Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:44:57 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất  (Đọc 45732 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #130 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 07:17:09 am »

Kết thúc hội nghị

Vào buổi tối ngày 20 tháng 7, khi các trưởng đoàn chủ yếu Molotov, Chu Ân Lai, M.Phrăng và I-đơn-đã làm cho Việt Minh phải nhận những nhân nhượng cuối cùng không còn gì gây trở ngại cho việc kết thúc hội nghị một cách tích cực, điều mà Trung Quốc mong đợi từ lâu. Và không phải chỉ có một minh Trung Quốc mong đợi. Và không phải chỉ có một mình Trung Quốc mong đợi. Phiên họp trọng thể bế mạc được ấn định vào lúc 21 giờ. Không nói chính xác giờ, Tân hoa xã đã khẳng định sự kiện này từ buổi sáng75 (Tin Tân hoa xã, Giơ-ne-vơ, 20-7-1954).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #131 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 07:18:14 am »

Một sự nhượng bộ cuối cùng-Các căn cứ quân sự ngước ngoài ở Campuchia và Lào

Tuy nhiên ở phút chót, đã nổi lên một khó khăn sau cùng: Sam Sary "Đại diện riêng của nhà Vua" từ chối tham gia vào một văn kiện mà đối với ông ta là đã xâm phạm chủ quyền của Campuchia. Đối với đại biểu Campuchia thì nền tự do của Vương quốc là không thể chia cắt: không thể ngăn cấm Campuchia tham gia một liên minh nào, kể cả việc cho phép Mỹ đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Khơ-me.


Ngay sáng hôm 20 tháng 7 trước khi ăn trưa với thủ tướng M.Phrăng, Chu Ân Lai đã gặp Tep Phan, trưởng đoàn đại biểu Campuchia trong hai tiếng đồng hồ76 (Như trên). Nhìn bề ngoài, không có điều gì nghiêm trọng đến như vậy được nêu ra. Đối với thủ tướng Trung Quốc, đây là một lý do phụ để ông ta hốt hoảng về những khó khăn vào giờ chót mà phản ứng đầu tiên là Mỹ không thể không biết đến. Ngay lập tức đoàn đại biểu Trung Quốc mời Đại tá Ghi-éc-ma đến và nhấn mạnh là M.Phrăng phải liên hệ với hai đồng chủ tịch hội nghị. Cần phải giải quyết nhanh chóng nhất tình hình nguy hiểm này vì sự thành công của hội nghị77 (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp/Bản ghi nhớ của tùy viên quân sự tại Băng Cốc đã dẫn ở trên/31-8-1954. Tác giả Bản ghi nhớ này đã nhận xét về cuộc hội đàm với Trung Quốc nhân dịp này, đại biểu Trung Quốc-nhân danh Việt Minh đã có những nhượng bộ mới (nhưng không nói rõ nhượng bộ gì)). Một lần nữa mối lo lắng của Trung Quốc là rõ ràng.
Phải mất gần 5 tiếng đồng hồ mới vượt qua được khó khăn đó. Quả vậy, mãi đến khoảng 2 giờ sáng 21 tháng 7, tại nhà I-đơn có mặt M.Phrăng ở đó, nhưng không có Chu Ân Lai, Molotov nhận đưa vào bản tuyên bố của Campuchia một đoạn nói về khả năng của nước này có thể cho phép đặt căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Campuchia78 (Để đề cập vấn đề một cách hạn chế, bản tuyên bố của Campuchia sẽ không gia nhập một hiệp định nào với nước khác nếu hiệp định đó quy định "chính phủ Vương quốc Campuchia có nghĩa (.) thiết lập trên lãnh thổ Campuchia những căn cứ quân sự cho lực lượng vũ trang của nước ngoài chừng nào nền an ninh của Campuchia không bị đe dọa". Đoạn này được đưa lại toàn văn vào điều 7 của hiệp định đình chỉ chiến sự ở Campuchia) trong trường hợp có sự uy hiếp đối với an ninh đất nước. Rồi theo yêu cầu của M.Phăng một điều khoản tương tự đối với Lào được chấp nhận79 (Về giai đoạn này, xem thêm J.Lacouture và Ph.Devillers, sách đã dẫn, tr.269-272). Cả hai điều nhân nhượng mới này được xác nhận trong đoạn 5 của bản tuyên bố cuối cùng80 (Đoạn 5 của bản tuyên bố cuối cùng được viết như sau: "Hội nghị (...) cũng ghi nhận những lời tuyên bố của hai Chính phủ Campuchia và Lào nói rằng hai Chính phủ đó sẽ không ký kết bất cứ một hiệp định nào với nước khác nếu hiệp định đó buộc họ (...) lập những căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ Campuchia và Lào khi mà an ninh hai nước này không bị đe dọa". Việc biên tập cuối cùng đoạn này đã dự liệu khả năng hai nước này có thể cho phép nước ngoài lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của họ nếu an ninh bị đe dọa, trái ngược về căn bản với dự thảo cuối cùng mà Hội nghị đã thông qua hồi 20 giờ ngày 20 tháng 7, dự thảo này loại trừ mọi khả năng lập căn cứ quân sự nước ngoài ở trên lãnh thổ hai nước Campuchia và Lào "Hội nghị (...) cũng ghi nhận những lời tuyên bố của các Chính phủ Campuchia và Lào nói rằng hai Chính phủ sẽ không ký kết bất cứ hiệp định nào với nước khác nếu hiệp định buộc họ phải để nước ngoài lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Campuchia và Lào (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp/Dự thảo 4 của Pháp về tuyên bố cuối cùng, 20-7-1954 hồi 20 giờ)).


Như vậy trở ngại cuối cùng đã được vượt qua. Nhưng theo chúng tôi, trong những điều kiện hoàn toàn có ý nghĩa đối với quan điểm của Trung Quốc. Nếu sự vận động của đoàn đại biểu Trung Quốc với đoàn đại biểu Pháp tối 20 tháng 7 chứng tỏ Chu Ân Lai tha thiết bao nhiêu đến việc góp phần thanh toán khó khăn cuối cùng này, thì cũng thấy rằng ngoài Chu Ân Lai, cá nhân Molotov cũng có đóng góp81 (Măng-đét Phrăng đánh giá rằng Molotov chắc chắn sẽ nhận phương án này, sau khi thỏa thuận với Chu Ân Lai (nói chuyện với M.Phrăng ngày 3 tháng 7 năm 1975). Vấn đề căn cứ nước ngoài-tức là của Mỹ-đã được giải quyết vội vã giữa 21 giờ và 2 giờ sáng trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 7, phải chăng đó là một trong những vấn đề mà đoàn đại biểu Trung Quốc đã đấu tranh kịch liệt nhất là từ hai tháng rưỡi nay. Đến phút chót, phải chăng Liên Xô đã mở cửa cho "sự xâm lược" của Mỹ? Bởi vì cuối cùng thế nào là an ninh bị đe dọa? Sự đe dọa đó có thể từ đâu tới?82 (Hoàn thân Norodom Sihanouk, sách đã dẫn, tr.55-57, ghi lại về vấn đề đó, khi ông ta (Sam Sary) nói đến sự uy hiếp từ bên trong, ông ta chỉ nghĩ đến cộng sản Việt Nam hay Trung Quốc). Phải định nghĩa câu chữ này như thế nào? Sau 75 ngày thương thuyết trong đó mỗi chữ đều cân nhắc, mỗi điểm thỏa thuận đều được tranh cãi đến hàng trăm lần, một điều khoản chủ yếu như vậy đã được đưa vào văn bản hiệp định không được xem xét kỹ càng không có một bảo đảm bằng lời văn. Ai có thể khẳng định được mai đây-chúng ta hãy để ra một bên thái độ của bản thân Trung Quốc-một vụ rắc rối biên giới này xảy ra giữa Lào và Việt Nam dân chủ cộng hòa hay một vụ đụng độ kia giữa các lực lượng Chính phủ và lực lượng cách mạng Campuchia lại không thể giải thích ở Viên Chăn hay Phnôm-pênh như một sự đe dọa đối với an ninh lãnh thổ, khiến các thủ đô phải kêu gọi Washington can thiệp?


Một mối nguy cơ lớn lao-như người ta đã hiểu-khiến Trung Quốc lo ngại. Nhưng Molotov đã đồng ý rồi. Lúc đó đã 3 giờ rưỡi sáng-Thiếu tướng Đen-tây và Tạ Quang Bửu vừa mới ký tắt xong các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và ở Lào83 (Tin Tân hoa xã, Giơ-ne-vơ, 21-7-1954). Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Campuchia sẽ được ký vào cuối buổi sáng84 (Như trên). Dự kiến đến 3 giờ chiều hội nghị sẽ họp phiên bế mạc. Hiển nhiên là người Trung Quốc không thể phản ứng gì được. Vả lại, vào lúc giải pháp đạt được đến nơi rồi, liệu có bất kỳ hành động khó chịu nào của Chu Ân Lai lại không rơi vào kế của Mỹ?


Lần đầu tiên từ nhiều năm, lực lượng hòa bình tỏ ra mạnh hơn lực lượng chiến tranh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #132 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 07:20:23 am »

Tuyên bố cuối cùng của Trung Quốc và Chu Ân Lai lên đường về nước

Vào cuối buổi sáng ngày 21 tháng 7, Chu Ân Lai lại gặp riêng I-đơn lần cuối cùng85 (Như trên) sau đó cùng với Trương Văn Thiên, Lý Khắc Nông và Vương Bính Nam đến ăn cơm trưa với Măng-đét Phrăng86 (Như trên. Chúng tôi không tìm được tài liệu gì trong Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp nói về các cuộc nói chuyện trong bữa ăn trưa hôm đó). Cuối cùng lúc 3 giờ chiều bắt đầu phiên họp thứ 31 và cũng là phiên họp cuối cùng do người đứng đầu nền ngoại giao Anh làm trưởng đoàn điều khiển. Chắc chắn là một thời điểm long trọng nhưng chẳng có gì nổi đình đám cả đâu.


Phiên họp mở đầu bằng tham luận của Trần Văn Đỗ, đại biểu quốc gia Việt Nam trong đó ông ta phản đối chia cắt đất nước như đã dự liệu trong các hiệp định mới đạt được của hội nghị87 (Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương (...) sách đã dẫn, tr.378-379). Các bộ trưởng bỏ qua điều đó, lần lượt thông qua các hiệp định được đưa đến từng người. Sau đó, đến lượt các đoàn đại biểu trình bày những nhận xét cuối cùng của Chính phủ họ đối với kết quả hội nghị Bi-đơn Xmits, như đã nói hôm 18 tháng 7 khẳng định rằng Mỹ không sẵn sàng tham gia vào bản tuyên bố cuối cùng, và nhằm mục đích đó, đã đọc một "bản tuyên bố đơn phương"88 (Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương (...) sách đã dẫn, tr.378-379).


Các đoàn đại biểu cộng sản đưa ra ba bản tham luận dài có tính cách chung. Bài tham luận của Molotov đáng chú ý đặc biệt, có một đoạn ca ngợi đóng góp của Trung Quốc vào tiến bộ của hòa bình. "Hội nghị Giơ-ne-vơ chứng tỏ sự hợp tác quan trọng, và tích cực của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế cấp bách". Công việc của chúng ta đã chứng minh rằng những trở ngại giả tạo mà người ta định dựng lên để ngăn cản sự tham gia đầy đủ và hoàn toàn của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào việc giải quyết nhiều vấn đề khác nhau là hành động của các giới hiếu chiến mà cuộc sống sẽ có nhiệm vụ lật đổ chúng89 (Như trên, tr.386).


Về phần Chu Ân Lai, ông ta đọc một bài phát biểu rất ôn hòa90 (Như trên, tr.388-390). Ông ta nhắc lại rằng "ba nước ở Đông Dương sẽ không tham gia vào bất kỳ khối liên minh quân sự nào và không một nước ngoài nào được phép thành lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của họ". Đó không phải là ý nghĩa của các văn bản nhưng rõ ràng là một lời cảnh cáo. Sau đó, Chu Ân Lai bênh vực dài dòng cho nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình ở châu Á cũng như các nơi khác trên thế giới. Cuối cùng ông kêu gọi "Mặc dù việc giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên không đi đến thỏa thuận, nhưng vấn đề này lúc nào cũng vẫn được ghi trong chương trình nghị sự". Dù Mỹ từ chối không tham gia văn bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị, Thủ tướng Trung Quốc vẫn kết thúc bài phát biểu của mình với chủ đề về hòa dịu: không trực tiếp hoặc gián tiếp đả kích Mỹ, không đòi hỏi một cách hùng hổ quyền đại diện của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên hiệp quốc. Đến Giơ-ne-vơ với tư cách người đóng góp cho hòa bình, Chu Ân Lai chấm dứt bài phát biểu bằng câu: "Chúng ta hãy hết sức tin tưởng và tiếp tục đấu tranh để  bảo vệ hòa bình thế giới".


Sau phiên họp cuối cùng bế mạc hội nghị, người đứng đầu nền ngoại giao Trung Quốc đã dành phần hơn trong thời gian ba mươi sáu tiếng còn lại cho các công việc lễ tân: Ăn tối với Molotov và Phạm Văn Đồng91 (Tin Tân hoa xã, Giơ-ne-vơ, 21-7-1954), hôm sau ăn trưa với Pôn-bông-cua, thư ký hội nghị92 (Như trên, 22-7-1954). Nhưng đồng thời chúng ta cũng ghi lại một vài cuộc tiếp xúc chính trị: Nói chuyện lần cuối cùng với Sananikone ngày 22, gặp gỡ với một nhà ngoại giao Ô-xtrây-li-a hoặc gặp lần cuối cùng với K.Menon93 (Như trên).


Chúng ta đáng chú ý, nhất là bữa ăn tối ngày 22 tháng 7 với đại biểu Lào Sananikone, đại biểu Campuchia Tep-phan, hai đại biểu Việt Minh là Phạm Văn Đồng và Tạ Quang Bửu, và nhất là lần đầu tiên94 (Hôm 21 tháng 6 Chu Ân Lai tập họp được trong cùng một cuộc chiêu đãi Phạm Văn Đồng, Sananikone và một đại biểu Campuchia, những không có mặt đại biểu Nam Việt Nam) một đại biểu của Nam Việt Nam Ngô Đình Luyện95 (Tin Tân hoa xã, Giơ-ne-vơ 22 tháng 7 năm 1954. Trần Văn Đỗ đã từ chối lời mời của Chu Ân Lai (nói chuyện với Trần Văn Đỗ ngày 25 tháng 1 năm 1976) và cử Ngô Đình Luyện, thành viên Đoàn đại biểu Nam Việt Nam là anh em của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Toàn bộ tường thuật bữa ăn tối này là do Ngô Đình Luyện kể lại trong bữa nói chuyện với tác giả ngày 9 tháng 2 năm 1976). Như vậy là đoàn đoàn đại biểu Trung Quốc đã tập họp các đại biểu của bốn nước ở Đông Dương như để làm sáng tỏ một lần cuối cùng quan niệm cùng tồn tại hòa bình mà đoàn Trung Quốc không ngừng đề cao từ hai tháng rưỡi nay. Ngoài ra trong dịp này Chu Ân Lai đã đưa ra những đề nghị quan trọng với Nam Việt Nam. Sau khi nâng cốc chúc sức khỏe Bảo Đại, ông ta nhắc một cách không vui đến tình trạng chia cắt của Trung Quốc, khẳng định rằng ở phía bên kia eo biển Đài Loan, nhiều người muốn thực tâm phục vụ đất nước. Xét đến cùng Chu Ân Lai nói tiếp, chủ nghĩa Mác chỉ là một thủ đoạn, người ta gắn bó với nó vì nó đem lại kết quả tốt đẹp, nhưng không bào giờ được quên rằng mục tiêu tối cao vẫn là thống nhất nước Trung Hoa. Để khỏi ám chỉ một cách quá lộ liễu và trực tiếp đến sự cần thiết hòa hợp giữa người Việt Nam với nhau, thủ tướng Trung Quốc liền đề cập đến vấn đề cùng tồn tại của hai Việt Nam. Sau đó bữa tiệc bắt đầu. Trong khi người Campuchia và người Lào ngồi chung quanh hai cái bàn hơi cách xa một tí, Chu Ân Lai xếp Ngô Đình Luyện ngồi cùng một bàn với mình, giữa Phạm Văn Đồng và Tạ Quang Bửu. Một cuộc nói chuyện kéo dài ba tiếng đồng hồ. Trưởng đoàn đoàn đại biểu Trung Quốc hết sức cố gắng đưa Ngô Đình Luyện và Tạ Quang Bửu vốn là bạn học cũ ở Pháp-trở về những kỷ niệm thời niên thiếu. Khi nói về nước Việt Nam thời quá khứ, Ngô Đình Luyện nhận xét rằng chiến tranh đã phá hủy một phần đền, miếu ở Hà Nội do vua Minh Mạng xây dựng theo kiểu mẫu Trung hoa, Chu Ân Lai tỏ ý lấy làm tiếc và nói thêm "Bên chúng tôi, những đền, chùa miếu mạo đều được giữ gìn,-nếu ngài muốn, xin mời đến Bắc Kinh để xem nguyên mẫu". Khi Ngô Đình Luyện hỏi Chu Ân Lai có thể đến Bắc Kinh với danh nghĩa nào, người đứng đầu nền ngoại giao Trung Quốc liền trả lời luôn không chút do dự: "Tại sao không đặt một cơ quan đại diện (nguyên văn: "công sứ quán-N.D) tại Bắc Kinh? Phạm Văn Đồng giật nẩy người khi nghe thấy lời mời bất ngờ này. Chu Ân Lai nói rõ thêm ý nghĩ của ông ta: "Tất nhiên Phạm Văn Đồng gần gũi hơn với chúng tôi về tư tưởng nhưng điều đó không loại trừ việc có đại diện Nam Việt Nam tại Bắc Kinh. Sau nữa, hai người đều chẳng phải là người Việt Nam cả sao và tất cả chúng ta đây chẳng phải là người châu Á cả đó sao?".
Tuy nhiên sự việc dừng lại ở đó96 (Ngô Đình Luyện chuyển lời "yêu cầu" cho anh mình là tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng ông Diệm từ chối có đại diện tại Bắc Kinh. Đối với Ngô Đình Luyện, cuộc nói chuyện này chứng tỏ Chu Ân Lai đã nghĩ đến sự tồn tại kéo dài của hai nước Việt Nam). Những gợi ý của Chu Ân Lai-sự gợi ý mà Việt Minh tuyệt nhiên không được báo trước, sự phản ứng của Phạm Văn Đồng chứng tỏ điều này-đã nói lên khá rõ sự thật về chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Chỉ hai mươi bốn giờ sau khi các hiệp định được ký kết, Chu Ân Lai đã nghị đến tổ chức một Đông Dương mới trong đó cả Việt Nam miền Bắc và Việt Nam miền Nam đều có quyền ngang nhau, bất chấp mọi lý do về tư tưởng. Nhận xét của thủ tướng Trung Quốc nêu ra với Măng-đét Phrăng hôm nào về việc Việt Nam dân chủ cộng hòa và Việt Nam của Bảo Đại cùng tồn tại, hôm nay đã có đầy đủ ý nghĩa.


Trong lúc tại Bắc Kinh, ngày 23 tháng 7, Chủ tịch Mao Trạch Đông gửi điện đến Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc mừng kết quả của hội nghị Giơ-ne-vơ97 (Tin Tân hoa xã, Giơ-ne-vơ, 23-7-1954). Chu Ân Lai, sau khi phát biểu lần cuối cùng tỏ ra rất lạc quan98 (Như trên), rời Giơ-ne-vơ lên đường đi Berlin, Warszawa và Ulan Bato99 (Ngày 22 tháng 7 năm 1954 Tân hoa xã đăng thông cáo chỉ nói đến Chu Ân Lai được mời đến thăm Cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan và Mông Cổ (Tin Tân hoa xã, Giơ-ne-vơ 22-7-1954). Phải chăng đến lúc thủ tướng Trung Quốc còn chưa được mời đến Mát-xcơ-va? Cuộc đi thăm Liên Xô chỉ được đưa ra ngày 24 tháng 7 ở Berlin (Tin Tân hoa xã Berlin, 24-7-1954)).


Thủ tướng Trung Quốc đã thắng trong trận đấu của mình. Sau này, đại tá Ghi-éc-ma viết: "Chỉ cần xem niềm vui mừng có kiềm chế nhưng đúng là vui mừng thật sự, mà ông ta lộ ra trong hai ngày 20 và 21 tháng 7 dễ có thể đo được sự hài lòng cho lợi ích và uy tín của Trung Quốc"100 (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp/bản ghi nhớ gửi Bộ Tham mưu các lực lượng vũ trang, Cục 2, Paris/về nước Trung hoa nhân dân ở Giơ-ne-vơ/Số 245-AM/Băng Cốc/31-8-1954). Phải mất 75 ngày thương lượng mới đi đến hòa bình. Nhưng hòa bình đã được ấn ninh theo "giờ Bắc Kinh" 8 giờ sáng ngày 27 tháng 7 ở Bắc Bộ Việt Nam, 8 giờ sáng ngày 1 tháng 8 ở Trung Bộ Việt Nam, 8 giờ sáng ngày 6 tháng 8 ở Lào, 8 giờ sáng ngày 7 tháng 8 tại Campuchia, và 8 giờ sáng ngày 11 tháng 8 ở Nam Bộ Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #133 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 07:24:00 am »

PHẦN THỨ TƯ
Ý NGHĨA MỘT GIẢI PHÁP


Chương X
Trung Quốc giải thích và thi hành các hiệp định
(Tháng 7 đến tháng 12 năm 1954)


Phản ứng của Trung Quốc đối với thắng lợi của Hội nghị Giơ-ne-vơ

Ảnh hưởng quốc tế của hiệp định Giơ-ne-vơ đối với Trung Quốc

Lợi ích đầu tiên của các hiệp định ký ngày 21 tháng 7 tại Giơ-ne-vơ đối với Trung Quốc, là đẩy lùi nguy cơ của Mỹ ở Đông Dương.


Quả vậy, từ nay ba nước ở bán đảo Đông Dương được đặt dưới một qui chế quốc tế, theo cách nào đó, tương đương như sự trung lập hóa. Không một căn cứ quân sự nước ngoài nào được thiết lập ở Việt Nam và không bên nào của hai miền Việt Nam được tham gia một khối liên minh quân sự1 (Hiệp định về Việt Nam, điều 9. Toàn văn các hiệp định Giơ-ne-vơ đăng trong "Văn kiện về hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương" (21-7-1954) (Notes et Etudes Documentaires-Paris-La Documentation francaise số 1901. 30-7-1954 và các hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương. Như trên, số 1909, 18-8-1954), đó là những điều khoản chủ yếu của hiệp định được hội nghị ghi nhận trong tuyên bố cuối cùng2 (Tuyên bố cuối cùng, điều 5). Có nghĩa là không một trường hợp nào Nam Việt Nam có thể cho phép Mỹ đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Chắc chắn đối với Lào và Campuchia hoàn toàn là không như vậy. Tuy nhiên các chính phủ Lào và Campuchia đã long trọng cam kết không cho phép đặt căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ mình chừng nào an ninh của họ không bị đe dọa3 (Tuyên bố của Chính phủ Campuchia và Lào, tham khảo điều 4 và 5 của bản tuyên bố cuối cùng). Và nhất là trong trường hợp của Lào, Pháp còn giữ hai căn cứ: một ở Seno và một ở thung lũng sông Mê Công4 (Hiệp định về Lào, điều 8 ). Đối với Trung Quốc, điều đó có nghĩa là Vương quốc Lào láng giềng trực tiếp của Trung Quốc muốn tiếp tục trao một phần việc phòng thủ cho Pháp chứ không phải cho Mỹ.


Ngoài ra, ba nước Đông Dương lại bị hạn chế về mặt trang bị vũ khí. Không bên nào của hai miền Việt Nam được phép đưa từ ngoài vào các loại khí tài để tăng cường tiềm lực quân sự của mình5 (Hiệp định về Việt Nam, điều 17). Ngược lại, Lào và Campuchia có thể nhập từ ngoài vào các loại vũ khí đạn dược và dụng cụ quân sự trong chừng mực-một công thức rất mập mờ-chỉ nhằm mục đích  bảo vệ lãnh thổ6 (Hiệp định về Lào, điều 9; Hiệp định về Campuchia, điều 7).


Cuối cùng, trong khi cả hai miền Việt Nam đều bị cấm không được cầu xin thêm nhân viên quân sự mới từ ngoài vào7 (Hiệp định về Việt Nam, điều 16), thì Lào được phép giữ lại 1500 sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp để giúp vào việc huấn luyện quân đội8 (Hiệp định về Lào, điều 6) (đối với Trung Quốc điều này hình như để loại trừ việc nhờ cố vấn Mỹ) và Campuchia lại có thể nhận cố vấn nước ngoài cần thiết cho việc phòng thủ9 (Hiệp định về Campuchia, điều 7).


Đối với Trung Quốc, đó là bấy nhiêu điều khoản nhằm ngăn cấm sự dính líu quân sự của Mỹ ở bán đảo Đông Dương hoặc trực tiếp (căn cứ) hoặc gián tiếp (cố vấn quân sự và chuyển giao vũ khí). Nhưng nhược điểm chủ yếu là ở chỗ, không kể những ngoại lệ đối với Lào và Campuchia-Mỹ (và Nam Việt Nam) từ chối không chịu cùng với các nước khác thừa nhận bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị. Chính phủ Washington chỉ làm cái việc "ghi nhận" ba hiệp định đình chỉ chiến sự và 12 điều đầu của bản tuyên bố cuối cùng, đồng thời cam kết không gây trở ngại cho việc thi hành các văn kiện đó10 (Tuyên bố của Bedell Smith ngày 21-7-1954. Điều 13 (và là điều cuối cùng) của bản tuyên bố nói về các nước tham gia hội nghị sẽ hội ý kiến nhau về các vấn đề do Ủy ban kiểm soát quốc tế đưa ra).


Ngoài những biện pháp thuần túy quân sự đó, nhiều điều khoản khác của các hiệp định có vẻ hết sức có lợi cho chính sách Trung Quốc ở Đông Dương. Việc định giới tuyến ở vĩ tuyến 17, tạo nên một quốc gia Bắc Việt Nam ở vùng biên lãnh của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, làm rộng thêm chu vi an toàn của Trung Quốc. Với địa giới gần giống như nước An Nam dưới thời đô hộ của nhà Đường, quốc gia Bắc Việt này gần như tương ứng với lãnh vực ảnh hưởng ưu đãi của Trung Quốc ở Đông Dương. Bị cắt mất vùng lúa gạo thừa thãi ở Nam kỳ, Bắc Việt chỉ còn có thể hướng về Trung Quốc để bổ sung những nguồn thực phẩm còn thiếu, ở Lào việc tập kết các lực lượng Pathet Lào ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Sa Lỳ11 (Hiệp định về Lào, điều 14), mà Phong Sa Lỳ là nối liền với lãnh thổ Trung Quốc, làm cho Trung Quốc tiếp xúc được thường xuyên với những người cách mạng Lào mà lâu nay Trung Quốc không có quan hệ (về địa lý và chính trị).


Ngoài ra, nền độc lập của các nước ở Đông Dương được củng cố sau cuộc thương thuyết12 (Tuyên bố của Pháp ngày 21-7-1954, tham chiếu điều 11 của tuyên bố cuối cùng). Một phạm vi hoạt động mới được mở ra cho nền ngoại giao Trung Quốc. Việc chọn Ấn Độ làm chủ tịch Ủy ban quốc tế thời kỳ quan hệ Trung-Ấn nhích lại gần nhau nhanh chóng cũng như chọn Ba Lan làm thành viên Ủy ban quốc tế, là những con chủ bài bổ sung cho ván bài của Trung Quốc ở Đông Dương. Ngoài ra, như Chu Ân Lai đã ước mong trong hội nghị Giơ-ne-vơ một sự có mặt nào đó của Pháp vẫn được duy trì ở 3 nước Đông Dương13 (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp. Công văn của tùy viên quân sự Bộ tham mưu các lực lượng vũ trang "Trung hoa nhân dân tại Giơ-ne-vơ" số 245 AM/Băng Cốc 31-8-1954, tr.19) có thể gây trở ngại cho đế quốc Mỹ.


Cuối cùng các hiệp định đó đã không được các nước tham gia đứng ra bảo đảm và trách nhiệm thi hành các hiệp định ấy tức là Pháp, các nước đồng minh của Pháp ở Đông Dương và Việt Minh14 (Xem phân tích chi tiết về pháp lý của các hiệp định và tuyên bố cuối cùng trong R.F.Randle, sách đã dẫn, tr.389 và những trang sau). Có nghĩa là giải pháp không ràng buộc Trung Quốc có nghĩa vụ nào khác hơn là việc tham khảo ý kiến một vài nước tham dự hội nghị trong trường hợp hiệp định không được tôn trọng căn cứ vào nhận xét của Ủy ban kiểm soát quốc tế chuyển tới15 (Điều 13 của tuyên bố cuối cùng).


Ngoài ra một điều khoản cũng quan trọng là dự kiến về các cuộc tuyển cử ở Việt Nam vào tháng 7 năm 1956 chỉ được phản ánh ở tuyến bố cuối cùng16 (Điều 7 của tuyên bố cuối cùng). Trách nhiệm thi hành điều này thuộc hoàn toàn về Ủy ban quốc tế trong đó các nước xã hội chủ nghĩa chỉ có 1 đại biểu17 (J.Lacouture và Ph.Devillers, sách đã dẫn, tr.285). Cuối cùng trong trường hợp các hiệp định tỏ ra bất lực trong việc duy trì hòa bình ở Đông Dương Trung Quốc sẽ là một trong 4 nước xã hội chủ nghĩa hữu quan-Liên Xô, Việt Nam dân chủ cộng hòa, Ba Lan và Trung Quốc-trách nhiệm ít liên can nhất vì Trung Quốc không phải là nước đồng chủ tịch như Liên Xô, không phải là một bên thi hành hiệp định như Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng không phải là thành viên Ủy ban kiểm soát quốc tế như Ba Lan.


Các hiệp định này không những đã chấm dứt một cuộc xung đột mà việc mở rộng tức là việc quốc tế hóa nó, có lẽ là trái với lợi ích của Trung Quốc mà còn mở ra cho Trung Quốc những triển vọng chính trị rất hấp dẫn trong khu vực mà trong thực tế Trung Quốc sẽ tìm cách khai thác triệt để nhất.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #134 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 07:25:12 am »

"Một thắng lợi mới vĩ đại của thương lượng hòa bình"

Mong đợi từ lâu, Trung Quốc hoan nghênh ngay các hiệp định đã ký kết. Ngay từ số ra ngày 22-7-1954 tờ Nhân dân nhật báo đăng xã luận dài nhan đều: "Một thắng lợi mới vĩ đại của thương lượng hòa bình" nói lên sự phản ứng bán chính thức đầu tiên của Trung Quốc18 (Nhân dân nhật báo, ngày 22-7-1954, bản tiếng Anh trong People's China, số 15, 1-8-1954/Báo cáo trong hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp/điện Travert/Hồng Công/số 225-228 24-7-1954).


Nhan đều bái báo chỉ ra khá rõ: trước hết các hiệp định là thắng lợi của thương lượng đối với chiến tranh. Chúng tượng trưng cho tinh thần cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc cố gắng nhen nhóm trong quan hệ quốc tế từ nhiều tháng nay. Thêm vào đó-mặc dù điều này không có trong văn bản-là thảm bại của các cuộc thương thuyết về Triều Tiên cuối cùng đã phai nhạt dần. Cuộc thương lượng đã đi đến kết quả-lưu ý các thuật ngữ được dùng-nhờ "tinh thần hòa giải" của các đoàn đại biểu Việt Minh và Pháp cũng như sự "giúp đỡ kiên quyết" của các đoàn đại biểu Liên Xô, Trung Quốc và Anh. Giọng của xã luận báo Trung Quốc khác hẳn giọng xã luận của báo Nhân dân của Việt Nam 3 ngày sau đó, cho thắng lợi của hội nghị Giơ-ne-vơ là tiếp nối thắng lợi của Điện Biên Phủ (mà xã luận báo Trung Quốc không hề nhắc đến)19 (Nhân dân, trích dẫn trong bản tin Việt Nam thông tấn xã phát tiếng Anh, ngày 25-7-1954).Cũng khác cả phát biểu của Hoàng thân Suphanuvong trong "lời kêu gọi nhân dân Lào" ngày 23-7-1954 coi các hiệp định là kết quả của cuộc "đấu tranh" của đoàn đại biểu Việt Minh20 (Tin Tân hoa xã, Bắc Kinh, 25-7-1954), khác cả Sơn Ngọc Minh-tuy nhiên đây là phản ứng của Campuchia duy nhất được hãng thông tấn Tân hoa xã trích dẫn-đã không nói đến cả sự có mặt của Trung Quốc (và của Liên Xô) tại Giơ-ne-vơ21 (Lời kêu gọi quân đội và nhân dân Khơ-me 23-7-1954. Tin Tân hoa xã, Bắc Kinh, 25-7-1954. Người ta lưu ý về vấn đề này rằng mặc dù thái độ hòa giải của Chu Ân Lai tại hội nghị Giơ-ne-vơ đối với chính phủ Vương quốc Campuchia, và Vương quốc Lào hãng thông tấn Tân hoa xã không ám chỉ đến phản ứng nào khác phản ứng của Pathet Lào và Khơ-me Issarak (phải chăng để khỏi mếch lòng các đồng minh Đông Dương của Trung Quốc)).


K.C.Chen trong khi phân tích các buổi phát thanh Trung Quốc trong thời gian từ 10 đến 22 tháng 7, đã chứng minh rõ trong những ngày cuối cùng của cuộc thương lượng, Trung Quốc đã quan tâm một cách tha thiết hơn cả Liên Xô và hơn cả Việt Minh, trình bày trước dư luận thế giới ý nghĩa của những cố gắng của họ nhằm giải quyết hòa bình cuộc khủng hoảng Đông Dương, như thế nào (xem bảng XII).


Về phần chúng tôi, chúng tôi đã ghi nhận trong những ngày sắp kết thúc hội nghị, Chu Ân Lai đã tìm cách mở rộng phạm vi hội đàm sang toàn bộ Đông Nam Á như thế nào22 (Xem chương IX). Xã luận Nhân dân nhật báo ngày 22 tháng 7 là sự tiếp tục của thái độ đó, đáng chú ý nhất việc nêu lên những điều khoản có tầm vóc quốc tế. Bài báo nhấn mạnh "không một nước nào ở Đông Dương được gia nhập bất kỳ khối liên minh quân sự nào và không một nước ngoài nào được phép đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ các nước đó". Phải chú ý để điều này được tôn trọng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #135 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 07:43:12 am »

Bảng XII-So sánh các buổi phát thanh của Việt Nam-Trung Quốc và Liên Xô về hội nghị Giơ-ne-vơ (10 - 22-7-1954)



"Tất cả các nước hữu quan phải bảo đảm việc thi hành Hiệp định", ngoài ra, việc giải quyết cuộc xung đột bằng thương lượng phải được dùng làm mẫu mực để giải quyết các vấn đề đang tồn tại ở châu Á cũng như ở các nơi khác của thế giới. Ngoài Trung Quốc và Bắc Việt Nam, quan niệm về hòa bình tập thể đã được Ấn Độ, Miến Điện chấp nhận. Nó phải làm thất bại mọi âm mưu hiếu chiến của Mỹ dựa trên "chính sách thực lực" ở Viễn Đông.


Cuối cùng bài học về các sự kiện vượt qua khuôn khổ địa phương chật hẹp này. Lần đầu tiên, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã được chấp nhận với tư cách là một cường quốc, đứng ra thảo luận với Mỹ, Liên Xô, Pháp và Anh về những vấn đề quốc tế sống còn: "nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã thấy quy chế cường quốc thế giới của mình được thừa nhận một cách phổ biến".


Một chiến dịch tuyên truyền rộng rãi đã được phát động để chào mừng giải pháp Giơ-ne-vơ. Toàn bộ báo chí ở trung ương và các tỉnh nhắc lại các luận điểm đã được phát triển trong Nhân dân nhật báo. Trong xã luận ngày 22 tháng 7, tờ Đại công báo kết luận một cách cương quyết hơn về ý chí của Trung Quốc lấy lại Đài Loan23 (Đai công báo ngày 22-7-1954. Tân hoa xã đưa lại trong bản tin phát từ Bắc Kinh ngày 23-7-1954. Một bài xã luận khác của cùng một tờ báo đó ra ngày hôm sau, lại phát triển chủ đề "Liên minh không gì phá vỡ nổi" giữa Nhân dân ba nước ở Đông Dương). Bốn ngày sau, tờ Quang minh nhật báo viết rằng còn nhiều vấn đề Triều Tiên, giải trừ quân bị, an ninh tập thể châu Âu và vấn đề Đức: như vậy là Trung Quốc muốn biểu thị sức mạnh cường quốc của mình là thảo luận tất cả các vấn đề quan trọng trên thế giới24 (Quang minh nhật báo, 25-7-1954, Tân hoa xã Bắc Kinh đưa lại, ngày 26-7-1954). Ngoài ra, tất cả các bài báo nước ngoài-nhất là ở châu Á đi theo chiều hướng Trung Quốc đều được khai thác một cách có hệ thống. Tất cả những lời tuyên bố của các nhân vật nước ngoài xét ra tán thành Trung Quốc, nhất là của những chính khách ở các nước trung lập châu Á cũng đều được ghi lại hoặc đăng lại (xem bảng).


Thống kê của Tân hoa xã về trích dẫn các bài báo nước ngoài và tuyên bố của nhân vật nước ngoài về hiệp định Giơ-ne-vơ (tuần lễ từ 21 đến 28-7-1954)



Trong bảng thống kê của Tân hoa xã có một điểm đáng chú ý: không thấy trích dẫn các báo cáo Liên Xô hoặc tuyên bố của các chính sách Liên Xô về hiệp định Giơ-ne-vơ trong tuần lễ sau khi ký kết.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #136 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 07:48:51 am »

Cuối cùng, để được đầy đủ, phải kể đến nhiều kiến nghị và hội họp của các tổ chức quần chúng Trung Quốc chào mừng thành công của hội nghị Giơ-ne-vơ: đại hội toàn quốc lần thứ nhất các hợp tác xã, ủy ban hòa bình Trung Quốc, các đảng phái dân chủ, các "quân tình nguyện của nhân dân Trung Quốc ở Triều Tiên", liên đoàn thanh niên dân chủ Trung Quốc, các sinh viên Trung Quốc, những người đứng đầu Thiên chúa giáo và Phật giáo v.v... Bản thân kiến nghị và các cuộc hội họp đó không có gì đặc biệt, nhưng có ý nghĩa ở chỗ các nhà cầm quyền Trung Quốc muốn cho các sự kiện đó có một tiếng vang trong nước ngang với mức độ thỏa mãn của họ.


Về mặt chính thức hơn, phản ứng đầu tiên của Trung Quốc là điện mừng của Chủ tịch Mao Trạch Đông gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ 23 tháng 725 (Tin Tân hoa xã, Bắc Kinh 23-7-1954). Nội dung vô thưởng vô phạt, tuyệt nhiên không đả động gì đến vấn đề thống nhất đất nước Việt Nam, trái lại nặng về các triển vọng của hòa bình và an ninh tập thể châu Á không phải là những mặt mà Việt Minh quan tâm nhất. Những sự phân tích mới đây của Liên Xô cũng nhận xét rằng bức điện mừng đó không đả động gì đến hoạt động của Liên Xô trong việc tranh thủ được hòa bình26 (G.V.A-xta-phi-ép và A.M.Du-bin-xki, sách đã dẫn, tr.100-101). Nhưng lập luận như vậy có vẻ ít có cơ sở vì đây là một văn kiện chỉ nói về quan hệ Trung-Việt, trong đó ca ngợi cố gắng của Liên Xô là không đúng chỗ. Đối với chúng tôi, thái độ im lặng hoàn toàn của Tân hoa xã trước phản ứng của Liên Xô về việc ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ, hình như có ý nghĩa nhiều hơn.


Những lời tuyên bố của Chu Ân Lai khi ghé thăm Berlin, Warsawa, Mát-xcơ-va27 (Về vấn đề này, người ta lưu ý rằng Tân hoa xã đưa lại phần lớn những bài phát biểu công khai của Chu Ân Lai trong những thủ đô khác nhau và những lời đáp của bên chủ nhà, chỉ trừ những lời đáp của Mát-xcơ-va. Cũng như tạp chí People's China (Trung hoa nhân dân) số 17, 1-9-1954, trong phần phụ trương, chỉ đăng lại những bài diễn văn đọc ở Berlin, Warsawa và Ulan Bato. Vào thời gian đó, Liên Xô gửi 2 công hàm chỉ riêng cho các nước phương Tây, một vào ngày 24 tháng 7, một vào ngày 4 tháng 8 đề nghị họp trù bị an ninh châu Âu giữa Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp. Nhưng người ta không hiểu rằng Trung Quốc, sau hội nghị Giơ-ne-vơ đã nuôi hy vọng về quy chế quốc tế của mình đến mức Trung Quốc có thể thất vọng khi không được Liên Xô mời dự một cuộc hội nghị như vậy và sự thất vọng đó là nguông gốc gây nên sự bất bình của Trung Quốc) và Ulan Bato không đem lại thêm yếu tố gì về vấn đề Đông Dương28 (Tuyên bố của Chu Ân Lai ở Berlin và Warsawa, ngược lại giúp cho thấy phần nào lập trường của Trung Quốc đối với các vấn đề ở châu Âu (xem chương XI ở đoạn sau)). Ngày cả những bài phát biểu của Thủ tướng Trung Quốc tại Warsawa trong lúc Ba Lan vừa chính thức nhận tham gia Ủy ban quốc tế kiểm soát cũng không có gì đáng chú ý đặc biệt về phương diện này29 (Xem bài diễn văn của Chu Ân Lai đọc tại Berlin ngày 23 và 24 tháng 7 (Tân hoa xã, Berlin 24 và 25-7-1954) Thông cáo về cuộc hội đàm Trung-Đức ngày 26 tháng 7 (Tân hoa xã Berlin ngày 26-7-1954 và diễn văn của Chu Ân Lai đọc tại Warsawa 26 và 27-7 (Tân hoa xã, Warsawa 27, 28-7-1954)).


So sánh các bài diễn văn của Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong dịp Phạm Văn Đồng đi qua Bắc Kinh từ 2 đến 4 tháng 8 trái lại, lý thú hơn nhiều. Thật vậy, không thể không nêu lên sự khác nhau về giọng nói, khá ý nghĩa giữa hai bên. Chắc chắn là đối với hai vị chính khách, hiệp định mới chỉ là "một giai đoạn đầu tiên". Nhưng đối với Phạm Văn Đồng, đó là giai đoạn hòa bình trong một nước Việt Nam phải tiếp tục "đấu tranh kiên quyết để thực thống nhất" trong khi đối với Chu Ân Lai, đó là giai đoạn hòa bình trong một thế giới mà người ta phải tiếp tục đấu tranh để làm dịu tình hình quốc tế30 (Tin Tân hoa xã, Bắc Kinh 2-8-1954, Diễn văn của Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng). Làm sao lại không nhận thấy rằng trong nhiều bài phát biểu người đứng đầu Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần chào mừng tình đoàn kết nhất trí giữa Trung Quốc và Việt Nam nhưng lại không một lần nào nói đến việc thống nhất của bản thân nước Việt Nam31 (Như trên, xem bài chào mừng ngày 3 tháng 8, Tin Tân hoa xã, Bắc Kinh, 3-8-1954). Hoặc giả có sự khác nhau nữa đáng chú ý khi nói về triển vọng: trong lúc Phạm Văn Đồng không bao giờ quên gắn "Khơ-me, Pathet Lào" với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam32 (Chẳng hạn như bài phát biểu chào mừng ngày 3-8-1954) thì Chu Ân Lai lại chỉ giới hạn trong vấn đề Việt Nam, như vậy là qua đích thân Phạm Văn Đồng, Trung Quốc muốn đề cao người đại diện của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa còn hơn là người đại diện cho cách mạng Đông Dương nói chung. Phân tích một cách cô lập những bài diễn văn đó thì không đi đến những kết luận chắc chắn được. Nhưng đặt chúng sau nhiều dấu hiệu bất đồng đã thể hiện giữa Trung Quốc và Việt Minh trong suốt thời gian hội nghị, những sự giải thích đôi khi không cân xứng với nhau về kết quả cuộc thương lượng có vẻ khẳng định khá rõ có sự bất đồng từng phần giữa hai nước nhất là về vấn đề thống nhất Việt Nam, cũng như về vấn đề Campuchia và Lào33 (Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này ở đoạn sau).


Trong báo cáo dài về công tác đối ngoại đọc trước Chính phủ ngày 11 tháng 8, Chu Ân Lai một lần nữa nói lại lập trường của Trung Quốc đối với giải pháp Giơ-ne-vơ. Phần lớn nội dung báo cáo nói về vấn đề Đài Loan và chính sách của Mỹ ở châu Á, còn về Đông Dương, chỉ nhắc lại những chủ đề đã được Thủ tướng Trung Quốc phát triển gần 3 tuần nay. Tuy nhiên cần lưu ý rằng chính ông là người đầu tiên thừa nhận rằng "các hiệp định đó có vài điều khoản không hoàn toàn thỏa mãn"34 (Toàn văn báo cáo trong tạp chí People's China (Trung hoa nhân dân) số 17, 1-9-1954, và trong tạp chí Curent Background (lập luận thông thường) số 288, số 16-8-1954, tr.1 đến 8 ). Đó là một trong những điều bảo lưu hiếm hoi về hiệp định Giơ-ne-vơ mà Trung Quốc chính thức bày tỏ vào thời gian này35 (Sau này, với một thái độ khiêm tốn giả tạo, Chu Ân Lai giải thích hiệp định có điều khoản không thỏa mãn là do thiếu kinh nghiệm hoạt động ngoại giao của ông: "Vào thời kỳ Giơ-ne-vơ, chúng tôi mới ở bước đầu hoạt động quốc tế. Chúng tôi có rất ít kinh nghiệm, làm sao chúng tôi lại chịu để Mỹ xòe bàn tay của chúng khất nợ, không chịu ký vào hiệp định mà lại chỉ tuyên bố miệng: chúng hứa là sẽ tôn trọng nhưng chúng đã chuẩn bị phá hoại hiệp định". Tuyên bố với Alain Peyrefitte, Quand la Chine's s' éveillera (Khi Trung Quốc thức tỉnh) Paris, Fayard, 1973, tr.71, và "Font de la Solidarité Indochine: autoủ d'un voyage à Peskin (Mặt trận đoàn kết Đông Dương: Chung quanh một chuyến đi Bắc Kinh), Paris, Maspero, 1971, tr.20. Năm 1957, Mao Trạch Đông viết gọn hơn: Ở Triều Tiên, chẳng phải chúng ta, để thỏa hiệp với Mỹ ở vĩ tuyến 38, và ở Việt Nam, chẳng phải chúng ta cũng đã thỏa hiệp với Pháp hay sao? (Tuyển tập, tập 5, tr.559)).


Vậy tóm lại, thái độ của Trung Quốc đối với hiệp định Giơ-ne-vơ là hết sức hoan nghênh, khác hẳn Liên Xô và Việt Minh. Giọng các bài báo và các bài phát biểu chính thức, quy mô của chiến dịch quần chúng được phát động để chào mừng thắng lợi của hội nghị Giơ-ne-vơ chứng tỏ sự hài lòng sâu sắc của Chính phủ Bắc Kinh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #137 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 09:42:32 pm »

Bước đầu thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ thái độ và phản ứng của Trung Quốc

Việc thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ là một vấn đề rộng lớn và còn là cốt lõi của vấn đề Đông Dương trong hai chục năm sau. Hiển nhiên rằng việc xem xét vấn đề đó vượt ra ngoài khuôn khổ chính xác của công trình nghiên cứu này. Tuy nhiên khó mà phân tích đầy đủ thái độ của Trung Quốc đối với hiệp định ngày 21 tháng 7 nếu không nhắc lại ít nhất thời kỳ đầu thi hành hiệp định đó. Chúng tôi sẽ giới hạn vào khoảng 5 tháng cuối năm 1954 đề cập đến cách sử sự của Trung Quốc về hai phương diện: một mặt là việc Trung Quốc tôn trọng những điều khoản trực tiếp nhằm vào bản thân họ (chủ yếu là việc chấm dứt viện trợ quân sự cho Việt Nam dân chủ cộng hòa) mặt khác việc Trung Quốc phản ứng trước những khó khăn trong việc thi hành hiệp định do phương Tây gây ra.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #138 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 09:43:34 pm »

Vấn đề Trung Quốc đưa dụng cụ quân sự vào Bắc Việt Nam

Theo hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, miền Bắc cũng như miền Nam có thể thay thế một đổi một những dụng cụ chiến tranh vũ khí và đạn dược đã bị phá hủy, hư hỏng, hao mòn hoặc chết sau khi đình chỉ chiến sự36 (Điều 17 của Hiệp định). Nhằm mục đích đó, 14 "cửa khẩu" đã được quy định, trong đó 7 ở miền Bắc là Lao Kay, Lạng Sơn, Tiên Yên, Hải Phòng, Vinh, Đồng Hới và Mường Xén37 (Điều 20 của Hiệp định). Trái lại từ nay cấm đưa thêm mọi dụng cụ quân sự và đạn dược. Việc kiểm soát sẽ do Ủy ban quốc tế đảm nhiệm thông qua các đội cố định đóng ở 7 "cửa khẩu" nói trên ở Bắc Việt Nam và các đội lưu động dọc biên giới đường bộ và đường biển38 (Điều 35 của Hiệp định). Đối với Lào hiệp định đình chỉ chiến sự cũng cấm đưa vào Lào các dụng cụ quân sự, trừ những thứ "cần thiết cho việc phòng thủ" đất nước39 (Điều 9 của Hiệp định). Đương nhiên "điều khoản này loại trừ việc đưa dụng cụ quân sự, vũ khí đạn dược vào Lào cho "quân tình nguyện Việt Nam" sẽ phải rút khỏi Lào trong thời hạn 120 ngày cũng như cho các đơn vị chiến đấu Pathet Lào sẽ tập kết trong cùng thời hạn đó, vào hai tỉnh Phong Sa Lỳ và Sầm Nưa. Trong 7 đội kiểm soát cố định đóng ở Lào, có 2 đội đặt trong vùng Cộng sản: Phong Sa Lỳ và So Phao (tỉnh Sầm Nưa)40 (Điều 26 của Hiệp định). Đối với Trung Quốc, những hiệp định đó ngăn cấm mọi viện trợ quân sự cho quân đội cộng sản ở Lào và mọi sự cung cấp dụng cụ quân sự và đạn dược để Bắc Việt Nam tăng cường tiềm lực của mình.


Những việc kiểm soát biên giới Trung Quốc đã rất nhanh chóng trở thành một trong những vấn đề hóc búa nhất trong việc thi hành hiệp định. Đối chiếu với bề dài và địa hình các vùng cần phải kiểm soát thì cơ cấu bộ máy kiểm soát lại rất nhỏ bé. Chỉ có 2 đội kiểm soát đặt dọc biên giới đường bộ giữa hai nước Trung-Việt, một ở Lao Kay trên sông Hồng và một ở Lạng Sơn, trên đường đi Nam Ninh. Hai địa điểm này đúng là có các đường quan trọng trong suốt thời gian chiến tranh, Trung Quốc vận chuyển đều đặn hàng viện trợ cho du kích Việt Minh41 (Xem đoạn trên ở chương II). Nhưng còn rất nhiều con đường khác không được kiểm soát. Còn về 4 đội khác đặt ở Tiên Yên, Hải Phòng, Vinh và Đồng Hới, thì hoàn toàn không đủ để kiểm soát các đường từ biển vào Bắc Việt Nam. Cuối cùng hai đội đặt ở Phong Sa Lỳ và So Phao cũng không mong gì kiểm soát được việc đưa vũ khí và dụng cụ quân sự vào Lào42 (Về hoạt động của Ủy ban quốc tế ở Lào, xin đọc những trang viết với giọng hài hước của Sisouk Na Champassak, sách đã dẫn, tr.45-52)




Trong 5 tháng cuối năm 1954, việc kiểm soát các biên giới hết sức lỏng lẻo. Việc lập các đội theo dự kiến, tiến hành rất chậm, tháng 9 ở Lạng Sơn, Lao Kay và Đồng Hới, tháng 10 ở Hải Phòng, Tiên Yên và Vinh43 (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp, tướng De Beaufort, trưởng phái đoàn liên lạc Pháp bên cạnh ủy ban quốc tế/Hà Nội/9-7-1955/ "Báo cáo về hoạt động của ủy ban quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tập kết 300 ngày" phụ lục III, tr.1). Có nghĩa là nhiều tháng trôi qua trước khi Ủy ban quốc tế bắt đầu kiểm soát có hiệu quả. Ngoài ra từ tháng 8, các nhà đương cục Pháp đã yêu cầu tăng cường việc kiểm soát, nhất là ở Lai Châu và Cao Bằng là những nơi không dự kiến đặt đội cố định. Đúng như thế, Cao Bằng là một trong những đường tốt nhất đi từ Trung Quốc vào Việt Nam, ở vùng này đã sửa sang lại 2 đường bộ để đảm bảo việc đi lại qua biên giới44 (Như trên, tr.3). Nhưng việc nước Pháp từ chối không chịu để kiểm soát dụng cụ quân sự của họ trong những tháng đầu sau ngừng bắn, gây ra những khó khăn trong nội bộ ủy ban quốc tế, đã trì hoãn khá lâu việc cải tiến bộ máy kiểm soát. Mãi đến tháng 2 năm 1955, sau những cuộc thảo luận kéo dài trong đó Ba Lan đã gây ra nhiều trở ngại, Ủy ban mới quyết định cử một đội đến Lai Châu, một đội thứ hai đến Cao Bằng, và một tổ lưu động đến Đồng Đăng (gần Lạng Sơn)45 (Như trên, tr.4), làm việc trong 1 tháng. Trái lại, cho đến cuối năm 1954 (và cả sau đó) việc kiểm soát các bờ biển còn rất thiếu sót46 (Như trên, tr.5).


Trong thời gian tại những nơi nào có đặt các đội kiểm soát, Ủy ban quốc tế cũng không bao giờ tìm được chứng cớ về việc nhập lậu dụng cụ quân sự từ Trung Quốc sang. Cuối tháng 11, sau hai tháng rưỡi làm việc, đội Lạng Sơn mới chỉ nhận xét được một chuyến hàng quan trọng47 (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp/điện của Cao ủy Pháp/Sài Gòn/số 10.641/28-11-1954). Cũng vào thời gian này, đội Lao Kay đã không thể tiến hành kiểm soát vì lý do đường xấu (tình hình đường sá ở đây cũng gần như không thể chuyên chở gian lận gì được). Hoạt động của đội chỉ giới hạn vào việc kiểm soát đi lại trên sông rất thưa thớt48 (Như trên, số 32.791-97/3-12-1954). Bản báo cáo đầu tiên của Ủy ban quốc tế ở Việt Nam về thời gian từ 11 tháng 8 đến 10-12-1954, và bản báo cáo thứ hai về thời gian từ 11-12-1954 đến 10-2-1955 cũng không ghi nhận được một sự thâm nhập nhỏ nào về dụng cụ quân sự từ Trung Quốc vào Bắc Việt Nam49 (First and Second Interim Reports of the International Commission for Supervision and Control in Viet Nam (August 11, 1954 to December 10, 1955 and December 11, 1954 to February, 10,55. Báo cáo sơ bộ thứ nhất và thứ hai của Ủy ban giám sát và kiểm soát quốc tế ở Việt Nam, từ 11-8-1954 đến 10-10-1954 và từ 11-12-1954 đến 10-2-1955). London, Her Majesty's Itationery Office Cmd 9461) march 1955, 56 trang. Đúng là sở dĩ báo cáo của Ủy ban quốc tế im lặng trước những vi phạm của Trung Quốc là do Bắc Việt Nam và Ba Lan ngăn cản hoạt động điều tra của Ủy ban).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #139 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2020, 09:49:36 pm »

Như vậy phải chăng luồng viện trợ liên tục về quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh, trước đây đạt khoảng 4000 tấn một tháng trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã đột nhiên ngừng hoàn toàn sau ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ? Chỉ riêng kết luận của Ủy ban quốc tế không đủ chứng minh. Đại biểu Ba Lan trong các đội luôn luôn có thái độ nghiêng về phe xã hội chủ nghĩa, làm cho tính chất khách quan của các kết luận là đáng nghi ngờ. Trong nhiều trường hợp, bản thân các đại biểu Ấn Độ cũng có một lập trường tương tự50 (Về vấn đề này, xem Sardesai, sách đã dẫn, tr.56-59 và Tôn Thất Tiên, sách đã dẫn, tr.132-133). Tuy vậy tướng Ely thừa nhận rằng "việc kiểm soát các dụng cụ chiến tranh đưa qua các biên giới Trung-Việt và các cảng (...) Ủy ban quốc tế đã tiến hành một cách chật vật nhưng vô tư"51 (P.Ely (sách đã dẫn, tr.235)). Thực ra người ta phải tỏ thái độ dè dặt về sự kiểm soát không phải vì tính chất khách quan của nó cũng như vì điều kiện vật chất có hạn. Ngoài số lượng rất ít, phương tiện đi lại eo hẹp, các đội kiểm soát gồm các sĩ quan không quen địa phương, đến cuối 1954 không thể đi kiểm soát một đoạn nào dọc theo biên giới, vì không được quân đội nhân dân Bắc Việt Nam cho phép đi lại qua các đầu mối giao thông là những nơi gần chỗ đặt trụ sở52 (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp/Điện cao ủy Pháp, Sài Gòn số 32/791-97-3-12-1954), tính hiệu lực của sự kiểm soát như vậy, làm sao có thể kiểm soát được việc chuyên chở mà trước đây quân đội viễn chinh Pháp với hàng ngàn người đã không ngăn chặn nổi?


Đại sứ Desai Chủ tịch Ủy ban quốc tế, đã phải nhìn nhận tình trạng như trên thì ông thừa nhận trong một cuộc họp báo ở Sài Gòn tháng 2 năm 1955 rằng không thể (đến lúc đó nữa) đảm bảo rằng dụng cụ chiến tranh đã không được đưa vào miền Bắc Việt Nam bằng các đường bí mật53 (UPI, Sài Gòn 24-2-1955).


Còn bộ chỉ huy Pháp thì tin rằng Trung Quốc tiếp tục cung cấp cho Việt Nam dân chủ cộng hòa khối lượng lớn về vũ khí kể cả vũ khí nặng. Tháng 11, tướng Ely điện về Paris: "theo nguồn tin chắc chắn, tôi biết rằng viện trợ Trung Quốc tiếp tục tràn vào rất nhiều"54 (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao/điện của Cao ủy Pháp, tướng Ely Sài Gòn, số 726, 27-11-1954). Mấy hôm sau, vị tổng chỉ huy quân đội Pháp đã tâm sự điều đó với Desai55 (Như trên, số 736, 2-12-1954). Vào cùng thời gian đó Federic Dupont cựu Bộ trưởng phụ trách các quốc gia Liên kết, đi thăm Đông Dương về cũng tố cáo Trung Quốc cung cấp vũ khí cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Theo nhân vật này nói thì Việt Minh đã cố gắng rất nhiều để sửa sang đường bộ và đường sắt nối liền với Trung Quốc. Hàng ngàn dân phu được tuyển mộ vào việc này. Từ nay, vũ khí nặng của Việt Minh nhiều gấp 4 lần so với lúc ngừng bắn56 (Báo Le Figaro, 11-11-1954 sứ mạng nước Pháp ở châu Á sách đã dẫn, tr.164-165 và nhất là tr.206, tác giả dẫn ra trong thời gian từ 20 tháng 7 đến 11-11-1954 việc chuyển giao 180 đại bác 105 ly, 340 đại bác không giật cỡ 75 ly, 80 đại bác cỡ 75 ly, và 470 mortar nói thêm rằng đây là "dụng cụ Trung Quốc hoàn toàn mới"). Cũng ý như vậy tháng 7 năm 1955, tướng Beaufort, trưởng phái đoàn liên lạc Pháp bên cạnh Ủy ban quốc tế cũng viết trong "báo cáo về hoạt động của Ủy ban quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tập kết 300 ngày" rằng: "theo nguồn tin tình báo rất chắc chắn nhưng không thể kiểm tra được, Việt Minh đã đưa lén lút một số lượng quan trọng vũ khí nặng trong 3 hay 4 tháng đầu sau ngừng bắn"57 (Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp, "Báo cáo" đã dẫn, tr.17). Theo báo cáo đó, việc đưa vào bị đứt quãng ít ra bằng đường bộ, bắt đầu từ tháng 1 năm 195558 (Như trên, phụ lục, tr.4) cho đến khi rút khỏi Hải Phòng, việc đưa lén lút này đã được tiến hành bằng đường biển qua cửa Vạn Hoa (Port Wallut) và các cửa sông hay bãi biển giữa Trà Lý và Vinh59 (Như trên, phụ lục tr.5). Về đường bộ, tháng 12 năm 1954, Bộ chỉ huy Pháp cho rằng việc chuyên chở bí mật đó từ điểm tận cùng của đường sắt Trung Quốc được đưa vào Việt Nam qua ngả Cao Bằng và Đông Khê60 (Như trên, Điện cao ủy Pháp/Sài Gòn số 32.791-97.3-12-1954).


Những dữ kiện đó cũng phải được tiếp nhận một cách thận trọng. Mặc dầu "chắc chắn", những nguồn tin tình báo đó, theo báo cáo của Bộ tham mưu Pháp, không thể là những "chứng cớ" được. Do đó không thể dùng làm cơ sở để khiếu nại với Ủy ban quốc tế61 (Như trên, phiếu ngày 3-2-1955 khiếu nại của 2 bên trước Ủy ban quốc tế). Bộ chỉ huy Pháp cũng tự nhận không có những nguồn tin đầy đủ. Bộ chỉ huy không có tin tức gì về các cuộc vận chuyển trên tuyến Cao Bằng, Đông Khê mà theo họ là con đường chuyển tải các dụng cụ quân sự để tránh khỏi phải qua Lạng Sơn, tại đây có trạm kiểm soát của ủy ban quốc tế. Bộ chỉ huy Pháp cũng không hay biết gì về việc sử dụng con đường Lai Châu là nơi dụng cụ chiến tranh của Trung Quốc đã đưa vào trong chiến dịch Điện Biên Phủ62 (Như trên, điện cao ủy Pháp, số 32-791-97, 3-12-1954).


Cuối cùng các nguồn tin của Trung hoa quốc gia (phải hết sức thận trọng khi sử dụng) cũng nói đến sự viện trợ quân sự quan trọng từ Trung Quốc chuyển cho Pathet Lào sau ngừng bắn. Đó là vào tháng 12 năm 1954 và tháng 1 năm 1955, Trung Quốc đã cung cấp cho những người cách mạng Lào, một khối lượng lớn vũ khí đạn được và dụng cụ quân sự63 (Chang Ta-chun, sách đã dẫn, tr.42: 50.000 lựu đạn, 8.000 súng lục, 245.000 viên đạn, 80 xe, 80.000 ca uống nước, 80.000 chăn bộ đội, 80.000 bộ quân phục). Vào khoảng cũng thời gian đó, 260 cán bộ quân sự và chính trị Trung Quốc đã từ Côn Minh đến Sầm Nưa để giúp Pathet Lào tổ chức lại quân đội64 (Như trên, tr.43).


Từ những yếu tố trái nhau như vậy, người ta không biết kết luận theo hướng nào. Cả báo cáo của Ủy ban quốc tế, lẫn sự khẳng định của Bộ chỉ huy quân sự Pháp đều không hoàn toàn có giá trị thuyết phục65 (Về sự khẳng định của Bộ chỉ huy Pháp, việc lục lại hồ sơ của quân đội có lẽ đưa đến kết luận khác hẳn. Nhưng báo cáo duy nhất của các nhà đương cục quân sự mà chúng tôi có thể tham khảo trong hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp thì rất chung chung và có rất ít chi tiết chính xác. Tuy nhiên những chú thích như "nguồn tin chắc chắn nhưng không thể kiểm tra được" hoặc "những nguồn tin của chúng tôi chắc chắn nhưng không thể dùng làm chứng cớ được" khiến cho chúng tôi nghĩ rằng những hồ sơ lưu trữ này không có lẽ không đem lại chứng cớ gì dứt khoát cả). Cả Ủy ban quốc tế lẫn Bộ chỉ huy Pháp đều không thể kiểm soát hay biết được những sự vận chuyển qua biên giới. Vậy, tạm thời chúng ta ghi nhận rằng, với hiện tình tư liệu có thể khai thác được, việc Trung Quốc có thể vi phạm các điều khoản liên quan đến sự tăng cường tiềm lực quân sự Bắc Việt Nam chưa thể xác định được. Do đó việc vũ khí Trung Quốc đưa vào Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ồn ào dư luận cuối 195466 (Chẳng hạn như "Red Army Growth in Viet Nam causes, US-French alarm" (Sự phát triển của quân đội đỏ trong sự nghiệp Việt Nam: báo động Mỹ-Pháp) đăng trong New York thời báo, 20-11-1954), lúc này cũng không thể đem ra để đánh giá thái độ của Trung Quốc sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Cuối cùng chúng ta lưu ý rằng ngay dù sự vi phạm đó được chứng minh thì cũng còn phải chứng tỏ thêm nữa rằng viện trợ của Trung Quốc cho Việt Minh không phải chỉ duy nhất nhằm duy trì tiềm lực quân sự của Việt Minh mà còn tăng cường khả năng tấn công trong những cuộc hành quân xâm lược sau này. Chỉ trong trường hợp này mới có thể thấy trong việc xuất khẩu (giả thiết) dụng cụ quân sự đó, dấu hiệu một cách xử sự mới khác hẳn với thái độ ôn hòa của chính phủ Bắc Kinh trong cuộc thương lượng ở Giơ-ne-vơ67 (Cần chú ý rằng Trung Quốc đã hoặc sắp ký những hiệp ước phòng thủ với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa có chung đường biên giới, chỉ trừ Bắc Việt Nam (ký với Liên Xô 1950, với Mông Cổ 1960, Bắc Triều Tiên 1961). Ghi chú trong Y.C. Hsing, Law and Policy in China's foregin Relations; Astudy of Attitudes and practice (Luật pháp và chính sách trong quan hệ đối ngoại của Trung Quốc; nghiên cứu về thái độ và thực tiễn) New York and London Columbia University Press, 1972, tr.300).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM