch bằng bao vây và pháo kích địch tại đồn Plây Jirăng, bắc cầu và rải dây thông tin ở bờ sông Pô Kô dụ chủ lực địch vào khu A và khu B để tiêu diệt (trong đợt 1).
Dụ địch vào đã khó, nhưng để diệt gọn chúng thì còn khó gấp nhiều lần, bởi vì, quân địch với quy mô lữ đoàn, chiến đoàn, lại được sự yểm hộ đắc lực của phi pháo. Bộ tư lệnh chiến dịch đã chỉ đạo tổ chức một hệ thống để dụ địch kết hợp với vận động tiến công của đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, liên hoàn có chiều sâu vài ki-lô-mét hoặc hơn chục ki lô mét, tiêu diệt từng cánh quân giải tỏa của địch. Như vậy trên thực tế hàng chục tiểu đoàn, đại đội Mỹ bị xé lẻ và sa vào lưới lửa giăng sẵn của chủ lực ta và bị tiêu diệt. Chiến thắng Sa Thày đã làm mất hiệu lực chiến thuật "trực thăng vận" của Mỹ ở chiến trường Tây Nguyên, là một chiến dịch có nghệ thuật cao, mưu hay, kế hiểm, để lại nhiều kinh nghiệm quý cho các chiến dịch sau.
(Viện Lịch sử quân sự, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, NXB QĐND, 2003)
|