Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 11:32:15 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802  (Đọc 85564 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #70 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 12:06:23 am »


__________________________________________________________Tiết 19


CHIẾN TRANH Ở PHÚ XUÂN VÀ BẮC HÀ


Cuộc tử thủ của Tây Sơn ở Quy Nhơn và ý kiến giải vây cho nơi này * Trận chiếm Phú Xuân * Cố gắng tuyệt vọng của Tây sơn ở Quy Nhơn và luỹ Thầy * Kết thúc chiến tranh ở Bắc Hà.



Chiến thắng Thi Nại làm nhẹ bớt nỗi “uất uất không vui” của Nguyễn Ánh. Nhưng lực lượng bộ binh của Tây Sơn vẫn còn nhiều hùng khí. Khi Ánh sai Lê Văn Bản đem quân đi hai vũng Nồm, Bấc đóng giữ tuần phòng thì Vũ Văn Dũng đã hợp với Trần Quang Diệu chia người trấn giữ: Tư khấu Định đóng ở Bến Đá, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ giữ đầm Nước Ngọt, Đô đốc Vũ Văn Sự trấn Tân Quan ở giữa. Hàng phòng vệ ấy dùng để cản sao cho họ rảnh tay công thành sau khi họ đã tụ tập quân lính thề chiếm lấy cho kỳ được.

Quân Nguyễn nhân đà thắng cũng muốn tiến lên phá vỡ vòng vây cho Võ Tánh. Nguyễn Văn Thành sai Tống Viết Phúc đóng ở Càn Dương. Binh Tây Sơn đánh giết Vệ uý Trần Văn Xung ở chợ Chánh Lộc. Quân Phúc kéo đến thì Tây Sơn lui. Rượt đuổi đến Thạch Cốc1, Phúc rủi gặp kẻ thù. Đô đốc Từ Văn Chiêu vẫn hậm hực về tiếng gọi “hàng tướng” của Phúc, có dịp để trả thù bằng một trận phục binh chiến thắng lớn lao. Phó Đô thống chế Phạm Văn Cơ, Vệ uý Nguyễn Văn Tri bị bắt, hai Vệ uý Hoàng Phúc Bảo, Hoàng Văn Tứ bị giết khiến Phúc phải bỏ quân chạy về Thi Nại. Như vậy rõ ràng chiến thắng thuỷ trận mới đó chưa đủ làm điên đảo Tây Sơn trên bộ.

Mọi người hoang mang. Lúc bấy giờ chính ai đã đề nghị ra đánh Phú Xuân để không những cứu gỡ cho tình thế mà còn làm cho chiến thắng trở nên quyết định như lời De la Bissachère? Theo ông này, Nguyễn Ánh bị thúc đẩy bởi các tướng Bắc Hà đang chán nản vì phải đánh lâu quá bắt đầu muốn bỏ rơi ông và cũng được vài người Pháp khuyến khích, nói rằng đánh ra Phú Xuân vẫn là ý kiến của Giám mục d’Adran. Với sử quan thì người bày mưu đó với người đề nghị đốt Thi Nại cũng là một: Đặng Đức Siêu, người Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn, đồng hương với chúa Tây Sơn2. Họ cũng có ghi thêm ý kiến của Võ Tánh, nhưng ta có thể coi lời Võ Tánh như một sự chấp nhận hy sinh hơn là một sáng kiến. Vinh dự đó có lẽ để dành cho mưu thần Việt thì phải hơn vì cái thế “vây Nguỵ, cứu Triệu” đầy dẫy trong binh pháp Đông phương.

Cho nên, sau khi lên Vân Sơn coi đồn trại địch một ngày rồi về3, bắt đầu tháng 2 âm lịch, Nguyễn Ánh sai Cai cơ Tống Phúc Chu về Gia Định hợp với Lưu trấn ở đó là Nguyễn Văn Nhân tuyển thêm một vạn binh, nếu cần bắt cả lính đồn điền. Rồi cũng có việc xét dân bắt lính ở Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận. Ánh có nói rõ mưu mô dự tính cho Nguyễn Văn Trương để đem binh thuyền đánh Quảng Nam, Quảng Ngãi trước.

Nhưng cuộc vét dân đã gây phản ứng về phía dân chúng. Phạm Văn Điềm chạy lên rừng từ hồi quân trong mới kéo ra, nay tụ tập được 500 bộ đảng đánh đốt Hội An, đuổi Lưu thủ Phan Tấn Tuấn chạy ra Xuân Đài nhờ cậy thuỷ binh của Tống Viết Phúc, Nguyễn Đức Xuyên được phái tiếp viện.

Mối loạn Phạm Văn Điềm là khó khăn mới cho Nguyễn Ánh, dằng dai, làm nhọc mệt quân Nguyễn không ít. Trong tháng ba, đánh rồi chạy, chạy rồi lên đánh Điềm đã quấy rối Phú Yên trước mặt danh tướng Lê Chất. Lưu Tấn Hoà giữ Hội An bị Điềm lén đốt phong hoả đài tuyệt đường thông tin, đánh úp giết chết. Nguyễn Long đóng ở La Hai định chiếm lại Hội An lại bị đánh lén phải bỏ cả lương phạn, khí giới chạy về sông Đà Rằng. Tội nghiệp cho viên Thượng đạo tướng quân 20 năm trên rừng, mới làm chỉ huy lần đầu đã phải bại vong. Lê Chất ra tay, hợp binh với Hoàng Văn Khinh người thay Long, tiến đánh bắt Đô tư Nguyễn Nhiễu ở bến Gạo (Mễ Tân). Điềm bỏ chạy lần nữa nhưng vẫn còn sẽ gây khó khăn trong tỉnh, sau lưng quân Nguyễn Văn Thành.

Trong lúc đó thì tiến triển thuỷ quân Nguyễn vẫn khả quan. Nguyễn Văn Trương đổ bộ Cổ Luỹ, đốt kho Trà Khúc đuổi Đô đốc Tuấn chạy, rồi ra cửa Đại Chiêm đánh Hội An, Phú Triêm bắt 24 voi. Ở La Qua, ông đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Xuân, Lưu thủ Thiếu uý Lưu Tấn Thể lấy hơn 80 đại bác, binh thuyền, khí giới4. Nghe tin, Nguyễn Ánh phái thêm Tống Viết Phúc đem 1.000 binh và 30 ghe chiến đến giúp. Ông còn cho cả Phạm Văn Nhân lãnh 3 chiếc Long, Phượng, Bằng trong đội cận vệ của ông ra Đà Nẵng.

Để việc rút quân khỏi tiết lộ, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Công Nga đem 15 thuyền ngày đêm tuần tiễu từ cầu Tân Hội tới Nước Mặn, từ sông Tam Kỳ (?) tới sông Dinh, Gò Bồ (Phù Sa), cấm dân chúng lai vãng, xầm xì tin tức.
_______________________________________
1. Có Thạch cốc tự, gọi nôm là “chùa Hang” nổi danh, thuộc xã Mỹ Hoà, quận Phù Mỹ, Bình Định.
2. Liệt truyện, q10, từ tờ 6b, truyện Đặng Đức Siêu.
3. L.Barizy trong thư 11-4-1801 dẫn việc Nguyễn Ánh có mặt ở trận “Dung thi” (Đồng Thi, đồng Cây Cầy) tháng 11, 12 âl năm ngoái, “tay mang ống viễn kính”. Barizy lúc bấy giờ còn ở Gia Định, mới vừa ra tù nhờ lệnh hoàng tử Cảnh trước khi chết (20-3-1801), không biết có được tin đích xác không. Vì sau trận đồng Cây Cầy, Vân Sơn thuộc về quân Nguyễn, nhưng Thi Nại chưa bị phá, Nguyễn Ánh có bỏ hòn Nần lên bộ thám sát không? Cho nên chuyện lần này có vẻ đáng tin hơn chuyện lần trước.
      Còn địa điểm Vân Sơn theo lời tả của ĐNNTC, tỉnh Bình Định, mục “Vân Sơn giang” thì chắc là vùng Vân Hội, quận Tuy Phước (đã nói) chớ không phải gò Vân Sơn (có nhà ga cùng tên), gần Chà Bàn, nơi nổi tiếng nhờ Chế Lan Viên ngồi khóc dân Chàm.
4. Thư Barizy cho các ông Marquini, Letondal, 16-7-1801 (BAVH, Oct - Déc 1926, t. 401) kể trận đánh lấy Huế, có nhắc trận Đà Nẵng hôm 8-3 lấy 30 voi, 84 đại bác, kho gạo, áo quần. So với số súng và voi thu được với Thực lục ở đây, ta chắc 2 trận của 2 tài liệu chỉ là một.
 
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #71 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 12:07:24 am »



Ngày 27-5-1801, binh thuyền Gia Định tới Quy Nhơn với 10.900 bộ binh, trên 27 ghe chiến và nhiều ghe trí súng1. Quân ở vài ngày, Ánh đưa mật thư bảo Võ Tánh lén bỏ thành chạy ra và đồng thời tuyên lệnh ban thưởng cho những người nào bắt được vua tôi Quang Toản. Ngày 3-6, quân Ánh rút đi sau khi đốt lửa ở núi Một báo tin cho Nguyễn Văn Thành ở Vân Sơn biết và để giã từ viên Phò mã Hậu quân, người anh hùng cuối cùng của Gia Định Tam kiệt. Ngày 7-6 quân đến Đà Nẵng, Ánh sai Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhân đem thuyền đi trước đến cửa Eo (Noãn khẩu, cửa Thuận An). Trận đánh Phú Xuân bắt đầu2.

Tám giờ sáng ngày 11-6, thuỷ quân Nguyễn đến dàn trước mặt cửa sông Hương chia làm 2 đạo: các tàu và thuyền trí súng dưới quyền Phạm Văn Nhân hướng vào cửa Thuận An, 42 ghe chiến và 300 ghe nhỏ chở 15.000 bộ binh theo Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt, Lê Chất nhằm vào cửa Tư Hiền (Tư Dung, hay nôm na, cửa Ông theo bản đồ của Barizy). Người giữ cửa là Phò mã Nguyễn Văn Trị đóng trên núi Quy Sơn (núi Linh Thái) với 10.000 người dựa thế hàng cọc gỗ đóng chặn bên bờ sông ngăn ghe thuyền địch.

Năm giờ sáng ngày 12, cuộc tấn công bắt đầu. Binh Tây Sơn trên núi cao bắn xuống rất dữ, các ghe thuyền lại mắc phải cọc chìm khá nhiều. Trận chiến kéo dài đến suốt ngày (từ Thìn tới Dậu): 7 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Lê Văn Duyệt bàn với Lê Chất rằng không đánh tập hậu không được. Đêm đến, ông đem 20 thuyền lén vượt bờ cát, trước sau ập lại, bắt được Nguyễn Văn Trị cách đồn độ 500 thước. Đô đốc Phan Văn Sách cùng 500 người phải hàng.

Trong lúc trận chiến tiếp diễn ở cửa sông thì trên Kinh thành một âm mưu nội tuyến của giáo đồ bị tiết lộ3. Một người thợ mộc ở Phú Xuân đã lén thuyết phục Nguyễn Ánh rằng các giáo sĩ và giáo đồ có thể giúp ông được. Ông bèn gửi thư cho Giám mục (có lẽ Labartette) và các giáo sĩ báo tin quân ông đến và xin các ông này cầu nguyện cho. Lúc trở về người thợ mộc bị bắt và khai tất cả. Dưới sự thúc đẩy của Nội hầu Lê Văn Lợi (Barizy viết “Hoe Hanh Loi”: Lê Văn Lợi, hay “Noé haw Loée”: Nội hầu Lợi), một lệnh truyền tru diệt những người Thiên Chúa giáo trong vùng được tung ra ngày mồng 5 - 5 (tết Đoan Ngọ), nếu quân Nguyễn Ánh không vừa tới kịp4.

Trong sông, quân Nguyễn gặp một số tàu trong 64 chiếc từ Bắc vào tiếp viện dưới quyền một viên Tư mã mà Barizy gọi là “Noe”. Hai mươi bảy thuyền có trí súng của Tây Sơn có mang cờ lụa đỏ tiến đến ngăn chặn đội thuyền Phấn Dực, chỉ trong phút chốc đã bị đánh thua chạy. Ba giờ chiều mồng ba tháng 5, ghe thuyền quân Nguyễn vào bến Phú Xuân5. Quang Toản vội vã mang vàng bạc, bỏ cả sắc ấn nhà Thanh lại để chạy cốt thoát lấy thân với em là Thái tể Quang Thiệu, Thái sư Quang Khánh cùng Đại tư mã Tứ, Đô đốc Trù. Ở lại hàng có Nội hầu Lê Văn Lợi, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ cùng các Phụng nghi, Thị lang bên văn, Đô đốc, Đô tư bên võ. Barizy đi thăm người bị bắt thấy có mặt mẹ Trần Quang Diệu, em vợ ông, vợ Vũ Văn Dũng với các con Ngọc Hân mà ông không tiếc lời khen ngợi vẻ mặt ưa nhìn cùng thái độ cứng cỏi của họ (đây là Quang Cương, Quang Tự, Quang Diệu của Thực lục).

Nghe tin quân Nguyễn đánh Phú Xuân, Trần Quang Diệu sai Tư khấu Định đem 5.000 quân vòng đường núi về cứu. Quân đi 12 ngày đường bị người Thượng ngăn trở, Định tới thì Phú Xuân đã mất liền đóng quân cách đấy nửa ngày đường, người ngựa mệt nhọc lăn ra ngủ. Lũ chăn trâu về báo, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất đem quân bản bộ tiến đánh thì bị vây ở vùng núi gần đó. May sao 4.000 quân hậu tập đến vừa kịp phá tan vòng vây. Định bỏ chạy chết trong rừng. Ba Đô đốc bị bắt, trong đó có Đại Đô đốc Lê Văn An mà tuổi trẻ và khí vũ hiên ngang khiến Nguyễn Ánh phải mến phục6.

Ở Quy Nhơn, Trần Quang Diệu cũng lo công kích thành gắt gao. Võ Tánh đánh ra một lần cuối rồi tự đốt chết sau khi bảo Lưu thủ Nguyễn Văn Thanh đưa súng cho Trần Quang Diệu gởi gắm tướng sĩ. Như vậy Tây Sơn đã thanh toán xong đạo quân trong vòng vây để rồi phải lo phá vòng vây.

Trong nửa năm sau 1801, phía bắc không có gì đáng lo lắng cho Nguyễn Ánh. Ông đã sai Nguyễn Văn Trương đuổi theo vua tôi Quang Toản đến sông Gianh chận bắt 2.000 quân chạy trốn. Thế mà Tây Sơn còn ráng thắng một trận để chặn đường cho vua họ chạy thoát. Nguyên khi Tây Sơn đến Hoành Sơn, Trương sai Nguyễn Kế Nhuận đem 7.000 binh thuỷ bộ chận đánh. Đến núi Thần Đầu bị phục binh, Nhuận phải chạy bỏ quân chết quá nửa7. Viên hàng tướng Tây Sơn từ đất Gia Định nay bị Nguyễn Ánh kể tội đem ra giết chết.
__________________________________________
1. Thư Barizy đã kể, danh xưng về các thuyền lộn xộn quá: galère, chaloupe canonnière, demi-canonnière rồi “ghequienne”! Chuyển tiếp viện này không thể lẫn với chuyến đầu năm do Trần Công Thái dẫn Hậu quân Gia Định ra (Thực lực, q10, 3b). Số lượng 10.900 quân ghi ở đây, 10.000 ghi ở thư khác, ngày đến Qui Nhơn cho ta quyết chắc là chuyến chuyển quân vào tháng 4 âm lịch của Thực lục (q13,22a)
2. Trận Huế, ngoài Thực lục, thư Barizy kể trên, còn có tài liệu ở Liệt truyện q7, 17b, về Phạm Văn Nhân, q8, 8a về Nguyễn Văn Trương, q21, 20b, Nguyễn Văn Thành, q22, 6b Lê Văn Duyệt, q24, Lê chất, q30, 51ab Nguyễn Quang Toản.
3. Thư Girard gởi cho Letondal, 25-6-1801, thư Barizy cho Marquini, 15-7-1801 (A. Launay, III, t. 422, 423).
4. Thời điểm lấy của Barizy vì chi tiết vẽ rõ hơn, Thực lục có nói đến lúc rời Qui Nhơn ngày Canh Ngọ (5-6-1801), đến Đà Nẵng ngày Quý Dậu tháng 4 âl (8-6-1801).
5. Theo Barizy tả biến chuyển thì 3 giờ chiều 13-6 trùng với 3-5 của Thực lục (q14, 1b). Nhưng Nguyễn Ánh ở dưới thuyền ngự đến 8 giờ sáng 15-6 mới vào Kinh thành có lẽ vì muốn chờ tết Đoan Ngọ (tốt ngày? long trọng?). Vì lẽ đó nên Girard mới nói đến chuyện giải phóng Huế ngày 15-6.
6. Thực lục q14, 10ab, Liệt truyện q22, 7ab. Thư Barizy do Cadière đã kể có nhắc tên 3 Đô đốc hàng là Do Doue Cane (giải thích là Lương Văn Canh như Cadière là sai), Boune và Banaa. Lê Quốc Cầu và Lê Văn Từ bị bắt trong trận không có âm tên giống như vậy, Duy Boune có lẽ là Tống Phúc Phượng (Liệt truyện, q25) hơn là Nguyễn Bá Phong như Cadière đã theo lời chỉ dẫn của Ch. Maitre. Phượng cầm cánh quân riêng 1.000 người và tự đi đầu hàng trước.
7. Liệt truyện q8, 9a.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #72 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 12:08:16 am »



Tuy nhiên mặt nam mới là đáng chú ý tới1. Nguyễn Ánh bảo Nguyễn Văn Trương sai Hoàng Văn Điểm giữ Thanh Hà rồi về Đồng Hới sửa luỹ phòng thủ. Thu thêm 52.000 binh Tây Sơn nhập binh mình, Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Tống Viết Phúc đánh vào. Đến Trà Khúc, Phúc lập được công lớn: đánh bắt Đô đốc Nguyễn Văn Khôn, Tham đốc Hồ Văn Tự cùng 3.000 quân. Nhưng ông rủi ro lại gặp kẻ thù: viên tướng do Trần Quang Diệu phái ra với Đại Đô đốc Lê Danh Phong (sau ra hàng) lại là Từ Văn Chiêu, nên đã phục binh giết chết Phúc, ngăn hẳn con đường tiến quân của Duyệt, Chất đang đóng từ cửa Mỹ Á giăng lên núi2.

Phía nam chiến luỹ đó, 30.000 quân (ước lượng của Barizy và tính toán của Nguyễn Ánh) của Nguyễn Văn Thành cũng đang mệt nhọc với quân Dũng, Diệu và bọn hàng tướng trong thành Bình Định3. Ở phú Yên, thỉnh thoảng Phạm Văn Điềm cũng làm rối 6-7.000 quân của Tiên phong Hoàng Viết Tuyển.

Tháng 8 Tân Dậu (1801), Tây Sơn muốn đánh Hoa An, Hoa Lộc để thông với Phú Yên bèn đàn áp thật mạnh ở Sơn Chà4, tiến đến sông Dinh, sát núi Một, nhưng không kết quả. Trần Quang Diệu lại chuyển 18.000 quân ra phía Bắc, mưu sai Từ Văn Chiêu đem 2.000 quân đánh úp sau lưng Lê Văn Duyệt để phá thế bao vây mà tìm đường ra Bắc Hà nhưng cũng không toại nguyện. Mặt nam Bình Định, Nguyễn Văn Thành lại tung quân đánh mạnh từ luỹ Lò Giấy (Lô Chỉ) đến Tân An khiến Diệu phải trở vào tiếp tay với Vũ Văn Dũng tận vét dân binh chống cự5. Trận chiến cứ dằng co như vậy trong tháng 10.

Trong khi đó ở Bắc Hà, Tây Sơn cố gượng dậy. Quang Toản cải hiệu Cảnh Thịnh làm Bảo Hưng, hạ chiếu tự cải lỗi để uy phủ các trấn, sai đắp gò tròn nơi cửa ô Chợ Dừa và đầm vuông nơi hồ Tây để hạ chí, đông chí ra đó tế trời đất. Công việc thật có vẻ của thời thái bình thịnh trị khiến cho Nguyễn Huy Lương phải làm bài phú Tụng Tây Hồ, ca ngợi công đức Tây Sơn một cách quá muộn màng. Nhưng Nguyễn Văn Trương ở sông Gianh cũng nghe điệp báo nói Bắc Hà “xứ xứ lũ động” nên hi vọng của Tây Sơn tranh đoạt lại đất đai thật là mỏng manh.

Tuy vậy, tháng 8 âm lịch, Quang Thùy cũng dẫn quân bản bộ đi Nghệ An trước. Ở Bắc trong 3 tháng, Quang Toản đốc 3 vạn binh tứ trấn cùng Thanh Nghệ, lưu Quang Thiệu, Quang Khánh lại Thăng Long rồi kéo quân vào Nam. Từ tháng 11 Tân Dậu ra đi mà tới 1-1 Nhâm Tuất (1802) mới xảy ra trận đánh luỹ Trấn Ninh, thật quá xa thời Quang Trung tung quân.

Những danh tướng Tây Sơn mắc kẹt ở Quy Nhơn để ở đây nổi bật lên hình bóng một anh thư mà giáo sĩ De la Bissachère đã hết lời ca tụng đến nỗi đem tăng quân số bản bộ từ khoảng 5.000 lên đến 300.000! Thuỷ quân Tây Sơn do Thiếu uý Đặng Văn Đằng và Đô đốc Lực dàn trên 100 thuyền bày trận ngoài cửa Nhật Lệ. Trên bộ, Quang Thuỳ, Tổng quản Siêu thẳng lên luỹ Trấn Ninh. Và ở mút phía Tây luỹ, nơi núi Đâu Mâu có Tư lệ Đinh Công Tuyết và Đô đốc Nguyễn Văn Kiên cáng đáng. Chiến tranh xảy ra như 150 năm về trước cũng nơi đất này, tuy các vai trò đã đổi thay.

Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Trương đánh ngoài biển, Phạm Văn Nhân, Đặng Trần Thường phản binh cự. Quân Tây Sơn bị chết cả ngàn vẫn leo lên núi Đâu Mâu như kiến. Nguyễn Ánh sai thả đá xuống vẫn không ngăn được. Bùi Thị Xuân đốc thúc voi, binh tử chiến từ sáng tới trưa, đã phá đổ một vài mảng thành. Ngôi vị Nguyễn Ánh tưởng bị đe doạ lần nữa. Nhưng ngoài biển, Nguyễn Văn Trương phá tan được thuỷ quân Tây Sơn. Trên đất, Nguyễn Văn Kiên tiến quá sâu với 8-900 bộ binh bỗng nhiên chịu hàng. Thế mà Bùi Thị Xuân còn đánh mãi tới xế. Thuỷ quân Nguyễn theo đà thắng đổ bộ đánh tập hậu. Quang Toản vội vàng rút lui, bỏ quân Bùi Thị Xuân rối loạn theo. Thế trận đánh tan rã đánh dấu lần quật cường cuối cùng của Tây Sơn6.

Trận Trấn Ninh cũng làm tiêu tan hi vọng của quân Tây Sơn ở Quy Nhơn. Trong hai tháng đầu năm Nhâm Tuất (1802), họ đã phục binh giết được Phó tướng Nguyễn Văn Huệ và cố gắng cầm cự với quân Nguyễn Văn Thành hợp với Lê Văn Duyệt vào đánh luôn trong 7 ngày. Vùng dưới biển gần Thi Nại, từ sông Dinh lên núi Kỳ Sơn đều bị quét sạch đến mãi Vườn Cau. Vũ Văn Dũng đem nhiều binh đến đánh, không chiếm được mà còn hao các Đô đốc nữa. Cảnh quân Lê Văn Duyệt, Lê Chất đánh ép vào Bến Đá, thuỷ binh đổ bộ Tam Quan, Đề Di.

Nhưng cái nguy nữa cho Tây Sơn chính là thiếu lương. Hồi tháng 2 họ định vượt núi Nha Tham lén cướp Phú Yên nhưng đã bị Nguyễn Văn Thành chặn lại được. Bây giờ cho dù Trần. Quang Diệu và Vũ Văn Dũng có muốn đi cướp Gia Định như giáo sĩ De la Bissachère nghe đồn cũng không được nữa7. Tháng ba năm đó, hai người đều hết lực bỏ thành đem quân đi vòng trên núi ra Bắc với 80 tướng, 3.000 binh mạnh và 86 voi.

Tháng 5, Nguyễn Ánh lên ngôi tôn, niên hiệu Gia Long. Đối với chúng ta, ý nghĩa chính là ở chỗ cuộc chiến kéo dài 30 năm đã sắp chấm dứt.
______________________________________
1. La relation sur le Tonkin...., sđd: t.108, 109. Thư Langlois cho Boiret. 3-9-1802 (BEFEO, 1912, t.55)
2. Con số 52.000 là của Barizy. Thực lục q14, 16b - 18b, Liệt truyện q13, 9b, 10ab.
3. Trường hợp Nguyễn Văn Tồn (Liệt truyện q28, 3ab) khi thành Bình Định mất theo Tây Sơn đánh rất hăng, quân Nguyễn kêu không ngó lại, đến khi trở về, người ta hỏi, ông trả lời: “Đánh hăng cho giặc khỏi nghi”. Ấy vậy mà không biết sử quan nghe ở đâu lại nói có người khen là “có trí”.
4. Theo sự kiện kể ở đây thì chắc là hòn Chà vùng nam sông Vân Sơn (Vân Hội) chớ không phải núi Trà (Trà Sơn), Chà Rang (Trà Lang Sơn) ở Phù Cát, tây bắc Chà Bàn của ĐNNTC.
5. Thực lục q15, 1b, 17a, 20ab.
6. Trận Trấn Ninh: Thực lục, q15, 28ab, q16; Liệt truyện q8, 11b-13a, q30, 53ab, 54a; La relation sur le Tonkin... sđd t.108-111. Tuy De la Bissachère quá tán tụng Bùi Thị Xuân nên mới lo sợ giùm cho Nguyễn Ánh, nhưng đã có những chi tiết đúng như: voi phá vài nơi của luỹ Thầy (Liệt truyện: “Bùi Thị Xuân suất tượng khu chúng”), đánh tới 2 giờ chiều (“quá trưa” của Liệt truyện). Duy ông không biết đến tên viên tướng phản bội mà ta gán cho Nguyễn Văn Kiên vì ông này có mặt trong trận và có tên trong danh sách hàng tướng.
7. La relation sur le Tonkin, sđd, t. 113. Có thể vì toan tính đánh ở Phú Yên trong dịp này mà người ta đồn tới tai De la Bissachère rằng Trần Quang Diệu muốn vào lấy Đồng Nai chăng?
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #73 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 12:09:06 am »


Từ lâu trong quân đội Nguyễn Ánh có những người Bắc Hà đầu quân mưu khôi phục nhà Lê. Nguyễn Ánh vẫn mập mờ dùng niên hiệu Cảnh Hưng trong các văn thư. Các cựu thần nhà Lê lại thường tổ chức những cuộc xâm nhập Bắc Hà để quấy rối hậu cứ Tây Sơn. Nhưng khuynh hướng phò Lê theo với thời gian đã trở thành lỗi thời, quần thần nhà Nguyễn xuất thân ở Nam Hà tranh quyền bằng xương máu của mình hẳn không phải để đặt lên ngai vàng một ông vua lưu vong chưa từng chia xẻ gian khổ với họ. Ý nghĩa việc đúc tiền năm 1796 với danh hiệu Gia Hưng riêng biệt cũng là một dấu vết phủ nhận từ Nguyễn Ánh1. Việc Tây Sơn cầm quyền xứ Bắc trên 13 năm đã xua tan thành kiến ranh giới sông Gianh. Tây Sơn chịu tiếng cướp nước, nhưng sẽ mở đường cho kẻ sau vượt tiếp mà không thấy trở ngại nhiều. Bởi vậy, khi Nguyễn Ánh đánh Bắc mà phân vân “Bắc Hà vốn là đất của nhà Lê” thì Đặng Đức Siêu, Trần Văn Trạc mới có thể lý luận: “Đất Bắc là của Tây Sơn rồi... Lấy đất Bắc là lấy của Tây Sơn chứ lấy gì của Lê!”2.

Lên ngôi xong là Nguyễn Ánh đã dứt khoát sau khi chuẩn bị đầy đủ cuộc vận động tâm lý quần thần. Những người Bắc Hà đã được dự bị từ lâu để theo quân ra: văn thần có Đốc học Nguyễn Gia Cát, Hàn lâm viện Mai Huy Đường đã chờ sẵn từ tháng 6 âm lịch (1801), Đặng Trần Thường cũng được rút từ quân thứ Bình Định đến với Tham quân Hậu dinh là Nguyễn Trí Hoà3. Quân Bắc phạt gồm cả một lực lượng hùng hậu. Tiền quân mang 60.000 binh, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn 86.000 người, Hậu quân Lê Chất 50.000 người; Nguyễn Văn Trương mang 50 tàu, hơn 100 ghe chiến. 800 thuyền có trí súng, 500 thuyền nhỏ hơn chở 50.000 người, tất cả rầm rộ tấn phát4.

Quân đi dũng mãnh nhưng đã có bài “Hịch dụ các người trung nghĩa ngoài Bắc thành”5 để chứng tỏ là Vương sứ đến. Lời kêu gọi nhắm vào việc động viên người Bắc hưởng ứng quân Nam, phục thù cho nhà Lê:

“Trước để sanh hồi miếu xã - sau là chửng cứu sinh linh.
“Khuyến người trung nghĩa ngoài này - rõ ý không phù trong ấy”.

Nhưng chúng ta hãy nghe tiếp:
“Nghe võ hịch một lòng ứng Hán, giúp cơn đông lạc thuở trùng hưng;
“Dựng can kỳ bốn mặt công thành, từ thuở sơn man thất thế”.

Nhắc chuyện bạo Tần tức là nhắc chuyện dời đổi triều đại, tuyên xưng cho một phía là nhà Hán, tức là bắt mọi người phải công nhận quyền uy của triều đại mới, người viết hịch trong ước mơ của một di thần Lê Trịnh cũng đành phải vô tình nhận rằng phân tranh sắp chỉ vào là dĩ vãng và nhà Lê chỉ còn là bóng mờ mà thôi.

Cho nên cuộc Bắc phạt thành công thực dễ dàng. Nguyễn Văn Trương đi trước đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, rồi cùng với bộ binh của Lê Văn Duyệt, Lê Chất hợp nhau quét sạch xứ Nghệ. Trấn thủ Nguyễn Văn Thận, Hiệp trấn Nguyễn Triêm, Thuỷ quân Thống lãnh tên Đại, Thiếu uý Đằng đều bỏ chạy. Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Điểm, Lê Công Hưng (phần lớn đều là hàng tướng cũ lại trở về), theo đường thượng vừa đến. Diệu qua đèo Quy Hợp vào Nghệ An thì nơi này đã mất, bèn qua Thanh Chương, vượt sông Thanh Long. Lính theo hao mòn vì thiếu ăn, bệnh tật, nên bỏ rơi tướng họ sa vào tay bọn nông dân ham tiền. Cuộc đời dõng mãnh, thanh cao rồi sẽ cùng chấm dứt với người vợ hiếm có. Phần Vũ Văn Dũng cũng không thoát tay dân Nông Cống6.

Quân Nguyễn qua Thanh Ba bắt Quang Bàn và Văn Thận. Đằng và Hổ đem nhau ra hàng. Đến Sơn Nam hạ, Nguyễn Văn Trương lùa được bọn Thống binh Tề Ngôi lên bộ, bắt Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng. Ngày 15-7-1802, Thiếu uý Nguyễn Văn Thọ mở cửa thành Thăng Long ra hàng. Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, các Đô đốc Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, Tú (Từ Văn Tú?) vượt qua sông Nhĩ Hà chạy trốn. Họ không may mắn hơn những người trước. Đêm ở Xương Giang, dân chúng đón bắt, Quang Thuỳ, Đô Đốc Tú và vợ cùng tự vẫn. Còn Quang Toản bị dân Phượng Nhỡn bắt, chấm dứt đời Tây Sơn.

Ngày 20-7, Nguyễn Ánh ra tới Thăng Long, đặt chân lên nơi mà hơn 200 năm trước, tổ tiên ông phải giả tiếng mới về Nam được. Thăng Long, Thanh Hoá, Phú Xuân, Gia Định rồi nối vòng Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long, con đường thật dài, thật đầy gian nan, cực nhọc mà cũng đầy vinh quang. Đất nước mệt mỏi vì chiến tranh nay đã tìm được đường thoát trong thống nhất, yên nghỉ. Một giai đoạn mới bắt đầu với Nguyễn Ánh - Gia Long.
_____________________________________
1. Thực lục, q9, 6a.
2. Thực lục q16, 17b.
3. Thực lục q14, 20b, 22b.
4. Số lượng quân trong thư Barizy gởi cho Marquini và Foulon, 15-6-1802 (BAVH, Oct-Déc 1926). Chuyện Bắc phạt: Liệt truyện q8, 13ab, q30, 54ab, Thực lục q17, 11b-18a.
5. Tác giả Vũ Huy Dao, trích trong Morceaux choisis... t.254, 255.
6. La relation sur le Tonkin, sđd, t.114, 117; Liệt truyện q.30, 54b, 55a. Trong tập Bình Định (1964), Ty Thông tin Bình Định, trang 13, 24 có đoạn xác nhận rằng Vũ Văn Dũng là người địa phương (thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, quận Bình Khê), sau khi bị bắt bèn trốn thoát, cải danh là Vũ Văn Độ, mất ở An Khê năm 1853. Nếu ông Độ có thật thì chắc là một người bà con lưu lạc chớ chuyện Vũ Văn Dũng trốn thoát là điều khó tin (Dũng không quá trẻ để đến mãi năm 1853 mới chết!). Trần Quang Diệu nhờ tha chết cho binh tướng Võ Tánh mới được đặc ân uống thuốc độc, khỏi bị voi xé như vợ con. Còn Vũ Văn Dũng mà đầu cũng treo giá đồng thời với của quan Thái phó thì làm cách nào thoát khỏi nanh vuốt của Nguyễn đang thắng được? Dũng là người Hải Dương đã có bằng cớ hẳn hoi nơi tước Chiêu Viễn hầu như ta đã nói trước.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #74 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 02:47:07 pm »


Chương kết


_______________________________________________________Tiết 20

TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ CHẤM DỨT PHÂN TRANH

Vai trò từng cá nhân trong diễn biến lịch sử chấm dứt phân tranh * Ý nghĩa của thời gian 32 năm rối loạn * Những dữ kiện hướng dẫn tái lập hoà bình mở đầu cho thời kỳ cận đại ở Việt Nam.



Lịch sử vừa đóng hết một giai đoạn rối rắm, tàn bạo. Chiến tranh liên miên trên một vùng đất đầy những đặc tính phức tạp, riêng rẽ khiến ta thấy những bộ mặt đặc biệt hiện ra, biến đi tuỳ theo tình thế thay đổi. Về phía Tây Sơn, những Nhưng Huy, Tứ Linh, Huyền Khê, Nguyễn Thung, Giáo Hiến có danh vọng không vượt qua được giai đoạn đầu của một đám cướp nổi loạn. Phạm Văn Sâm, Phạm Văn Hưng và cả Trần Quang Diệu nữa cũng được nuôi dưỡng trong sự trưởng thành của triều đại dòng họ những người ấy. Cứ giả định rằng không có cuộc loạn phát xuất từ làng Kiên Thành thì chắc rằng họ cũng chỉ là những người dân nai lưng ra đóng thuế. Đòi hỏi của tình thế chiến tranh hợp với sư may mắn có liên lạc thân tộc với dòng họ nổi dậy khiến những người này được nâng cao lên, thoát cảnh sống một đời tầm thường, hay có khi tệ hơn, lam lũ. Hình bóng yếu ớt của những nhân vật Bắc Hà: Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng... là một minh chứng thêm bên lằn mức đối địch. Nằm trong sự tan rã của Trịnh Lê, lúc quyền uy Tây Sơn chưa đủ mạnh để lan ảnh hưởng đến vùng ngoài, họ có vẻ là “con người của thời đại”. Nhưng lâm sự, tài năng hèn kém của họ lộ ra: Nhượng tránh mặt Tây Sơn, Cơ bất nhất lúc Lê, lúc Trịnh để rồi bị trói bởi Tiên phong của Nguyễn Hữu Chỉnh.

Lý Tài tưởng đã tránh được số phận dành cho Tập Đình, Nguyễn Thung những người gián tiếp hay trực tiếp chết dưới tay Nhạc, nhưng khi ông phò trì một triều đình đang tan rã thì chức Bảo giá Đại tướng quân oai vệ không đưa quân ông tổ chức vượt được lên trên tình trạng đao búa của một đám cướp ngày để rồi phải chấm dứt cuộc đời trong lúc luân lạc. Châu Văn Tiếp cùng một xuất xứ như Nguyễn Nhạc mà oán “Trời không cho ta bình Tây” chỉ vì đã đem mình ngăn chặn một trào lưu đang lên, tuy lòng can đảm, ý chí quyết thắng của ông có thừa như bất cứ một tướng lãnh Tây Sơn nào khác. Nguyễn Văn Trương may mắn hơn. Từ đứa chăn trâu leo lên chức Trấn thủ Long Xuyên là công của triều đại dân chúng Tây Sơn, nhưng làm Bình bắc Đại tướng thay mặt Nguyễn Ánh trông coi thuỷ quân chính là nhờ ông đã ghép mình với Gia Định, tiến bộ theo với lực lượng chủ chốt này của miền Nam.

Vượt trên hết những kẻ này là những khuôn mặt đã làm nên lịch sử: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ và chót hết, vinh dự thay trong lịch sử tàn nhẫn, Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng ta cũng đã thấy biến chuyển từ từ trong con người tạo thành Gia Long khi chung cuộc. Đỗ Thanh Nhân ở Sài Gòn chống Tây Sơn thì ông đã lánh ra Bến Lức, Lê Văn Quân thống giữ Ba Vác, Ba Lai thì ông lênh đênh ngoài vịnh Xiêm. Thực là khác hẳn khi ông đề xướng kế hoạch đánh giặc mùa, điều khiển dưới tay một bọn bề tôi hỗn tạp gồm những tôn thất kiêu hãnh với dòng dõi, tướng tá dũng cảm nhưng thô lỗ, hàng tướng đầy mặc cảm và nhớ tiếc quá khứ oanh liệt, bọn Phiêu lưu Tây phương bừa bãi ngạo nghễ... Ngôi sao Nguyễn Huệ có chói sáng rực rỡ vì chiến công cũng không che lấp được tính cách mâu thuẫn bấp bênh của chế độ Tây Sơn. Cho nên, Nguyễn Hữu Chỉnh cô độc giữa xứ Bắc Hà cũ kỹ trong thành kiến đến phải mắc tội “bội phản” mà chết, Nguyễn Nhạc ôm lấy thành Chà Bàn chờ Nguyễn Ánh mạnh lên.

Nhưng những người đang hành động, tiêu cực hay tích cực cũng đều là biểu hiện cho những khuynh hướng, trào lưu hiện hành. Cho nên họ phải chịu sự huỷ diệt - cụ thể là sự huỷ diệt thân xác - để cho trào lưu kia tan biến hình thức đề kháng mạnh mẽ nhất. Bởi vậy Tây Sơn đã cố tình truy nã đến tận cùng ông Hoàng còn sót lại của dòng họ Nguyễn. Nguyễn Ánh dùng voi xé xác Quang Toản, Bùi Thị Xuân... Lịch sử 32 năm chấm dứt phân tranh, lịch sử thống nhất trong chiến tranh khôngphải chỉ gồm những chém giết, hằn thù cá nhân. Tôi trung nhà Nguyễn có thể hậm hực vì “nguỵ tặc”, cũng như người có tinh thần chống đối phải than khóc giùm cho cơ nghiệp Nguyễn Huệ1. Nhưng vượt bỏ tính cách phù du giai đoạn của cuộc sống từng thế hệ, người ta phải thấy có một sự nối tiếp xảy ra trong lịch sử giữa những người trước, sau, cho dù là thù địch cũng vậy.

Chiến tranh hối thúc lịch sử. Thế mà lịch sử phân tranh trong xã hội Đại Việt đã có dấu hiệu báo trước từ đầu thế kỷ XVI. Triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) qua đi là xuôi hẳn thời thịnh vượng. Có người đã muốn tìm nguyên nhân trong sự kiệt lực của đất đai đồng bằng Nhĩ Hà2. Nhưng lịch sử Việt Nam không chỉ xoay quanh đồng bằng miền Bắc cho nên vấn đề có lẽ phức tạp hơn nhiều. Để giải quyết sinh sống, người nông dân Việt khai triển đất đai với tính cách chiếm đoạt. Những đồn điền đặt ra dưới triều Thánh Tông là lợi khí mở đường về Nam. Song kỹ thuật không đổi mới tiến bộ thì địa phương càng dễ độc lập với trung ương, nhất là khi trung ương lại có những yếu tố phân ly sẵn. Cho nên, Trịnh dẹp được Mạc rồi, chấm dứt cuộc phân tranh Lê - Mạc mà không ngăn được Nguyễn Hoàng hùng cứ phương Nam.

Nhưng đất mới cũng đem lại yếu tố văn hoá, kỹ thuật làm nên sức mạnh cho triều đại ly khai. Sau này chúng ta thấy Tây Sơn, Nguyễn Ánh có quân Chàm, Thượng, Miên giúp sức, nhưng J. Koffler đã chỉ rõ từ trước rằng đội quân Chàm của dân bản thổ là một cột trụ của Nam Hà giữ quân Bắc không vượt qua được sông Gianh. Nếu chỉ có bấy nhiêu thay đổi thì phân tranh vẫn chỉ hoàn phân tranh. Quan trọng hơn là việc đám người bản thổ Việt hoá và đám người Việt thu nhận ảnh hưởng bản thổ tạo thành một lớp người mới uyển chuyển hơn. Đất đai màu mỡ vì vừa quen với kỹ thuật khai thác tỉ mỉ ở miền Bắc đưa vào, tạo nên sự trù phú, thịnh vượng. Ấy vậy mà càng đi về xa xuống Nam mối liên lạc địa phương với chánh quyền trung ương càng lỏng lẻo, ngay cả đối với chánh quyền Nam Hà. Những con sông ăn sâu vào trong núi, những khoảng núi chạy dài ra biển ấp ủ, che giấu những âm mưu khuynh đảo.
____________________________________
1. Đại diện cho thái độ đầu là Hoàng Quang (Hoài nam khúc), các bề tôi nhà Nguyễn, đại diện cho thái độ sau là một số người chịu ảnh hưởng trào lưu dân chủ, cách mạng ngày nay. Không đâu vẽ rõ sự xung đột của những ý kiến chủ quan của sử gia bằng ở quyển Hoàng Lê nhất thống chí: Ngô Thì Chí hiểu chữ “nhất thống” theo với nghĩa gồm một về vua Lê nên cùng với Ngô Du hết sức ca tụng Nguyễn Huệ, Du càng tăng độ ca tụng khi Tây Sơn thịnh. Thế mà tác giả viết các hồi sau chót lại cố lái chữ nhất thống về phía Nguyễn nên gọi “nguỵ Tây” đối chọi với “quan quân”
2. Đào Duy Anh - Việt Nam lịch sử giáo trình, Thời kỳ tự chủ, quyển hạ, Liên khu IV xuất bản, 1950. trang 25, 26, chú số 1.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #75 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 02:47:46 pm »



Thế rồi ảnh hưởng Tây phương đến. Chúng ta biết thương nghiệp mang lại giá trị mới cho những sản phẩm địa phương. Nam Hà có đất cho nông dân cày cấy thì cũng có rừng rú cho người ta lấy ngà voi, sừng tê, trầm hương, kỳ nam chuyển ra ngoài. Từ đó Nam Hà có truyền thống đón nhận ảnh hưởng từ ngoài vào. Joan da Cruz có tên gắn liền với địa danh Phường Đúc ở Huế trong khi những con bù nhìn giả lính Bồ đứng trên luỹ Trấn Ninh đe doạ quân Trịnh.

Tất cả tạo nên một hoàn cảnh sôi sục trong phát triển ở Nam Hà. Địa phương và trung ương trông chừng nhau ở cả hai bên sông Gianh, nhưng sức mạnh địa phương miền Bắc đã yếu thế nhiều vì quá khứ 10 thế kỷ kết tập chung sống. Cho nên, biến cố có tên là Tây Sơn lại nổ bùng ra ở Nam Hà và đủ sức mạnh để đảo lộn tất cả: chiến tranh 32 năm chỉ là cái gút để tóm thâu kết quả của mấy trăm năm gầm gừ phân tranh, mấy trăm năm biến đổi dần dà trong xã hội Đại Việt.

Cuối đường của mối loạn tiền kẽm gặp gỡ rối loạn trong triều Nguyễn chúa dưới quyền phụ chính Trương Phúc Loan là điều kiện tức khắc cho anh em Tây Sơn lộ diện. Họ tụ tập dưới cờ quân Thượng, quân phản Thanh phục Minh, đám nông dân nghèo đói, bất mãn sưu thuế, quan lại triều đình, sĩ phu, tướng lãnh không đất dụng võ. Nói rằng Nam Hà dưới quyền chúa Nguyễn vừa yếu vừa mạnh thực là mâu thuẫn. Nhưng đúng vậy bởi vì đã có những tiềm lực chưa dùng đến, còn đang kết thành. Tây Sơn đã nung chín những sức mạnh đó để làm lợi cho mình. Cho nên, cứ lúc tiến lúc thoái, họ đánh tan được nhà Nguyễn rồi ào ạt ra Bắc.

Ở đây phải nhắc lại tính cách đồng nhất trên những đường nét phát triển chính trị của xã hội Đại Việt trong phân tranh. Trên tột đỉnh cơ cấu quyền bính, Tây Sơn và bầy tôi Lê Trịnh xưng hô với nhau như người của hai nước riêng biệt, một điều “quý quốc” hai điều “quý quốc”, nhưng Trịnh - Nguyễn vẫn nhớ mình là người Thanh Hoá, Nguyễn Nhạc còn biết xưng họ ngoại chúa Nam Hà, và Nguyễn Huệ vẫn đòi lập Phượng Hoàng Trung đô ở quê cha đất tổ Nghệ An. Ảnh hưởng giao thương với nước ngoài không tạo nên một giai cấp bourgeois có tiền của, xây dựng ý thức hệ, đả đảo Cựu chế như ở Tây phương nhưng cũng phát sinh ở 2 miền Nam, Bắc một lớp người làm giàu mau chóng bằng cách buôn bán, khác hẳn bọn nông dân cặm cụi lam lũ. Phố Hiến, Kẻ Chợ, đám các lái ở Thanh Hoá còn đó để chứng minh. Chỉ duy, trong tương quan ảnh hưởng đối với xã hội Bắc Hà, họ phải chịu núp dưới bóng quan lại đồng hương hay không, để tìm quyền hành. Vùng này, dân chúng bị chi phối bởi mối quan tâm phù Lê diệt Trịnh trong khi Lê chỉ là bóng mờ bên cạnh uy quyền thực của Phủ Liêu. Cái hại sĩ phu miên man trong kinh sách rồi truyền cho đám nông dân tuy làm yếu Bắc Hà, nhưng cũng ru ngủ được dân chúng trong một giấc mơ bình an về ý thức hệ. Cho nên những kẻ bất mãn mà ít hay nhiều đã được khuôn nắn trong một không khí có khác với kinh văn, dễ mở rộng trí suy xét để đón lấy cơn giông tố tự phương Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh ở vào trường hợp đó. “Cõng rắn cắn gà nhà, nghĩ thật có tội, song cũng là một việc hơn người1 những đầu óc dù hẹp hòi cũng vẫn phải chấp nhận sự thật là có những biến đổi đang làm đảo lộn xã hội đang sống.

Nhưng khi Nguyễn Hữu Chỉnh muốn tách rời Tây Sơn thì ông thất bại ngay. Ông định đem những biện pháp khắt khe mà Tây Sơn đã dùng để áp dụng cho Bắc Hà thì gặp ngay những phản đối, hãi sợ về phía dân chúng, sĩ phu. Hợp tác với bọn khanh tướng bàn chuyện đòi đất Nghệ An thì được, nhưng như vậy là ông đi vào vết xe cũ của Trịnh nên không đủ sức chống đối Vũ Văn Nhậm. Phải đợi Tây Sơn đem cả một khối người ào ra dứt Lê, Bắc Hà mới thấy thay đổi thực sự.

Đứng trong quan điểm quốc gia, chiến thắng Đống Đa là một vinh dự của người dân Việt chống xâm lăng phương Bắc. Nhưng hai mươi vạn quân Tôn Sĩ Nghị quả có cái thế khác với quân Tống của Quách Quỳ, với đội lính thiện chiến của Thoát Hoan. Nó là một đội Vương sư như của Trương Phụ lúc ban đầu. Thế mà trước kia Hồ Quý Ly bị đóng cũi phải về Yên Kinh không đầy một năm và Tôn Sĩ Nghị bây giờ mất binh đội không đầy 5 ngày. Chiến thắng do khích động lòng yêu nước đã đành mà chính yếu còn do sự cách biệt và khác biệt kỹ thuật chiến đấu, điều hành chiến tranh nữa. Quân Thanh có đông thực nhưng chỉ là phóng đại của quân Trịnh Lê thôi, với từng ấy vũ khí, từng ấy ý thức hướng dẫn hành động. Trong khi đó, Tây Sơn lấy sức mạnh căn bản nơi sự hoà hợp chủng tộc văn hoá ở Quy Nhơn rồi đem thử sức, thu thập kinh nghiệm ở khắp các chiến trường, với cả người ngoại quốc phía Nam nữa.

Cho nên trong sự tiếp rước Giả Vương, trong lối trao đổi ngoại giao, chúng ta thoáng thấy ở vua tôi nhà Thanh một ý kính nể, muốn thu phục. Vì vậy bọn Tề Ngôi hải phỉ mới chịu về đầu, khiến đường biển Đông mở rộng mà Tây Sơn còn thêm sức mạnh nữa. “Xưa nay chưa nghe toán giặc nào như toán giặc này”. Ở miệng viên sứ Trần Công Xán biết ra đi là chết, lời nói ấy là một xác nhận chứ không phải là một biểu lộ khiếp nhược.

Tuy nhiên không phải là Tây Sơn không chịu những điều kiện thực tế ràng buộc, giới hạn khả năng. Những điều kiện này có khi là do những yếu tố trường cửu điều khiển, có khi là do những biến cố nhất thời làm tăng thêm hiệu quả của loại trên. Trong những phe chống đối Tây Sơn tất có kẻ sẽ thừa hưởng những thuận lợi mà Tây Sơn không thu nhận được đó để kế tục sự nghiệp của họ. Tây Sơn nổi lên có hai ông chúa phải lưu vong đi cầu viện, một người phải ngậm ngùi bỏ thân nơi đất khách. Chỉ có một Nguyễn Ánh trở về. Không phải là sự tình cờ.

Ta đã nói đến việc Nguyễn Huệ diệt tộc Nguyễn, đã thanh toán giùm họ này mối lục đục, hục hặc nội bộ. Nhưng một người còn thoát đã đưa chuyển dòng họ đến một giai đoạn mới mà vẫn giữ được tính cách truyền thống liên tục để lưu giữ lòng trung thành của mọi người. Trong lúc đó thì Tây Sơn không vượt khỏi những khó khăn cũ mà còn gây ra những cản trở mới nữa. Từ Quy Nhơn, họ tung quân vào Gia Định qua những vùng đất dằng dặc sỏi đá. Với vài ba trăm chiếc ghe bầu đi vòng biển để nối liền nơi xuất phát và chiến trường, hành động định kỳ theo quy luật gió mùa mỗi năm một lần vào ra thế tất không phải là một đe doạ chiếm đóng thực sự. Từ ngữ “nhập khấu” mà sử quan dùng chỉ các cuộc hành binh này tuy có dụng ý thiên lệch nhưng vẫn đúng sự thực một phần nào.

Chính sự giải đãi đó nuôi dưỡng cho nhà Cựu Nguyễn hồi sinh chờ thấy những sai lầm của Tây Sơn xuất hiện để đón lợi về phía mình. Buổi đầu nổi dậy, Tây Sơn mất sự hợp tác của bọn sĩ phu có truyền thống gần gũi tổ chức nông nghiệp đã đành, mà còn mất luôn cả bọn Hoa kiều trung gian buôn bán nữa. Họ để lại các tướng lãnh cai trị Gia Định với một số quân nhỏ bé mà không tỏ rõ một chính sách lâu dài nào hết. Họ đưa ra một chính sách thương nghiệp mà thiếu người thi hành chỉ vì vụ tàn phá Hội An (1774) và sau đó, Sài Gòn (1782) chưa đủ thời gian để lập lại tình trạng bình thường. Nhưng cố gắng phi thường của họ cũng đánh tan được 2 vạn quân Xiêm và đuổi Nguyễn Ánh sống cuộc đời lưu vong. Thế rồi họ quay ra phía Bắc chiếm một phần đất Nam Hà còn sót lại dưới quyền của họ Trịnh. Không bằng lòng Phú Xuân, Tây Sơn đứng trên luỹ Thầy mới đắp mà nhìn ra Thăng Long. Ta đã nói đến sự khác biệt tuổi tác giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã gây ra xung đột đầu tiên giữa hai anh em như thế nào khi người anh cả tuổi lớn bằng lòng với sự nghiệp có được và chú em thứ 8 ba mươi bốn tuổi tràn đầy hăng say còn muốn cướp đoạt hơn. Nhưng chúng ta cũng thấy trong mối lo không kiểm soát được em của Nguyễn Nhạc một ý nghĩa lo lắng về đường đất cách trở mà các phương tiện không đủ hiệu quả để bức thư ngăn Huệ đừng đi Bắc kịp đến Huế khi quân khởi hành. Thì ra khi xô đổ cái thế phân tranh cũ, anh em Tây Sơn cũng phải chịu luỵ vào những điều kiện chia xé từng có trước. Cho nên Bắc Bình vương phương Bắc, Trung ương Hoàng đế ở giữa, Đông Định vương phía Nam có chia nhau mà cai trị đất nước cũng không phải chỉ vì tham vọng riêng ai mà chính là theo đúng quy định của thực tế xã hội, quốc gia.
_________________________________________
1. Hoàng Lê, t. 64. Chính chúng tôi nhấn mạnh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #76 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 02:49:15 pm »


Tuy nhiên, việc phân phối khu vực cũng không phải là tình cờ. Tây Sơn đã lập nghiệp bằng chiếm đoạt mà không giữ toàn vẹn phần thưởng thì chia ra, kẻ nào có khả năng nhất, chiếm được phần lớn nhất. Thế mà như ta đã biết, toàn bộ Đại Việt giữa hậu bán thế kỷ XVIII có trình độ nhân văn hoá theo lề lối người Việt phai lượt dần từ Bắc đến Nam. Là kẻ có mộng tưởng lớn, tài ba, Nguyễn Huệ tất được đun đẩy tới chỗ chiếm lấy Phú Xuân để vươn ra Bắc. Nguyễn Nhạc bằng lòng với khoảng đất anh em ông chiếm giữ lúc ban đầu. Còn Gia Định với ao đầm kinh rạch, mỗi bước đi là có cá sấu, có cây đổ chận đường, đầy vẻ huyền bí nhất thì chia cho chú Bảy yếu ớt cho trọn tình anh em. Như đã nói, Nguyễn Ánh thừa hưởng được mọi thất lợi do sự nứt rạn đó của Tây Sơn. Nhân lúc Nguyễn Nhạc ôm lấy Hoàng Đế thành và Nguyễn Huệ bận tâm thanh toán cho xong triều Lê sống thừa quá lâu thành cũng trở nên bề bộn thì Nguyễn Ánh về đánh Gia Định. Nguyễn Lữ không thu phục nổi bọn xử sĩ Gia Định để có một chính sách nông nghiệp cho miền này mà lại còn làm bất mãn thêm bọn thương gia Trung Hoa bằng cách dời họ từ Sài Gòn lên Cầu Sơn làm hạn chế sự buôn bán của họ nữa. Cho nên Phạm Văn Sâm có cố bám cho mấy cũng thất bại, mà thất bại cố gượng thì luỵ thân.

Nguyễn Ánh đã thành công trước khi Bá-đa-lộc về tới khiến ông có đất đai, có ngôi vị, nghĩa là có chính nghĩa được cụ thể hoá. Ở vào địa vị kẻ yếu phải chống giữ, ông biến triều đình ông thành một nhóm người chiến đấu thoát hẳn tình trạng bạc nhược trước kia, biến xứ sở ông thành một lò huấn luyện khổng lồ. Ý niệm cũ về cách tổ chức khai thác đất đai theo lối đồn điền gặp dịp được áp dụng triệt để với sự giúp sức của nhóm Bình Dương thi xã.

Cho nên khi phong trào giao thương Âu - Á vẫn tiếp tục mà Tây Sơn bị ném bên lề một phần nào thì Gia Định thay mặt Đại Việt nhận lãnh tất cả những ưu thế được đưa đến. Tất nhiên Tây phương đến với tính cách toàn bộ của văn hoá họ. Bá-đa-lộc mang Hoàng tử Cảnh đi cầu viện đem về Gia Định không phải chỉ một hiệp ước tuy không thi hành nhưng cũng kêu gọi người tới mà còn một ông Hoàng trừ nhị biết đọc kinh và quả quyết hứa rằng sứ mệnh của ông là “làm cho dân chúng xứ .tôi trở-lại-đạo”. Ông Boisserand thả một quả khí cầu không phải chỉ làm Tây Sơn khiếp sợ mà còn làm tăng uy tín của giáo sĩ giữa đám dân ngoại đạo nữa, điều kiện cần thiết để thu phục tín đồ đó. Vì thế mới xảy ra vụ giành giật linh hồn Hoàng tử Cảnh nổ bùng ra với trường hợp thay đổi của Tống Phúc Đạm.

Dễ dàng xâm nhập hơn là các dụng cụ kỹ thuật với những cách sử dụng, điều khiển. Ta thấy đội Thần Sách kéo lưu động các súng đại bác cỡ nhỏ, Nguyễn Ánh dùng viễn kính đi thám sát Tây Sơn và Chế tạo cục liên miên đúc súng đóng tàu. Ta lưu ý đến việc Tây phương đến với ta bằng tàu thuyền. Gia Định lại có sông dài, nước sâu và cả Đại Việt có một bờ biển dài dằng dặc. Tất cả những sự kiện đó hình như đã hoà hợp để tạo nên ý nghĩ dùng tàu bè Tây phương hay đóng theo kiểu Tây phương là phương tiện thuận lợi nhất để tiến sâu vào đất địch. Yếu tố quyết định thống nhất thực ra đã nằm phần lớn trong sự tăng tiến thuỷ quân Gia Định vậy.

Trong khi đó thì việc khai thác nông nghiệp ở Gia Định vẫn tiến hành theo một nhịp mau chóng tàn nhẫn. Sự phát triển của nơi này không những nuôi dưỡng quân Nguyễn lớn mạnh mà còn khiến bớt cách biệt trình độ Việt hoá trên các phần đất khác nhau nữa.

Chiến tranh nung chảy đúc kết các nhóm chủng tộc khác biệt trở thành hoà hợp hơn. Vào năm 1773 còn thấy dấu vết tổ chức thị tộc mẫu hệ của Chiêm Thành có nữ chúa Thị Hoả ở Phú Yên, dấu vết vương triều của Tá ở Bình Thuận, thế mà với Nguyễn Ánh, Môn-lai-phù-tử thành Nguyễn Văn Chiêu, Thôn-ba-hú thành Nguyễn Văn Hào, Bô-kha-đáo thành Nguyễn Văn Chấn, kẻ Cai cơ, người Tán lý sinh hoạt với quan quân Gia Định. Lui về phía Nam hơn, Trà Vinh, Ba Thắt còn có “phiên liêu” cai trị để cho Chiêu-thuỳ Biện nay đòi mai đòi, thế mà qua trung gian của đám lưu vong Minh dân, hai phủ lần lần thuộc quyền triều đình, đưa địa vị một Nguyễn Văn Tồn từ “dịch đình nô” đến Cai đội coi Tiêm binh của Nguyễn. Đám con cháu Minh dân cũng tìm được vị trí của mình trên đất họ ở, điển hình với vai trò của Trịnh Hoài Đức, thị giảng cho Đông cung. Nhưng địa vị của họ, nhũn nhặn hơn mà quan trọng hơn là ở cả một hệ thống tổ chức thương nghiệp mời gọi với mức độ tăng tiến hơn trước chiến tranh các cuộc giao thương địa phương, do đó súng ống đạn dược chế từ Tây phương đổ về Gia Định chứng tỏ hiệu quả chính xác, hiệu suất cao vượt các thứ cùng loại của Tây Sơn chế ở Bắc Hà, Phú Xuân như lời Giáo sĩ De la Bissachère đã kể.

Tây phương, Cách mạng 1789 lên đến tột đỉnh sôi sục gây nên phản ứng rối loạn khắp Âu châu. Đám phiêu lưu Tây phương bị dao động, kẻ bỏ đi, người im tiếng phục vụ trong sự ganh ghét, âm mưu hoặc của lớp nho sĩ vươn dậy, hoặc của những kẻ đồng chủng khác quốc gia. Trong khi đó Tây Sơn có dấu hiệu tan rã thêm mà không có hy vọng gượng lại từ cái chết của Nguyễn Huệ, tay chỉ huy tài ba nhất trong anh em họ đã cố tạo được một lực lượng đáng kể bằng một hệ thống quân chính tàn nhẫn trên đám dân Bắc Hà, Phú Xuân. Quân tướng Tây Sơn chuyển thực lực của họ dần về phía Nam khi hoặc vì bắt buộc, hoặc vì tình nguyện phải đầu quân dưới cờ Gia Định. Gia Định do đó vượt cấp bực địa phương để trở nên trung ương hơn. Xiêm không dám đòi Hà Tiên, Long Xuyên và đem quân giúp người mà còn bị người đe doạ: “mua một con gà mà không trả tiền thì bị giết hết chỉ trừ một người chạy về Ayuthia báo tin thôi”. Nặc-ấn theo Chiêu-thuỳ Biện rồi Nặc-chân chỉ lo phận sự cống thần, chịu nhận thuyền, mã cụ của nước lớn Gia Định ban cho.

Trình độ xâm nhập kỹ thuật Tây phương vẫn còn tăng tiến, nhưng ảnh hưởng cá nhân của nhóm phiêu lưu sụt xuống rõ rệt. Năm 1792 trong cuộc thuỷ chiếnThi Nại, J.M. Dayot là người tấn công. Năm 1801 cũng nơi đó, thay cho ông là Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt ào ạt đốt thuyền địch trong khi Chaigneau, Vannier, de Forçan đứng ở Hậu đội. Năm 1793, sử quan nhắc tới “Tây dương binh” theo quân ở Bình Thuận, vây quanh Quy Nhơn, thế mà đến 1801 Chaigneau, Vannier chỉ làm nhiệm vụ lấy lương tiếp tế cho Quy Nhơn, Phú Xuân thôi.

Chiến tranh càng dữ dội thì Đại Việt do sự súc tích lực lượng cần thiết, càng có nhiều ảnh hưởng lan xa. Trận Đống Đa làm nể vì Bắc Kinh. Các thương thuyền Âu - Á đem tin thịnh vượng của Gia Định qua Manille, Malacca, Goa trên các tàu mang hiệu kỳ vua xứ Nam Hà. Các nước Tà-nê, Tam-hoạt, Nhu-phật đem “dâng cống phẩm”, tất cả có lẽ từ Mã Lai. Ta không nói tới Xiêm mà Nguyễn Ánh vẫn cố giữ bang giao mật thiết để nhờ cậy khuấy rối Nghệ An. Sứ bộ Nguyễn Văn Thuỵ 150 người đi Cao Miên rồi Bangkok, Vạn Tượng qua những vùng hoang vu mà chính các quốc gia liên hệ cũng chưa kiểm soát được. Cho nên ta thấy sử quan ghi rằng sứ thần dùng người Chân Lạp dẫn đường, đi từ địa đầu nước này đến Tầm-phàm-mi-tân (Kongpong - ?), qua Khu-khang, U-bôn được dân đó hưởng ứng và Khu-khang lại sai sứ tới cống nữa1.
__________________________________________
1. Thực lục q10, 34b, 35a. U-bon trên sông Se Mun, phụ lưu sông Mékong trên phần đất Thái, Khon khaen trên sông Se San, phụ lưu của Se Mun, chứ không phải làng Khu-khang phía bắc dãy Dangrek. Sứ bộ chắc đã rẽ trái qua các phụ lưu này tới Vạn Tượng chứ không đi nốt phần sông Mékong trên đất Lào.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #77 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 02:50:06 pm »


Việc cải thiện giao thông trên bộ cũng tăng tiến lần theo với nhu cầu thông tin, liên lạc giữa quân tiến ra và căn bản Gia Định. Năm 1797 đã làm ngựa trạm trên đường Xích Ram, Ma Ly. Tháng 10 năm sau thì các phong hoả đài được đặt trên đường Bình Thuận, Bình Khang. Đặc biệt trong chuyến hạ thành Quy Nhơn 1799 rồi kéo quân về, việc tổ chức giao thông thật chu đáo: ven đường có đặt những trạm ngựa, chỗ nghỉ trưa, ngủ đêm. Đường sá, cầu cống được sửa sang lại. Mỗi trạm phải dự bị 200 dân phu, 500 vuông gạo1. Tuy tổ chức đó chỉ cốt dùng tiếp vua khải hoàn, nhưng chúng ta cũng thấy ở đó hình ảnh con đường cái quan sau này nối liền Gia Định phì nhiêu và các vùng khai thác xưa cũ. Các con đường hành quân của Tây Sơn ở “thượng đạo” cũng mở rộng hiểu biết vào các phần đất sâu trong nội địa. Cùng với tăng tiến tàu bè trên mặt biển, sự cố gắng cải thiện giao thông trên bộ thừa hưởng của chiến tranh là một yếu tố nữa để xoá bỏ ngăn cách địa phương.

Dần dần với cuộc tiến chiếm đất đai, Nguyễn Ánh sẽ thu phục dưới tay mình toàn bộ thực lực Đại Việt đã phát triển tột độ trong chiến tranh. Có vậy ông mới đủ sức ngăn cấm 40.000 quân Xiêm vời về giúp không được đặt chân vào biên giới Lào - Việt.

Cuộc phân tranh chấm dứt nhưng không chấm dứt được mọi vấn đề trong quá khứ. Nước Đại Việt khi biến thành Việt Nam vẫn phải chịu những biến chuyển về trước. Hai trấn Gia Định và Bắc Thành có Tổng trấn như hai Phó vương cai trị là một dấu vết. Sự phân biệt còn mạnh tới nỗi khi Minh Mạng muốn thi hành chính sách tập trung thì vụ loạn Lê Văn Khôi nổ bùng ra phản đối ở Nam và các cuộc loạn tương tự xẩy ra ở Bắc. Tất nhiên là từ Tây Sơn qua Nguyễn triều cũng có những biến chuyển tâm lý ở các vùng: miền Nam kiêu hãnh với tính cách đất dựng nghiệp đế, xứ Huế tưng bừng với ngôi thành sẽ cất, lăng mộ sẽ xây, với những lề lối ăn chơi của dân trưởng giả Kinh đô, và cuối cùng miền Bắc ngậm ngùi với các bề tôi cô trung, nhớ vọng nhà Lê, với đám dân khóc than mất đô như mất nước.

Đáng nói nữa là tính cách Trung Hoa hoá của Việt Nam sau chiến tranh. Việc Đặng Trần Thường gần như chép chuyển bộ luật nhà Thanh sang bộ luật Gia Long là một chứng cớ tủi hổ nhất của sự thu nhận văn hoá. Ông Masson2 đã lưu ý đến nhiều điều tương tự như vậy để coi là một định luật trong lịch sử Việt Nam, khi mỗi lần người Việt củng cố độc lập là một lần tiến đến gần Trung Hoa hơn. Điều đó có thể hiểu được khi nhìn vào ưu thế thực dụng, có hiệu quả về tổ chức kết hợp xã hội theo ý thức hệ Khổng giáo ở ven bờ biển Đông. Lần này lại thêm vào tác dụng của nhiều yếu tố, biến chuyển trong phân tranh: văn thần nhà Nguyễn một phần là Trung Hoa còn rất gần Tàu, di dân Việt giữa dân bản thổ khác sinh hoạt, cố tình giữ sách thánh hiền coi như một dấu hiệu bảo đảm giá trị, và độc đáo hơn, là sĩ phu Gia Định chống đối với nguy cơ ảnh hưởng của Bá-đa-lộc, phải trở nên bảo thủ, gay gắt hơn.

Nhưng không phải những ảnh hưởng Tây phương đã bị loại trừ. Ta không nói nữa đến sức mạnh của quân lực Gia Định làm e dè quân đội ngoại quốc. Ta lưu ý đến những công trình khảo sát đất đai, hay lẫn lộn lịch sử của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, của văn thần dưới quyền Lê Chất. Vẫn biết Trung Hoa và nước Việt trước kia cũng có những bộ địa chí, sử ký nhưng không ai có thể chối cãi được ảnh hưởng của chiến tranh đã khích động ý muốn sáng tác thể loại này. Thế mà ta cũng đã biết thêm là J.M. Dayot nhân lúc coi thuỷ quân đã dò các cửa bể, đo đường nước nông sâu, định vị trí các nơi, đồng thời với công việc Olivier làm trên bộ. Lẽ nào những tài liệu đó không góp vào sự chính xác của các tác phẩm nói trên? Rõ ràng hơn là một Trần Văn Học theo sứ bộ Hoàng tử Cảnh đi Pondichéry rồi lộn về phục vụ Nguyễn Ánh, đã biết đem kiến thức mở rộng trên đường xa hợp với sự thúc đẩy của thực tế chiến tranh mà vẽ nên một bản đồ Gia Định có các khúc uốn của sông Sài Gòn ngay nơi này giống hệt ở một bản đồ mới ngày nay. Các thành kiểu Vauban xây sau chiến tranh của bề tôi Nguyễn Ánh là chứng minh của kỹ thuật xây công sự phòng thủ truyền từ Bá-đa-lộc, Olivier trở xuống.

Rồi ngấm ngầm mà quan trọng là sự phát triển của tín đồ Thiên Chúa giáo từ ảnh hưởng của Bá-đa-lộc sẽ cứ tiếp tục hưởng sự yên ổn tương đối dưới triều Gia Long. Họ tạo ra một lực lượng rồi sẽ lớn dần với thời gian, gây nguy hiểm cho đám sĩ phu, nhất là khi thế lực các nước Tây phương mạnh mẽ lan về Đông khiến họ càng cứng rắn đòi hỏi hơn lên. Nho sĩ cầm quyền và nhóm tín đồ đó sẽ chống nhau quyết liệt mà phần bại về những người trước khi cái kẻ sau vỗ tay mừng đón tiếng súng Đà Nẵng 1858 giải thoát họ và xô đổ mọi trật tự cũ, đưa văn minh Tây phương thực sự đi vào đất Việt gây những ảnh hưởng vô cùng to tát.

Cho nên phải nói rằng những thừa hưởng của quá khứ, của trận chiến kết thúc phân tranh, đậm hay lạt, nhiều hay ít rồi sẽ hợp với những điều kiện mới nảy sinh để bắt đầu lịch sử Việt Nam. Đất nước sẽ càng ngày càng phức tạp hơn để theo những biến động thế giới mà bước vào thời cận đại với Gia Long.
___________________________________________
1. Thực lục q9, 11b, q10, 14b, q11, 15ab.
2. Histoire de l’Indochine, PUF, 1950, t. 62.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #78 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 02:53:10 pm »


PHỤ LỤC
NHỮNG BỨC THƯ NÔM CỦA NGUYỄN ÁNH.

Do Giáo sĩ Cadière sưu tập

Lịch sử như đã chứng dẫn, cho ta biết nửa phần sau của hậu bán thế kỷ XVIII kéo dài lan tới 1802 là một trong những thời kỳ rối ren nhất. Loạn lạc làm xuất hiện một triều đại phát sinh từ dân chúng, lại sống ngắn ngủi nên còn đầy tính chất “quê mùa”: người ta thấy triều Tây Sơn định khoa thi bằng chữ Nôm, dịch kinh sử ra lời Nôm, dùng chiếu, chế, lệnh bằng quốc âm. Hai ông Hoàng Xuân Hãn (trong La Sơn phu tử) và Hoàng Thúc Trâm (trong Quốc văn thời Tây Sơn) đã gom góp được phần lớn những tài liệu đó.

Nhưng chiến tranh cũng xua đuổi ảnh hưởng Hán học ở ngay cả khu vực của các dòng họ có truyền thống cai trị. Ông An Khê (Nam Phong tạp chí, tập XIV, số 80, Fév. 1924) đã sao lục một Đạo dụ viết bằng quốc văn trong cuộc duyệt binh ngày 26 tháng 3 năm Canh Thân (1800) để chuẩn bị ra cứu Võ Tánh ở thành Bình Định. Mối liên lạc mật thiết giữa Nguyễn Ánh và Giám mục Pigneau de Béhaine cũng gây hứng thú cho người Pháp, học giả tài tử hay chuyên nghiệp, đạo hoặc đời, ra công tìm kiếm tài liệu. Trong khi lục lọi, L.M Cadière đã thấy được các bản sao 14 bức thư mà Nguyễn Ánh gởi cho giáo sĩ, tướng Pháp... L.M đem dịch ra tiếng Pháp, kèm theo bản chụp ảnh 14 tờ đó đăng trong Đô thành Hiếu cổ Tập san (Bulletin des Amis du Vieux Hue, Janv-Mars 1926, “Les Français au service de Gia Long - XV. - Nguyên Anh et La Mission - Documents inédits”). Ông Cadière chú trọng đến giá trị sử liệu của chúng nên đã trình bày kèm thêm vào các bản dịch một đoạn dẫn khởi về nguồn gốc, giá trị xác tín của các bức thư đó. Chúng tôi cũng lần lượt ghi lại những lời của vị cố học giả giáo sĩ này.

Nguyên dưới đời Tự Đức, Phái đoàn Truyền giáo ở Huế có dùng một người Công giáo ở Kim Long để làm trung gian liên lạc với triều đình và quan lại địa phương. Người này chắc cũng là một tay có kiến thức, có ý tứ cẩn thận, đã thu nhặt tất cả những giấy tờ trao đổi để dồn vào một chỗ, giữ gìn kỹ lưỡng. Con của ông ta còn giữ tập giấy trên dưới 100 trang đó. Mười bốn tờ đầu là 14 bức thư mà Cadière đem giới thiệu với mọi người. Đó là những tờ giấy bổ xếp đôi, như thường lệ giấy xưa, lớn bản, mỗi bề 0,350/0,220m. Tất cả do 6 lối chữ chép khác nhau: tài liệu I, II, XI - tài liệu IV - tài liệu V, VI rõ là tay một ông già chép - tài liệu VII - tài liệu XIII - tài liệu III, VIII, IX, X, XII, XIV. Tài liệu XIV có thêm chữ ghi chú của các viên quan thừa hành. Trừ ba bức V, VI, VII chỉ có một niên đại 14-9 Cảnh Hưng 47 (4-11-1786) ghi ngày viết, 11 tờ còn lại có thêm niên đại chỉ ngày sao 25-5 Minh Mạng thứ 8 (19-6-1827) và có dấu ấn bằng triện son Tả quân của Lê Văn Duyệt, mỗi bề 0,029/0,025m.

Tài liệu có tới hai thứ loại về giá trị chính xác như vậy nên Cadière mới phải dè dặt phân tích. Ông chú trọng đến tập họp 11 bức thư có ấn Tả quân. Ông lục lọi trong mớ thư từ liên lạc của các giáo sĩ thì thấy Taberd có nói về việc đó.

Giám mục Taberd làm thông dịch cho Minh Mạng từ tháng 11-1826, viết thư ngày 28-4-1828 nói đại ý như sau:

Minh Mạng lo bài đạo, Taberd bèn kể khổ với Lê Văn Duyệt là người trong quá khứ có liên lạc với Pigneau và trong hiện tại là kẻ đối đầu với vị vua chuyên chế này. Ông Tả quân mới thu thập các bức thư đem sao chép lại, định dâng lên Minh Mạng làm bằng cớ về công ơn khôi phục đất nước mà Nguyễn Ánh xưa kia phải chịu ở các giáo sĩ.

Mười một bức thư, theo Cadière, có lẽ lấy từ Sài Gòn ở Collège Lái Thiêu lúc bấy giờ do L.M Régéreau coi sóc, nên có ấn son của Tả quân. Ba tài liệu V, VI, VII gồm các bức thư Nguyễn Ánh gửi cho Pigneau, cho người cầm quyền ở Pondichéry, sĩ quan trên tàu Marquys de Castries, vì lẽ không có liên quan tới Collège nên có thể do Pigneau giữ. Sau khi Pigneau chết, các thư đó chuyển về tay Giáo sĩ Labartette ở Cổ Vưu (Quảng Trị). Labartette trao cho Taberd, Taberd được Lê Văn Duyệt triệu vào bàn tính khi Duyệt từ Gia Định tới Huế tháng 12-1827, nên mới vội vã đưa cho “Thượng công” 3 bức thư đó. Vì thế mới không có ấn Tả quân.

Đó là một dây những giả thuyết mà Cadière đưa ra, dựa trên các tài liệu về ngày giờ lui tới nơi sinh sống của các nhân vật liên quan tới các bức thư. Nhưng cũng chính ông Cadière đã thấy nó hợp lý tới nỗi cho rằng, đối với ông, “đó không phải là những giả thuyết nữa mà là biểu hiện của chính thực tế”.

Theo ông Nguyễn Khắc Kham đã chỉ cho chúng tôi thì 3 bức thư V, VI, VII có thể được lưu trữ nguyên bổn, phần ở Pháp, phần ở Tòa Thánh La Mã và tới khoảng 1833 sau khi Tả quân mất đi mới chuyển sao cho Taberd để tiện dụng. Chứng cớ là bức thư V của Nguyễn Ánh gửi cho Bá-đa-lộc đã được P. Nghị dịch ra tiếng La tinh có ghi rõ ở cuối bản dịch “ở đây có dấu nhà vua” (Archives de la Propagande de la Foi, Acta Congregationis Particularis Super Rebus Sinarum et Indarum Orientalium 1788-17990, vol. 16, p. 1531. Trả lời cho câu hỏi Cadière đặt ra là Lê Văn Duyệt có đưa cả 14 bức thư lên cho Minh Mạng không, ông Nguyễn Khắc Kham nghĩ rằng chắc Tả quân không dám đưa lẫn lộn 11 bức thư có ấn của mình và 3 bức thư không có ấn thị thực, vì sợ mắc tội khi quân. Cả 14 bức thư chắc là đã được Taberd xuất trình cho một ông quan dưới triều Minh Mạng để ông này thản nhiên nói “bây giờ thì thời thế đã đổi khác rồi”.

Như vậy dù sao, 3 bức thư không có ấn Tả quân cũng lại thêm một lần xác định giá trị như 11 bức thư kia.

Chú trọng đến giá trị sử liệu, ông Cadière cố khai thác về phương diện này. Lời chú của ông dựa trên những tài liệu đối chiếu khác có một tính chất xác thực đáng lưu ý. Chúng ta cũng có thể nói là phần lớn giá trị nằm trong tính chất sử liệu của nó. Nó sẽ sửa lại cho chúng ta khỏi sai lầm về một số niên đại mà các nhà chép sử của triều Nguyễn hoặc là chép không đúng, hoặc đã dồn trong thời hạn mơ hồ 30 ngày trong tháng: “Năm X, xuân chính nguyệt,... nhị nguyệt, tam nguyệt...”.
___________________________________________
1. Chúng tôi rất tiết là đã không biết chữ La tinh để đọc bản dịch mà ông Nguyễn Khắc Kham bảo đánh máy cho chúng tôi. Nhưng theo lời ông thì trong thư có những đoạn hơi khác với bức thư số 5 đưa ra ở đây, và ngày tháng ghi cũng khác: ngày 4-9 Cảnh Hưng thứ 46 (1785) chớ không phải 14-9 Cảnh Hưng 47 (1786). Chúng tôi đi trong mù để mà nghĩ rằng thư viết năm 1785 sao có thể nói chuyện tàu Goa mà Thực lục q3, 1a, ghi vào đầu 1787? Và trong bản chữ Nôm hiện có ghi ngày tương đương với 23-10-1786? Paul Nghị khi dịch đã bỏ mất 10 ngày (14 thành 4) và lui lại một năm chăng? Sai lầm trên có thể vì quáng mắt khi dịch nhưng còn sai lầm thứ hai?
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #79 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 02:56:09 pm »


Đáng chú ý hơn chính là thư Nguyễn Ánh viết ra trong lúc còn lưu vong hoặc mới tái tạo cơ đồ, chưa vững vàng bề thế, khiến chúng ta thấy rõ con người ông hơn, con người mà các sử quan tả bằng những sáo ngữ với những hình ảnh, ý niệm dành cho các bực vua chúa Đông phương “thông duệ túc thành”, phước mạng đế vương đến qua sông có cá sấu đưa đi, giặc đuổi có cây ngã chận đường phía sau. Đọc thư, chúng ta thông cảm với một thường nhân lênh đênh lao khổ thốt lời chua chát với số mệnh đắng cay, một người bạn thành thực chí tình, một người cha thương nhớ con xa cách trong khi day dứt vì chưa làm tròn bổn phận với dòng họ, tổ tiên. Chính tính chất có liên lạc mật thiết với cá nhân một nhân vật lịch sử quan trọng này mà sử liệu đưa ra có thể liệt vào hàng quan trọng. Chúng ta biết lịch sử ta thiếu những tài liệu tương tự: tài liệu của nhà Nho cung cấp thì thuộc loại đã tổng hợp rồi, tài liệu của người ngoại quốc thì quá xa cách về tâm lý ý thức, thói quen nên gây cho người xét lại những sai lầm.

Tài liệu còn lộ cho ta suy diễn về trường hợp những chuyển biến xã hội lôi cuốn những quyết định cá nhân. Sử gia nhà Nguyễn coi Nguyễn Ánh như con người, ngay từ lúc đầu, đã có sẵn những đức tính lãnh đạo cao độ, mưu lược quyền biến. Sự thực trái lại. Hoàn cảnh nguy khốn cùng với những đưa đẩy lịch sử đã nuôi dưỡng ông Hoàng này lớn lên. Việc phục quốc bắt đầu từ ngày Ánh rời Long Khâu (làng Gia Long) ở Vọng Các về đổ bộ Rạch Giá; có ai ngờ rằng lòng quyết thắng chỉ có ở các bề tôi Nguyễn Thiệm, Nguyễn Đô, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Quân... chứ không có Nguyễn Ánh không?

Chúng ta hãy đọc một đoạn thư thứ 9: “... (Chẳng?) ngờ ngày ấy ra đến Cà Mâu, Rạch Giá, thấy quân tướng Tây Sơn cùng thần thứ quy thuận nghe nhiều, bèn thẳng vào...”. Đối với Ánh, việc về nước chỉ có ý nghĩa trốn chạy khỏi sự rình mò kiểm soát của Rama I thôi: “Từ Xiêm quốc vọng chỉ cố đô là sự phi đắc dĩ, xúc tưởng lưu lai thốn chỉ đặng thấu nguyên do, lại e tiết lậu cơ mưu...”. Thế rồi lấy được Gia Định, ông vẫn không tin ở thực lực của mình mặc dầu Nguyễn Văn Thành đã can ở Xiêm là đừng mong chờ viện trợ từ nước ngoài; ông vẫn rên rỉ với J. Liot, nhờ ông này ngóng xem tàu phương Tây của Bá-đa-lộc đến chưa.

Phát giác này có thể làm cho Nguyễn tộc và sử thần nhà Nguyễn buồn lòng còn trái lại những “sử gia chống phong kiến” thì hả hê, nhưng vượt ra ngoài những xúc động chủ quan của người sau, nó khiến cho bộ mặt đất nước xưa cũ rõ rệt hơn, và đó mới là điều chúng ta thành thực muốn thấy.

Nhưng 14 thư này dịch ra tiếng Pháp làm mất một phần chứng minh nội tại. Thực ra không thể đòi hỏi ông Cadière làm khác được một khi ông là người Pháp (tuy ta cũng không quên ông rất giỏi tiếng Việt). Bản dịch chữ Pháp chỉ còn giữ được những sự kiện lịch sử chính trị, quân sự mà thôi. Tình tiết tâm lý vẫn có đấy, nhưng đọc lên chúng ta vẫn thấy có một chút gì xa cách. Chúng ta phải phiên âm ra lần nửa thành thứ chữ “quốc ngữ” quen thuộc của thời này. Tất nhiên giá trị tài liệu của chúng sụt xuống so với nguyên bản chụp ảnh. Những người thông thạo chữ Nôm đã công nhận rằng không có một quy luật chính thức nào định cho lối phiên âm thứ chữ xưa này, cho nên chúng ta thật phải dè dặt. Ở đây, chúng tôi cố giữ cho lời thư có giọng đường Trong chắc là gần với sự thực hơn. Chúng tôi giành mọi trách nhiệm sai lầm, sơ sót về mình trong khi không quên xác nhận rằng chính khả năng riêng không đủ để làm công việc phiên âm này. Chúng tôi đặc biệt cảm tạ giáo sư Bửu Cầm đã chỉ dẫn, đọc thêm những chữ khó khăn vì lối viết, vì phai mờ.

Và vì đây là những tài liệu được sử dụng trong tập sách nên có nhiều điều chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi ghép với các tiết 10, 11 chương IV.

Chúng ta lần lượt đi vào tài liệu:



Thư thứ nhất:1
Tờ vu Thầy Cai trường2 ngỏ hay: nay vừa tiếp thấy người trong bổn đạo Thầy cho đem mật tín cùng các lý mới3 tường để sự. Lại như trên này quan quân theo thậm nhiều nhưng mà lương hướng còn mười hai ngày nữa, vậy nên sai Thuộc nội Cai đội Sung Đức hầu lãnh tờ nhị phong cùng thập liêm bảy lượng theo người bổn đạo đem xuống. Kíp sai người tâm phúc đem Sung Đức hầu cùng tờ xuống trình qua Thượng sư ngỏ tường cơ sự, còn thập liêm thì sở cậy Thầy cùng bổn đạo lấy vật ấy mà biện mãi lương mễ trợ khi nguy cấp, bằng mua được bao nhiêu, đa đa ích thiện càng tốt. Như mua rồi phiền cậy bổn đạo trang tải lương ấy điệu hồi giao nạp, tiện ư cấp phát. Nay tờ.

Cảnh Hưng năm thứ 44, tháng 11, ngày 22 (15-12-1783).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25 (19-6-1827), sao theo bản xưa. (Khuôn dấu Tả quân).




Thư thứ hai:
Chỉ sai Thầy Cai trường môn đệ đẳng danh: nghi thừa ghe nhứt chích phản hồi Long Xuyên sở hoạn dưỡng, đãi nhựt triệu lai khả tua tề tựu đồn sở ứng hậu. Khâm tai. Đặc sai4.

Cảnh Hưng năm thứ 45, tháng 8, ngày 26 (10-10-1784).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).

_______________________________________________________________
1. L.M Cadière đánh số bản chụp ảnh theo hai loại. Ở đây chúng tôi chỉ lưu lại con số thứ tự các bức thư mà thôi (theo ngày viết).
2. Các tên Gia-cô-bê (thư thứ IV, IX), Gia-bê-sa (VIII), Nha-cô-bê (X), Nhã-ca-bá (XI), Gia-cô-vi (XIII), Li-ốt (XIV) đều là tên của Jacques Liot (1751-1811). Giáo sĩ này rời Paris tháng 11-1776, đến Tourane, đến Sài Gòn 1779, coi trường Dòng 1780, qua Chanthaburi (Chantaboun) 1784, đi Bangkok 1786, rồi về Chanthaburi, về Tân Triệu (gần Biên Hòa).
3. Chữ 買 đọc “mới” ở đây, đọc “mãi” ở “biện mãi lương mễ” cho hợp giọng văn Hán, lại vì lẽ cho hợp giọng văn Việt, đọc “mua” ở “bằng mua được bao nhiêu”, “như mua rồi”, nhưng lại đọc “mấy” ở thư IX (“tri ngộ mấy lâu”). Chữ Nôm ở đây thật đã giản dị hết mực.
4. Nguyễn Ánh đang theo 20.000 quân Xiêm dưới quyền Chiêu Tăng, Chiêu Sương. Vì vậy mới có thư gọi J. Liot về Long Xuyên.

Toàn bức thư ý nói: “(tờ) chỉ sai Thầy Cai trường cùng các người môn đệ nên theo ghe trở về Long Xuyên để (nơi này) nuôi dưỡng. Đợi ngày triệu đến, khá nên tề tựu đến đồn sở chờ (lệnh). Kính vậy thay. Tờ sai riêng”.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM