Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:27:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ai là thủ phạm trong vụ án Lệ Chi Viên ?  (Đọc 132355 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
caytrevietnam
Trung tá
*
Bài viết: 471


Trồng sen trong biển lửa


« Trả lời #10 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2009, 12:38:40 am »

Giai thoại dân gian còn cho biết hậu vận của ông Nguyễn Anh Vũ, dòng máu sót lại của cụ Nguyễn Trãi.

Cuối cùng ông Vũ cũng ko tránh khỏi họa báo oán, khi đi sứ Bắc, thuyền qua hồ Động Đình 1 con rắn lớn nổi lên làm sóng trào nước cuộn dữ dội. Ông phải khấn rằng để cho mình làm xong nhiệm vụ đã. Quả nhiên sóng lặng, khi ông quay lại, thuyền chở bị sóng đánh lật úp

Đó chỉ là những chuyện nhảm nhí thôi. Dòng họ NT vẫn còn và tồn tại đến nay và có rất nhiều đóng góp với đất nước. Có thể xem ở:
http://www.nguoichilinh.com/Default.aspx?ID=0&cid=121&nid=80
http://www.nguoichilinh.com/Default.aspx?ID=0&cid=132&nid=155
http://www.nguoichilinh.com/Default.aspx?ID=0&cid=132&nid=151

Ơ, cái vụ cụ Vũ bị đắm thuyền vì giao long lật thuyền có ghi trong sách Tang thương ngẫu lục mà cụ ơi.

Tất nhiên đây là những chuyện huyền kỳ, mờ ảo làm cho 1 nhân vật, hay sự kiện nào đó được bao phủ thêm các chi tiết lung linh, kỳ lạ và hấp dẫn, cuốn hút chứ không hề nhảm nhí, vớ vẩn, linh tinh đâu ạ!  Nó cũng giống như những giai thoại , truyền thuyết về Con rồng cháu Tiên, Sơn Tinh v.v.v.
Logged

SỐNG VỮNG CHÃI 4000 NĂM SỪNG SỮNG
LƯNG ĐEO GƯƠM TAY MỀM MẠI BÚT HOA
TimeBreak
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 844



« Trả lời #11 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2009, 10:24:57 am »

Trong thời kỳ lịch sử đầu nhà Hậu Lê này, khi mà liên tiếp có sự tranh giành quyền lực khốc liệt, làm 3 vua chết trẻ liên tiếp, có thể nói các phe cánh, các mối liên hệ quyền lực trong Triều là cực kỳ phức tạp, việc đưa ra một kết luận về nghi án Lệ Chi viên cũng không phải là dễ dàng.


Sau khi dẹp loan Nghi Dân, Lê Thánh Tông đã trở thành một trong những vị Vua minh sáng tài giỏi nhất trong lịch sử VN, mở mang bờ cõi rộng lớn, gây dựng nước nhà phồn thịnh ....
Và cũng vì vậy,  em thấy lịch sử chép rất ít về Nghi Dân - Hành vi của Nghi Dân - nếu xét theo Nho học thì là đại nghịch vô đạo rồi, nhưng nếu như các bác ở trên đã nói đến : Nghi Dân thật ra là loại bỏ người ngoại tộc, giành lại ngôi vị đáng lẽ là của mình. Xét về cả lý, cả tình, đâu có gì sai?

Có chăng là vì đã có một người khác quá giỏi, quá xuất sắc, lại vốn được sự ủng hộ của các đại thần ... nên vận của Nghi Dân đành chấm dứt một cách tức tưởi như vậy.

Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, nhưng lại không mang vụ án đó ra truy cứu, đấy cũng có nhiều lý do, theo em thì là thế này :
- Nếu truy cứu ngọn ngành, ắt phần nhiều sẽ rõ ra là mẹ con nhà Bang Cơ - người thì ngoại tộc, kẻ thì mưu sát ...Vậy ra, Nghi Dân ra tay là chính danh? Mà Nghi Dân chính danh thì sẽ làm lay chuyển ngôi vị của Thánh Tông .... Vậy nên, giữ chính danh cho kẻ đã tạo cớ cho mình lên ngôi thì mình cũng mới chính danh được!
- Xưa nay, việc lật lại án - đặc biệt là án liên quan đến quyền lực chính trị - là một trong những việc có khả năng gây chấn động lớn trong toàn bộ máy, có thể lung lay cả rường cột, lại tạo nên những cơn gió tanh mưa máu, Lê Thánh Tông là người biết nhìn đại cục, bỏ qua những việc như vậy ông đã tập trung tâm trí vào cho việc kiến thiết đất nước,  mở mang bờ cõi ... biên cương thì vững chắc, trong nhà thì yên ổn ( Lê Thánh Tông đã hoàn thiện Bộ Luật Hồng Đức - một trong số ít ỏi các bộ luật hoàn chỉnh nhất thời phong kiến )...

So sánh một cách khập khiễng, thì em thấy việc Thánh Tông dẹp bỏ ân oán thanh trừng, truy cứu nội bộ, tập trung cho chấn hưng đất nước, cũng có nét giống như V. Putin khi ông này mới nhậm chức Tổng Thống từ tay B. Yeltsin, Putin thẳng tay cải cách bộ máy theo ý mình, củng cố quyền lực vào tay mình, không ngần ngại cho ra ngoài guồng máy các cá nhân không phù hợp, dù đó là con gái của B.Yeltsin ... Nhưng Putin tuyệt đối bảo vệ B.Yeltsin bằng lệnh miễn trừ hoàn toàn ... Putin đã làm đúng, giữ cho kẻ đưa mình lên được sự chính danh, thì mình cũng mới chính danh được! Ông tập trung vào chấn hưng nước Nga, dẹp nội loạn, cải cách kinh tế, và Nga bây giờ đã khác nhiều với Nga khi CCCP sụp đổ!

NHưng dù sao, với tài năng của mình, Lê Thánh Tông đã chấm dứt chuỗi huynh đệ nội tộc tương tàn đầu nhà Hậu Lê, phát triển Đại Việt thình vượng, âu cũng là cái Phúc của dân tộc Việt ta.

Chút ý kiến nông cạn, các bác xem giúp em


Lịch sử phong kiến Việt Nam quả thực là cũng hùng tráng, bi thương lắm lắm!
Tiếc là điện ảnh ta chưa đủ tâm, đủ tầm để tái hiện lại những phân khúc lịch sử này các bác nhỉ?
Sớm tối bưng bát cơm lên, mở TV ra là thấy đầu cạo trọc, tóc đuôi sam .... nản
Logged
binhdc
Thành viên
*
Bài viết: 7


« Trả lời #12 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2009, 11:26:50 am »

Em hoàn toàn đồng ý với quan điểm của bác TimeBreak ở trên.
Có một  điểm lạ là khi Nghi Dân cướp ngôi thì một sử quan lừng danh thời đó là Ngô Sĩ Liên lại không có ý kiến gì, thậm chí ông còn nhận chức quan ngự sử giữ việc đàn hặc. Phải chăng là Ngô Sĩ Liên cũng biết Bang Cơ không phải là con đẻ của Thái Tông?

Cũng chính vì điều này mà khi vua Thánh Tông lên ngôi đã có chiếu dụ trách Ngô Sĩ Liên, ĐVSKTT chép về bài chiếu dụ của Thánh Tông với Ngô Sĩ Liên như sau: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức độ, tuân theo điển cũ của thánh tổ thần tông, nên mới tế giao vào đầu mùa xuân. Các ngươi lại bảo tổ tông tế giao cũng không đáng theo!. [8b] Các ngươi bảo nước ta đời xưa là hàng phiên bang, thế là các ngươi theo đạo chết, mang lòng không vua. Vả lại, khi Lệ Đức hầu cướp ngôi, Ngô Sĩ Liên chẳng vì hắn trổ tài phong hiến1758 đó sao? Ưu đãi trọng lắm! Nhân Thọ không vì hắn trù hoạch nơi màn trướng đó ư? Ngôi chức cao lắm! Nay Lệ Đức hầu mất nước về tay ta, các ngươi không biết vì ăn lộc mà chết theo hắn lại đi thờ ta. Nếu không nói ra, trong lòng các ngươi không tự hổ thẹn mà chết ư? Thực là bọn gian thần bán nước!"

Còn về việc làm phim lịch sử thì trước cũng thấy rùm beng về việc làm phim kỷ niệm 1000 năm Thăng Long nhưng giờ không thấy nói gì lại chắc là lại bỏ rồi. Nói thật xem mấy cái phim của Trung Quốc chiếu trên truyền hình bây giờ chán bỏ xừ, nội dung thì không có gì phần lớn là hư cấu, chỉ được cái ăn mặc đẹp với đánh nhau đẹp kéo lại.
Logged
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #13 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2009, 10:57:12 pm »

Rắn Báo Oán
[/b]

Phần 1

     Về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đã có nhiều bài viết, công trình làm sáng tỏ, nhất là vào dịp kỷ niệm 600 năm, năm sinh của ông (1980).

     Về cái chết thảm khốc của Nguyễn Trãi cùng ba họ bước đầu cũng đã có người đề cập tới, chỉ ra nguyên nhân. Đó là sự tranh giành quyền lực của các phe phái trong triều ở đầu thời Lê, mà ông chỉ là nạn nhân.

     Tuy vậy, trong dân gian từ rất lâu vẫn còn lưu truyền truyền thuyết Rắn báo oán, là một cách lý giải huyền bí và có những chỗ bóp méo sự kiện ấy, do vô tình hoặc cố ý.

     Điều ấy cũng chẳng đến nỗi khó hiểu, khi áp lực của nền quân chủ chuyên chế quá nặng, đ è xuống tâm lý của mọi tầng lớp xã hội, đến nỗi ngay cả những học giả uyên bác nhất (chẳng hạn, Lê Quí Đôn) cũng không cưỡng lại được, nên vẫn có những lời dị nghị, thậm chí chê cười những hành vi của Nguyễn Trãi dẫn đến thảm họa ấy.

     Chúng tôi sẽ trình bày truyền thuyết này theo cả hai quan điểm, với hy vọng có thể tránh được những sự hiểu lầm đáng tiếc.
     Ở làng Nhị Khê (thuộc huyện Thường Tín, Hà Tây ngày nay) xưa kia có một gò đất cây cối mọc um tùm gọi là gò Rùa. Cư ngụ ở đây có một đ àn rắn mà con rắn mẹ tu luyện lâu ngày đã sắp thành tinh.

     Ngày ấy, người ông của Nguyễn Trãi từ làng Chi Ngại, Hải Dương lên đây mở trường dạy học. Ông là một nhà nho uyên bác, lại hết lòng dạy dỗ học trò, mặc dù ông chẳng đỗ đạt gì, bởi vì chưa một lần vác lều chõng vào trường thi.

     Ông có hai người con trai, một là Nguyễn Phi Khanh, cùng định cư ở làng Nhị Khê, và một người nữa, không rõ tên, sau về định cư ở làng Canh Hoạch thuộc huyện Thanh Oai (Hà Tây).

     Đoạn sau đây sẽ kể sơ qua về các đời sau của người con trai thứ hai ấy. Tuy phát tích có muộn hơn so với Nguyễn Phi Khanh nhưng không phải là không lừng lẫy.

     Ông cũng là một người đầy bồ chữ nhưng không gặp vận may, về sau gia cảnh sa xút phải làm nghề cày ruộng, tuy vậy vẫn chuẩn bị và nuôi hy vọng con cháu mình sẽ hiển đạt.

     Quả nhiên đến đời cháu ông là Nguyễn Bá Ký, đã đỗ Tiến sĩ. Con trai Nguyễn Bá Ký là Nguyễn Đức Lượng, đỗ Trạng nguyên. Con gái Nguyễn Bá Ký lấy Nguyễn Doãn Toại, sinh ra Nguyễn Thiếu, cùng đỗ Trạng nguyên. Đại Việt sử ký toàn thư đều ghi tên và năm đỗ của hai vị Trạng nguyên này. Còn ở Canh Hoạch và các làng lân cận, dân chúng vẫn tự hào đây là vùng sinh ra "Trạng cậu Trạng cháu".

     Nguyễn Thiếu sinh ra Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn, lại là hai danh tướng thời Mạc Hậu Hợp. Đặc biệt Nguyễn Quyện, bố vợ của Mạc Mậu Hợp, đã từng lập nhiều chiến công hiển hách thời Mạc. Khi Trịnh Tùng phò Lê Anh tông từ Thanh Hoá tiến đánh Thăng Long, quân của Mạc Mậu Hợp thất bại, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn đều bị bắt ( Nguyễn Quyện than: Trời để nhà Mạc mất, vì lòng người đã về với nhà Lê cả rồi! ...)

     Sau đó, theo lệnh Trịnh Tùng, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn đều bị giết, và bị tru di cả ba họ. Chỉ có một người con thứ của Nguyễn Miễn trốn khỏi được nhà giam, chạy vào vùng Nghi Xuân (Hà Tĩnh) mai danh ẩn tích. Đến đời thứ sáu thì sinh ra Nguyễn Nghiễm, đỗ Tiến sĩ. Nguyễn Nghiễm cũng còn là một danh tướng, đã làm đến chức Tể tướng. Con cả Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Khản cũng đỗ Tiến sĩ, nổi tiếng hào hoa phong nhã và ăn chơi ở đất kinh kỳ, lại có quan hệ tương giao với chúa Trịnh. Một người con thứ của Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Du, tác giả của truyện Kiều và nhiều áng thơ bất hủ. Nguyễn Du cũng như Nguyễn Trãi, đều là danh nhân văn hóa thế giới.

     Đoạn sau đây, sẽ trở lại câu chuyện về người ông của Nguyễn trãi.

     Ông thầy đồ thấy đám đất gò Rùa ở làng Nhị Khê ở vào một địa thế rất vượng. Phía trước có minh đường là một cái đầm nước lớn. Phía sau lưng có một dãy đất nhỏ thuôn như hình cái đuôi. Còn ở xung quanh, bốn phía như bốn cái chân. Phía trước lại có một mô đất nữa. Tất cả giống y một hình con rùa đang vươn tới.

     Ông đồ xin với dân làng cấp cho khu đất ấy để dựng nhà dạy học.

     Dân làng đồng ý. Thế là vào cuối một ngày, trước khi tan học, ông bảo các học trò sớm mai nghĩ học để đi san đất, phát cây, chuẩn bị dựng nhà.

     Đêm hôm ấy ông đồ nằm mộng, thấy một người đ àn bà mặt mày sát khí đằng đằng đến bên giường sừng sộ:" Này ông. Tôi không gây thù chuốc oán gì, cớ sao ông lại cho người đến đập phá nhà phá cửa của tôi?". Nói xong người đ àn bà  đi thẳng.

     Ông đồ choàng tỉnh dậy. Ông lờ mờ hiểu rằng sáng mai cái việc mà các học trò sẽ làm là không nên. Nhưng ông lại nghĩ, nếu rút lời thì các học trò và dân làng trông vào sẽ có những lời bàn ra tán vào thật bất tiện, nên cứ để xem sao đã.

     Sáng hôm sau, khi ông chống gậy ra khu gò Rùa thì các học trò đã dọn quang được một vùng nhỏ. Ông hỏi: " Các con có thấy sự gì lạ không?". Các học trò đáp:" Thưa thầy, không thấy gì ạ". Ông lại bảo: "Nếu có gì thì báo ngay cho thầy biết". Ông đứng lại đến cuối buổi để xem các trò làm, nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy điều gì lạ lùng cả. Trong thâm tâm ông nghĩ, nếu thấy ngôi mả hay dấu tích gì đó thiêng liêng thì sẽ để chừa chỗ ấy ra không đụng đến.

     Đêm hôm ấy khi ông vừa chợp mắt thì lại thấy người đ àn bà hôm qua đến bên giường. Lần này mặt u mày chau, lại còn dắt theo cả ba đứa con nữa. Người ấy năn nỉ: "Xin thầy hãy đợi cho ba hôm nữa, các con tôi cứng cáp thêm, tôi sẽ dọn đi". " Được!" Ông đồ trả lời "Chúng tôi sẽ vui lòng đợi".

     Sáng sớm hôm sau ông cho người nhà  đến báo anh trưởng tràng nói với các học trò hoãn việc làm nhà ba ngày nữa. Nhưng phần vị anh trưởng tràng chậm chạp, phần nữa, một số học trò lại quá ư sốt sắng, đi làm từ rất sớm. Mà học trò của ông đồ thì rất đông, chẳng những ở trong làng mà còn ở các làng xung quanh, nên không thể báo hết.
Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #14 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2009, 10:58:32 pm »

Rắn báo oán
[/b]

Phần 2

     Khi ông đồ và anh trưởng tràng ra tới nơi thì đã có vài học trò đang hì hục đánh gốc cây, đ ào móng nhà, san đất. Một trò chạy lại phía thầy:

     - Thưa thầy, vừa nãy chúng con đ ào thấy một cái hang rắn, trong có rắn mẹ và một đ àn con. Rắn định cắn nên chúng con đã đánh chết ba con con, còn rắn mẹ bị chém đứt đuôi, cùng mấy con con nữa chạy mất ...

     Ông đồ tái mặt lại. Ông đã hiểu. Rồi ông buồn bã tự nhủ: "Người đ àn bà  đội lốt rắn đây. Thế là ta đã không cứu được họ rồi".

     Tối hôm ấy, ông đồ đang ngồi chong đ èn đọc sách, chợt nghe phía trên có tiếng sột soạt. Ông ngẩn lên thấy có một con rắn lớn đang trườn theo mép đòn tay, đến chỗ thẳng xuống ông đặt quyển sách thì rắn chợt dừng lại, rồi lại trườn tiếp ra phía hồi nhà, đi mất. Ông nhìn vào trang sách để mở thấy có mọt giọt máu của con rắn vừa nhỏ xuống, đúng vào chữ đại, lại ngấm đến cả tờ thứ ba. Ông lắc đầu tự nhủ: "Chắc nó sẽ báo oán đến đời cháu chắt ta sau này mất". Ông buồn cho hậu thế của ông, và biếng ăn mất ngủ đến cả tháng trời ...

     Sau đó, ông đò già yếu rồi mất. Hàng chục năm bình an vô sự trôi qua. Lúc này nhà Trần đang ở vào thời kỳ mạt vận. Các tôn thất tranh giành nhau ngôi báu. Quan tư đồ Trần Nguyên Đán cũng rút lui khỏi chính trường. Nguyễn Phi Khanh lúc ấy là chàng trai trưởng thành, lại nổi tiếng hay chữ, đã lên Kinh đô rồi được vời vào dinh quan Tư đồ dạy học.

     Tại dinh quan Tư đồ, Nguyễn Phi Khanh đem lòng yêu con gái của Ngài là Trần Thị Thái rồi sinh ra Nguyễn Trãi. Đấy cũng là thời diểm nhà Trần mất nước về tay nhà Hồ. Gần hai chục năm sau, Nguyễn Phi Khanh, kẻ trước người sau, đều thi đỗ Thái học sĩ (như Tiến sĩ) rồi cùng ra làm quan cho nhà Hồ.

     Nhà Hồ giữ cũng chẳng được bao lâu thì nước ta mất về tay nhà Minh. Nguyễn phi Khanh cùng triều đình nhà Hồ bị bắt mang sang Nam Kinh. Nguyễn Trãi trốn thoát, mai danh ẩn tích, rồi sau đó cùng Trần Nguyên Hãn, cháu nội Trần Nguyên Đán tìm vào Thanh Hóa tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi. Ròng rã hàng chục năm, cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Nguyễn Trãi lập được nhiều chiến công hiển hách mà sử sách đã ghi lại.
     Đoạn sau đây sẽ kể về thời điểm đất nước thanh bình, Nguyễn Trãi đang làm quan với nhà Lê (ở thời kỳ đầu).
     Một hôm quan Hành khiển Nguyễn Trãi nhân thong thả, đang đi dạo chơi trong chợ ở Kinh thành. Cũng là một cách để xem dân chúng sinh sống và dân tình ra sao. Chợt đến cổng chợ ông thấy một người con gái mặt hoa da phấn, rõ là một giai nhân, đang đứng đọc tờ cáo thị, nhưng trên vai lại quẩy mấy đôi chiếu. Nghĩ đây cũng là sự lạ, nên ông dừng lại rồi ứng khẩu đọc một bài thơ:
Nàng ở đâu ta bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu đó hết hay còn?
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, có mấy con?
     Chẳng ngờ, khi ông vừa đọc xong thì người con gái cũng ứng khẩu đọc luôn:
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon
Việc chi ông hỏi hết hay còn
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, nói chi con.
     Nguyễn Trãi là nhà thơ. Tâm hồn ông rất dễ xúc động. Vả chăng lúc ấy ông ngoài bốn mươi tuổi, độ tuổi đang còn cường tráng.

     Ông rất cảm kích và dừng lại hồi lâu nói chuyện với người con gái. Ông biết nàng tên là Nguyễn Thị Lộ, trước kia gia tư khá giả, cũng đã từng theo đuổi bút nghiên. Nhưng gia cảnh sa sút, cha mẹ, anh em, ly tán vì chiến tranh, nàng phải ở nhờ trong nhà một người quen, làm nghề dệt chiếu để nuôi thân.

     Mừng thầm vì bấy lâu mong ước, nay gặp được người ưng ý, ông bèn ngỏ lời mời nàng về dinh và nàng cũng vui vẻ chấp nhận.

     Về dinh, Nguyễn Thị Lộ trở thành cô hầu gái giúp ông giấy tờ, sổ sách. Dần dần, đường ăn nết ở, lại đ àm luận nghĩa lý, văn chương, ông ngày càng cảm phục và  đem lòng yêu mến nàng. Phần nàng cũng rất yêu mến, quý trọng ông. Thế là ông làm lễ cưới nàng làm vợ.

     Thời ấy việc chênh lệch tuổi tác như vậy không phải là  điều bất ngờ, và viêïc một người đ àn ông, nhất là vào hàng quan lại, có nhiều vợ, cũng là chuyện bình thường. Tuy vậy, tiếng đồn về quan Hành khiển có người thiếp xinh đẹp, lại giỏi văn thơ cũng lan truyền ra khắp kinh thành.

     Lê Thái Tông, con Thái Tổ Lê Lợi, đăng quang được vài năm thì nhân trong cung thiếu người đảm đương chức nữ học sĩ, đã xuống chiếu bổ dụng Nguyễn Thị Lộ vào chức vụ này.

     Vào trong vương phủ, Nguyễn Thị Lộ chẳng những dạy bảo cung nữ học hành đến nơi đến chốn mà còn được cả hoàng tộc nể vì, về tư chất, về cả tài năng. Nguyễn Thị Lộ, ngoài chức phận Nữ học sĩ, còn biết cả nhiều bài thuốc quý, và một lần đã chữa cho Hoàng thái hậu khỏi đau mắt.

     Nguyễn Thị Lộ vào vương phủ được vài năm thì Nguyễn Trãi nhận chiếu chỉ ra trông coi mấy hạt miền Đông Bắc. Vợ chồng tuy xa cách, nhớ nhung, nhưng lệnh nhà vua đã ban ra thì cũng đ ành ngậm ngùi phải chia tay, vì chức nữ học sĩ không thể theo chồng được.

     Rồi đến một hôm, Lê Thái Tông chuẩn bị xa giá tới miền Đông Bắc, vừa để thăm thú giang sơn, vừa để thị sát tình hình. Trong đám tùy tùng, ngoài các văn tài võ tướng và quân lính đông đảo, còn có rất nhiều cung nữ theo hầu. Nguyễn Thị Lộ là Nữ học sĩ, lẽ đương nhiên cũng phải có mặt, để bảo ban, cắt đặt cung nư.õ Nhân dịp này, nhà vua cũng muốn cho nàng về thăm đức ông chồng.

     Đến Lệ chi viên (vườn vải) thuộc vùng Kinh Bắc, nhà vua sai lập hành tại nghỉ ngơi. Đêm ấy nhà vua sau khi đi đường mệt nhọc, lại uống nhiều rượu, nen bị cảm mạo đột ngột rồi mất ngay trong màn trướng, không kịp chạy chữa. Nguyễn Thị Lộ cùng một vài cung nữ khác ở đấy, liền bị nghi cho là đã đầu độc nhà vua. Lập tức Nguyễn Thị Lộ bị bắt, bị giải về kinh. Cuộc xa giá tan.

Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #15 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2009, 11:00:44 pm »

   
Rắn báo oán
[/b]

Phần 3
       Chiếc ngai vàng tạm thời bỏ trống, lập tức gây ra tình trạng xâu xé. Hai bà hoàng, mẹ của Bang Cơ và Nghi Dân đều muốn chiếm, và  đằng sau mỗi vị là một thế lực ủng hộ. Ai cũng biết Nguyễn Trãi là người chính trực, lại là một thế lực, không thể không đề phòng. Thời Lê Lợi, hai nhân vật Bắc hà kiệt xuất nhất là Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn thì một bị hành quyết, một phải tự tử, đều là do nhà vua phòng xa muốn tìm cớ diệt trừ, mặc dù vừa đồng cam cộng khổ với nhau chưa bao lâu. Nguyễn Trãi, một nhân vật Bắc Hà kiệt xuất nữa, lại đang có thế lực, lại là cháu ngoại nhà Trần, là anh em với Trần Nguyên Hãn, nên không thể không bị xem là "nguy hiểm".

     Còn một nguyên nhân trực tiếp nữa, cũng khá quan trọng. Đó là Nguyễn Trãi trước đây đã cưu mang bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Giao khỏi bị đòn ghen chết người của các bà chính thất vợ Lê Thái Tông. Bà này đã sinh ra Hoàng tử và  đang ẩn nấp ở một nơi nào đó, nếu sau này liên hệ được với Nguyễn Trãi thì chắc chắn sẽ gây ra một cuộc đảo lộn.

     Đó là những nguyên nhân khiến cho việc Nguyễn Thị Lộ lúc đầu chỉ bị nghi vấn, sau đã mong chóng trở thành nguyên cớ hữu hiêu nhất để diệt trừ Nguyễn Trãi, bởi vì luật lệ từ trước đến nay đã ghi rõ: Kẻ nào ám hại hoặc có âm mưu ám hại nhà vua sẽ bị xử tội chết cả ba họ.

     Tuy xâu xé nhau, như sau này sẽ rõ, và Đại Việt Sử ký toàn thư cũng ghi lại sự kiện ấy, nhưng lúc này ở hai thế lực đều thống nhất với nhau ở một điểm: Phải tiêu diệt ngay Nguyễn Trãi. Thế là Nguyễn Thị Lộ bị mớm cung, bức cung (hoặc đánh đến chết rồi lập tờ cung giả thì cũng vậy) khai là Nguyễn Trãi xui khiến đã đầu độc nhà vua! Có quyền lực tuyệt đối, họ làm điều ấy chẳng khó khăn gì.

     Là  đại thần, khi nghe tin nhà vua băng hà, Nguyễn Trãi đã trở về kinh để hôï tang, nhưng vừa đến cổng thành, chưa kịp xuống kiệu thì đã có lêïnh bắt. Rồi bị tống ngay vào ngục.

     Ngay sau lễ an táng nhà vua, "triều đình" đã họp để luận tội Nguyễn Trãi. Thế rồi, ngày 16 tháng 4 năm 1442 (tính theo dương lịch) Nguyễn Trãi và cả ba họ (bên nội, bên ngoại, bên vợ) đều bị hành hình. Thật là một ngày đẫm máu!
     Về sau vua Lê Thánh Tông, con bà Ngô Thị Ngọc Giao lên ngôi đã minh oan cho Nguyễn Trãi. Và Đại Việt Sử ký toàn thư cũng đã ghi lại sự kiện này.

     Truyền thuyết Rắn báo oán đã kể về giai đoạn từ khi đất nước thanh bình, Nguyễn Trãi làm quan với nhà Lê  đến khi ông bị hành hình như sau:
      Khi Nguyễn Trãi đang làm quan tại Kinh đô thì cũng là lúc con rắn mẹ bị thương và ba con rắn con bị chết kia đã tu luyện thành tinh. Rắn hóa phép thành một người con gái tái sắc, xưng tên là Nguyễn Thị Lộ, giả vờ làm người bán chiếu, rồi gặp Nguyễn Trãi ở chợ, lại tìm cách quyến rũ ông để được vào dinh.

     Về dinh, người con gái ấy còn tìm cách chiều chuộng Nguyễn Trãi hết sức, rồi sau đó lấy ông làm chồng. Lại tìm cách khuyếch trương tài năng của mình dến nỗi cả kinh thành biết tiếng và khi nhà vua hay tin đã hạ chiếu bắt Nguyễn Trãi phải dâng người con gái ấy vào cung, cho sung vào chức Nữ học sĩ để được gần gũi bên cạnh.

     Khi Hoàng thái hậu đau mắt, Nguyễn Thị Lộ chỉ cần liếm vào chỗ mắt đau là tự nhiên khỏi bệnh, do lưỡi có nọc rắn, lấy độc trị độc.

     Ở Lệ chi viên, vua không phải bị cảm mạo mà là  đau lưỡi, nên vời Nguyễn Thị Lộ vào chữa bằng cách thè lưỡi cho nàng liếm vào. Vua chết là do nhiễm phải nọc rắn!

     Hoặc giả, có truyền thuyết khác lại nói, ở Lệ chi viên, khi dâng rượu cho nhà vua, Nguyễn Thị Lộ đã nhả nọc rắn vào nên nhà vua bị trúng độc mà chết.

     Khi đao phủ đem Nguyễn Thị Lôï ra hành hình, nàng xin phép được ra sông tắm gội làn cuối, nhưng vừa xuống nước hiện nguyên hình là rắn, rồi bơi đi mất!
     Khi Lê Thánh tông minh oan cho Nguyễn Trãi, đã xuống chiếu chỉ cho đi tìm dòng dõi của ông xem có ai còn sống sót hay không, thì may thay, khi trước có một người vợ của ông ở miền Đông Bắc, khi hay tin dữ đã tìm cách trốn thoát. Bà này lúc ấy đã có mang, sau sinh ra Nguyễn Tạc Tổ, hiệu là Anh Vũ.

     Nguyễn Tạc Tổ được tập ấm rồi thăng dần lên chức chánh sứ, đi sứ sang Trung Hoa. Trên đường về, đi thuyền qua Động Đình hồ, chẳng may gặp trận gió xoáy làm lật thuyền, nên Nguyễn Tạc Tổ bị chết đuối.

     Tuy vậy truyền thuyết Rắn báo oán vẫn tiếp sang cả đời Nguyễn Tạc Tổ:
      Con rắn đã thành tinh thấy dòng dõi Nguyễn Trãi hãy còn nên vẫn tìm cách hãm hại. Khi thuyền sứ bộ qua Động Đình hồ thì thấy một con rắn lớn đuổi theo. Đuôi nó to như cái quạt, quẫy sóng dữ dội làm cho thuyền chồng chành cơ hồ như muốn chìm nghỉm. Mọi người sợ hãi tái xám mặt mày. Con rắn vượt lên ngang thuyền, réo tên Anh Vũ mà gào bắt. Biết là món nợ truyền kiếp hãy còn phải trả, Anh Vũ bèn bước lên mũi thyền, nói lớn: "Hỡi rắn thần! Hãy để ta lên đường làm tròn sứ mệnh. Xong việc nước, về đây ta sẽ nộp mình".

     Anh Vũ vừa nói xong, tự nhiên sóng êm gió lặng, con rắn biến mất.

     Mấy tháng sau, công việc đi sứ hoàn tất, đoàn thuyền sứ bộ nước ta lại về qua Động Đình hồ. Anh Vũ cũng đã chuẩn bị, nai nịt gọn gàng, tay cầm đoản kiếm. Khi rắn vừa xuất hiện gọi tên mình, thì ông nói lời vĩnh biêït mọi người, rồi phi thân nhảy ngay xuống nước. Ở trên thuyền mọi người thấy Anh Vũ cùng con rắn quây tròn lấy nhau trong một trận giáp chiến thật dữ dội. Những đường kiếm rẽ nước quay loang loáng bên cạnh cái đầu rắn đang thè lưỡi đỏ phun phì phì. Những cuộn bọt nổi lên, hết lớp này đến khác. Rồi bỗng đâu, máu nhuộm đỏ thắm cả người lẫn vật. Một lúc lâu sau, cả hai cùng chìm sâu xuống đấy hồ.

     Ông phó sứ là người chứng kiến cảnh tượng trên từ đ àu chí cuối. Ông vô cùng cảm kích, vội tìm giấy mực viết ngay một tờ sớ gửi về, trình lại Hoàng đế nhà Minh.Cảm kích trước hành vi dũng cảm quên sinh của vị chánh sứ nước Việt, vua Minh đã xuống chiếu sắc phong Nguyễn Tạc Tổ tức Anh Vũ đời đời làm thần thành hoàng của cả vùng Động Đình hồ rộng lớn.
     Về Nguyễn Tạc Tổ, cũng có truyền thuyết nói ông không phải con của Nguyễn Trãi. Nguyên do như sau:
      Khi Nguyễn Thị Lộ xuống sông tắm, rồi hiện nguyên hình là rắn rồi bơi đi mất thì người lính gác, theo luật định phải chịu chết thay. Vì Nguyễn Thị Lộ là chính phạm nên người lính thế mạng bị hành quyết trước tiên. Sắp đến lượt Nguyễn Trãi thì người vợ chạy đến đòi chết theo chồng. Trước cảnh tượng thương tâm, Nguyễn Trãi lựa lời khuyên nhủ:"Thôi, nàng hãy coi đây là số mệnh , đừng nên quẫn chí làm gì. Hãy ngửa bàn tay cho ta ghi lại một chút dấu tích. Sau này con cháu được hiển quý thì hãy nhớ đến ta".

     Khi người đ àn bà ngửa tay ra ông nhổ vào đấy miếng nước bọt, đoạn vươn đầu chịu chết. Chẳng ngờ, chỉ như thế mà vợ người lính có mang. Chín tháng mười ngày sau sinh hạ một con trai , đặt tên là Anh Vũ. Càng lớn lên, Anh Vũ càng khôi ngô tuấn tú, học hành tấn tới. Cảm thương vị đại thần oan khuất, người mẹ cho đổi họ con từ Phạm sang Nguyễn. Khi Anh Vũ hai mươi tuổi thì đúng lúc Nguyễn Trãi được minh oan, nhưng khi chiếu chỉ nhà vua ban xuống thì dòng dõi Nguyễn Trãi chẳng còn một ai, nên không có ai đứng ra chông mong nhà cửa, điền sản được trả lại. Bà mẹ Anh Vũ thấy thế dẫn con lên kinh , đánh trống đăng văn , được nhà vua cho vào hỏi chuyện . Bà kể lại lai lịch từ lúc vị đại thần sắp bị hành hình và mình có mang Anh Vũ ra sao. Lê Thánh Tông nhìn mặt Anh Vũ thấy giống Nguyễn Trãi, lại nhìn vào tay bà mẹ có hình bãi nước bọt đọng lại. Nhà vua trầm ngâm một lúc lâu rồi phán: "Phải. Đây chính là hậu duệ của bậc công thần". Tiếp đó, Ngài hạ chiếu cho Anh Vũ được tập ấm và nhận lại gia tư điền sản của vị đại thần quá cố.
     Hiện nay trên đất nước ta, chưa thấy có công trình nào nguyên cứu về nguồn gốc, đặc điểm của các dòng họ, chí ít là các dòng họ tiêu biểu.

     Tuy vậy, căn cứ vào các hiệân tượng có thể quan sát được, ta cũng có thể biết được một vài đặc điểm ...

     Dòng họ Nguyễn của Nguyễn Trãi ở đây là một ví dụ. Nếu tính từ đời ông nội của Nguyễn Trãi trở đi, thì dòng họ này đã sản sinh ra nhiều nhân tài kiệt xuất, làm vẻ vang cho đất nước. Hai vị là Danh nhân văn hóa thế giới (do thời bây giờ suy tôn). Còn trước kia, đã có hai Trạng nguyên và nhiều Tiến sĩ. Tể tướng, thượng thư, hoàng hậu, danh tướng ... cũng đều có cả. Thật là một dòng họ hiếm có mà nếu trừ dòng họ vua chúa, có lẽ chưa có dòng họ nào trong nước sánh kịp. Thế nhưng, nếu tính về tai họa mà dòng họ này phải chịu, thì cũng thật khủng khiếp: Cả hai ngành nội ngoại đều bị tội tru di!

     Chẳng lẽ Rắn báo oán lại khốc liệt đến như thế kia ư?

     Hay còn do những nguyên nhân nào khác, mà một người trong dòng họ, Nguyễn Du đã phải than thở:
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen
Do trời đất hay do lòng người?
     Dẫu sao thì đấy vẫn còn là một điều bí mật, và có lẽ cũng nên được khai
phá ...
                                                                     Đ.Hải
                                                            Sưu tầm từ Internet
           
Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
mytam81
Thành viên
*
Bài viết: 390


... MY TIME ...


WWW
« Trả lời #16 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2009, 11:27:48 pm »

Lịch sử phong kiến Việt Nam quả thực là cũng hùng tráng, bi thương lắm lắm!
Tiếc là điện ảnh ta chưa đủ tâm, đủ tầm để tái hiện lại những phân khúc lịch sử này các bác nhỉ?
Sớm tối bưng bát cơm lên, mở TV ra là thấy đầu cạo trọc, tóc đuôi sam .... nản

Bác Tim nói thế, mình lại thấy buồn buồn. Mình luôn mơ ước thấy Việt Nam mình làm được 03 bộ phim truyền hình dài tập dã sử hoành tráng,  Cry mà mình tự đặt tên là:

1. Phim Nam Quốc Sơn Hà dài 40 tập về cuộc kháng chiến chống Tống, với cuộc chiến đẫm máu nhưng hào hùng trên dòng Như Nguyệt. Trẻ con tối tối không ra ngoài chơi, chỉ mong tới giờ phim để về bật ti vi xem, giống như hồi chiếu Bao Thanh thiên ở đài Hà Nội  Cry

2. Phim Quốc Công Tiết Chế dài 50 tập nói về 3 lần kháng chiến chống Nguyên Mông hào hùng của dân tộc với tài thao lược của Hưng Đạo Vương, nhiều đại cảnh hoành tráng như trận Bạch Đằng, trận Hoài Văn Hầu hy sinh, các cụ phụ lão hô sát thát ở Hội nghị Diên Hồng làm tụi trẻ con xem phim rưng rưng cảm động.

3. Phim Áo vải cờ đào dài 50 tập nói về Hoàng đế Quang Trung. Đại cảnh hoàng đế Quang Trung duyệt binh ở Nghệ An và tuyên bố trước hàng quân: "Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng..."  Cry Đại cảnh đánh đồn Ngọc Hồi với những thớt voi dẫm lên người quân thù ộc máu  Undecided

Tất cả vẫn chỉ là mơ ước, và mơ ước Cry
Logged

... Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại ...
donghai
Thành viên
*
Bài viết: 169


Vì nước quên thân - Vì dân quên mình


WWW
« Trả lời #17 vào lúc: 01 Tháng Bảy, 2009, 10:35:23 am »

Lịch sử phong kiến Việt Nam quả thực là cũng hùng tráng, bi thương lắm lắm!
Tiếc là điện ảnh ta chưa đủ tâm, đủ tầm để tái hiện lại những phân khúc lịch sử này các bác nhỉ?
Sớm tối bưng bát cơm lên, mở TV ra là thấy đầu cạo trọc, tóc đuôi sam .... nản

Bác Tim nói thế, mình lại thấy buồn buồn. Mình luôn mơ ước thấy Việt Nam mình làm được 03 bộ phim truyền hình dài tập dã sử hoành tráng,  Cry mà mình tự đặt tên là:

1. Phim Nam Quốc Sơn Hà dài 40 tập về cuộc kháng chiến chống Tống, với cuộc chiến đẫm máu nhưng hào hùng trên dòng Như Nguyệt. Trẻ con tối tối không ra ngoài chơi, chỉ mong tới giờ phim để về bật ti vi xem, giống như hồi chiếu Bao Thanh thiên ở đài Hà Nội  Cry

2. Phim Quốc Công Tiết Chế dài 50 tập nói về 3 lần kháng chiến chống Nguyên Mông hào hùng của dân tộc với tài thao lược của Hưng Đạo Vương, nhiều đại cảnh hoành tráng như trận Bạch Đằng, trận Hoài Văn Hầu hy sinh, các cụ phụ lão hô sát thát ở Hội nghị Diên Hồng làm tụi trẻ con xem phim rưng rưng cảm động.

3. Phim Áo vải cờ đào dài 50 tập nói về Hoàng đế Quang Trung. Đại cảnh hoàng đế Quang Trung duyệt binh ở Nghệ An và tuyên bố trước hàng quân: "Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng..."  Cry Đại cảnh đánh đồn Ngọc Hồi với những thớt voi dẫm lên người quân thù ộc máu  Undecided

Tất cả vẫn chỉ là mơ ước, và mơ ước Cry

        Chị cố gắng chờ đợi khoảng chục năm nữa nhà nước nhiều tiền. Sẽ đầu tư mạnh vào phim lịch sữ  lúc đó sẽ có những cảnh hoành tráng như chi mơ ước. Còn bây giờ em thấy phim Ls Việt Nam làm vẫn không được hay cho lắm!
Logged

Đông Hải

             

                Tổ quốc ta, dân tộc của chúng ta.
                Tuổi ấu thơ  hùng anh cho chí tuổi già.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #18 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2009, 04:42:53 pm »

XÉ BỨC MÀN DỐI TRÁ TRONG VỤ THẢM ÁN LỆ CHI VIÊN

(Rút trong cuốn BÊN LỀ CHÍNH SỬ
Tác giả : TS Đinh Công Vĩ
NXB Văn hóa Thông tin 2005)

Mối quan hệ giữa "quân và thần", đặc biệt là giữa vua chúa với công thần khai quốc sau thời cùng chung hoạn nạn (nhiều khi là thời chiến) chuyển sang thời phân chia quyền lực, lợi lộc (nhiều khi là thời hoà bình) thường dẫn tới những gay cấn, lắm khi là các vụ thảm án cực kỳ bất công tàn bạo. Đó là việc xẩy ra không riêng gì ở Việt Nam. Song thường là vua chúa làm việc “quăng nơm bẻ ná". Như Việt Vương Câu Tiễn giết Văn Chủng, làm Phạm Lãi bỏ đi; Lê Lợi giết Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, bắt giam Nguyễn Trãi... Gia Long giết Đỗ Thanh Nhơn, Nguyễn Văn Thành... Nhưng hậu phi tham gia vào việc đó, người đàn bà trực tiếp giết công thần khai quốc thì ở Đông phương chỉ có hai trường hợp nổi bật nhất: 1) Lã Hậu tiếp tay Hán Cao tổ trực tiếp sai giết công thần khai quốc số một nhà Tây Hán là Hàn Tín. 2) Thái hậu Nguyễn Thị Anh trực tiếp dàn dựng lên vụ án Lệ Chi Viên (Vườn Vải) tru di tam tộc đại công thần khai quốc, nhà văn hoá số một là Nguyễn Trãi và sau đó còn gây ra hàng loạt vụ án khác, giết thêm một số công thần khai quốc nữa như Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục...

Chính sử nhà Lê không ít chỗ ca ngợi bà Anh. Bởi chẳng gì bà cũng là "bậc mẫu nghi thiên hạ" đẻ ra một trong những lịch đại đế vương chính thống của nhà Lê là Lê Nhân Tông, là mẹ già của vua Lê Thánh Tông... Song dù bưng bít vẫn lộ ra những mặt không hay. Chính Đại Việt sử ký toàn thư của nhóm sử thần nhà Lê như Ngô Sĩ Liên... vẫn phải dẫn Trung Hưng ký để nói về bà Anh :

"Thái hậu Nguyễn Thị Anh như gà mái gáy mai... người giỏi như Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục thì vội giết đi, người tài như Nguyễn Mộng Tuân thì ném vào hoạ hại, oan uổng không kêu đâu được".

Để Nguyễn Thị Anh lộng hành được thế, do bước đầu cũng có chỗ yếu, khe hở của vua thứ hai nhà Hậu Lê (thời Lê sơ) là Lê Thái Tông. Mới 11 tuổi, Thái Tông đã nối ngôi Lê Lợi nên ông sớm được hưởng lạc. Vào tuổi biết yêu, ngoài công việc triều chính, Thái Tông khác nào con bướm mẫn cán thưởng thức hương nhụy trong vườn hoa phi tần muôn tía nghìn hồng. Trong đó nổi bật lên ba đoá hồng rực rỡ : Dương Thị Bí, Lê Thị Mai (tức Bùi Quí nhân, theo tư liệu dòng họ Lê Bùi ở xã Thượng Trưng (huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc), Nguyễn Thị Anh. Những đoá hồng ấy làm át đi những bông hoa bình thường vì "vị cây, dây cuốn" mà được vào cung đình như Lê Thị Ngọc Dao, con gái Đại tư đồ Lê Sát và Lê Thị Lệ con gái quan Đại Đô đốc Lê Ngân... Song không gì làm Thái Tông say đắm một cách lâu bền như Nguyễn Thị Anh, hoa khôi của xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn (Thanh Hoá). Trong xứ sở hồng tía đua tươi, nhờ sắc, nhờ tài, kể cả những mẹo vặt mà Thị Anh dần dần chiếm được trái tim chúa xuân. Chiếm được trái tim Thái Tông, bà có thể làm được những việc động trời. Bà làm được việc động trời vì dù triều Lê là một vương triều hiển hách có nhiều cống hiến cho đất nước nhưng triều Lê vẫn có những mặt sơ hở: Thời Lê Thái Tông, bà Phạm Huệ phi, vợ Lê Lợi "oán vọng" mà phải chết. Vua Thái Tông không những giết một bà phi bằng hàng mẹ mình mà còn "nghi kỵ", "ruồng đuổi anh ruột" là Lê Tư Tề, giết hai ông bố vợ là các Đại thần Lê Sát, Lê Ngân. Cung đình loạn tới mức triều đình phải theo kế Nguyễn Thị Lộ (vợ Nguyễn Trãi) bắt giam những con gái ngỗ nghịch. Việc tuyển chọn người đẹp thời này chưa chặt chẽ: Bà Ngô Thị Ngọc Dao (mẹ vua Lê Thánh Tông) thời trẻ, có chị gái là Xuân vào hầu vua Thái Tông ở hậu cung nên theo chị vào, vua trông thấy thích thì cho làm cung tần, cần gì chọn. Thời Lê Thánh Tông về sau (ở nước ta) là thời gọi là toàn thịnh của chế độ phong kiến tập quyền, chế độ phi tần qui củ nhất thời Lê sơ mà còn có chuyện nội thần là Phan Tông Trinh thông dâm với cung nữ là Nguyễn Mai nữa là cái thời thối nát dột từ nóc, không chặt chẽ ấy. Chính vì thế, Nguyễn Thị Anh mới làm được việc khủng khiếp như bà Thái hậu thời Lã Bất Vi đổi máu hoán ngôi. Theo tư liệu Ngọc phả họ Đinh ở làng Đông Cao huyện Nông Cống (Thanh Hoá) có ghi lại Bút ký Hồng Mai của Thái sư Lân quốc công Đinh Liệt với bản dịch của Đinh Quốc Bảo và cả phần chữ Nôm chữ Hán chép tay, ông Bảo ghi lại mà nay nhiều người có, lưu lại ở dòng họ Đinh ở Đông Cao và cả ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm... Tư liệu này đã được trích dẫn hay sử dụng từng phần trong các báo Pháp luật, báo Nhân dân, báo Đại đoàn kết, báo Xưa & Nay, báo tỉnh Hà Tây, báo tỉnh Thanh Hoá. Vậy, chúng tôi tiếp bước các báo khác, xin cung cấp cho bạn đọc vài thông tin để có thêm tư liệu tham khảo, dù là còn dưới dạng nghi án mà chúng tôi chỉ nêu ra, tuỳ bạn đọc suy xét. Theo tài liệu Ngọc phả đó, thì Bang Cơ (vua Nhân Tông) do Nguyễn Thị Anh có thai sẵn từ ngoài khôn khéo đưa vào cung đình mà Thái Tông vẫn tưởng là con mình, yêu quý hơn vàng hơn ngọc. Sự kiện này, ăn khớp một cách lạ lùng với lời "Đại xá thiên hạ" sau khi lật đổ mẹ con Nguyễn Thị Anh của Lê Nghi Dân vào năm Diên Ninh thứ 6 (1459) ghi rõ là: “Diên Ninh (Lê Nhân Tông) tự biết mình không phải con của tiên đế (Lê Thái Tông)". Lời đáng chú ý ấy, dù là lời của một người làm việc lật đổ vẫn được các nhà sử học: Ngô Sĩ Liên (trong Đại Việt sử ký toàn thư), và Lê Quý Đôn (trong Đại Việt thông sử) là những người cẩn trọng ghi vào sách sử của mình. Không phải ngẫu nhiên mà hai sử thần vào hàng cự phách, viết dưới quyền uy của triều Lê, ở hai giai đoạn khác nhau lại đều trùng nhau dám công bố bài văn "Đại xá" có câu “Diên Ninh..." ấy. Ngô Sĩ Liên từng làm Đô Ngự sử thời đó, được gần vua càng dễ biết "thâm cung bí sử". Vậy làm sao Đinh Liệt, cháu gọi Lê Lợi bằng cậu, cựu thần của cả mấy triều Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, cả thời Nghi Dân, và Nguyễn Trãi, vị khai quốc công thần đặc biệt lại không biết? Chính cái biết đó, cộng với việc vợ chồng Nguyễn Trãi thường xuyên bảo vệ, bênh vực bà Ngô Thị Ngọc Dao và cái thai trong bụng bà (về sau là vua Lê Thánh Tông), người trực tiếp vừa là tình địch, vừa có thể tranh giành ngôi vị với mẹ con mình mà Nguyễn Thị Anh phải tìm cách hạ thủ Nguyễn Trãi và gia tộc ông.

Về vua Lê Thái Tông, một trong những nạn nhân:

Sử sách chính thống coi ông là vị anh quân vì đã biết ngăn ngừa cường thần, dẹp yên phiên trấn, sùng Nho, mở khoa thi, làm văn vật rực rỡ. Song trong hoàn cảnh hậu cung phức tạp, ông lại có điểm yếu là nặng về sắc dục. Mới 20 tuổi, vua Thái Tông đã chết đột ngột. Ai giết ông? Có thể là Thái Tông tự giết mình hay góp phần để người khác dễ giết vì dục tình, vì ăn chơi quá đà để Thị Anh lợi dụng. Hoặc phải chăng là do Thị Anh giết? Bởi biết đâu sự nhập nhằng của bà có thể có người biết, nếu lan ra, đến tai vua thì nguy quá. Vậy bà phải lợi dụng cái chết do bệnh tình của bản thân vua, hay phải giết vua sớm, để sớm đưa Bang Cơ lên ngôi, tránh tai vạ. Cho nên, phải có sự dàn dựng nên hai vụ án liên đới: Vụ Nguyễn Trãi thi hành khẩn cấp ngày 16 tháng 8 năm 1442 và vụ giết hai quan thị Đinh Thắng, Đinh Phúc để vừa đổ vấy cho người khác, vừa bịt đầu mối, cứu mẹ con mình, đoạt phú quý, lại vừa để trả thù những người làm việc trái ý mình, bất phục tùng.

Về Nguyễn Trãi:

Ông cũng có chỗ hở là không lường trước, ngăn trở, để Nguyễn Thị Lộ có mặt vào đúng lúc vua chết, làm cho bọn Nguyễn Thị Anh có cớ lợi dụng. Mà thật ra với một Lễ nghi Học sĩ kề cận để giúp vua như bà Lộ, Nguyễn Trãi lường trước cũng rất khó.

Còn về chuyện bà Lộ dùng sắc đẹp đầu độc vua thì rất khó tin. Vì theo gia phả họ Nguyễn ở Nhị Khê và một số tài liệu thành văn khác (trong đó có tài liệu của G.S. Bùi Văn Nguyên), kể cả truyền thuyết dân gian thì: Nguyễn Trãi gặp Nguyễn Thị Lộ nếu sớm nhất là vào thời nhà Hồ, nếu muộn hơn có thể vào thời Minh thuộc, cách nhau chỉ vài năm: Lúc đó bà Lộ ở tuổi "Trăng tròn lẻ" (16, 17 gì đấy) + 10 năm ở "góc thành Nam" + 10 năm kháng chiến chống Minh + 15 năm ở triều đình đến khi xảy ra vụ án. Lúc đó bà Lộ đã hơn 50 tuổi, ân ái với ông vua 20 tuổi, tin được không? Nhà vua thiếu gì những phi tần còn trẻ đẹp hơn? Tất nhiên ta không loại trừ hẳn những trường hợp đặc biệt ngược lại: có những người trai trẻ thích đi lại với người đàn bà già hơn vợ mình hoặc người già mà vẫn quá hấp dẫn hơn người trẻ. Nhưng các trường hợp này ít xảy ra hơn. Về cơ bản có thể thấy: Nếu nhà vua muốn gần, hoặc quan hệ với bà Lộ cũng vì việc chung của triều đình, vì trọng trí thức, đức độ của bà mà thôi, hơn là vì những chuyện sàm sỡ. Song ta vẫn có thể đặt ra trường hợp xấu nhất: Nếu bà Lộ có quan hệ tình dục với Thái Tông thật, thì bà cũng chẳng có tội gì cả. Vì vua bảo bề tôi chết bề tôi cũng phải nghe theo... (như lệ xưa). Nếu vậy, kẻ có tội chính là Thái Tông, người dùng cường quyền để ép buộc.

Nhưng, đây chỉ là giả thuyết. Suy cho cùng thì: Bà Lộ có mặt chỉ là cái cớ để vu khống. Với cái biếtcái bênh của Nguyễn Trãi cùng với tài năng, đức độ đối lập với bọn quyền gian, đứng đầu là Nguyễn Thị Anh đang rất đông ở triều đình của ông thì dù có hay không có bà Lộ, vụ thảm án vẫn cứ xảy ra, dàn dựng ở vườn vải hoặc nơi khác... để đưa ông vào thảm hoạ tru di.

Về việc thi hành thảm án:

Theo cuốn Nguyễn Trãi anh hùng dân tộc của Trúc Khê Ngô Văn Triện (do NXB Tân Dân in năm 1941) có thuật lại chuyện: "Khi Nguyễn Trãi sắp bị chém có than : Đáng tiếc không nghe theo lời Hoàng Phúc". Thượng thư Hoàng Phúc, quan cai trị nhà Minh, trước đây có xem mộ  tổ nhà Nguyễn Trãi và ghi "Nhị Khê mạch đoản, hoạ thảm tru di", khuyên ông sớm từ bỏ chức về để tránh hậu hoạ.  Thị Anh và bọn tay chân đã triệt để lợi dụng, nói trá hai tiếng Hoàng Phúc thành "Thắng Phúc" để vu cáo cho Đinh Thắng và Đinh Phúc tội thông đồng với Nguyễn Trãi mà giết cả hai. Tư liệu này không ăn khớp với quốc sử nhà Lê, tiếng nói của bọn cầm quyền từng vu khống xử án Nguyễn Trãi (buộc quốc sử làm sao nói để có lợi cho bọn chúng) nhưng lại rất ăn khớp với Ngọc phả họ Đinh, cuốn Ngọc phả góp phần giải thích thêm : Thực ra căn nguyên Thắng - Phúc bị giết vì cả hai vị là quan thị có trách nhiệm ghi ngày giờ phi tần vào nằm với vua và phát hiện ra việc của bà Nguyễn Thị Anh. Hai người đã mật báo cho Đinh Liệt (và có thể cho cả Nguyễn Trãi) biết từ lâu. Tất nhiên Đinh Liệt không thể nói dù là với vua Thái Tông vì vua đang mê đắm Thị Anh, tin sao được, có khi lại nguy vào thân. Ở “Bút ký Hồng Mai" trong Ngọc phả, Đinh Liệt viết về vua Nhân Tông (đọc lái là Nhung Tân):

Nhung Tân hà hữu Tống Thai tinh
Lục nguyệt khai hoa quái dị hình
Niên nguyệt nhật thể Thăng Đính ký
Hoàng bào ô nhiễm vạn niên thanh.


(Nhân Tông đâu phải máu con rồng
Sáu tháng hoài thai cảnh lạ lùng
Năm tháng ngày giờ Đinh Thắng chép
Hoàng bào để vết tiếng ngàn năm).

Tức là từ khi bà Anh nằm với vua tới khi đẻ Bang Cơ chỉ có 6 tháng.  

Đáng chú ý là từ xưa tới nay nơi hành hình, nơi chôn cất những người trong vụ thảm án Nguyễn Trãi vẫn còn nhiều ức thuyết, khó xác định. Có người cho rằng nơi hành hình là ở khu vực Trường Thi (Hà Nội) ngày nay. GS Bùi Văn Nguyên cho rằng: "Những người bà con xa và học trò của Nguyễn Trãi đã xin thi hài của ông đưa đi táng tại núi Giáp Sơn thuộc địa phận Hà Bắc, nhưng rất bí mật, vì cho đến nay con cháu trong họ cũng chẳng mấy người biết đích xác là ở đâu”. Theo Nguyễn thị thế phả thì thi hài Nguyễn Trãi mai táng tại núi Tam Tiêm, còn răng tóc táng tại trang Thượng Thung huyện Đông Triều, trấn Hải Dương (nay là Quảng Ninh).Gần đây, chuẩn bị cho năm kỷ niệm Nguyễn Trãi và cuộc Hội thảo Khoa học về bà Nguyễn Thị Lộ, chúng tôi có đi các nơi và phát hiện ra ở thôn Khuyến Lương (thuộc xã Trần Phú, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội) là nơi có miếu thờ Nguyễn Thị Lộ riêng duy nhất ở Thăng Long và ở nước ta.

Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ từng có thời về đây sinh sống. Dân ở đây nhiều người cho biết: Trước đây sát miếu Bà là khu ruộng cấy lúa, người ta đào ao, vật đất lên làm trại chăn nuôi, phát hiện ra một khối gỗ xếp theo hình cũi, xếp mộng rất khít. Lúc mới đào lên, gỗ mềm như bún, để lúc sau thì cứng như đá. Anh Nguyễn Văn Khải người ở đây nhặt được chiếc châm bằng vàng, cắm búi tóc phụ nữ dài 1,5 phân ở trong cũi. Dư luận ở đó, nhiều người cho đấy là châm của bà Lộ, sau khi chém, tử thi chôn cùng cũi. Cũng có người phân vân... Chúng ta cần tiếp tục cân nhắc các ức thuyết đó.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #19 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2009, 04:43:15 pm »

Về việc minh oan cho Nguyễn Trãi và gia quyến:

Ngay từ thời mới xảy ra thảm án đã có nhiều người biết Nguyễn Trãi oan, nhưng ai dám nói? Ngay như vua Lê Nhân Tông, khác với bà mẹ đầy mưu hiểm, ông là người trí nhân hơn đã sáng suốt nhìn thấy chân giá trị của Nguyễn Trãi. Theo lời ghi lại của Lý Tử Tấn ở cuối sách Dư Địa Chí: Khi Nhân Tông đến Bí thư các, thấy di bản Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi sót lại đã cảm động nói với quần thần: "Nguyễn Trãi là người trung thành đã giúp đức Thái Tổ dẹp ngoại xâm, giúp đức Thái Tông sửa sang trị bình. Văn chương sự nghiệp của ông các danh tướng bản triều không ai bằng". Nói vậy, song vua Nhân Tông cũng chỉ tin vào lời tâu của quần thần, hoặc cố ý tin tại Thị Lộ gây biến. Nhà vua không thể vượt ra ngoài tình mẫu tử.

Phải đến tháng 7 năm Giáp Thân, niên hiệu Quang Thuận thứ 5 (1464), vua Lê Thánh Tông mới chính thức ban chế tẩy oan. Đúng ngày rằm tháng bẩy, lễ tẩy oan Nguyễn Trãi được tổ chức trọng thể tại thôn Hạ, xã Nhuỵ Khê (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Phạm Anh Vũ, con trai bà Phạm Thị Mẫn (vợ thứ của Nguyễn Trãi) được đổi theo họ cũ của cha thành Nguyễn Anh Vũ, và được phong chức Tri huyện, thay mặt dòng họ trực hệ Nguyễn Trãi đứng ra làm chủ tế buổi lễ. Vua Lê Thánh Tông có cái ơn cứu tử của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ với mẹ con mình, lại rất khâm phục tài đức Nguyễn Trãi nhưng khi tẩy oan, nhà vua vẫn truy phong cho Nguyễn Trãi cái tước "bá" kém tước "hầu” thuở bình sinh của ông. Phải mãi tới năm Hồng Thuận thứ 4 (1512) vua Lê Tương Dực mới tăng lên tước "Tế Văn hầu” cho Nguyễn Trãi, ngang với tước hầu của ông thời Lê Thái Tổ. Nếu Lê Thánh Tông truy phong quan tước cho Nguyễn Trãi bằng cũ hoặc hơn cũ thì khác nào là một cách để chứng minh rằng tất cả những sai lầm là thuộc về nhà Hậu Lê, thuộc về tiên đế và bậc mẫu nghi, còn Nguyễn Trãi đúng cả. Dù là ơn huệ sâu sắc, Thánh Tông không thể làm thế được. Ông còn phải giành chỗ đứng trong danh dự cho vương triều của mình, góp phần giữ vững ngai vàng của mình nên không muốn truy cứu thêm. (Ở đây, dù Lê Thánh Tông có được sử sách ca ngợi là vua Thánh, chúng ta cũng vẫn phải công bằng xem xét thêm: Cung Vương Khắc Xương là anh ruột Lê Thánh Tông đã cao cả không nhận ngôi vua để nhường cho ông ta. Vậy mà Thánh Tông vẫn ghen ghét bức tử anh ruột. Thánh Tông thù vặt giết cả những đại thần thuộc dòng mấy đời có công phò tá đất nước như Lê Lăng.. Với vua "Thánh" hẹp lượng như thế, trả ơn cho người ruột thịt máu mủ đã nhường ngai vàng điện ngọc với cả giang sơn gấm vóc cho mình bằng sự gian manh tàn bạo thì với Nguyễn Trãi, người không có họ hàng làm sao có thể trả ơn đầy đủ, cộng với biết bao sự phức tạp xung quanh làm cho việc gọi là giải oan của ông chỉ là nửa vời. Phải chăng là thế?)

Điều đặc biệt đáng chú ý là: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên vẫn cứ cho bà Lộ dùng sắc hại vua, khiến Nguyễn Trãi bị liên luỵ. Trong bài "chế tẩy oan" thì Lê Thánh Tông lại có đôi nét khác: ông chỉ ca ngợi công lao vang lừng của Nguyễn Trãi ở hai triều Thái Tổ và Thái Tông mà không nói xấu, nhưng cũng không ca ngợi Nguyễn Thị Lộ và cho rằng: "Sự nghiệp (của Nguyễn Trãi) còn ghi trong sử sách dẫu rằng thời và mệnh không hài hoà nhau bởi lẽ huyền bí, khó mà biết được". Đổ cho "lẽ huyền bí" là cái rất khéo của vua Thánh! Chính vì huyền bí mà từ Lê đến Nguyễn, kể cả thời Pháp thuộc, người ta hay nhắc đến chuyện phong thuỷ, rắn báo oán, thêu dệt nên chuyện bà Lộ là hiện thân của rắn đó. Sự thêu dệt đó vừa là bản thân vụ án ở hoàn cảnh nước ta dẫn đến, cũng có thể là trên nền nhiều chuyện rắn truyền miệng và thành văn ở phương Đông nhất là ở Trung Quốc và Việt Nam mà nó chịu ảnh hưởng dẫn đến. Như chuyện Ngô Hy đời Tống, chuyện Phương Chính Học đời Nguyên (ở Trung Quốc) đều là rắn đầu thai để báo thù người, đặc biệt là chuyện nhà Minh (đương thời với nhà Lê) có nàng Kiều Oanh bán hoa gặp Đại học sĩ Chu Tuệ có khác gì nàng Thị Lộ bán chiếu, bán cháo gặp Nguyễn Trãi, cũng đồng nhất là rắn trả thù, tuy chi tiết có điểm chưa thống nhất.

Song từ nửa sau thế kỷ XX trở đi, dưới ánh sáng của phương pháp khoa học mới, các nhà nghiên cứu khoa học (trước tiên là ở chuyên ngành Sử học) mới tìm ra và phân tích những nguyên nhân sâu xa của thảm án Lệ Chi Viên là ở mưu đồ nham hiểm của cái bậc gọi là "mẫu nghi thiên hạ" đã dựng nên vụ án để giành ngai vàng cho con mình (nên muốn loại trừ mẹ con Lê Thánh Tông gắn với loại trừ Nguyễn Trãi và mọi trở lực khác). Đó là điểm cơ bản nhất mà nhóm sử thần Ngô Sĩ Liên dẫu biết cũng không dám nêu lên trong Đại Việt sử ký toàn thư. Vậy nên, để đỡ cho bà Anh và cũng là giữ danh dự cho nhà Lê, người ta lại hay kết án bà Lộ. Qua đó, dù muốn minh oan cũng vẫn gián tiếp trách Nguyễn Trãi là thiếu sáng suốt mới rơi vào thảm hoạ tru di... Cải khó xử trong cách lập luận chính là ở đây, làm cho người ta có khi cố ý, hay vô tình lồng những chuyện huyền hoặc vào để che đậy sự thực. Trong tác phẩm Nguyễn Trãi, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, xuất bản năm 1962, Trần Huy Liệu đã phân tích, vạch ra sự lắt léo của những văn đề ấy, để đi đến khẳng định: "Ngày nay chúng ta chẳng những phải làm sáng tỏ khí tiết của Nguyễn Trãi mà còn phải minh oan cho Nguyễn Thị Lộ nữa".
Logged
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM