Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 03:47:11 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phía Tây không có gì lạ  (Đọc 36234 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #70 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:49:07 pm »

Ông ta tóc vàng, nhiều nhất là ba mươi tuổi, mặt có những cái sẹo thời sinh viên và đôi kính gọng vàng trông không mê được. Tôi nhận thấy lúc này, ông ta đang tìm mảnh đạn, ông ta mò ngoáy trong vết thương của tôi, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên trên cặp kính nhìn về phía tôi một cái. Hai bàn tay tôi nắm chặt cái thành bàn mổ, đến tê dại đi; tôi thà chết chứ không chịu rên lên một tiếng.

Ông ta đã mò được mảnh đạn trái phá trong vết thương, rồi ông ta ném nó cho tôi. ông ta có vẻ hài lòng về thái độ của tôi, vì bây giờ ông ta đặt những thanh gỗ buộc xương cho tôi một cách cẩn thận và nói: ngày mai, về nhà nhé". Rồi người ta bó bột cho tôi . Khi về cạnh chỗ Cốp, tôi nói cho nó biết có lẽ ngày mai, một chuyến tàu quân y sẽ tới.

- An be này, chúng mình phải tán với tay đội nhất y tá để hai đứa ở gần nhau mới được.

Tôi đã tìm cách luồn cho viên đội nhất y tá hai điếu xì gà loại có vòng, kèm theo mấy lời thích đáng.

Anh ta hít hít và nói:

- Cậu còn nữa không?

- Còn kha khá, cả thằng bạn tôi cũng thế (vừa nói tôi vừa chỉ Cốp), cả hai đứa chúng tôi chỉ muốn sáng
mai cùng đưa cho anh qua cửa sổ chuyến tàu quân y.

Dĩ nhiên, anh ta hiểu ý, lại hít hít và nói:

- Được thôi.

Ban đêm, chúng tôi không chợp mắt được nổi một phút. Trong phòng chúng tôi, có bảy người chết. Một
người trong số ấy hát thánh ca suốt một giờ, bằng cái giọng nam cao nghẹn ngào, rồi sau đó bắt dầu thở
nấc lên. Một người khác tụt xuống khỏi giường, lê ra tận cửa sổ, rồi nằm ở đấy như để nhìn ra bên ngoài một lần cuối cùng. . Những cái cáng của chúng tôi đã ra đến ga.

Chúng tôi đợi tàu. Trời mưa. Nhà ga không có mái.

Chăn thì mỏng. Chúng tôi đợi đã hai giờ rồi. Viên đội nhất y tá săn sóc chúng tôi như một người mẹ. Dù mệt
bã người, nhưng tôi vẫn chuẩn bị kế hoạch. Vì vậy cứ làm ra vẻ như thường, tôi chỉ vào những cái gói và đưa cho anh ta một điếu để cược trước. Đáp lại, viên đội nhất đắp cho chúng tôi một tấm vải bạt.

- Anbe này, - anh nói tôi vừa nhớ lại, - còn cái giường có đỉnh màn của chúng mình, còn con mèo...

- Còn những cái ghế bành nữa chứ, - nó thêm. . .

Phải, những cái ghế bành bọc nhung đỏ. Trước, tối tối hai đứa tôi ngồi như ông hoàng, và chúng tôi tính
sau này sẽ đem ra cho thuê giờ. Mỗi giờ, một điếu thuốc lá. Một cuộc sống không phải lo lắng, mà lại là
một việc có lợi nữa chứ.

- Anbe này, - bất chợt tôi nói, - còn những cái bị đựng thức ăn của chúng mình...

Chúng tôi buồn quá. Còn những thứ ấy mà dùng thì tuyệt biết bao nhiêu. Nếu tàu khởi hành chậm độ một
ngày, nhất định Cát sẽ tìm được chúng tôi và mang đến cái món quý hoá ấy.

Số kiếp ăn mày! Trong ruột chỉ có tí cháo bột, thức ăn đạm bạc của nhà thương, mà trong bị thì có thịt
lợn quay. Nhưng chúng tôi mệt quá nên cũng chẳng còn sức đâu mà háo hức cái món ấy nữa.

Mãi sáng, tàu mới đến, cáng đã ướt hết cả. Viên đội nhất y tá để hai đứa chúng tôi vào cùng một toa.

Trong ấy có bao nhiêu là các bà, các cô Hồng thập tự.

Cốp nằm bên dưới. Người ta nhấc tôi lên, đặt lên giường phía trên nó.

- Trời! - Tôi bất giác kêu lên.

- Làm sao thế - Cô y tá hỏi.

Tôi nhìn cái giường. Khăn trải giường trắng như tuyết những cái khăn sạch không thể tưởng tượng được,
còn nguyên cả nếp là. Ngược lại, cái áo sơ mi của tôi sáu tuần lễ chưa giặt, nó bẩn một cách quái gở.

- Anh có lên giường một mình được không? - Cô y tá hỏi tôi, có vẻ lo lắng.

- Được - tôi vừa nói vừa thở, - nhưng hãy lột cái khăn này đi đã.

- Sao thế ?

- Tôi thấy mình chẳng khác gì con lợn và không thể nào nằm lên cái khăn trải giường như thế này được.
Nhưng, - tôi ngập ngừng, - nó sẽ. . .

- … bẩn đi một tí chứ gì? - Cô y tá hỏi bằng một giọng vỗ về - không sao đâu, chúng tôi lại giặt đi thôi.

- Không, không phải thế đâu... - tôi nói một cách cáu kỉnh, - tôi không quen cái kiểu sống văn minh lịch sự thế này.

- Các anh là những người đã ở chiến hào, chúng tôi có thể giặt khăn trải giường cho các anh mà, - cô ta
nói tiếp.

Tôi nhìn cô ta. Cô ta trẻ và nom thích mắt quá, quần áo tươm tất, sạch sẽ một cách lạ lùng, cũng như tất cả những cái ở đây. Tôi cứ tưởng những cái này chỉ dành riêng cho sĩ quan thành thử tôi đâm ra lúng túng và cảm thấy lo ngại là khác nữa.

Thế mà cô ta ác quá, cứ bắt tôi phải nói hết.

- Chẳng qua là . . . .

Tôi ngừng lại; chắc cô ấy phải hiểu chứ.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #71 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:50:21 pm »

- Còn sao nữa?

- Vì những con rận - Cuối cùng tôi rống lên.

Cô ta cười.

- Thì cũng phải để cho chúng nó có lúc sướng chứ.

Bây giờ tôi không còn nói vào đâu được nữa. Tôi leo lên giường và kéo chăn đắp.

Một bàn tay lướt trên chăn của tôi. Viên đội nhất y tá . Anh ta đi khỏi với những điếu xì gà.

Một giờ sau, tôi thấy tàu đang chạy.

Ban đêm, tôi thức giấc. Cốp cũng cựa mình. Con tàu chạy êm êm trên đường sắt. Chúng tôi chưa hiểu nổi
những chuyện đã xây ra: một cái giường, một chuyến tàu, trở về nhà. Tôi khe khẽ:

- Anbe!

- Cậu có biết nhà xí ở đâu không?

- Có lẽ ở phía bên kia, bên phải cửa ra vào ấy.

- Tớ đi xem thế nào.

Tối quá. Tôi sờ soạng mép giường và lần xuống một cách thận trọng. Nhưng chân tôi không có chỗ tựa, tôi
cảm thấy bị lôi tuột xuống, còn cái chân bó bột thì chả giúp gì được, thế là tôi ngã lăn ra sàn, đánh ầm một tiếng.

- Tổ mẹ nó! - Tôi kêu lên.

- Có đau không? - Cốp hỏi.

- Cậu cũng nghe thấy rồi, cái đầu tớ...

Phía cuối toa, cửa mở ra, cô y tá xách đèn chạy lại và trông thấy tôi:

- Anh ấy ngã trên giường xuống. . .

Cô ta bắt mạch và sờ trán tôi.

- Anh có sốt đâu.

- Không . . .

- Hay là anh nằm mê? - Cô ta hỏi.

- Có lẽ, - tôi trả lời qua loa cho xong chuyện.

Bây giờ lại bắt đầu cuộc tra khảo. Cô ta nhìn tôi bằng đôi mắt long lanh. Cô ta sạch sẽ và xinh đẹp quá; tôi lại càng không thể thổ lộ với cô ta cái nguyện vọng của tôi được.

Tôi lại được đặt lên giường. Sắp nguy to đến nơi rồi đây! Khi nào cô ta đi khỏi tôi lại phải tụt ngay xuống
mới được. Nếu là một bà già thì nói chuyện ấy cũng dễ, nhưng đằng này cô ta lại trẻ măng, nhiều nhất là hai mươi lăm tuổi; không thể được, tôi chả nói đâu...

Anbe liền giúp tôi. Nó không ngượng, vì dẫu sao cũng không phải việc của bản thân nó. Nó gọi cô y tá đến.
Cô ta quay lại.

- Cô ơi nó muốn. . .

Nhưng cả Anbe cũng không biết nói thế nào cho lịch sự và không chê trách được. Nếu giữa chúng tôi với
nhau ở mặt trận, chỉ một tiếng là đủ hiểu, nhưng ở đây, trước một tiểu thư như thế này. . . Nhưng, bất
thình lình, nhớ lại hồi đi học, nó liền nói được một cách trơn tru:

- Cô ơi nó muốn... ra ngoài.

- À được, - cô y tá nói. - Chân bó bột như thế thì việc gì mà phải xuống giường!

- Anh muốn dùng thứ nào? - Cô ta hỏi tôi.

Cái câu hỏi mới mẻ này làm cho tôi sợ chết đi được vì tôi không hiểu một tí gì về cách diễn tả những cái ấy bằng chuyên môn.

Cô y tá liền đỡ lời tôi:

- Cái bé hay cái to?

Chao ôi, buồn cười làm sao! Tôi thở rống lên như bò và nói bằng một giọng lúng túng:

- Cái bé thôi vậy... - ít ra, tôi cũng còn may mắn đôi chút.

Người ta mang lại cho tôi một thứ chai. Vài giờ sau, không phải chỉ có mình tôi như thế, và đến sáng, thì
chúng tôi quen đi và đòi hỏi cái món cần thiết mà không ngượng ngập tí gì nữa.

Con tàu chạy chậm chậm. Thỉnh thoảng nó dừng lại và người ta khiêng những người chết xuống. Nó dừng như thế luôn.

Anbe lên cơn sốt, còn tôi tuy có nhức nhối nhưng không đến nỗi mệt quá; tệ nhất có lẽ vẫn còn những con rận ở dưới lớp thạch cao bọc vết thương. Nó làm tôi ngứa ghê gớm mà không tài nào gãi được.

Suốt dọc đường lúc nào chúng tôi cũng ngủ chập chờn. Phong cảnh chạy qua cửa sổ một cách bình thản. Đêm thứ ba, chúng tôi đến Hécbextan. Tôi thấy người ta nói với cô y tá là Anbe vì bị sốt nên sẽ phải xuống ga sắp tới.

Tôi hỏi tàu chạy đến đâu.

- Đến Côlônhơ.

- Anbe này, chúng mình sẽ ở bên nhau, - tôi nói, - rồi cậu xem.

Đến lần sau, cô y tá quay lại, tôi nhịn thở và dồn cả hơi lên mặt. Mặt phình ra và đỏ nhừ lên. Cô y tá đừng lại:

- Anh đau à? - Tôi rên lên:

- Phải, bất thình lình đau đấy.

Cô ta đưa cho tôi cái nhiệt kế rồi đi ra chỗ khác.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #72 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:51:53 pm »

Nếu tôi không biết xoay xở ra sao thì quả không xứng là học trò của Cát. Loại nhiệt kế này cũng đến chào thua những gã lính có kinh nghiệm. Chỉ đơn thuần có việc làm thế nào cho thuỷ ngân lên thôi; rồi thuỷ ngân dừng yên trong cái ống nhỏ, không xuống nữa.

Tôi đặt nhiệt kế vào nách nhưng để lộn ngược và nghiêng về một phía, rồi tôi lấy ngón tay chà xát mãi vào nó. Sau đó tôi lắc lắc phía trên. Thế là được 37,9.

Nhưng cũng vẫn chưa đủ. Một que diêm để gần một cách khéo léo là có ngay 38,7.

Khi cô y tá trở lại, tôi thở mạnh, tôi nấc lên từng hồi, tôi nhìn cô ta trừng trừng, tôi trằn trọc dữ dội và nói
thều thào: "Không chịu được nữa rồi"... Cô ta ghi tên tôi vào một tờ giấy. Tôi biết chắc chắn nếu không cần thiết, không khi nào người ta tháo chỗ băng bó của tôi ra đâu.

Thế là Anbe và tôi, cả hai đứa cùng được khiêng xuống.

Chúng tôi nằm trong một nhà thương đạo, cùng phòng với nhau. Thật là tốt số, vì các nhà thương đạo nổi
tiếng về thuốc men cẩn thận và ăn uống tử tế.

Chuyến tàu của chúng tôi xếp người vào đầy các phòng; trong bọn chúng tôi, có nhiều người bị nặng.

Người ta không thăm bệnh chúng tôi ngay hôm ấy, vì số thầy thuốc quá ít Trong hành lang, những chiếc xe mặt phẳng bánh cao su đi di lại lại không ngừng, bao giờ cũng có người ở trong. Nằm dài ra như vậy thật là khó chịu, chỉ trừ khi người ta ngủ thiếp đi thì không kể.

Bàn đêm rất huyên náo. Chẳng ai ngủ được. Gần sáng, chúng tôi mới chợp mắt nổi một lúc. Tôi thức dậy
lúc trời sáng. Của để ngỏ và tôi nghe thấy những tiếng người từ hành lang đưa vào. Mọi người cũng dậy cả. Một người trong bọn đã đến đây được mấy ngày giảng cho chúng tôi nghe: " Ở trên gác này, sáng sáng, các bà xơ cầu kinh. Các bà ấy gọi là buồi cầu kinh sáng. Các bà ấy để cửa mở như vậy là cốt cho các cậu cũng được hưởng phần đấy".

Tất nhiên ý định ấy tốt, nhưng xương cốt và đầu óc chúng tôi đang nhức nhối khó chịu.

- Sao mà ngu ngốc thế - Tôi nói. - Người ta vừa mới chợp mắt được một tí.

– Ở đây là những bệnh nhân không nặng mấy, nên các bà ấy mới làm thế, - anh ta trả lời.

Anbe rên rỉ. Tôi phát khùng lên và hét tướng:

- Ngoài kia, im đi nhá!

Một phút sau, một bà xơ vào. Trong bộ quần áo đen trắng, bà ta giống như những cái chụp xinh xinh mà người ta thường chụp bình cà phê để giữ cho nó nóng.

- Xơ đóng giúp cho cái cửa, xơ ạ! - Một người nói.

Chúng tôi đang cầu kinh, nên mới để cửa mở chứ, - bà ta cãi lại.

- Nhưng chúng tôi còn muốn ngủ nữa...

- Cầu nguyện tốt hơn ngủ (Bà ta đứng đó và mỉm cười hiền lành). Hơn nữa đã bẩy giờ rồi.

Anbe lại rên rỉ.
- Đóng cửa lại! - Tôi quát lên.

Bà ta sững sờ cả người; rõ ràng là bà ta không thể ngờ đến một thái độ như thế.

- Nhưng chúng tôi cầu nguyện cho cả các anh đấy chứ.

- Không cần, cứ đóng cửa lại di!

Bà ta đi khỏi và cứ để cái của mở như cũ. Tiếng cầu kinh lại vang lên. Tôi phát điên lên và nói:

- Tôi đếm đến ba, nếu không im đi là tôi ném đấy!

- Cả tớ cũng thế, - một cậu khác tuyên bố.

Tôi đếm đến năm. Rồi tôi với một cái chai, nhắm và ném qua cửa ra hành lang. Cái chai vỡ tan tành.
Tiếng cầu kinh ngừng lại. Các bà xơ rầm rầm chạy vào, có vẻ bực mình thực sự.

- Đóng cửa vào! - Chúng tôi hét lên.

Các bà ấy rút lui. Cái bà nhỏ nhắn lúc nãy đi ra sau cùng.

- Quân vô đạo? - Bà ta càu nhàu; nhưng dẫu sao bà ấy cũng khép cửa lại.

Thế là chúng tôi thắng.

Buổi trưa, viên giám đốc nhà thương đến, ông ta mắng chúng tôi như tát nước. Ông ta dọa sẽ tống chúng tôi đi pháo đài và còn hơn thế nữa. Nhưng một viên giám đốc nhà thương cũng như một viên giám đốc sở binh lương, dù có đeo một thanh kiếm dài và đôi ngũ vai chăng nữa, rút cục cũng chỉ là một công chức, và vì thế, chẳng ai sợ ông ta cả, ngay một chú lính mới cũng vậy. Cho nên, chúng tôi cứ mặc ông ta nói. Chẳng đi đến đâu mà lo.

- Ai ném cái chai? - ông ta hỏi.

Trước khi tôi nghĩ xem có nên nhận hay không, thì có một người lên tiếng:

- Chính tôi.

Một người có bộ râu rậm rì nhỏm dậy.

Chúng tôi lấy làm lạ, tự hỏi sao cái anh này lại nhận như thế.

- Anh hả?

- Phải, tôi bực mình vì người ta phá giấc ngủ của chúng tôi một cách vô ích, tôi mất bình tĩnh đến nỗi
không biết là mình làm cái gì nữa.

Anh ta nói như trong sách.

- Tên anh là gì?

- Giô dép Hamasơ, dân vệ.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #73 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:52:40 pm »

Viên giảm đốc đi khỏi.

Ai cũng tò mò muốn hiểu.

- Tại sao cậu nhận, sự thực cậu có ném đâu?

Anh ta cười khẩy.

- Không hề gì cả. Mình có cái "giấy phép đi săn".

Thế là ai cũng hiểu ngay. Nếu anh ta có giấy phép đi săn, anh ta có thể muốn làm gì thì làm.

- Phải, - anh ta kể, mình bị một phát vào đầu, họ đã cấp cho mình một cái giấy chứng nhận là có những
lúc mình không bị trách nhiệm. Từ đó, mình cứ việc thả cửa. Không ai được phép trêu tức mình cả . Vì vậy chẳng ai làm quái gì được mình. Thằng khỉ ấy thế nào rồi cũng bị một vố. Mình nhận là chính mình đấy, vì mình rất thú cái chuyện om sòm ấy. Nếu sáng mai, các bà ấy còn mở cửa, chúng mình lại tái diễn.
Chúng tôi khoái quá. Có Giô dép Hamasơ ở đây, chúng tôi tha hồ làm mưa làm gió.

Rồi những chiếc xe mặt phẳng lặng lẽ đến chở chúng tôi đi.

Băng quấn vết thương của chúng tôi dính chặt.

Chúng tôi rống lên như bò mộng.

Phòng chúng tôi có tám người. Bị thương nặng nhất là Petơ, tóc xoăn và đen nhánh: nó bị một viên đạn
vào phổi thật là rầy rà.

Phăng Va tơ nằm cạnh Petơ, gầy tay, lúc đầu không đến nỗi gay lắm. Nhưng sang đến ngày thứ ba, nó gọi
chúng tôi, nhờ bấm chuông hộ vì nó tưởng mất hết máu đến nơi.

Tôi bấm chuông ầm lên. Bà xơ thường trực không đến. Đêm qua chúng tôi đã hành hạ bà ấy dữ quá, vì chúng tôi đều thay băng nên đau tợn. Anh này muốn đặt chân như thế này, anh kia như thế khác, anh thứ ba đòi nước, anh thứ tư bắt kê cao cái gối; bà cụ to béo cuối cùng phải phát cáu lên và đóng sập cửa lại.
Có lẽ bây giờ bà ta cho rằng lại cũng thế thôi, nên bà ta không đến.

Chúng tôi đợi. Rồi Phăng nói:

- Cứ bấm chuông nữa đi.

Tôi bấm chuông. Bà xơ vẫn không đến. Ở gian đầu trong căn nhà của chúng tôi, ban đêm chỉ có một bà xơ
thường trực, có lẽ bà ta đang bận trong những phòng khác chăng. Tôi hỏi:

- Phăng, cậu có chắc là cậu đang chảy máu không? Nếu không, chúng mình xin một ít thuốc cảm cũng
được.

Mình ướt đẫm cả. Có ai bật hộ cái đèn lên không?

Chịu. Cái bật đèn ở gần cửa, không ai đứng dậy được . Tôi ấn ngón tay lên cái núm chuông đến nỗi tê cả
tay đi. Có lẽ bà xơ ngủ chăng. Thực vậy, các bà ấy phải làm việc nhiều quá, các bà ấy đều bị mệt quá
sức, ngay cả ban ngày cũng vậy. Chưa kể đến cầu nguyện liên miên.

- Có nên ném chai không? - Giô dép Hamasơ con người có giấy phép săn lên tiếng.

- Đến chuông còn chả nghe thấy, huống chi là chai.

Cuối cùng, cửa mở. Bà cụ vào với một vẻ cáu kỉnh. Nhưng khi bà ta thấy tình trạng của Phăng, bà ta sốt
sắng ngay và hỏi:

- Tại sao không báo cho tôi biết ngay?

- Chúng tôi bấm chuông rồi đấy chứ. Ở đây chả ai đi được . Phăng bị mất nhiều máu, người ta quấn băng
ngay cho nó. Vừa mới đêm trước nó còn có vẻ khỏe khoắn, thế mà sáng hôm sau, chúng tôi thấy mặt nó
vàng vọt hốc hác hẳn đi. Từ lúc ấy, các bà xơ đi lại thăm nom nhiều hơn trước.
Nhiều khi cũng có các bà phụ tá Hồng thập tự.

Các bà ấy tốt lắm, nhưng đôi khi hơi vụng về. Có lúc chuyển giường cho ai, các bà ấy làm người ta đau, thấy vậy các bà ấy hoảng lên, lại càng làm cho người ta đau hơn nữa.

Các bà xơ có kinh nghiệm hơn, biết cách thức làm ăn hơn, nhưng giá các bà ấy vui tính hơn một chút thì
hay quá. Nói của đáng tội, một vài bà cũng dí dỏm đáo để, có khi làm đến tức cười lên kia. Ai mà chẳng cố
sức làm vừa lòng bà xơ Libéctin, người đàn bà đáng mến phục ấy; từ xa , người ta đã trông thấy bà tỏa nguồn vui ra khắp cả căn gác. Cũng có nhiều người được như bà. Thấy chúng tôi có thể nhảy vào chỗ nước sôi lửa bỏng vì các bà ấy. Quả là không còn kêu ca vào đâu được, vì chúng tôi được các bà xơ đối đãi hệt như đối với dân thường. Nếu đem nhà thương trong trại lính so sánh với nhà thương này, người ta
phải phát khiếp.

Phăng Va tơ không đỡ mấy. Một hôm người ta đến mang nó đi và không thấy nó trở lại nữa. Giô dép
Hamasơ hiểu ngay.

Chúng mình chẳng bao giờ trông thấy nó nữa đâu . Họ đã chuyển nó đến phòng chết.

- Phòng chết nào? - Cốp hỏi.

Ấy cái phòng cho người ta chết ấy mà...

- Nó ở đâu?

- Cái phòng bé tí ở một xó trên gác ấy mà. Người nào sắp tử là họ mang vào đấy. Có hai cái giường. Ai mà
chả biết nó là cái phòng chết.

- Nhưng tại sao họ làm thế ? - Vì sau đó, bớt được việc đi. Hơn nữa, lại thuận tiện vì nó ở sát ngay thang
máy đưa xuống nhà xác; họ làm thế có lẽ để cho bệnh binh trong các phòng khỏi chết khiếp vì trông thấy cảnh hấp hối của người khác.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #74 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:54:51 pm »

Cuối cùng là người ta có thể trông nom cẩn thận hơn khi chỉ có một người.

- Nhưng còn chính cái thằng sắp chết thì sao?

Giô dép nhún vai.

- Thường thì lúc ấy nó cũng chẳng còn biết quái gì nữa.

- Ai cũng biết cái phòng chết chứ?

- Tất nhiên, bất cứ ai ở đây ít lâu mà chả biết.

Buổi chiều, giường của Phăng Va tơ lại có người nằm. Được vài ngày, người ta lại mang gã mới đến này đi.
Giô dép phẩy tay một cái đầy ý nghĩa. Chúng tôi còn thấy nhiều người đến rồi lại đi như thế.

Thỉnh thoảng, cha mẹ bệnh nhân đến ngồi cạnh giường khóc lóc, nói khe khẽ có vẻ lo lắng lắm. Một bà cụ không muốn đứng dậy nữa, nhưng bà có được ngồi suốt đêm ở đây dâu. Sáng hôm sau, bà lại đến thật sớm, nhưng cũng vẫn chậm quá rồi, vì khi bà cụ đến bên giường, thì đã có người khác nằm rồi. Bà cụ phải xuống nhà xác. Bà cụ cho chúng tôi những quả táo mà cụ đã đem đến.

Cả cái anh chàng Petơ cũng mệt nặng hơn. Biểu đồ nhiệt độ của nó cứ lên mãi, và một hôm, chiếc xe mặt phẳng nhẹ nhàng kia đã đến bên giường nó.

- Đưa tôi đi đâu thế này? - Nó hỏi.

- Đến phòng băng.

Người ta đặt nó lên xe. Nhưng bà xơ đã phạm sai lầm khi đặt bộ quân phục của nó bỏ lên xe, như thế có
nghĩa là bà ta không phải quay lại nữa. Petơ hiểu ngay, nó nhất định trườn ra khỏi xe.

- Tôi ở lại đây cơ!

Người ta giữ chặt nó lại. Nó kêu lên, giọng phều phào qua lá phổi bị thương:

- Tôi không đến phòng chết dâu?

- Nhưng chúng ta đến phòng băng cơ mà?

- Thế tại sao các người động đến bộ quân phục của tôi? Nó không nói được nữa. Nó thì thầm bằng cái giọng khàn khàn và bực bội.

- Tôi ở lại đây cơ!

Người ta không trả lời nó nữa và cứ mang đi.

Ra đến ngoài cửa, nó toan vùng dậy. Cái đầu xoăn tít và đen nhánh run lên bần bật, mắt nó đẫm lệ.

- Tôi sẽ trở lại, tôi sẽ trở lại, - nó thét lên.

Cửa khép lại. Tất cả chúng tôi hết sức xúc động nhưng mọi người đều im lặng.

Cuối cùng Giô dép nói:

- Nhiều người đã nói thế. Nhưng đã đến đấy thì đừng hòng thoát.

Tôi đã bị mổ và nôn mửa mất hai ngày ròng rã.

Mấy cái xương của tôi không chịu liền lại, gã thư ký của bác sĩ bảo thế. Có một anh khác xương đã liền rồi nhưng lại không đúng chỗ, đành phải đập xương ra bó lại. Thật là tội.

Trong số những người mới đến, có hai cậu lính trẻ, chân thuỗn ( Bàn chân hơi thẳng ra, do biến dạng của
xương bàn chân). Trong lúc khám, lão bác sĩ quân y nhận thấy và lão ta dừng ngay lại, có vẻ mừng rỡ lắm.

- Chúng tôi sẽ nắn lại cho, - lão ta nói. - Chỉ một phẫu thuật nhỏ là các cậu đi lại như thường thôi. Nào xơ, viết đi.

Khi lão ta đi khỏi, Giô dép vốn là thổ công ở cái bệnh viện này, nhắc hai cậu kia phải coi chừng:

- Các cậu chớ để mổ đấy nhé. Lão già ấy có cái máu nghiện làm thí nghiệm đấy. Khi lão ta tóm được ai như
thế là lão không buông tha đâu. Lão ta mổ chân thuỗn cho các cậu, và dĩ nhiên là chân các cậu không thuỗn nữa, nhưng trái lại, chân các cậu sẽ què và suốt đời các cậu phải chống gậy đấy.

- Vậy làm thế nào bây giờ? - Một cậu hỏi.

- Cứ nói thẳng là không mổ; các cậu đến đây để chữa các vết thương chứ có phải để chữa chân thuỗn
đâu . Ở mặt trận, dễ chân các cậu không thuỗn đấy? Các cậu thấy đấy, bây giờ các cậu còn chạy được,
nhưng hễ vào tay lão ta thì chỉ có què thôi. Lão ta cần những đề tài thí nghiệm; với lão ta cũng như với bọn thầy thuốc, chiến tranh là một thời kỳ tuyệt diệu. Các cậu nhìn dưới kia thì biết, ở phòng thuốc, hơn chục cậu bị lão ta mổ còn lê lết ra đấy. Có nhiều cậu ở đấy hàng năm rồi. Chẳng một ai đi đứng khá hơn trước; đa số chân phải bó bột. Thật là lợn lành chữa thành lợn toi? Cứ sáu tháng lão ta lại tóm lấy con nhà người ta để đập xương ra một lần nữa, mồm cứ xoen xoét lần này thì khỏi hẳn đây. Các cậu phải coi chừng đấy; nếu các cậu không đồng ý, là lão ta không có quyền làm đâu.

- Nhưng, anh bạn ơi, - một trong hai cậu lính nói bằng một giọng chán chường, - thà cái chân còn hơn cái đầu . Cậu có biết nếu lại ra ngoài ấy thì thế nào không? Kệ cho họ muốn làm gì tớ thì làm, miễn là tớ được về nhà. Què còn hơn chết.

Còn cậu kia, một gã trẻ tuổi như chúng tôi không muốn mổ. Sáng hôm sau, lão già gọi cả hai cậu xuống,
lão dọa già dọa non kỳ cho cả hai phải thuận mới thôi. Họ biết làm thế nào được? Họ chẳng qua là những anh lính quèn khốn khổ, còn lão ta lại là một người có quyền thế. Người ta khiêng hai cậu lính về, chân bó bột và bị đánh thuốc mê.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #75 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:56:06 pm »

Bệnh tình Anbe trầm trọng. Người ta đến mang nó đi dể cưa chân.

Nó bị cưa cả cái chân. Bây giờ, nó hầu như không nới không rằng gì nữa, nhưng nó đã bảo lúc nào nó vớ được khẩu súng lục là nó tự tử ngay.

Lại một chuyến nữa đến. Phòng chúng tôi nhận thêm hai người mù. Một trong hai người là một nhạc sĩ rất trẻ. Khi các bà xơ cho nó ăn, không bao giờ các bà ấy đem dao đến vì có lẩn nó đã giằng được một con dao của một bà. Mặc dầu đã đề phòng như vậy mà vẫn có chuyện xảy ra. Buổi tối, trong bữa ăn, bà xơ đang cho nó ăn có việc phải chạy đi chỗ khác; bà ta để cái ớ a và cái nĩa trên bàn ăn. Thế là gã mù sờ soạng tìm được cái nĩa, dùng hết sức đâm thẳng vào ngực; rồi nó vớ lấy một chiếc giày, đập lia lịa vào chuôi nĩa. Chúng tôi kêu cứu, phải ba người mới nhổ được cái nĩa ra. Những răng nĩa cùn cắm sâu vào ngực. Suốt đêm nó chửi bới chúng tôi, làm chúng tôi không ngủ được. Sáng hôm sau, nó lên một cơn khóc dữ dội.

Những cái giường lại vắng đi. Ngày lại ngày trôi qua giữa bao nhiêu đau đớn và lo âu, giữa những tiếng rên rỉ và những cơn thở rốc. Những phòng chết chẳng còn được việc lắm nữa. Chúng có quá ít, ban đêm bệnh nhân chết ngay trong phòng chúng tôi. Nhanh hơn cả sự tính toán của các bà xơ.

Nhưng một hôm, cánh cửa mở ra đột ngột, chiếc xe mặt phẳng tiến vào và chúng tôi thấy trên cáng, anh chàng Petơ xanh rớt, gầy guộc, cái đầu đen xì, xoăn tít, lởm chồm; nó ngồi nhỏm dậy với một vẻ đắc thắng. Bà xơ Libéctin, nét mặt hân hoan rạng rỡ, đưa nó đến giường cũ. Nó từ phòng chết trở lại. Chúng tôi tưởng nó đi đứt từ lâu rồi.

Nó nhìn xung quanh rồi hét lên:

- Thế các cậu bảo sao nào?

Chinh Giô dép cũng phải thú nhận rằng đó là lần đầu tiên anh ta thấy như vậy.

Dần dần, vài ba người trong bọn chúng tôi được phép đứng dậy. Người ta phát cho tôi một đôi nạng để đi lại loanh quanh dăm ba bước. Nhưng tôi không dùng nhiều. Tôi không chịu được cái nhìn của Anbe, khi nó thấy tôi đi lại trong phòng. Lúc nào nó cũng nhìn tôi bằng con mắt lạ lùng làm sao? Vì thế đôi lúc tôi lẻn ra hành lang; Ở đấy, tôi có thể cử động được tự do hơn.

Tầng dưới là những người bị thương vào bụng, vào xương, bị đạn vào đầu, và những người cưa cả hai chân. Dãy nhà bên phải là những người bị thương ở hàm, những người bị hơi ngạt, những người bị thương ở mũi, ở tai, ở cổ. Dãy nhà bên trái là những người mù, những người bị thương vào phổi, vào háng, vào khớp xương, vào thận, dạ dày và các bộ phận khác. Chính ở đây, người ta mới thấy rõ ràng một con người có thể bị thương vào những chỗ nào.

Hai bệnh nhân chết vì bệnh uốn ván. Màu da xỉn lại tứ chi cứng đờ, chỉ đôi mắt là còn sinh khí; sự sống bám lấy đôi mắt lâu hơn cả. Nhiều người bị thương phải treo cái chân đau lên không trung bằng một thứ thòng lọng. Dưới vết thương để một cái chậu, mủ nhỏ giọt vào đấy. Cứ vài ba giờ, người ta lại đổ chậu đi. Có người lại nằm với một dụng cụ kéo căng người ra, và những quả tạ nặng trĩu từ trên giường thả xuống. Tôi thấy những vết thương ở ruột lúc nào cũng đầy phân. Gã thư ký của bác sĩ cho tôi xem những phim chụp xương háng, xương đầu gối, xương vai bị dập gãy vụn cả ra.

Người ta không thể hiểu nổi sao ở những thân hình tàn phế đến thế mà vẫn còn những bộ mặt con người, và cuộc sống vẫn trôi bình thường trên những khuôn mặt ấy. Vậy mà đây mới chỉ là một trung tâm y tế mà thôi. Có hàng chục vạn trung tâm như thế ở nước Đức, hàng chục vạn trung tâm như thế ở nước Pháp, ở nước Nga. Có những cảnh như thế này thì tất cả những điều bấy lâu nay người ta viết ra, làm ra, hoặc suy nghĩ, thật là vô ích biết bao. Nếu nền văn hóa hàng ngàn năm không thể ngăn ngừa những suối máu như thế đổ ra và lại có hàng chục vạn cảnh tù ngục thống khổ như thế này thì tất cả những cái viết ra, làm ra, nghĩ ra ấy nhất định chỉ là bịp bợm và vô nghĩa. Chỉ có bệnh viện mới chỉ rõ được hết chiến tranh là gì.
Tôi còn trẻ lắm, mới hai mươi tuổi đầu, thế mà chỉ thấy trên đời toàn những cảnh tuyệt vọng, buồn phiền, chết chóc, xô đẩy những cuộc sống hời hợt nhất và vô tư nhất xuống vực thẳm của đau thương.

Tôi thấy các dân tộc bị xô đẩy vào cảnh chống đối nhau, chém giết nhau mà chẳng nói gì, chẳng hiểu gì . Hành động một cách điên cuồng, ngoan ngoãn, ngây thơ. Tôi thấy những bộ óc thông minh nhất của nhân loại đã phát minh ra những lý lẽ, những vũ khí để cho cái trò này diễn ra tinh vi hơn nữa, dai dẳng hơn nữa.
Và tất cả những người vào lứa tuổi tôi, ở đây và ở phía bên kia, trên khắp thế giới, đều nhận thấy như tôi; đó là cuộc sống của thế hệ tôi, cũng như cuộc sống của chính tôi. Các bậc cha anh của chúng tôi sẽ làm gì nếu một ngày kia chúng tôi đứng dậy, đến trước mặt các người và đòi tính sổ? Các người mong đợi gì ở chúng tôi khi chiến tranh kết liễu . Hàng mấy năm trời chúng tôi chỉ có việc giết người, đấy là cái nghề nghiệp đầu tiên của chúng tôi khi bước vào đời sự hiểu biết về cuộc sống của chúng tôi rút lại chỉ còn là cái chết. Rồi sau sẽ thế nào? Và chúng tôi sẽ ra sao?

Người nhiều tuổi nhất phòng chúng tôi là Lêvanđôpxki. Anh ta bốn mươi tuổi, nằm nhà thương đã mười tháng nay vì một vết thương nặng ở bụng.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #76 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:57:28 pm »

Chỉ có vài tuần nay anh ta mới đi lại được mấy bước, chân khập khiễng, người cúi gập xuống. Mấy ngày gần đây anh ta rất bồn chồn. Từ cái nơi hang cùng ngõ hẻm ở bên Ba Lan, vợ anh mới viết thư cho anh là chị ta đã có đủ tiền tàu để tới thăm anh. Chị đang trên đường đi và ngày một ngày hai sẽ đến.
Lêvanđôpxki ăn chẳng biết ngon nữa. Anh ta chỉ nhấm nháp qua loa vài miếng rồi cho người khác cả khẩu phần dồi lợn nấu bắp cải đỏ của anh. Tay cầm lá thư, anh ta đi đi lại lại không ngừng ở trong phòng; chúng tôi đứa nào cũng đọc cái thư ấy đến chục lần; những cái tem đã bị ngắm nghía không biết bao nhiêu lần mà kể nữa, chữ viết chỉ còn lờ mờ vì những vết mỡ và những vết ngón tay; thật là tai hại, Lêvanđôpxki lên cơn sốt, lại phải đi nằm. Hai năm rồi, anh ta chưa gặp vợ. Trong thời gian ấy, chị ta đẻ một đứa con và sẽ mang nó đến đây. Nhưng Lêvanđôpxki đang bận tâm vì một cái khác. Anh ta tính xin phép ra ở bên ngoài trong thời gian vợ đến thăm; vì rõ ràng là gặp nhau thì rất tốt, nhưng sau một thời gian dài như thế, khi gặp lại vợ, nếu có thể, người ta còn muốn cái khác nữa chứ.

Lêvanđôpxki đã bàn bạc với chúng tôi hàng giờ về chuyện này, vì trong đời con nhà lính chẳng có cái gì phải dấu diếm cả. Vả lại, chẳng ai nói gì cái đó cả.

Những người trong bọn tôi đã đi ra ngoài được đều mách cho anh ta những chỗ thuận tiện trong thành phố, những bãi cỏ, những vườn hoa mà anh ta sẽ không bị quấy rầy, có người lại mách cho cả một căn phòng nhỏ nữa.

Nhưng tất cả có ích gì? Lêvanđôpxki nằm đây với biết bao là thắc mắc. Nếu anh ta phải nhịn cái khoản ấy thì trên đời còn có cái gì làm cho anh thích thú nữa. Chúng tôi an ủi anh ta và hứa hẹn là sẽ tìm được cách để thu xếp công việc.

Chiều hôm sau, chị vợ đến, một người đàn bà loắt choắt, đôi mắt vừa long lanh, vừa sợ sệt như mắt chim sẻ; chị ta đội cái khăn đen có giải buộc, vừa trùm đầu, vừa quấn cổ. Có trời biết chị ta tìm ở đâu ra được cái thứ khăn cổ lỗ sĩ ấy.

Chị ta lắp bắp khe khẽ câu gì đó và đứng thập thò ngoài cửa. Thấy những sáu người, chị ta phát hoảng.

- Này! em Ma ria, - Lêvanđôpxki nói, tưởng chừng cổ họng anh ta bị tắc lại, - em cứ vào, có ai làm gì đâu mà sợ.

Chị ta vào bắt tay chúng tôi từng người một. Rồi chị chìa đứa bé ra, lúc ấy nó vừa bậy ra tã. Chị ta mang theo một cái bị to, thêu hạt cườm, chị ta lấy ra một cái tã sạch, nhanh nhẹn quấn lại cho đứa bé.
Bây giờ đã hết cái phút lúng túng ban đẩu, và hai vợ chồng bắt đầu nói chuyện.

Lêvanđôpxki rất bứt rứt; anh ta luôn nhìn về phía chúng tôi, đôi mắt trố ra có vẻ rất là đau khổ.

Thời cơ lúc ấy thuận lợi; bác sĩ vừa đến thăm xong; nhiều lắm là chỉ có một bà xơ tạt qua phòng nữa thôi. Vì vậy một đứa trong bọn tôi ra ngó bên ngoài tí xem sao. Nó quay vào và gật đầu nói: "Chẳng có đứa chết bầm nào cả. Này Giôhan, bảo chị ấy đi, và làm luôn đi!" Hai vợ chồng trao đổi với nhau bằng cái kiểu riêng của họ. Chị vợ nhìn chúng tôi, hơi đỏ mặt và ngượng nghịu, chúng tôi mỉm cười, có vẻ hiền lành chất phác, và gạt tay ra hiệu là cái chuyện ấy chẳng chết ai cả. Vất mẹ nó tất cả thành kiến đi! Thành kiến chỉ dùng cho lúc khác thôi. Đây là anh thợ mộc Giôhan Lêvanđôpxki đang nằm, một người lính bị một phát đạn làm cho tàn phế, và đây là vợ anh ta; ai biết bao giờ anh ta được gặp lại vợ? Anh ta muốn chị ta, vậy thì phải để anh được, chuyện thật là đơn giản.

Hai đứa đứng ngoài cửa để ngăn các bà xơ lại và bám lấy các bà ấy nếu bất chợt các bà ấy đến. Chúng nó đứng gác vào khoảng mười lăm phút.

Lêvanđôpxki chỉ nằm nghiêng được thôi; vì vậy chúng tôi kê thêm cho anh ta vài cái gối phía dưới lưng. Anbe ẵm đứa bé, rồi chúng tôi quay đi một phút; cái khăn đen thụt vào trong chăn, chúng tôi vừa đánh bài Soát vừa nói rõ to đủ mọi thứ chuyện. Thế là ổn cả. Tôi phải một ván bài xấu quá. Cho nên chúng tôi gần như quên khuấy Lêvanđôpxki.

Một lúc sau, đứa bé khóc inh lên, mặc dầu Anbe vẫn đu đưa nó một cách nhịp nhàng với vẻ mặt thất vọng. Sau đó, chúng tôi nghe thấy những tiếng sột soạt những tiếng động khe khẽ, rồi bất chợt chúng tôi nhìn lại thì đã thấy đứa bé lại nằm trong tay mẹ nó, mồm ngậm vú cao su rồi. Thế là vui vẻ cả.

Lúc này, chúng tôi cảm thấy như một đại gia đình; chị vợ trông tươi như hoa, còn Lêvanđôpxki nằm trên giường, toát cả mồ hôi và rất là hớn hở.

Anh ta cởi cái bị thêu ra; những khúc dồi lợn xinh xinh xuất hiện. Lêvanđôpxki cầm con dao như cầm bó hoa, cắt thịt thành từng miếng. Anh ta giang rộng tay chỉ chúng tôi và chị vợ loắt choắt đi từ người này đến người kia, vừa mỉm cười vừa phân phát cho mỗi người một phần; lúc này trông chị ta sao mà đẹp thế.
Chúng tôi gọi chị ta là "mẹ"; chị ta sung sướng và kê lại gối cho chúng tôi.

Vài tuần sau đó, sáng nào tôi cũng đến viện Danđơ. Ở đây, người ta cột chân tôi thật chặt lại rồi người ta bắt nó làm những động tác thích hợp. Tay tôi đã khỏi từ lâu. Lại có nhiều chuyến từ mặt trận về. Không có băng quấn bằng vải nữa, mà toàn bằng giấy nhiễu trắng. Ở ngoài ấy dạo này rất thiếu bông băng.

Cái chân cụt của Anbe đã khá nhiều. Vết thương ngậm miệng gần hết. Vài tuần nữa, nó sẽ đến một trung tâm lắp chân gỗ. Nó vẫn ít nói, có vẻ trầm lặng hơn trước rất nhiều. Nhiều khi đang nói chuyện, nó bỗng im bặt và nhìn trừng trừng trước mặt. Nếu không ở với bọn tôi, có lẽ nó đã kết liễu đời nó từ lâu rồi. Nhưng bây giờ nó đã qua được giai đoạn gay go nhất rồi. Đôi lúc nó cũng xem chúng tôi đánh bài Soát. Tôi được một kỳ nghỉ phép dưỡng bệnh.

Mẹ tôi không muốn để tôi đi nữa. Mẹ tôi yếu quá rồi?

Tình hình gay go hơn chuyến trước nhiều.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #77 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2011, 11:30:10 pm »

Chương 11

Sau đó, trung đoàn có giấy gọi, tôi lại ra mặt trận.

Phải xa thằng bạn chí thân Anbe, Cốp thật là khổ cho tôi quá. Nhưng trong đời thằng lính, cái gì rồi mà chả quen đi.

Chúng tôi không tính từng tuần nữa. Dạo trước tôi đến đây vào mùa đông, và mỗi khi trái phá rơi xuống, những tảng đất lạnh cứng cũng nguy hiểm gần bằng mảnh đạn. Bây giờ, cây cối đã xanh tươi trở lại . Cuộc sống của chúng tôi hết trại lính lại đến mặt trận. Nó cũng đã quen đi được phần nào. Chiến tranh là một nguyên nhân của cái chết, cũng như bệnh ung thư hoặc bệnh lao, cũng như bệnh cúm hoặc bệnh lỵ . Có điều là những ca chết được thì nhiều hơn, phức tạp hơn, và ác liệt hơn.

Những ý nghĩ của chúng tôi giống như một thứ đất sét nó bị ngày tháng đổi thay nhào nặn, khi chúng tôi được nghỉ ngơi, thì nó cũng tất lành sáng sủa, khi chúng tôi sống nơi lửa đạn thì nó đâm ra buồn thảm tối tăm. Có những cánh đồng hố trái phá cả ở bên ngoài lẫn ở bên trong chúng tôi.

Không riêng gì chúng tôi, mà ai ở đây cũng thế; cái gì đã qua thì không còn tồn tại và cụ thể là chúng tôi không còn nhớ gì đến quá khứ nữa. Sự cách biệt do nền giáo dục và học vấn tạo ra hầu như đã bị xóa nhòa, khó nhận ra được nữa. Đôi khi sự cách biệt ấy cũng tiện cho việc lợi dụng một hoàn cảnh nào đó, nhưng nó cũng gây ra nhiều bất tiện, tạo ra những trở ngại cần phải vượt qua. Chẳng khác gì chúng tôi trước đây là những đồng tiền của tứ xứ, rồi người ta đem nấu chảy ra, đến nay thì đồng nào cũng giống đồng nào. Nếu muốn nhận ra chỗ khác nhau, thì phải xem thật kỹ chất kim loại.

Chúng tôi là những thằng lính, sau đó mới là những con người, mà là những con người một cách kỳ quặc và gần như xấu hổ.

Giữa chúng tôi với nhau, có một tình ruột thịt lớn lao, bao gồm một cách lạ kỳ thứ ánh sáng của tình bè bạn trong những câu dân ca, một chút tình đoàn kết của những người bị tù đày, và tình gắn bó tuyệt vọng giữa những kẻ tử tù với nhau.

Tất cả những cái đó đưa chúng tôi vào cùng một nếp sống làm cho giữa hiểm nguy, chúng tôi khắc phục được lo âu và thống khổ của chết chóc để vội vã cướp lấy những giờ phút chúng tôi còn sống. Và làm thế, lòng chăng mảy may xúc động. Nếu người ta muốn đánh giá cái gì đó, thì đó là một trường hợp vừa anh dũng lại vừa nhàm chán, nhưng ai đi làm việc ấy?

Chính với tâm trạng ấy mà Jađơn đã húp vội húp vàng cho đến thìa cuối cùng, món xúp đậu nấu với mỡ, khi được tin quân địch tấn công, vì nó chẳng biết là một giờ sau có còn sống hay không. Chúng tôi đã tranh cãi lâu về điểm này, xem nó đúng hay sai. Cát phản đối, vì phải tính đến chuyện có thể bị một viên đạn
vào bụng, nếu ăn no thì nguy hiểm hơn lúc đói rất nhiều.

Chúng tôi luôn bận tâm về những vấn đề như thế đấy. Đối với chúng tôi, những vấn đề ấy thực là quan trọng và không thể nào khác được. Ở đây, sát nách cái chết, cái sống có một bộ mặt đơn giản lạ lùng. Nó giới hạn trong những nhu cầu tối thiểu, còn những cái khác thì bị vùi trong một giấc ngủ triền miên; đấy chính là chỗ thô sơ thiển cận của chúng tôi, mà cũng là điều cứu sống chúng tôi; nếu chúng tôi khác biệt hơn, thì chúng tôi đã phát điên từ lâu rồi, đã đào ngũ hoặc đã chết rồi. Giống như một cuộc thám hiểm vùng địa cực. Mọi biểu hiện của sức sống đều chỉ được dùng để duy trì sự sống và bắt buộc phải đi theo hướng ấy. Ngoài ra, tất cả đều bị loại trừ, vì nó tiêu thụ năng lượng một cách vô ích. Đó là cách duy nhất để chúng tôi được cứu thoát. Thỉnh thoảng, trong những lúc yên tĩnh, tôi tưởng như đứng trước một người lạ mỗi khi tấm gương mờ đã cho tôi thấy cái phản ảnh bí ẩn của thời quá khứ, vạch ra cho tôi những đường nét của cuộc sống hiện tại; tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy cái sự hoạt động khó tả ấy mà người ta gọi là sự sống, lại khoác lấy cái lốt này. Tất cả mọi biểu hiện khác đều bị vùi trong giấc ngủ mùa đông; cuộc sống cứ phải không ngừng cảnh giác để chống đỡ những sự dọa nạt của thần chết; cuộc sống đã biến chúng tôi thành những con vật, trao cho chúng tôi một thứ vũ khí, ấy là bản năng; nó đã làm nhụt cả nguồn xúc cảm, cốt để chúng tôi không giao động trước những sự khủng khiếp đang lao vào chúng tôi, nêu chúng tôi còn lương tri sáng suốt và rõ ràng. Nó đã khơi lên trong chúng tôi tình đồng đội, để chúng tôi thoát được cái vực thẳm của cô đơn; nó đã khiến chúng tôi có cái vẻ lạnh lùng của người man rợ, để chúng tôi có thể, bất chấp tất cả, tìm ra cái gì cụ thể và dự trữ nó chống lại những đợt tấn công của hư vô. Chúng tôi sống như thế một cuộc sống âm thầm, khắc khổ và rất là hời hợt, rất ít khi có một sự kiện làm bật lên từ đáy lòng vài tia sáng, nhưng có lúc ngọn lửa của một niềm khát khao nặng trĩu và gớm ghê bất chợt bùng lên trong chúng tôi.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #78 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2011, 11:31:23 pm »

Ấy là những lúc hiểm nghèo; những lúc ấy cho chúng tôi thấy rằng, dù sao, sự thích ứng cũng chỉ là giả tạo; nó không phải là sự bình tĩnh thật sự, mà chỉ là một sự cô vươn lên chỗ bình tĩnh thôi. Về hình thức bề ngoài của cuộc sống, chúng tôi chẳng khác gì những người da đen trong rừng; nhưng những người này cứ như vậy mãi cũng chẳng sao vì đó là bản chất của họ và bất quá họ có thể tiếp tục phát triền do sự cố gắng của năng khiếu, trái lại, ở chúng tới, những sứ mạng quan trọng không nghiêng về phía phát triển mà lại hướng về phía thoái hóa. Thành ra những cái gì là bình thường ở họ, thì chúng tôi phải cố gắng và phải giả tạo mới có được.

Ban đêm, khi chúng tôi bàng hoàng tỉnh dậy sau một cơn ác mộng, bị những ảo tưởng huyền hoặc lôi cuốn và thả mình vào đấy, chúng tôi nhận thấy chỗ dựa và ranh giới giữa chúng tôi và cảnh tối tăm u ám thật là mong manh biết bao.

Chúng tôi là những người buột khăn gói thì phải.

Tôi cảm thấy một tai vạ đến nơi, bèn ngồi dậy hỏi nó. Nó làm ra bộ không có gì cả, tôi bảo nó:

- Đêtơrinh, đừng có vớ vẩn đấy nhé!

- À sao? Mình không ngủ được thế thôi...

- Thế cậu bẻ những cành anh đào ấy về làm gì?

- Thì mình đi lấy cành anh đào cũng được chứ sao, - nó trả lời lúng túng. Một lúc sau nó thêm, - ở nhà mình, có một vườn cây rộng, trồng nhiều anh đào lắm; khi anh đào nở hoa, đứng ở bục rơm mà nhìn, y như một cái khăn trải giường thật to vì nó trắng lắm; bây giờ là đương mùa đấy.

- Có lẽ sắp có những đợt nghỉ phép đấy. Cậu là nông dân, có thể là cậu được tạm hoãn quân dịch đấy.

Nó gật đầu, nhưng óc nó để tận đâu. Những anh chàng nông dân này, khi trong lòng có cái gì ray rứt là y như có dáng điệu lạ lùng, vừa lờ đờ vừa lầm lì, nửa như ngớ ngẩn, nửa như cảm động. Để lôi nó ra khỏi những ý nghĩ vớ vẩn, tôi hỏi xin nó một miếng bánh; nó cho tôi ngay chẳng chần chừ. Đó là một triệu chứng khả nghi, vì thường ngày nó keo kiệt. Vì vậy tôi không ngủ được nữa. Nhưng không có gì xảy ra sáng hôm sau. Đêtơrinh vẫn như thường . Có lẽ nó đã biết tôi theo dõi nó. Ấy thế mà, sang ngày hôm sau nữa, là nó biến mất. Tôi biết cả nhưng không nói gì, hể nó có đủ thì giờ, may ra nó đi thoát được . Nhiều đứa đã đến được Hà Lan.

Khi điểm danh, người ta thấy thiếu nó. Một tuần lễ sau, chúng tôi được tin nó bị tụi xen đầm bắt, thuộc sở buột khăn gói thì phải.

Người ta không thể đánh ngã ngay lập tức người lên cơn và ghì lấy hắn.

Bécgơ lại cao một thước tám mươi, người khỏe nhất đại đội.

Rõ ràng là nó điên, vì nó phải xuyên qua một bức tường lửa! Nhưng chính cái luồng chớp ấy vẫn đang rình
đâu đây tất cả chúng tôi - đã đánh trúng nó và biến nó thành một thằng ma ám. Có những đứa đập phá lung tung hoặc chạy thoát được; lại có một đứa cứ lấy tay chân và mồm, cào đất ra mãi để chui xuống.
Dĩ nhiên, trong những trường hợp này, cũng có nhiều cậu giả vờ; nhưng sự giả vờ ấy tự nó đã là một triệu chứng có ý nghĩa. Người ta lôi được Bécgơ về, với một phát đạn ở hông; ngoài ra, một trong số người dìu nó về cũng bị một phát vào bắp chân.

Muynlơ đã chết . Nó bị một viên đạn lửa bắn gần vào giữa bụng. Nó còn sống thêm được nửa giờ, rất tỉnh, nhưng đau đớn một cách khủng khiếp. Trước khi chết, nó cho tôi cái ví và tặng tôi đôi ủng mà nó đã thừa hưởng của Kêmơrich. Tôi đi đôi ủng rất vừa chân. Sau tôi, sẽ đến lượt Jađơn. Tôi đã hứa với nó thế.
Chúng tôi đã chôn cất được Muynlơ, nhưng chắc nó không nằm yên được lâu đâu. Phòng tuyến của chúng tôi bị rút về phía sau. Trước mặt chúng tôi, có quá nhiều quân Anh và Mỹ vừa mới xuất trận, chúng có nhiều thịt bò ướp quá, nhiều đại bác và máy bay quá. Còn chúng tôi thì gầy gò và đói ăn. Lương thực tồi quá, làm toàn bằng thế phẩm, đến nỗi ăn phát ốm. Trong khi bọn chủ nhà máy ở bên Đức bụ bẫm thì chúng tôi bị bệnh kiết lỵ hành hạ, cháy ruột cháy gan. Những hố đại tiện lúc nào cũng đầy những khách hàng ngồi xổm. Cần phải cho những người ở hậu phương nhìn thấy những bộ mặt xám ngoét, vàng vọt, khốn khổ và nhẫn nhục này, những thân hình gầy gập xuống mà bệnh đau ruột đã hút hết cả máu một cách ghê gớm, những bộ mặt nhìn nhau chỉ biết mỉm cười chua chát, nói với nhau qua đôi môi mím chặt và run lên vì đau đớn: "Mặc quần lại làm quái gì cho mất công..."
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #79 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2011, 11:31:59 pm »

Pháo binh của chúng tôi đã phải bó tay rồi, đạn dược quá ít, nòng súng mòn đến nỗi đường đạn đi không chính xác nữa, thậm chí nện xuống cả quân mình. Chúng tôi có ít ngựa quá; những đơn vị mới xuất trận đều là những đứa trẻ xanh xao thiếu máu, cần được nâng niu, chúng nó không mang nổi ba lô, nhưng lại biết chết hàng nghìn một lúc. Chúng nó chẳng hiểu gì về chiến tranh cả, chỉ biết có đi lên phía trước để kẻ địch nấp một chỗ mà bắn cho bằng thích. Một thằng phi công đã nghịch ngợm hạ thổ một lúc được hai đại đội tân binh, ngay lúc bọn này vừa ở trên tàu xuống, chưa tìm được chỗ trú ẩn.

- Chẳng mấy chốc, nước Đức sẽ hết cả người. - Cát nói.

Chúng tôi chẳng hy vọng những chuyện như thế . Có rất nhiều chuyện đại loại như thế, lắm khi còn chua chát gấp mấy nữa. Tuy nhiên, những chuyện ấy chẳng có liên quan gì đến việc nổi loạn hoặc phá kỷ luật; đó chỉ là những câu chuyện thật thà, có thế nào nói thế ấy, vì trong đời sống nhà binh, có lắm cái lừa bịp, bất công và ti tiện. Bất chấp mọi gian nguy, trung đoàn nọ theo gót trung đoàn kia, bằng lòng đi vào cuộc chiến đấu ngày càng tuyệt vọng, và hết đợt này đến đợt khác tiếp nhau tấn công vào một phòng tuyến ngày càng phải lùi lại và bị đập nát vụn; cái dó không vĩ đại sao? Những chiếc xe tăng, trước kia chỉ là một vật để chế giễu, nay trở thành những vũ khí ghê gớm.

Chúng dàn ra thành những tuyến thiết giáp dài dằng dặc, và hơn bất cứ cái gì khác, chúng là hiện thân của chiến tranh khủng khiếp đối với chúng tôi.

Những khẩu đại bác trút hỏa lực dồn dập xuống chúng tôi. Chúng tôi không nhìn thấy chúng; những tuyến xung phong của địch gồm những con người bằng xương bằng thịt như chúng tôi; nhưng những chiếc xe tăng ấy là những cái máy; vòng xích của chúng quay bất tận y như cuộc chiến tranh vậy. Chúng mang đến sự tiêu diệt, khi chúng lạnh lùng bò xuống những hố trái phá, rồi lại bò lên ngay lập tức, thật là cả một hạm đội bọc thép, luôn luôn gầm thét và khạc lửa, những con quái vật bằng thép bất khả xâm phạm, nghiến nát cả người chết lẫn người bị thương. . . Trước mặt chúng nó, chúng tôi phải hết sức co rúm cái thân hình yếu ớt của mình lại. Trước sức mạnh khổng lồ của chúng, cánh tay chúng tôi chỉ là những cọng rơm, và lựu dạn chúng tôi chỉ là những que diêm. - Trái phá, hơi ngạt, xe tăng: những vật nghiến nát anh, xâu xé anh và giết chết anh. Bệnh lỵ , bệnh cúm, bệnh chấy rận: những cái làm anh nghẹt thở, đốt cháy anh và giết chết anh.

Chiến hào, nhà thương và nấm mồ công cộng: không có gì khác.

Béctinh, người chỉ huy đại đội của chúng tôi đã chết trong một trận tấn công. Ông ta là một trong những sĩ quan ưu tú của mặt trận, khi gặp nguy hiểm, luôn luôn xông lên hàng đầu. ông ta ở với chúng tôi đã hai năm mà chưa bị thương lần nào. Tất nhiên cuối cùng thế nào cũng gặp một cái gì. Chúng tôi đang nấp trong một hố trái phá, bốn phía quân địch vây kín cả. Hơi thuốc súng mù mịt phả vào chúng tôi, lại thêm cái mùi dầu, mỡ và ét-xăng nồng nặc. Chúng tôi phát hiện ra hai tên địch mang một khẩu súng phun lửa; một tên đeo cái bình sau lưng, còn tên kia cầm cái ống phun. Nếu chúng nó lại gần được, thì chúng tôi bị nướng chín hết, vì trong tình huống hiện thời, chúng tôi không còn đất rút lui nữa.

Chúng tôi nhắm bắn tới tấp. Nhưng chúng vẫn tiến lại gần được, thật là nguy quá. Béctinh nằm trong hố cùng với chúng tôi. Khi thấy chúng tôi bắn không trúng vì trước hỏa lực ác liệt của địch, chúng tôi còn mải lo ẩn nấp, ông ta bèn lấy một khẩu súng, bò ra ngoài hố trái phá, rồi tì lên khuỷu tay, nhằm bắn. Phát súng nổ; nhưng đồng thời ông cũng bị trúng đạn. Tuy vậy, ông ta vẫn nằm nguyên chỗ cũ và tiếp tục nhắm. Ông ta hạ súng xuống một lát rồi lại đưa lên vai; phát đạn nổ, Bécti.nh để rơi khẩu súng xuống và nói: Tốt!", sau đó ông ta lại bò xuống hố. Tên lính mang súng phun lửa đứng xa đã bị thương; nó ngã xuống, thằng kia không chụp được cái ống phun, lửa cháy bùng bùng tứ phía, và thế là tên kia bị chết cháy.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM