Năm 1973, lực lượng địch ở nhà lao sạch bóng nhưng cuộc chiến đấu bên ngoài vẫn tiếp tục diễn ra gian khổ, ác liệt hơn. Tổ đặc công thủy không còn chức năng giải phóng nhà tù, họ chuyển sang mục tiêu đánh tàu, đánh đường ống dẫn dầu của hải đoàn An Thới.
Quân và dân Phú Quốc tiếp tục tựa lưng vào thắng lợi đã đạt được, tựa lưng vào tinh thần hiệp định Pari, hiệp định đã đổi bằng máu và nước mắt của cả dân tộc để lấn địch thêm từng bước, không ngừng diệt ác trừ gian kết hợp với những trận đánh tập trung để mở mảng mở vùng. Vùng giải phóng loang rộng ra, tạo thành thế cài răng lược với kẻ thù ở bất cứ nơi nào, ở ngay trong sào huyệt của chúng nó.
Phú Quốc gần mà xa, xa mà gần... Phú Quốc là chiến hạm nồi canh giữ bờ biển phía Nam của Tổ Quốc. Phú Quốc tự lực tự cường, Phú Quốc nhiều khổ đau nhưng cũng chất ngất vinh quang. Hùng khí Phú Quốc đã thổi dạt thế lực đối phương có lúc tăng cường đến một ngàn lần hơn trong thế tương quan nghiệt ngã. Phú Quốc, cái nôi ấm áp của nhà lao Cây Dừa. Số tù binh trong lao có lúc đông hơn số dân mười lần nhưng lòng dân vẫn mở ra che chở bao la.
Thời gian tiếp tục trôi qua trên hòn đảo hình lưỡi mác. Năm "bảy năm" đang chuyển động đến gần. Vẫn không nhiều phương tiện thông tin, điện báo, vẫn vắng thiếu những chỉ thị, những mệnh lệnh tức thì, vẫn bằng radio và tấm lòng cách mạng vẹn tròn, Phú Quốc đã nổi dậy kịp thời cùng với cả nước mở chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng. Xa đất liền 115 cây số, hòn đảo này được giải phóng hoàn toàn chỉ sau Sài Gòn đúng bốn giờ đồng hồ. Thật là một điều kỳ diệu về mệnh lệnh hiệp đồng trong chiến tranh. Thứ mệnh lệnh hợp đồng vang lên từ nhịp đập con tim khát vọng chủ quyền...
Đảng bộ Phú Quốc thở phào! Quân và dân Phú Quốc cũng thở phào nhẹ nhõm! Trường kỳ chiến đấu, một chặng đường vô cùng gian khổ, ác liệt và cô đơn đã vượt qua. Phú Quốc một vùng đảo hình lưỡi mác tiếp tục vươn lên, chồm lên đầu sóng phía tây nam Tổ quốc càng đạm nét và hào hùng hơn.
Chỉ có điều, bóng dáng nhà lao Cây Dừa giam giữ 40 ngàn tù binh sẽ vẫn còn đó, khu nghĩa trang bốn ngàn tử sĩ vẫn còn đó... Mãi mãi tượng trưng cho một thời đau thương oanh liệt mà thế hệ mai sau không thể quên. Không được quên.
Cũng như chị ấy, người bạn của vợ tôi ấy, biết khi nào mới có thể quên đi được người chồng đã mất tích mà chuyến đi này tôi đã bất lực, không làm yên lòng chị được, và còn có bao nhiêu những người vợ, người mẹ không yên lòng như chị nữa? Bao nhiêu?
Cũng như cả nhân loại làm sao quên được rằng chỉ còn hai ngày nữa, chiến tranh tầm cỡ nửa nhân loại rất có thể sẽ nổ ra ở vùng sa mạc xa xôi. Cơn bão sa mạc đó liệu ảnh hưởng gì đến hành tinh này? Đến những con người đang khát thèm cuộc đời yên ả trên thế giới này?
Không thể quên được!
Bà má Kiên Giang đã được chôn bên bãi biển nhìn hướng về đảo xa. Bà mẹ Việt Nam vẫn đêm ngày khôn nguôi nhớ đến những đứa con đã nằm xuống âm thầm trên nghĩa trang đảo hiu hắt ấy.
Tượng đài cho nhà tù 40 ngàn tù binh, cho 4 ngàn hài cốt; cho toàn bộ đất đảo đau thương và anh hùng phải chăng nên bắt đầu từ đây, từ tấm lòng mẹ giằng xé và bao dung này.
Xuân 1991
Chu Lai