Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:00:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội VNCH  (Đọc 384550 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #150 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:12:25 pm »

Phụ bản 6
HÀNH QUÂN SOG

Phần này tóm tắt những hoạt động trong kế hoạch 34-A. Chia ra làm bốn phần.
Phần 1. Hành quân biệt hải
Phần 2. Hành quân không yểm
Phần 3. Hành quân tâm lý chiến
Phần 4. Hành quân nhảy dù, trực thăng vận

Phần 1. Hành quân biệt hải

1.   Tóm lược hành quân biệt hải. Được phân loại hành quân theo số (bị xóa). Cách phân loại hiện thời được dùng qua năm 1966. Tuy nhiên, danh hiệu trong bản báo cáo này để dễ xác nhận.

a.   (bị xóa). Chương trình riêng cho tốc đỉnh PTF. (bị xóa) Nhiệm vụ chiến thuật đánh chìm, hoặc bắt sống tàu Bắc Việt.

b.   (bị xóa). Tốc đỉnh ngăn chặn, lục soát các tàu Bắc Việt trong vùng hoạt động. Nếu phát hiện thấy có chở đồ quân sự, được phép đánh chìm tàu đối phương.


Đà Nẵng, 30/11/1968.

c.   (phần này hoàn toàn bị xóa) (nói về các tốc đỉnh trong kế hoạch 34-A, hành quân biệt hải ngoài vĩ tuyến 17. SOG bắt tàu đánh cá hoặc tàu chở chiến cụ, tùy trường hợp mà xử lý. Bắt cóc ngư dân Bắc Việt đưa đến 1 hòn đảo ngoài khơi Đà Nẵng là Cù Lao Chàm để tuyên truyền. Kế hoạch 34-A hành quân biệt hải ngoài vĩ tuyến 17 vẫn được tiếp tục kéo dài mặc dù chính quyền Mỹ cấm mọi hoạt động chống lại chính quyền miền Bắc trong tháng 11/1968. Bao giờ cũng bảo mật – Chú thích VĐH).
Tốc đỉnh PTF dài 80 bộ, tốc độ lên tới 15 knots. Bình thường trang bị 1 đại bác 40 ly, 1 đại liên 50 và súng cối 81 ly. Ngoài ra còn được trang bị radar và hệ thống truyền tin.

Năm 1966.
Hành quân gồm có 126 cuộc hành quân chính, 56 phụ.
Kết quả: Bắt sống 353 tù binh
Thả về 352 người
Phá hủy 86 ghe tàu
Hư hại 16 ghe tàu
Thả hai triệu tờ truyền đơn bằng súng 81 ly.
Thả 60.000 quà tặng.
Thả 2.600 radio
(bị xóa).


Thanh Hóa, 18/10/1967.
d.   Tổng quát
-   Không có hành quân biệt hải đầu năm 1966 cho đến 17/2 theo lệnh của tư lệnh Quân đội Mỹ.
-   (bị xóa)
-   Hải pháo của đối phương bắn vào tốc đỉnh rất thường. Số tốc đỉnh giảm xuống, bị hư hại sau các chuyến hành quân. Phải lo bảo trì các tàu còn lại. Tuy nhiên hơn nửa số hành quân biệt hải trong năm 1966 được thực hiện ngoài vĩ tuyến 19.
-   Ngày 6/7, Trung tá Butler hết hạn phục vụ, được thay thế. Một số sĩ quan Hải quân Mỹ khác cũng được thay thế (tên bị xóa).
-   (Tên các sĩ quan mới bị xóa).
-   Ngày 31/7, chỉ huy trưởng ban cố vấn Hải quân chấp thuận tăng cường nhân lực cho sở Phòng vệ duyên hải lên đến 362 người. Tất cả có 11 thủy thủ đoàn Việt Nam được sử dụng trong năm (bị xóa).
-   (Bị xóa).
-   Tình trạng hành quân của các tốc đỉnh thay đổi do sự thiệt hại lúc hành quân. Năm 1966 nhận thêm 3 chiếc mới, cả 3 đều mất lần hồi. Đầu năm có tất cả 9 chiếc, cuối năm còn lại 7. Trung bình lúc nào cũng có 7 chiếc hành quân. Bộ tư lệnh Quân đội Mỹ thông báo đã đặt đóng thêm 6 chiếc tốc đỉnh, chiếc đầu tiên sẽ giao trong vòng 18 tháng tới.


Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #151 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:54:44 pm »

2.   Hành quân.

Nhiệm vụ thành công nhất trong Kế hoạch 34-A biệt hải là chặn bắt tàu đối phương (bị xóa). Các toán biệt kích không thành công lắm, một phần do thời tiết (phần bị xóa có lẽ do sự rắc rối giữa SOG và Hải quân VNCH).

Vùng hành quân biệt hải nới rộng (bị xóa). Cuối năm 1966, chiến dịch Sea Dragon ra đến 18.00 N (bị xóa). Các tốc đỉnh PTF được khuyến cáo tránh vùng có máy bay của đối phương. Các tốc đỉnh không trang bị súng phòng không đã bị máy bay đối phương tấn công trong năm 1966. Sea Dragon được phép hoạt động giữa vĩ tuyến 17 và 20. Tấn công tất cả các tàu quân sự, tiếp vận của đối phương, bắn phá đài radar, giàn hỏa tiễn dọc theo bờ biển miền Bắc. Nếu Sea Dragon tiếp tục bành trướng có thể gặp phản ứng của Không, Hải quân Bắc Việt.


Phi công John Mc Cain bị bắt tại hồ Trúc Bạch, 26/10/1967

Biệt hải cũng mở những trận đột kích thủy bộ vào các mục tiêu dọc theo bờ biển từ vĩ tuyến 17 ra đến vĩ tuyến 22. Các mục tiêu gồm có: Hòn Gió, Đồng Hới, Hà Tĩnh, Vinh, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Đảo Hải Nam, Hải Phòng, Hòn Gai.

Rõ ràng các cuộc hành quân biệt hải mang lại thành công cho MACV-SOG trong giai đoạn 1964-1967.
(Phần còn lại báo cáo về việc huấn luyện).

Phần 2. Không yểm

1.   Yểm trợ hành quân Shining Brass.

Sử dụng từ 6-10 trực thăng H-34 thuộc Không lực VNCH với 8 phi hành đoàn, 2 phi cơ U-17 cùng với 2 phi hành đoàn VN. Tăng cường thêm từ 4-10 trực thăng UH-1 của Lục quân Mỹ bay cùng phi hành đoàn. Về mặt tiếp vận, ban đầu có C-123, sau có thêm C-130 từ ngày 20/10. Không quân Mỹ cung cấp máy bay trinh sát điều không O-1 (FAC), phi cơ oanh kích được sử dụng lúc xâm nhập hoặc triệt xuất toán biệt kích.


Mức độ hành quân Shining Brass tăng lên gấp 3 trong năm 1966, do đó vấn đề không trợ cũng tăng lên 3 lần. Trực thăng H-34 Không lực VNCH tăng từ 6 lên 10 chiếc. Tất cả việc sử dụng các loại máy bay khác đều gia tăng. Trong khoảng thời gian từ 18/7 – 26/9, trực thăng Mỹ bay 83 phi vụ yểm trợ cho hành quân Shining Brass. Phá hủy 93 nhà, làm hư hại 48 căn khác của đối phương và 1 chiếc cầu.

Trong năm 1966, nhiều loại máy bay được sử dụng để yểm trợ cho các hoạt động trong năm. Phần kế tiếp sẽ nói rõ trách nhiệm của không yểm cho Kế hoạch 34-A (hoạt động ngoài miền Bắc); hành quân Shining Brass (bên Lào & nội địa Nam Việt Nam); tiếp vận cho các hoạt động của SOG, cung cấp hỏa lực, phương tiện cho đơn vị SOG hành quân trong vùng Đông Nam Á.

Không trợ trong Kế hoạch 34-A: không trợ trong năm 1966 gồm 2 nhiệm vụ (bị xóa).

Trở ngại lớn nhất trong giai đoạn này  là vấn đề thời tiết, phải hủy bỏ 39% số phi vụ.

Trực thăng vũ trang UH-1B bay 101 phi vụ yểm trợ thả, bốc các toán biệt kích.


Thương xá Tax, Sài Gòn, 1968.


Không đoàn 83 chiến thuật VNCH yểm trợ hành quân Shining Brass cho phép sử dụng 18 chiếc trực thăng H-34. Mới đầu chỉ có 10 chiếc, sau bị mất 1 chiếc, còn lại 9 chiếc cho đến cuối năm. Số trực thăng H-34 còn lại được lấy từ Hải quân Mỹ cho đủ 18 chiếc.

Chở đồ tiếp liệu:

Trong năm 1966, Ban không vận bay 422 phi vụ cho các hoạt động của SOG, cất cánh từ Nam Việt Nam hoặc trong vùng Đông Nam Á, sử dụng phi cơ C-123, C-130E và (bị xóa) của SOG.

Chuyên chở tất cả 4.891.228 pound hàng hóa và 13.893 quân nhân trong  năm 1966. Con số này gia tăng so với năm trước đây vì nhu cầu hành quân của SOG.

Từ ngày 20/10, SOG sử dụng C-130 để có thể chở số lượng gấp đôi C-123, tầm hoạt động xa hơn, bay nhanh hơn.


Hòa Thượng Thích Trí Quang và Tướng Nguyễn Ngọc Loan, 1966.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #152 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2011, 09:46:46 pm »

Bảng tóm lược không trợ hàng tháng trong năm 1966.

Tháng      Trọng lượng       Hành khách
1       345.837       829
2       242.715       456
3       341.715       1.011
4       409.268       916   
5       375.624       1.012
6       321.227       1.204
7       436.535       1.465
8       432.814       1.422
9       352.833       1.748
10       459.064       1.190

Phần 3 (Bị xóa hoàn toàn).


Đà Nẵng, 19/12/1967. 12.000 Lính thủy đánh bộ Mỹ tập trung xem buổi diễn do ông bầu Bob Hope
tổ chức, với sự góp mặt của người đẹp Raquel Weich & nữ ca sĩ Barbara Mc Nair.
Phần 4. Hành quân nhảy dù, trực thăng vận
1.   Soạn thảo và luật lệ

Công điện của MACV/SOG số DTG 100725Z tháng 2/1966 nói về kế hoạch phát triển thêm 4 loại hình hành quân: tình báo, tiêu diệt, phá hoại và tâm lý chiến (phần còn lại bị mất) (phần bị mất nói về việc gia tăng các loại hình hành quân mật trong vùng Đông Nam Á. Kế hoạch sẽ loại bỏ những giới hạn áp dụng cho các mục tiêu quân sự ngoài Bắc, kể cả Hải Phòng - Chú thích VĐH).

Phần phụ:
Hành quân và huấn luyện trong căn cứ Long Thành.

Sau đây là tóm lược những cuộc hành quân hàng tháng trong năm 1966. Có thêm quân số của tiểu đoàn Dân sự chiến đấu (CIDG).
Trong năm, tiểu đoàn Dân sự chiến đấu thực hiện những cuộc hành quân sau đây:

1.   Hàng ngày, 50 quân đi mở đường, giữ an ninh trên quốc lộ 15.
2.   Tám toán 5 người đi phục kích bên ngoài trại mỗi đêm.
3.   Năm toán 5 người làm an ninh phi đạo 24/24.
4.   Toán 15 người phục kích khu vực được phân công mỗi đêm.
5.   Tổ chức những cuộc hành quân lùng và diệt.


Cách đó 40 dặm về hướng Tây Nam: Thung lũng Ashau, 1968

Tóm lược hành quân của căn cứ Long Thành trong năm 1966.

Tháng 1: Quân số CIDG: 433. Tổ chức 3 cuộc hành quân cấp trung đội trong khu vực phụ trách.
Chạm súng hai lần, kết quả 1 Việt Cộng bị thương, lấy được 1 cờ của Việt Cộng.

Tháng 2: Quân số CIDG: 410. Tổ chức 1 cuộc hành quân cấp đại đội; 1 cấp trung đội; 2 cuộc hành quân cấp đại đội phối hợp với Lữ đoàn 173 dù Mỹ. Không có chạm súng, 1 Việt Cộng bị thương, lấy được 1 súng trường Nga.

Tháng 3: Quân số CIDG: 400. Tổ chức 2 cuộc hành quân cấp đại đội, 5 cấp trung đội, 1 cấp trung đội phối hợp với sư 1 Anh cả đỏ. Không có chạm súng với đối phương.


CIDG

Tháng 4: Quân số CIDG: 394. Tổ chức 2 cuộc hành quân cấp đại đội, 5 cấp trung đội. Chạm đối phương, kết quả 1 CIDG bị thương, thu 1 súng carbine, 2 lựu đạn Mỹ.

Tháng 5: Quân số CIDG: 385. Tổ chức 1 cuộc hành quân cấp đại đội, 1 cấp trung đội. Không chạm đối phương.

Tháng 6. Quân số CIDG: 379. Tổ chức 1 cuộc hành quân cấp đại đội, 4 cấp trung đội. Kết quả 1 CIDG bị thương.


Tháng 7: Quân số CIDG: 384. Tổ chức 1 cuộc hành quân cấp đại đội. Không chạm đối phương.

Tháng 8: Quân số CIDG: 385. Tổ chức 1 cuộc hành quân cấp đại đội. Hai CIDG bị thương.

Tháng 9: Quân số CIDG: 452. Tổ chức 1 cuộc hành quân cấp đại đội, 2 cấp trung đội. Kết quả 1 Việt Cộng bị thương, thu 1 súng carbine Mỹ, 1 súng trường Nga.

Tháng 10: Quân số CIDG: 507. Tổ chức 2 cuộc hành quân cấp đại đội. Kết quả 1 Mỹ tử trận, 1 Mỹ bị thương, 2 CIDG bị thương, 2 Việt Cộng bị thương, thu 1 súng M-16.


Đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, 1968. Xích lô và xích sắt (?!)

Tháng 11: Quân số CIDG: 504. Một xe CIDG ¾ tấn bị phục kích trên quốc lộ 15. Kết quả 9 CIDG tử trận, 5 CIDG bị thương, mất 1 LMG, 1 súng cối 60mm, 6 trung liên BAR, 6 cabine M2.

Tháng 12: Quân số CIDG: 461. Không có hành quân.


Bến Bạch Đằng

Theo tài liệu MACV/SOG Command History, Annexes A, N&M (1964-1966) by Charles F. Reske.
« Sửa lần cuối: 23 Tháng Tám, 2011, 06:11:24 am gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #153 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 08:49:45 pm »

Phụ bản 7
CÁC BỘ PHẬN TRONG MACV/SOG

Đoàn Nghiên cứu Quan sát (SOG) có 8 bộ phận (ban) điều hành các loại hành quân đặc biệt và huấn luyện. Ngày 1/10/1971, Ban nghiên cứu nhảy dù và Ban nghiên cứu trên bộ được sáp nhập lại.


Thanh nữ Cộng hòa

1.   Ban nghiên cứu hành quân bộ (MACV-SOG 35).
 Ban này lo việc hành quân trong những khu vực đã vạch sẵn trên đất Campuchia và Lào, những nơi có mật khu của Việt Cộng, Bắc Việt hoặc căn cứ địa của đối phương. Những khu vực trên được đặt tên là Thốt Nốt, trước có tên là Salem House,  nếu bên đất Campuchia hoặc được đặt tên là Phù Dung, trước có tên là Prairie Fire, nếu bên Lào. Ban nghiên cứu trên bộ gồm những tiểu ban cố vấn đặc nhiệm TFAE, thường được biết đến là những bộ chỉ huy (C&C).


Mỗi TFAE thường có 2 nhóm trên căn cứ hành quân tiền phương (FOB) dọc theo biên giới để theo dõi, kiểm soát các chuyến hành quân xâm nhập. Một đại đội bảo vệ căn cứ và những nơi xuất phát những cuộc hành quân. Chín đại đội xung kích sẵn sàng tấn công mục tiêu do các toán biệt kích tìm ra. Các toán biệt kích làm thành phần nòng cốt cho các bộ chỉ huy. Các bộ chỉ huy có khoảng 20-35 toán biệt kích, mỗi toán 12 người gồm 3 quân nhân Mỹ hoặc 3 biệt kích VN và 9 cảm tử quân dân thiểu số (SCU). Sau ngày 8/2/1971, các toán biệt kích do Mỹ làm trưởng toán bị giới hạn, chỉ hành quân trong nội địa. Có 3 bộ chỉ huy (C&C) gồm:

-   TF1AE, trước là bộ chỉ huy Bắc ngoài Đà Nẵng, nhiệm vụ chính là xâm nhập phía bắc vùng hành quân Phù Dung và vùng phi quân sự.

-   TF2AE. Trước là bộ chỉ huy Trung trên Kontum, hành quân cả hai nơi Thốt Nốt và Phù Dung.

-   TF3AE. Trước là bộ chỉ huy Nam ở Ban Mê Thuột, hành quân vùng phía nam Thốt Nốt.


Lính Sư 1 Anh cả đỏ trong chiến dịch Quick Silver tại Bù Đốp, 8/12/1967

2.   Ban nghiên cứu hành quân thả dù – MACV-SOG 36:
Ban này có nhiệm vụ thả điệp viên trong chương trình vượt biên lấy tin tức và tâm lý chiến. Lúc đầu, ban này nhắm vào miền Bắc Việt Nam, sau khi ngừng ném bom miền Bắc vào tháng 11/1968, hầu hết các hoạt động chống lại miền Bắc đều chấm dứt. Tuy nhiên MACV – SOG vẫn tiếp tục xâm nhập ra Bắc nhưng đổi hướng hoạt động qua biên giới. MACV-SOG 36 sát nhập vào MACV-SOG 35 ngày 1/10/1971 để lo cho một chương trình hoạt động lớn khác (bị xóa).


3.   Ban nghiên cứu hành quân Biệt Hải. MACV-SOG 37:
Ban này lo hành quân biệt hải ngoài vĩ tuyến 17. Các cuộc hành quân biệt hải do Sở phòng vệ duyên hải (CSS) VNCH đảm trách. Có khả năng hành quân chống lại Bắc Việt qua chương trình huấn luyện tại Đà Nẵng và những cuộc hành quân trong miền Nam. Sở phòng vệ duyên hải đã phát triển nhanh chóng và đảm nhận hoàn toàn việc soạn thảo kế hoạch, tổ chức hành quân  từ tháng 7/1971. (Bị xóa).


Buôn Mê Thuột, 1967

4.   Ban nghiên cứu huấn luyện. MACV-SOG 38
Ban này nằm trong căn cứ Long Thành, lo việc huấn luyện quân biệt kích cho MACV-SOG và Nha Kỹ thuật. (bị xóa).


5.   Ban nghiên cứu, không yểm. MACV-SOG 75
Ban này có nhiệm vụ cung cấp và phối hợp phi cơ thuộc Không quân, lục quân, thủy quân lục chiến của Mỹ với không quân VNCH và các phi cơ của các nước thứ 3 làm việc cho SOG. Khoảng 100 máy bay đủ loại yểm trợ cho các cuộc hành quân của SOG. Phi công điều hành không yểm (FAC) có thể gọi thêm các phi cơ thuộc Không đoàn chiến thuật (TAC) khi khẩn cấp. Ba đơn vị không quân sử dụng phi cơ biến cải làm việc cho SOG là:

-   First Flight Detachment ở Nha Trang, gồm 4 C123K, Heavy Hook.
-   Không đoàn 90 Hành quân đặc biệt (SOS) ở Nha Trang, gồm 4 chiếc C-130E biến cải, Combat Spear.
-   Không đoàn 20 Hành quân đặc biệt ở Cam Ranh, gồm 23 trực thăng UH-1B


6.   Ban cố vấn hành quân đặc biệt. SMAG:
Ban này chính thức thành lập ngày 24/2/1971, gồm quân của Lữ đoàn 5, Lực lượng đặc biệt Mỹ, có nhiệm vụ huấn luyện và cố vấn cho Sở công tác, Nha Kỹ thuật về chiến tranh ngoại lệ.

Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #154 vào lúc: 20 Tháng Giêng, 2012, 05:26:32 pm »

LỆNH HÀNH QUÂN CAMPUCHIA

Thốt Nốt, trước là Salem House, khởi thủy là Daniel Boone-tên đặt cho hành quân xâm nhập vượt biên qua Campuchia. Lệnh hành quân cho Thốt Nốt vẫn là lấy tin tức tình báo chiến thuật hoặc kiểm chứng. Theo công điện của Tư lệnh Quân đội Mỹ số 07830/172009Z tháng 12/1968 về việc: Chấp thuận hành quân Daniel Boone. Nhiệm vụ cho hành quân Daniel Boone thay đổi theo công điện của Tư lệnh Thái Bình Dương số 0612102 tháng 5/1971 và 181020Z tháng 5/1971, về việc: Chấp thuận hành quân Thốt Nốt, tóm lược tình trạng hiện thời, bổ túc và thêm nhiệm vụ cho hành quân Thốt Nốt bên Campuchia cho đến ngày 1/11/1971.


Campuchia, 3/5/1970

Công điện của Tư lệnh Quân đội Mỹ số 9117/262226Z tháng 11/1971, công điện của Tư lệnh Thái Bình Dương số 272336Z tháng 10/1971 và tư lệnh cơ quan MACV số 300028Z tháng 10/1971, về việc: Chấp thuận hành quân trong vùng Đông Nam Á, phần bổ túc và thêm nhiệm vụ hành quân cho đến 15/11/1971.

Công điện của Tư lệnh quân đội Mỹ số 7120/131600Z tháng 11/1971, công điện của tư lệnh Thái Bình Dương số 132251Z tháng 11/1971, về việc chấp thuận hành quân trong vùng Đông Nam Á, gia tăng hiệu lực cho đến ngày 1/1/1972.

Công điện JCS số 6980/302150Z tháng 12/1971, công điện CINCPAC số 311052Z tháng 12/1971 gia hạn hành quân cho đến 31/1/1972. Công điện JCS số 6228/291737Z tháng 1/1972, công điện CINCPAC số 292008Z tháng 1/1972 gia hạn hành quân cho đến 29/2/1972. Công điện JSC số 7048/281900Z tháng 2/1972 gia hạn hành quân đến 31/3/1972. Công điện JCS số 6432/241914Z gia hạn hành quân đến 1/5/1972.


Không ảnh trại Lực lượng đặc biệt Đức Lập

NHỮNG KHU VỰC HÀNH QUÂN

Trong năm 1971, hành quân Thốt Nốt được phép hoạt động trong các khu vực Alpha, Bravo. Charlie. Freedom Deal.

1.   Alpha nằm về phía bắc, giới hạn bởi biên giới Lào hướng bắc, đường 13 phía nam, và sâu 50 km kể từ biên giới Việt-Lào.

2.   Bravo nằm về hướng nam, từ Lò Gò Việt Nam về hướng tây đến sông Cửu Long, rộng khoảng 30km, và từ sông Cửu Long kéo dài xuống vịnh Thái Lan khoảng 20km.

3.   Charlie nằm giữa, trải dài từ đường 13 đến Lò Gò, rộng trung bình khoảng 30 km.

4.   Freedom Deal trên đất Campuchia, phía đông giáp biên giới Việt Nam-campuchia, từ biên giới Lào-Campuchia đến tọa độ WA 226558, theo đường thẳng về hướng nam tới đường 69 tại tọa độ WA 226558.
Khu vực Alpha nối dài thêm 1 phần của Freedom Deal, xác định bởi phía bắc đường 13, phía đông đường thẳng cách sông Cửu Long 200m về hướng tây. Phần trách nhiệm bổ túc này trong công điện của CINCPAC số 180840Z tháng 5/1971.


Đà Nẵng, 19/9/1966. Nữ cán bộ Bình Định Nông Thôn hát tại 1 ngôi làng gần Chu Lai

GIỚI HẠN HÀNH QUÂN

Không có giới hạn số lượng hành quân trong khu vực Alpha và Charlie, tuy nhiên phải báo trước 2 ngày, theo công điện của tư lệnh Quân đội Mỹ (JCS) số 07830/172009Z tháng 12/1968, về việc: Hành quân Daniel Boone và JCS công điện số 0781/271617Z tháng 11/1970, về việc Hành quân Salem House. Hành quân trong khu vực Bravo phải có sự chấp thuận từng chuyến một và phải báo trước 5 ngày, theo công điện của JCS số 07830/172009Z tháng 12/1968, về việc: Hành quân Daniel Boone. Ít khi hành quân trong khu vực Charlie, lý do đông dân cư. Khu ít dân cư, có quân đội VNCH, Campuchia truy lùng quân Khmer đỏ và Việt Cộng.
Chính quyền VNCH đã thỏa thuận hành quân vượt biên qua Campuchia.

Kể từ 1/71970, quân đội Mỹ không được phép tham dự những hành quân sang Campuchia. Tất cả hành quân trên bộ đều do Quân đội VNCH hoặc dân tộc thiểu số đảm trách, kể cả việc dùng trực thăng chở quân, theo công điện của tư lệnh quân đội Mỹ số 1049/272237Z tháng 5/1970, về việc hành quân Salem House.

Sử dụng lực lượng giới hạn ở cấp trung đội trong khu vực hành quân Thốt Nốt. Tuy nhiên không giới hạn số lượng hành quân, có thể tổ chức cùng lúc. Lệnh này được ban hành theo công điện của JCS  số 1049/2722372 tháng 5/1970, về việc: Hành quân Salem House. Công điện của CINCPAC số 061210Z tháng 5/1971, về việc: hành quân Thốt Nốt.


Quảng Điền, 21/7/1968

Việc sử dụng máy bay trong hành quân bị giới hạn như sau đây:

1.   Trực thăng chở quân: Việc sử dụng trực thăng Mỹ chở quân, yểm trợ hành quân Thốt Nốt bị cấm sau ngày 30/6/1970 do lệnh của Tư lệnh Quân đội Mỹ, công điện số 1049/2722373 tháng 5/1970 và CINCPAC công điện số 280403Z tháng 5/1970, về việc hành quân Salem House.

2.   Yểm trợ khẩn cấp & trực thăng võ trang: Được chấp thuận trong vùng hành quân Thốt Nốt, với điều kiện ngoài khả năng của quân đội VNCH. CINCPAC công điện số 060831Z tháng 5/1971, về việc: hành quân Thốt Nốt.

3.   Máy bay vận tải: Sử dụng phi cơ C-123 (heavy Hook) và C-130 (Combat spear) trong vùng hành quân Thốt Nốt giới hạn phi hành đoàn Mỹ. Chỉ sử dụng để thả xâm nhập và thả tiếp tế những toán biệt kích hoạt động bên Campuchia.


Đà Nẵng, 17/5/1968. Các cô gái thuộc lực lượng bán dân sự chờ đón TT Nguyễn Văn Thiệu đến dự lễ duyệt binh.

NHIỆM VỤ BỔ TÚC

Vài nhiệm vụ được thêm vào để gia tăng hiệu quả trong hành quân Thốt Nốt.

1.   Đặt mìn: Đặt mìn tự động chống cá nhân hoặc xe cộ trong khu vực Alpha, Charlie và 1 phần trong khu vực Freedom Deal được cho phép cho đến ngày 1/5/1971.

2.   Theo lệnh của cơ quan MACV về việc hành quân bên Campuchia, lực lượng Mỹ có thể sử dụng pháo binh đặt trong lãnh thổ VNCH để yểm trợ cho những mục tiêu bên Campuchia (bị xóa).

ĐẶC BIỆT

Thả toán cấp cứu Bright Light vào đất Campuchia được chấp thuận với điều kiện duy nhất: có dấu hiệu cứu được tù binh hoặc tù trốn trại. Được phép sử dụng trực thăng Mỹ và không yểm cấp cứu trong những hành quân Bright Light. Theo công điện của JCS số 5220/051452Z tháng 11/1970, về việc Hành quân Salem House/Bright Light.


TQLC Mỹ gần khu phi quân sự (DMZ), 1966
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #155 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2012, 09:05:56 pm »

LỆNH HÀNH QUÂN AI LAO

Phù Dung, trước là Prairie Fire, khởi thủy là Shining Brass, tên cuộc hành quân vượt biên bí mật qua đất Lào. Mục tiêu chính cho hành quân Phù Dung là do thám và ngăn chặn. Những cuộc hành quân qua Lào ngăn chặn sự chuyển quân của Bắc Việt vào miền Nam qua ngã Lào. Hành quân Phù Dung được CINCPAC chấp thuận, công điện số 310138Z tháng 3/1967, về việc: Lệnh hành quân Prairie Fire. JCS công điện số 9117/262226Z tháng 10/1971, CINCPAC công điện số 272366Z tháng 10/1971, và Tư lệnh cơ quan MACV, công điện số 300028Z tháng 10/1971, về việc hành quân trong vùng Đông Nam Á.


Chiến dịch Wheeler, cách Chu Lai 30 dặm về phía bắc, 2/11/1967.

KHU VỰC HÀNH QUÂN

Vùng hành quân trong hành quân Phù Dung được xác định trong công điện của CINCPAC số 310138Z tháng 5/1967. Giới hạn bởi các tọa độ XD 430400, XD 700000, XC 800950, YC 030890, YB 496801, YB 497380, YB 400380, YB 400020 và dọc theo biên giới Lào – Việt – Campuchia.

GIỚI HẠN HÀNH QUÂN

 Ngày 8/2/1971 tất cả quân nhân Mỹ không được phep tham dự trong các chuyến hành quân xâm nhập vượt biên qua Lào. Tất cả mọi cuộc hành quân trên bộ đều do Quân đội VNCH và các dân tộc thiểu số đảm trách, theo công điện của JCS số 3360/052332Z tháng 2/1971, về việc: Mỹ tham dự hành quân Prairie Fire. Sự giới hạn không bao gồm người Mỹ nơi đài tiếp vận Leghorn, Golf-5 (YB 604355), với nhiệm vụ yểm trợ đài Explorer II trong vùng. Trong trường hợp khẩn cấp, người Mỹ được phép bảo vệ Golf-5 cho đến khi phá hủy các dụng cụ và việc di tản hoàn tất.
Không có giới hạn số biệt kích trong các toán. Mọi lực lượng bao gồm sắc dân thiểu số được phép hoạt động trong vùng hành quân Phù Dung.



Giới hạn sử dụng tối đa 3 trung đội xung kích cho mỗi mục tiêu (bị xóa).
Máy bay Mỹ-Việt được sử dụng để thả, bốc, tiếp tế cho những toán biệt kích hoạt động trong vùng hành quân Phù Dung. Phi cơ vận tải cùng phi hành đoàn Mỹ, hoặc phi cơ không phù hiệu với phi hành đoàn  thuộc các quốc gia đệ tam được phép thả hoặc tái tiếp tế cho những đơn vị trong khu vực hành quân Phù Dung. Phi cơ điều không (FAC) thuộc không lực Mỹ được phép điều động các phi cơ oanh kích yểm trợ cho hành quân Phù Dung và tiếp vận truyền tin giữa các đơn vị trên bộ và các trực thăng chở quân, trực thăng võ trang lúc thả hoặc bốc các toán biệt kích trong vùng hành quân Phù Dung.

Không quân chiến thuật Mỹ hoặc các trực thăng võ trang được sử dụng trong vùng hành quân, tấn công các mục tiêu, bắn phá đường tiếp vận của đối phương và yểm trợ việc thả hoặc bốc các toán biệt kích.




Quốc lộ 1, Đèo Hải Vân, 21/03/1975.

Không giới hạn khu vực hành quân, thời gian cũng như số toán biệt kích hoạt động trong vùng hành quân. Toán biệt kích có thể được thả ngoài vùng hành quân Phù Dung, sâu vào lãnh thổ Ai Lao theo công điện của JCS số  5401/032012Z tháng 4/1968, về việc: Giới hạn trong hành quân Prairie Fire. Theo quyết định của Vientiane cho từng trường hợp.

NHIỆM VỤ BỔ TÚC

Một số nhiệm vụ phụ được chấp thuận nhằm gia tăng hiệu quả hành quân Phù Dung và hỗ trợ cho các toán biệt kích lấy tin tức.

1.   Đặt mìn: Không giới hạn việc sử dụng mìn trong hành quân Phù Dung. Mìn M-14 chống người để giảm bớt sự hung hãn của toán quân truy lùng biệt kích. Chỗ đặt mìn phải báo cáo càng sớm càng tốt trên hệ thống truyền tin, tọa độ tám số.

2.   Pháo binh yểm trợ: Theo điều luật của cơ quan MACV về thủ tục chạm súng, công điện số 221149Z tháng 12/1969, về việc: Chạm súng trên đất Lào. Cho phép đơn vị hành quân Phù Dung sử dụng pháo binh đặt trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam yểm trợ cho các mục tiêu bên Lào.


Đại tá Ngô Thế Linh, phó Giám đốc Nha Kỹ thuật, tặng huân chương Anh dũng bội tinh cho Waskovich, 1969

3.   Máy dò: Máy dò có thể đặt trong vùng hành quân Phù Dung

4.   (Bị xóa)

5.   JCS công điện số 5957/092218Z tháng 4/1968, và CINCPAC công điện số 140045Z tháng 4 năm 1968, về việc: MACV-SOG được chấp thuận tuyển mộ các sắc dân thiểu số, cảm tình để lấy tin trong vùng hành quân Phù Dung.

6.   (Bị xóa)

7.   Cho phép dùng phi cơ thả truyền đơn trong kế hoạch tuyên truyền.

8.   Phi cơ trực thăng tản thương và tiếp tế Mỹ được phép hoạt động trong vùng hành quân Phù Dung. Công điện JCS số 5200/181538 tháng 6/1971, về việc: Mỹ yểm trợ chương trình hành quân vượt biên của quân đội VNCH trong tương lai.

9.   Sử dụng phi cơ thám thính Mỹ, kể cả yểm trợ trong vùng hành quân Phù Dung. JCS công điện số 3130/300049Z tháng 4/1971.

« Sửa lần cuối: 18 Tháng Hai, 2012, 09:31:22 pm gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #156 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2012, 01:11:11 pm »

LỆNH HÀNH QUÂN VÙNG PHI QUÂN SỰ

MACV-SOG hoạt động trong vùng phi quân sự được đặt tên là Nickle Steel, do công điện JCS số 6319/142123Z tháng 1/1967, về việc: Đặt tên. Nhiệm vụ chính là thám thính, chống lại sự xâm nhập của đối phương và cung cấp báo động sớm cho các đơn vị quân đội, cơ quan khác.

KHU VỰC HÀNH QUÂN

Vùng hành quân Nickle Steel được xác định do công điện của MACV số 42037/141145Z tháng 12/1968, về việc: Hành quân Prairie Fire, Nickle Steel, Igloo White, Commando Hunt, Daniel Boone. Xác định là khu vực phía tây trục tọa độ YD-00.


Sư 9 bộ binh Mỹ tại Mimot, Campuchia, 4/5/1970. Đơn vị này được biết đến qua những cuộc thảm sát
trong chiến dịch Speedy Express diễn ra chủ yếu tại 2 tỉnh Kiến Hòa & Định Tường từ 1/12/1968-1/4/1969

Trong tháng 1/1970, TF1AE (ban cố vấn Đặc nhiệm 1) ngoài Đà Nẵng đã phối hợp trực tiếp với bộ tư lệnh Quân đoàn 1, bộ tư lệnh Quân đoàn 24 Mỹ, xin phép gia tăng khu vực hành quân Nickle Steel.

NHIỆM VỤ

Lệnh hành quân Nickle Steel do công điện JCS số 2865/201835Z tháng 10/1969 quy định. Sau đây là 1 số nhiệm vụ bổ túc.

1.   Sử dụng toán biệt kích do Mỹ lãnh đạo phía nam vùng phi quân sự, hướng đông biên giới Lào - Việt và phía tây trục tọa độ YD-00.


2.   Sử dụng nhiều trung đội bộ binh để tiếp cứu, bốc toán biệt kích nếu cần thiết.

3.   Sử dụng pháo binh, hải pháo, TACAIR và B-52 trong vùng hành quân nếu cần.

4.   Đối với súng nhỏ, pháo binh, cối, hỏa tiễn của đối phương từ phía bắc: có thể trả đũa bằng hỏa lực trên bộ hoặc hải pháo, TACAIR cho đến khi đối phương im tiếng súng.

5.   Có thể đặt máy dò phía nam vùng phi quân sự.

6.   Không được đem quân bộ vào vùng.

7.   Không hỗ trợ tương tự như hành quân Phù Dung.

CỨU TÙ BINH, XEM XÉT CHỖ PHI CƠ RƠI

Theo JCS công điện số 5354/092308Z tháng 6/1971, về việc: Cứu tù binh trong miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia. Hành quân Bright Light được chấp thuận.

1.   Sử dụng quân Mỹ và Đồng minh lên đến 300 người với trực thăng yểm trợ nếu cần thiết trong hành quân Bright Light bên Lào, Campuchia gồm có: cứu phi công lâm nạn, đột kích trại tù binh, cứu tù trốn trại. Hành quân cấp lớn hơn phải được chấp thuận cho từng trường hợp.


TT Ngô Đình Diệm tại Hội chợ xuân Buôn Mê Thuột, 1957. Cùng năm đó, ngày 29/6/1957 ông ký sắc lệnh
thành lập Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ, nay là Trường ĐHBK Tp. HCM.
Hiện nay ĐHBK Tp. HCM vẫn lấy ngày này là ngày thành lập trường.

2.   Hành quân Bright Light được tư lệnh MACV quyết định, trường hợp không đủ thời gian xin phép Washington thì Bộ trưởng quốc phòng, Bộ trưởng ngoại giao & Tòa bạch ốc cần được thông báo.

(Phần còn lại bị xóa)

Theo tài liệu MACV/SOG Command History
Annex B by Charles F. Reske.

Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #157 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2012, 10:12:31 am »

PHỤ BẢN 8
HÀNH QUÂN NĂM 1971 (TÓM LƯỢC)

TỔNG QUÁT

Những buổi thuyết trình định kỳ cho tư lệnh cơ quan MACV cùng những tướng lĩnh quan trọng trong Bộ tham mưu năm 1971, tóm lược về những hoạt động của đơn vị MACV/SOG. Những buổi thuyết trình này gồm chi tiết của cuộc hành quân để cơ quan MACV biết rõ khả năng, hạn chế cũng như những thành quả của đơn vị SOG. Không có thuyết trình trong năm 1962.

Từ 26/12/1970 ÷ 8/1/1971
HÀNH QUÂN SALEM HOUSE

Trong thời gian trên, 38 toán biệt kích hoạt động tổng cộng 172 ngày trong vùng hành quân Salem House. Những toán thám sát đường, theo dõi những con đường nơi hướng tây căn cứ địa 740, bao gồm đường 13, 141 và 19. Ba toán dò thám khu vực Tonle Kong, các chuyến xâm nhập tìm căn cứ, trạm binh của đối phương cho phi cơ oanh kích hoặc sẽ giải quyết trong tương lai.


KHU VỰC TRUNG BỘ SALEM HOUSE

Hai toán biệt kích đang hoạt động nơi góc tây bắc căn cứ địa 712. Toán đầu báo cáo nghe được tiếng động cơ xe 2,5 tấn hai lần và 19 làn động cơ ¾ tấn trong thời gian 9 ngày thám sát dọc theo đường 13. Toán thứ 2 xâm nhập ngày 28/12/1971, thấy 3 lưới đánh cá. Khi toán này đang tìm cách vượt suối thì chạm đối phương với quân số khoảng 20-25 người từ bên kia suối. Kết quả: không biết tổn thất của 2 bên. Toán bỏ chạy, đến 23h đêm đó thì trông thấy 6 ngọn đèn pin. Toán lẩn trốn và rút ra khỏi vùng hành quân vào ngày hôm sau.

Một toán Lôi Hổ Việt Nam xâm nhập khu vực bắc căn cứ địa 712 vào ngày 27/12/1970. Ngày 29, toán biệt kích quan sát 1 trung đội đối phương, sau đó lúc 19h15’, toán phát hiện 20 công sự phòng thủ, 10 căn chòi và nhiều đồ hộp đã ăn trước đó 3 ngày. Ngày 31, toán biệt kích chạm súng với trung đội đối phương, không rõ thiệt hại cả đôi bên. Phát hiện 1 vị trí đóng quân bỏ trống cấp đại đội của đối phương gồm khoảng 10 ổ pháo đài, 10 căn chòi và 70-80 hố chiến đấu cá nhân. Ngày 1/1/1971, toán biệt kích bị bắn bằng B-40 và AK-47. Trên đường chạy, toán bị truy kích bằng cối 60mm. Toán được bốc về ngày 4/1/1971.


Đêm mùng 2, rạng sáng 3/12/1973 Kho xăng Nhà Bè bị Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác tấn công,
khoảng 250 triệu lít nhiên liệu đã cháy liên tục trong 12 ngày đêm.

Một toán Lôi Hổ VN khác, xâm nhập ngày 24/12/1970 dò thám đường 13, tây bắc căn cứ địa 712. Ngày 28, toán biệt kích phát hiện được 1 đoạn đường được tu bổ rất tốt có cả trụ sắt chống đỡ 4 đường dây điện thoại đặt dọc theo con đường. Cũng trong ngày 28, toán nghe được tiếng động cơ của 4 xe 2,5 tấn di chuyển về hướng tây nam, mỗi chiếc cách nhau 5-10 phút. Ngày 29, toán nghe được 2 xe 2,5 tấn di chuyển hướng đông nam. Ngày 30, toán nghe thêm 2 chiếc 2,5 tấn và ¾ tấn di chuyển hướng đông nam cách nhau 10-20 phút. Đêm 30, toán trông thấy đèn xe 2 chiếc 2,5 tấn di chuyển hướng tây bắc. Sau đó nhiều xe 2,5 tấn di chuyển về hướng tây bắc, mỗi chiếc cách nhau 10 phút. Toán Lôi Hổ được triệt xuất ngày 1/1/1971, sau khi hoàn tất nhiệm vụ. Trưởng toán trả lời câu hỏi “Tại sao không gọi TACAIR (phi cơ chiến thuật) oanh kích?" rằng điều đó sẽ gây nguy hiểm cho toán viên và lộ vị trí của toán biệt kích.

Trong khu vực căn cứ địa 351, toán Lôi Hổ VN xâm nhập ngày 4/1/1971 thám sát đường 13. Ngày 7, toán biệt kích chạm súng với khoảng 20 quân đối phương. Trưởng toán bị thương, toán bỏ chạy và được bốc về. Một toán khác cũng hoạt động trong vùng căn cứ địa 351 từ ngày 2/1/1971. Ngày 5, toán trông thấy 6 xe vận tải của đối phương di chuyển hướng tây nam trên đường 13. Toán được bốc về an toàn.


Ben Het, 21/6/1969, sau khi được giải vây. Trại LLĐB Ben Het cách biên giới VN-Lào-Campuchia 13 km.
Xuôi về hướng tây nam 12 km là ngọn đồi 875 (Hamburger Hill) nổi tiếng bởi trận đánh đẫm máu
vào tháng 11/1967 giữa Lữ 173 dù Hoa Kỳ với quân đội Bắc VN.

Hai toán biệt kích hoạt động trong vùng gần căn cứ địa 740. Toán đầu tiên xâm nhập ngày 26/12/1970, toán quan sát một trại binh của đối phương bỏ trống gồm khoảng 20 căn chòi. Trong khi quan sát, toán biệt kích nghe tiếng chó sủa và nhìn thấy quân của đối phương khoảng 10-20 người. Toán lẩn trốn.

Ngày 30, toán biệt kích quay trở lại trại binh đối phương, đánh dấu cho phi cơ chiến thuật oanh kích. Toán bị chó của đối phương phát hiện và chạm súng với khoảng 20 quân đối phương. Toán biệt kích bắn hạ 3 quân đối phương trước khi được phi cơ triệt xuất ngày 30/12 với sự yểm trợ của trực thăng võ trang. Toán thứ 2 xâm nhập vào cùng mục tiêu, cùng ngày cũng chạm súng với đơn vị đối phương không rõ quân số, phải triệt xuất. Khoảng 30 phút sau toán được thả vào bãi đáp phụ, lại chạm đối phương, kết quả 1 toán viên bị thương. Toán được trực thăng võ trang yểm trợ và bốc về ngày 31/12/1970.

Ngày 30/12/1970, toán Pike Hill được bốc về cùng với 3 cảm tình viên người Campuchia, sau khi hoạt động 49 ngày trong vùng đất bỏ hoang trên đất Campuchia & lập mạng lưới nghe lén. Đã có kế hoạch khác thả toán Pike Hill cùng cảm tình viên người Campuchia.


Sư 101 dù Mỹ tại Dakto, 4/6/1968.

Toán Lôi Hổ VN xâm nhập bắc căn cứ địa 740 ngày 22/12/1970. Toán phát hiện trại binh cấp đại đội của đối phương gồm 4 căn chòi và nhiều công sự phòng thủ. Bên trong 1 căn chòi, toán biệt kích phát hiện thùng đạn đại liên phòng không 12 ly 7. Toán Lôi Hổ gọi phi cơ oanh kích và được phi cơ quan sát điều không FAC thỏa mãn yêu cầu, điều động 2 phi tuần A-1 Skyraider và F-4 đến oanh kích trại binh đối phương, gây 2 tiếng nổ phụ. Ngày 27, toán được bốc về.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #158 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2012, 10:37:49 am »

Nơi căn cứ địa 701, ngày 4/1/1971, trong khi làm kế hoạch thả biệt kích giả, trực thăng nhận ra súng của đối phương bắn lên nhưng không gây thiệt hại. Mười phút sau, toán Lôi Hổ xâm nhập vùng hành quân và di chuyển về hướng tây. Toán biệt kích chạm súng với đơn vị cấp trung đội của đối phương. Trực thăng võ trang bắn yểm trợ, bốc toán biệt kích về sau khi chỉ mới xâm nhập được chừng 2 phút. Một toán khác xâm nhập từ ngày 6, vẫn còn hoạt động.

Ngày 21/12/1970, toán Lôi Hổ xâm nhập và dò thám khu vực phía nam căn cứ địa 701. Ngày 25, toán phát hiện 1 cây cầu nhỏ rộng 0.8m, dài 4m trên đường mòn. Khi trưởng toán biệt kích điều 1 toán viên lên chụp ảnh thì khoảng 20 quân đối phương nổ súng tấn công làm toán chạy lạc thành 2 nhóm. Trưởng toán cùng 1 toán viên chạy hướng đông nam, bốn biệt kích khác chạy hướng tây nam. Sau khi chạy được khoảng 500m, trưởng toán cùng toán viên bị đối phương đuổi kịp, họ bắn chết 2 quân đối phương, nhưng người trưởng toán bị thương. Toán viên cõng người trưởng toán chạy thêm được 20m nữa đành phải bỏ lại &  chạy 1 mình.


Cần Thơ, 15/12/1968.

Ngày 26, toán biệt kích được FAC hướng dẫn trưc thăng vào đón về.
Hai toán biệt kích xâm nhập khoảng giữa căn cứ địa 740 và 701. Toán đầu vào vùng ngày 29/12, triệt xuất ngày 31 sau khi chạm súng với khoảng 100 quân đối phương, bắn hạ 3 người. Toán thứ 2 vào ngày 2/1/1971. Sau hai tiếng đồng hồ lục soát, toán chạm súng với khoảng 20 quân đối phương, kết quả 1 biệt kích bị thương. Trực thăng võ trang lên bắn yểm trợ bốc toán về.

SALEM HOUSE

Một toán Lôi Hổ VN xâm nhập vào khu vực gần sông Tonle Kong ngày 30/12/1970. Sang hôm sau, toán chạm súng với khoảng 30-40 quân đối phương, bắn hạ 2 người. Toán lẩn trốn đụng phải toán tuần tiễu của đối phương, một biệt kích bị thương. Ngày 1/1/1971, toán chạm đối phương thêm 1 lần nữa. Trực thăng phải vào triệt xuất toán biệt kích.


Nha Trang, 2/4/1975

Ngày 30/12/1970, một toán Lôi Hổ khác vào cùng khu vực gần sông Tonle Kong. Toán di chuyển về hướng tây và chạm súng, giết chết 1 quân đối phương. Toán được bốc về sau khi chỉ điểm mục tiêu cho khu trục cơ A-1 Skyraider oanh kích. Kết quả không rõ. Một toán khác xâm nhập vào cùng khu vực hành quân ngày 28/12/1970. Toán gặp 2 quân đối phương trên đường đi về hướng đông. Đến khoảng 17h, khoảng 20 quân đối phương dàn hàng ngang tiến lên vị trí trú ẩn của toán. Toán biệt kích nổ súng bắn hạ 6 quân, sau đó được trực thăng triệt xuất.

Ngày 28/12/1970, toán Lôi Hổ VN xâm nhập khu vực bắc căn cứ địa 701. Ngày 1/1/1971, chạm súng với đơn vị đối phương khoảng 20 người, toán lẩn trốn. Ngày 2/1 lại đụng độ với một đơn vị đối phương khác, phải triệt xuất. Một toán Lôi Hổ khác xâm nhập căn cứ địa 702 ngày 25/12/1970. Ngày hôm sau toán chạm mặt  11 quân đối phương di chuyển trên đường mòn ngang qua chỗ toán biệt kích ẩn nấp. Hai bên nổ súng, kết quả 2 quân đối phương bị bắn hạ, toán biệt kích lẩn trốn và được trực thăng bốc về an toàn.

Một toán Earth Angel (Tù binh hoặc hồi chánh viên được Mỹ tuyển mộ, huấn luyện) xâm nhập bộ vào khu vực giữa căn cứ địa 701 và 702 ngày 20/12/1970. Toán được mặc quân phục lính Bắc Việt. Ngày 22, toán trông thấy 4 quân đối phương di chuyển từ hướng tây bắc xuống đông nam. Hôm sau, toán phát hiện ra một căn cứ của đối phương bỏ trống khoảng 1 tháng, trong đó có nhiều công sự phòng thủ. Ngày 27, toán di chuyển đến trại LLĐB Đức Cơ sau khi hoàn tất nhiệm vụ.


Ngày 25/12/1970, một toán Earth Angle khác được trực thăng thả xuống phía nam căn cứ địa 702. Toán này triệt xuất khỏi vùng hành quân và di chuyển đến trại LLĐB Đức Cơ ngày 29. Trong ngày 27, toán trông thấy 1 trung đội đối phương đang tải đồ tiếp vận trên đường mòn về hướng nam. Toán cũng phát hiện ra 1 khu vực có hàng rào, có lẽ trước đây là trại giam tù binh hay nơi chứa tạm đồ tiếp vận.

Một toán Lôi Hổ xâm nhập vùng hành quân ngày 6/1/1971 để khai thác những tin tức do toán Earth Angle đem về. Ngày 8, trong khi đang ở vị trí đóng quân đêm, toán bị đối phương tấn công, một biệt kích quân mất tích trong lúc lẩn trốn. Ngày 9, toán được 2 trực thăng võ trang bắn yểm trợ bốc về. Một chiếc Gunship trúng đạn bốc cháy nhưng lết về được. Việc tìm kiếm biệt kích quân mất tích không thành công, có lẽ bị đối phương bắt hoặc chết.

Toán Lôi Hổ xâm nhập khu vực phía nam căn cứ địa 609 ngày 27/12/1970 dưới hỏa lực của đối phương. Phi cơ chiến thuật oanh kích xung quanh bãi đáp để trực thăng vào bốc toán.


Cảnh hỗn loạn bên ngoài Đại Sứ Quán Mỹ những ngày cuối tháng 4/1975.

Một toán Lôi Hổ khác hoạt động trong khu vực căn cứ địa 609 từ ngày 26-28/12/1970. Ngày 27, toán biệt kích (trong quân phục lính Bắc Việt) gặp 9 quân đối phương mặc quân phục xanh lá cây, trang bị AK và B-40. Hai bên nói chuyện. Quân đối phương cho biết đang đi lùng toán biệt kích vừa được trực thăng thả ngày hôm qua. Khi viên chỉ huy đơn vị đối phương yêu cầu lục soát ba lô toán biệt kích thì toán Lôi Hổ nổ súng trước, giết 5 quân. Toán biệt kích bị chết người mang máy truyền tin và hỏng máy. Toán rút về bãi trực thăng. Trực thăng vào bốc toán biệt kích trúng đạn phòng không 12,7 ly phải bay về căn cứ. Sau đó các phi tuần A-1 Skyraider lên đánh xung quanh bãi đáp, phá hủy khẩu súng phòng không cho 1 trực thăng khác vào bốc toán biệt kích về an toàn.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #159 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2012, 10:00:13 pm »

Hành quân Salem House cố xâm nhập vùng 3 biên giới nhưng không thành công. Quá nhiều hoạt động của đối phương trong vùng. Toán biệt kích vào thám sát khu vực sông Tongle Kong hoạt động lâu hơn nhưng không thấy quân đối phương di chuyển hoặc chuyên chở trên sông. Căn cứ địa 701 vẫn là chỗ khó “làm ăn” nhất cho các toán Lôi Hổ. Toán nào cũng thấy quân đối phương và chạm súng. Khu vực phía nam vùng hành quân có vẻ yên lặng tuy nhiên các hoạt động của đối phương xung quanh Snoul vẫn tiếp tục gia tăng.


Không ảnh trại LLĐB Pleime.

PRAIRIE FIRE

Trong vùng trách nhiệm hành quân Prairie Fire, có mười ba toán biệt kích hoạt động tất cả 34 ngày trên đất Lào. Tổng quát, các toán có nhiệm vụ theo dõi đường mòn trong hệ thống đường 96/100 và vùng hành quân Prairie Fire.

CĂN CỨ ĐỊA 609/613

Ngày 7/1/1971, toán biệt kích Mỹ (SOG) xâm nhập khu vực phía bắc căn cứ địa 309. Trực thăng yểm trợ thả biệt kích trúng đạn phòng không 12,7 ly, 37 ly nhưng không rơi. Phi cơ chiến thuật vào yểm trợ cho việc thả toán biệt kích. Một trực thăng võ trang trúng đạn phải đáp xuống đài tiếp vận Golf – 5, sau được trực thăng CH-47 Chinook câu về. Toán biệt kích tiếp tục xâm nhập vào mục tiêu.

Một toán biệt kích khác tìm cách xâm nhập khu vực phía tây căn cứ địa 609 ngày 8/1/1971. Trực thăng gặp hỏa lực phòng không của đối phương không vào bãi đáp được, phải bỏ kể hoạch xâm nhập. Ngày 30/12/1970, toán biệt kích tìm cách xâm nhập vào căn cứ địa 609, gặp hỏa lực phòng không của đối phương phải bay đến bãi đáp phụ. Nơi đây cũng gặp phản ứng của đối phương nên đành hủy bỏ cuộc hành quân.


Trung sĩ nhất Robert Howard (thứ 2 từ trái sang), nổi tiếng ở Kontum đầu năm 1967 bởi những phi vụ liều mạng.


Sau khi giải ngũ.

Ngày 31/12/1970, hai toán xâm nhập phía nam đường 96/110 tại hai khu vực khác nhau. Vì lý do chiến thuật, hai toán nhập lại cho đến khi hoàn thành công tác. Ngày 1/1/1971, hai toán biệt kích chạm súng với 1 đơn vị cấp trung đội của đối phương. Kết quả hai biệt kích Mỹ bị thương, không rõ tổn thất về phía đối phương. Cũng trong ngày 1, toán biệt kích tìm thấy dấu vết xe tăng và được Trung tâm Khai thác Vật liệu cho biết đó là dấu xe lội nước PT-76. Đây là loại chiến xa thám thính của CSBV, lớn bề ngoài, bọc thép nhưng trang bị đại bác nhỏ trên tháp pháo. Lúc triệt xuất, thêm 1 biệt kích Mỹ bị thương.

Nơi phía bắc căn cứ địa 609, gần biên giới, ngày 26/12/1970, trực thăng thả toán biệt kích Mỹ tại cả hai bãi đáp chính và phụ đều gặp hỏa lực của đối phương, đành phải hủy bỏ chuyến xâm nhập. Ngày 28, một toán biệt kích khác xâm nhập vào cùng mục tiêu. Sau khi xuống bãi đáp, toán trông thấy quân đối phương trên đường đến bãi đáp, nơi họ vừa xuống. Toán biệt kích điều động trực thăng võ trang tấn công đơn vị đối phương. Trong lúc trực thăng bắn hỏa tiễn xuống vị trí quân Bắc Việt, một người chạy lạc vào chỗ trú ẩn của toán biệt kích và bị bắn hạ. Đối phương đã phát giác có toán biệt kích trong vùng nên toán yêu cầu triệt xuất. Ngày 29/12/1970 và ngày 4/1/1971, biệt kích định xâm nhập vào vùng hoạt động nhưng không thành công do có quân đối phương xuất hiện tại các bãi đáp.


Xuân Lộc, 14/4/1975.

Ngày 29/12/1970, một toán biệt kích Mỹ xâm nhập vào khu vực cách căn cứ địa 609 sáu cây số về hướng bắc. Trực thăng võ trang yểm trợ thả toán biệt kích. Ngày hôm sau, toán phát giác đối phương truy kích nên vội di chuyển về hướng đông và yêu cầu khu trục A-1 Skyraider oanh kích toán quân đuổi theo. Sau đó toán được bốc về căn cứ an toàn. Một toán biệt kích khác xâm nhập vào khu vực bắc căn cứ địa 609, cách biên giới khoảng 14 cây số ngày 19/12/1970. Một tai nạn xảy ra, một biệt kích quân Thượng bị gãy chân khi xuống bãi đáp bằng dây, phải đem về. Ngày thứ 2, toán phát giác 1 làng có người ở, sau đó toán biệt kích nghe tiếng chân người từ làng đi về phía họ. Toán biệt kích nổ súng rồi tẩu thoát. Họ báo cáo tọa độ cho phi cơ oanh kích và được triệt xuất. Một toán khác xâm nhập vào vùng hoạt động từ ngày 1 đến ngày 8/1/1971 báo cáo không có hoạt động của đối phương.

Một toán biệt kích Mỹ xâm nhập khu vực phía tây trại LLĐB Ben Het (khu vực 3 biên giới) ngày 27/12/1970. Vừa rời khỏi bãi đáp, toán biệt kích nghe tiếng nói, tiếng di chuyển của đối phương khoảng 10-20 người. Toán báo cáo, xin trực thăng võ trang oanh kích, rồi di chuyển đến vị trí khác cho trực thăng bốc về.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM