Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:21:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội VNCH  (Đọc 384592 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #80 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2011, 08:33:17 pm »

KẾ HOẠCH 37 – BIỆT HẢI

Bắt đầu từ những tháng đầu năm 1961, cơ quan Trung ương tình báo Mỹ (CIA) đã điều khiển những trận tấn công bất ngờ, phá hoại các căn cứ quân sự dọc theo bờ biển Bắc Việt Nam. Những cuộc tập kích trên đều do những toán biệt kích biển (Marops) đảm nhiệm. Đến mùa khô 1961-1962, sau khi đã đọc các bản báo cáo kết quả về những cuộc hành quân trên, Đô đốc Harry Felt chẳng còn gì để nói và CIA nhận thấy đã hết kiểu chơi. Tóm lại, các cuộc hành quân biệt hải chẳng gây thiệt hại nào đáng kể cho chính quyền Bắc Việt, mặc dù viên Tư lệnh lực lượng Quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương là người hiểu biết về vấn đề hành quân biển hơn ai hết.

Đại bác 40 ly gắn ở đuôi chiếc PTF. Lớp vỏ bằng 1 loại ván ép đặc biệt giúp những chiếc Nasty tránh được radar của đối phương, vừa giúp chúng có tốc độ vượt trội

Thực tế những toán biệt kích biển do CIA tuyển mộ đều sử dụng những chiếc tàu nhỏ mong manh, trang bị hỏa lực yếu. Ngay cả việc lái chiếc tàu nhỏ đến mục tiêu đã là một vấn đề khó khăn đối với các biệt kích quân. Thực ra Colby, ông trùm CIA, người chịu trách nhiệm chính về mọi hoạt động của lực lượng biệt kích cũng chỉ làm theo lệnh của Washington mà thôi.

Đến tháng 7/1962, thì Đô đốc George Anderson, Tư lệnh hành quân biển, được mời tham gia tổ chức những trận tập kích, quấy rối bờ biển Bắc Bộ. Kế hoạch này nhằm mục đích làm cho Bắc Việt không còn đủ sức yểm trợ cho quân cộng sản ở miền Nam Việt Nam.

Người trực tiếp chịu trách nhiệm chính của kế hoạch này là Tucker Gougelmann, một chuyên gia hàng đầu về phá hoại trên biển của CIA. Năm 1961, ông ta lập căn cứ tại Đà Nẵng và bắt đầu đưa những toán biệt kích biển xâm nhập biển Bắc Bộ. Kế hoạch hành quân biển do CIA hoạch định và điều hành chỉ có tầm hoạt động rất giới hạn. Mục tiêu chính là thu thập tin tức, do thám bờ biển Bắc Bộ. Theo những tài liệu đã giải mã, thì giai đoạn đầu của Kế hoạch hành quân biển diễn ra rất âm thầm, để tránh đụng độ với Hải quân Bắc Việt.

Năm 1962, Gougelmann được lệnh của Washington bắt đầu những trận tập kích phá hoại để trả đũa cho việc Bắc Việt ngày càng gia tăng những hoạt động chi viện cho cộng sản ở miền Nam; đồng thời để xây dựng những mật cứ ở miền Bắc trong tương lai. Chính Tổng thống Kenedy là người thúc đẩy CIA tăng cường những hoạt động bí mật trên lãnh thổ Bắc Việt Nam.

Lực lượng biệt kích biển dưới quyền chỉ huy của Gougelmann đã sử dụng loại thuyền máy cũ kỹ đóng tại miền Nam cho các trận tập kích. Điều đó khiến Đô đốc Felt phật ý, vì loại thuyền máy cũ kỹ ấy không thể dùng để tấn công bất ngờ được. Loại hành quân này rất cần tốc độ và bí mật. Khi Washington ra lệnh gia tăng các cuộc hành quân biệt hải, Hải quân Mỹ được lệnh yểm trợ, cung cấp trang bị chuyên biệt cho CIA để cơ quan chức năng này hoàn thành các phi vụ. Tháng 8/1962, tướng Harkins, Tư lệnh Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam, dự kiến sử dụng loại tàu Topedo (phóng thủy lôi), được căn cứ Tiếp vận hải quân ở Đà Nẵng yểm trợ, cho những cuộc hành quân biệt hải trên lãnh thổ Bắc Bộ. Kế hoạch này được chính quyền Kenedy chấp thuận vào cuối tháng 9/1962.

Đại tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng MAAG (1962-1963); chỉ huy trưởng MACV (1963-1964)
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #81 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2011, 09:00:22 pm »

Cùng thời điểm trên, Hải quân Mỹ bắt đầu nghiên cứu, xem xét tìm loại tàu thích hợp cho các cuộc hành quân biệt hải. Tháng 10/1962, phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng Mỹ Roswell Gilpatric ra lệnh cho Đô đốc Anderson giao cho CIA 2 con tàu Topedo là PT. 810 và PT. 811, được đóng từ năm 1950. Hai con tàu này đều được trang bị đại bác 40 ly và 20 ly; được đổi tên mới là PTF-1 và PTF-2 (tàu tuần tiễu nhanh – Patrol Type Fast).

Hỏa lực trang bị cho PTF

Đầu năm 1963, Hải quân Mỹ mua hai con tàu Nasty PTF-3, PTF-4 của Hải quân Na Uy. Loại tàu này chạy rất nhanh và tránh được radar. Bỏ qua yêu cầu bảo mật, Đô đốc Anderson đã gửi 2 con tàu Nasty đến Washington tham gia diễu hành trong cuộc diễn tập hành quân và yểm trợ đổ bộ. Cuộc diễn tập đã diễn ra bên sông Potomac, do các toán biệt kích người nhái SEAL, mới thành lập, đảm trách.

Phải đến những tháng cuối năm 1963, CIA mới nhận được những chiếc tàu Nasty vừa tham gia diễn tập. Để lái loại tàu này xâm nhập hải phận Bắc Việt Nam, CIA đã tuyển mộ lính đánh thuê người Na Uy và Đức. Mhằm trợ lực cho CIA, Hải quân Mỹ đồng ý để đơn vị SEAL huấn luyện cho biệt kích quân Việt Nam về chiến thuật hành quân phá hoại trên biển, vừa cung cấp đồ tiếp vận, cũng như bảo trì các tàu PTF.

Trong lúc “Kế hoạch 37” đang triển khai, Tổng thống Kenedy ra lệnh cùng lúc xúc tiến “Kế hoạch Trở Lại" (Switch Back). Theo đó, tất cả các hoạt động của CIA tại miền Bắc Việt Nam được bàn giao cho Lầu Năm Góc (Bộ Tổng Tham mưu liên quân Mỹ), kể cả chương trình Hành quân Biệt Hải. Lúc đầu nằm trong “Kế hoạch 34A”, một bộ phận thuộc Đoàn nghiên cứu, quan sát (SOG) thành lập “Ban cố vấn Hải quân”, mật danh của “Kế hoạch 37” ở Đà Nẵng.

Ban Cố vấn Hải quân chính thức triển khai kế hoạch từ đầu tháng 1/1964, với mục tiêu bao gồm các cuộc hành quân bí mật trên biển. Đến năm 1965, một văn phòng liên lạc được thành lập, trực thuộc SOG, chuyên trách theo dõi việc triển khai Kế hoạch 31 (OP-31). Nếu như Văn Phòng Liên Lạc chuyên trách về nhân sự thì Ban Cố vấn Hải quân (NAD) là cánh tay hành động, đều thuộc quyền chỉ huy của SOG.

Bến Súc, 14/01/1967. Tản cư tránh trận càn Cedar Falls

Việc tìm một sĩ quan hải quân cấp bậc đại tá trong Quân đội Mỹ không khó, nhưng tìm một sĩ quan cao cấp am hiểu về Chiến tranh ngoại lệ quả thật không dễ chút nào. Vì vậy, người chỉ huy đầu tiên của Ban Cố vấn Hải quân là Jack Owens, mới được bổ nhiệm được một năm đã phải thay thế. Đại tá Bob Fay là người kế nhiệm. Không giống như Owens, một sĩ quan Hải quân thông thường, Bob Fay trưởng thành từ một đơn vị Người nhái. Nhưng thật trớ trêu, ngày 28/10/1965, chiếc xe Jeep chở ông ta trúng đạn pháo kích của đối phương. Bob Fay trở thành sĩ quan biệt kích biển cao cấp đầu tiên của Mỹ bỏ mạng trên chiến trường Việt Nam.

Bob Fay mới chỉ huy Ban Cố vấn Hải quân (NAD) được có 6 tháng. Những người kế nhiệm Bob Fay sau này là William Hawkins, Willard Olson, Robert Terry và Norman Olson đều ít am hiểu về chiến tranh ngoại lệ, cho dù họ đeo lon đại tá Hải quân Mỹ.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #82 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2011, 09:19:56 pm »

Kế hoạch 37 do Ban Cố vấn Hải quân Mỹ đảm trách, được giao nhiệm vụ tấn công, phá hoại những mục tiêu dọc theo bờ biển Bắc Bộ. Với phạm vi hoạt động từ vĩ tuyến 17 ra đến vĩ tuyến 21, trong vòng bán kính 30 dặm dọc theo bờ biển. Trong mệnh lệnh hành quân, khu vực hoạt động của các toán biệt kích biển ở phía dưới cảng Hải Phòng, bao gồm mục tiêu cụ thể: Ngăn chặn và quấy rối (ngăn chặn, bắt cóc, thẩm vấn, phá hủy tất cả các loại tàu vũ trang, tiếp vận của miền Bắc. Phá hoại đường tiếp tế trên biển của Quân đội Bắc Việt cho miền Nam). Bắn phá các mục tiêu dọc theo bờ biển. Tập kích lên bờ, tấn công các căn cứ quân sự, dân sự. thả biệt kích, điệp viên xâm nhập miền Bắc. Tiến hành các thủ đoạn chiến tranh tâm lý như thả truyền đơn, radio, quà tặng xuống các khu vực giáo dân, nông thôn miền Bắc. Mặc dù được SOG tài trợ, huấn luyện nhưng tất cả những cuộc hành quân biệt kích biển, vượt tuyến đều do biệt kích, người nhái của Quân đội Sài Gòn đảm nhiệm.

Cần Thơ 60s

Năm 1964, Ban Cố vấn Hải quân Mỹ tổ chức thành 7 bộ phận. Những bộ phận quan trọng chuyên việc huấn luyện  thủy thủ đoàn lái tàu Nasty và các toán biệt kích biển. Kế hoạch 37 triển khai với sự phối hợp giữa SOG và Nha Kỹ thuật của Quân đội Sài Gòn. Hải quân Mỹ chuyên soạn thảo kế hoạch hành quân; huấn luyện thủy thủ, biệt kích và bảo đảm cho kế hoạch. Sở Phòng vệ Duyên hải trực thuộc Nha Kỹ thuật chuyên về những vấn đề yểm trợ khác. Sở này có 5 toán, gồm 15 biệt kích quân biển; 18 nhân viên, thủy thủ đoàn lái tàu Nasty và toán bảo dưỡng tàu. Tất cả đều nằm trong Kế hoạch 37. Nhiệm vụ chính của Sở chỉ huy là tuyển mộ thủy thủ và biệt kích quân.

Tất cả những cuộc hành quân biệt hải chỉ được triển khai khi nhận được sự chấp thuận của giới chức thẩm quyền ở Washington. Riêng Hải quân Mỹ có trách nhiệm chọn mục tiêu, soạn thảo kế hoạch hành quân, phối hợp và chỉ huy các cuộc hành quân. Tính từ tháng 4 cho đến tháng 12/1964, các toán biệt kích biển đã tổ chức 32 cuộc vượt tuyến tấn công, phá hoại các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc như trạm kiểm soát, cầu, các đảo nhỏ, đài radar.

Cụ thể, ngày 12/6/1964, biệt hải phá hủy một nhà kho. Cuối tháng 6, phá sập một chiếc cầu. Tháng 7, phá hủy một nhà bơm nước; đánh chìm 3 chiếc tàu nhỏ. Ngày 30/7, bốn chiếc tàu PTF đến đông nam Hòn Me (19º vĩ bắc, 106º 16’ độ kinh đông), chia làm hai tốp. Tàu PTF-3 và PTF-6 hướng về Hòn Me; hai tàu PTF-5 và PTF-2 đi về Hòn Niêu. Cả hai tốp đều đến bắn phá binh trạm, xưởng quân khí, trạm tiếp liệu. Khi bị tàu Swatow của Hải quân Bắc Việt đuổi theo, cả hai tốp đều chạy về hướng nam. Nhân chuyện này, Mỹ dựng lên “Sự kiện chiến hạm Maddox bị tấn công ngoài khơi vịnh Bắc Bộ”, để có cớ gây ra chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng không quân.

Đến cuối năm 1964, SOG ra lệnh cho NAD gia tăng các chuyến hành quân biệt hải. Tính riêng năm 1965, có 170 chuyến vượt tuyến bắn phá, quấy rối hải phận miền Bắc Việt Nam. Năm 1966, NAD tổ chức 126 cuộc hành quân chính và 56 cuộc hành quân phụ. Trước tình hình trên, Hà Nội đã tăng cường lực lượng bảo vệ dọc theo bờ biển, gây trở ngại lớn và rất nguy hiểm cho các toán biệt kích biển; đương nhiên, càng khó khăn hơn cho các cuộc tập kích lên bờ. Bởi thế mà trong 34 trận tập kích của SOG ở vùng biển Bắc Bộ, chỉ có 4 trận được coi là thành công.

Toán biệt hải được cố vấn Mỹ huấn luyện tại Đà Nẵng

Bắt đầu từ năm 1967, cường độ các cuộc hành quân biệt hải trong Kế hoạch 37 giảm đi trông thấy. Năm 1967, theo kế hoạch có 151 cuộc hành quân thì chỉ triển khai được 125 cuộc, hủy bỏ 19 cuộc vì thời tiết; 7 cuộc do bị hỏng phương tiện tàu bè hoặc nhân viên có vấn đề.

Ngày 1/11/1968, tất cả những cuộc hành quân vượt tuyến trong Kế hoạch 37 đều bị đình chỉ. Đến tháng 7/1971, Sở Phòng vệ Duyên Hải đảm nhiệm hoàn toàn các cuộc hành quân xâm nhập biển Bắc Bộ.

Theo tài liệu: “The secret War Against Hanoi” by Richard H. Shultz Jr.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #83 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2011, 09:56:52 pm »

KẾ HOẠCH 39 – CHIẾN TRANH TÂM LÝ

Nằm dưới vĩ tuyến 17, dọc theo hải phận Việt Nam, đến ngoài khơi biển Đà Nẵng có một đảo nhỏ, phương ngữ gọi là Cù Lao Chàm. Khi người Mỹ đến Đà Nẵng, họ gọi là “Hòn đảo thần tiên” (Paradise island). Đảo nhỏ này đã trở thành “vùng đất tự do” cho những ngư dân vùng biển Bắc Bộ bị biệt kích bắt cóc đem đến theo sách lược của “Phong trào Gươm thiêng ái quốc”.

Những người đẹp Đà Nẵng với vòng hoa trong tay để đón lính Mỹ đổ bộ vào ngày 8/8/1965

Theo Kế hoạch 39 (OP 39), trước tiên SOG xây dựng trên hòn đảo những làng nhỏ theo khuôn mẫu những làng chài dọc theo bờ biển Bắc Bộ. SOG để ý đến từng chi tiết nhỏ, sao cho giống hệt khuôn mẫu. Vấn đề còn lại là làm sao đem được những người dân chài miền Bắc đến đảo, mà họ tin rằng vẫn còn sống trên đất Bắc. Để làm được điều đó, SOG lập 1 đơn vị biệt kích biển cho phong trào “Gươm thiêng ái quốc”. Bắt đầu từ tháng 5/1964, những chiếc tàu vũ trang không tên sẽ xâm nhập vào hải phận miền Bắc Việt Nam để bắt cóc ngư dân đem đến Cù Lao Chàm.

Nhân viên, thủy thủ trên những chiếc tàu bí mật đó đều nói giọng miền Trung hoặc miền Bắc Việt Nam, nhiều người di cư vào Nam từ năm 1954. Tàu nào cũng treo cờ của phong trào “Gươm thiêng ái quốc” và thủy thủ đoàn tự xưng là hội viên của phong trào trên.

Như vậy, hoạt động của lực lượng biệt hải là sự kết hợp giữa hai chương trình của Kế hoạch 39 và Kế hoạch 37. Ban Cố vấn Hải quân, thật ra là mật danh của Trung tâm điều hành Kế hoạch 37, đặt tại Đà Nẵng. Trung tâm này chuyên trách quản lý phương tiện tàu bè, nhân viên, thủy thủ biệt phái cho phong trào “Gươm thiêng ái quốc”, để thực thi những hải vụ bắt cóc ngư dân miền Bắc. Thiếu tá Roger Mc Elroy, một trong số rất ít người Mỹ đã từng xâm nhập vùng biển Bắc Bộ, trong một hải vụ, ông ta kể lại rằng: “Những chiếc tàu đó được đóng bằng gỗ để tránh bị radar phát hiện và được giấu ở Đà Nẵng chứ không phải để cho ngư dân trên đảo sử dụng. Thỉnh thoảng, tôi đi theo toán biệt hải. Lúc lên tàu, tôi mặc quần áo ngụy trang, đội lưới che măt và không đem theo bất cứ loại giấy tờ tùy thân nào hay vật dụng gì chứng minh tôi là người Mỹ”. Khi vào đến hải phận miền Bắc Việt Nam, MC Elroy không được lên trên boong tàu, nhiệm vụ của ông ta là liên lạc với lực lượng Hải quân Mỹ đang có mặt ngoài khơi vịnh Bắc Bộ.

Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng, 8/8/1965

Khi bắt được ngư dân hoặc thường dân sống dọc theo bờ biển Bắc Bộ, nhân viên SOG cho họ biết rằng đang nằm trong tay phong trào “Gươm thiêng ái quốc”, một phong trào yêu nước, và họ sẽ được đưa đến phần đất đã được giải phóng dọc theo bờ biển. Những người bị bắt cóc sau đó được giải thích vì lý do an ninh nên phải bịt mắt, đưa xuống hầm tàu. Khi đến Cù Lao Chàm, họ được đưa lên trên boong tàu, gỡ băng bịt mắt ra và trước mắt họ là một làng chài đã được giải phóng, như ở đâu đó ngoài Bắc. Tất cả mới là khúc dạo đầu. Những ngày sau đó là phần tuyên truyền những người bị bắt cóc.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #84 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2011, 10:25:44 pm »

Theo Đại tá Don Blackburn, một trong những ông trùm của SOG thì “Mục đích của Kế hoạch 39 này là làm cho họ tin rằng đang ở trong một làng giải phóng ở miền Bắc. Khi trả họ về, họ sẽ loan tin là lực lượng kháng chiến có thật và đã giải phóng nhiều vùng ở miền Bắc”.

Căn cứ Do Do, Cù Lao Chàm phục vụ cho phong trào "Gươm thiêng ái quốc"

Những người bị bắt cóc sẽ sống trên đảo hoang khoảng ba tuần lễ. Trong khoảng thời gian đó, họ chỉ gặp những người nói giọng miền Bắc, họ ăn uống, nói chuyện về đời sống dưới chế độ cộng sản, những điều về phong trào “Gương thiêng ái quốc”. Lại có người được đưa đi thăm những làng ở trên đồi, gây cho họ ý tưởng về những căn cứ kháng chiến nằm sâu trong vùng rừng núi ngoài Bắc.

Jack Singlaub, người thay Blackburn, kể thêm: “Chúng tôi lo cho họ rất chu đáo, người nào cũng mập ra, chữa bệnh cho họ và làm cho họ cảm thấy sống trong vùng kháng chiến sướng hơn dưới chế độ cộng sản. Chúng tôi lấy tin tức từ những người bị bắt cóc và cho họ biết một số biểu hiện suy đồi của giới lãnh đạo Hà Nội. Những ngư dân đôi khi cũng cho biết tên tuổi của một số viên chức tham nhũng trong chính quyền Hà Nội. Đài Gươm thiêng ái quốc theo đó mà nêu đích danh tên tuổi những giới chức tham ô, lạm dụng quyền lực ở đối phương khá chính xác, gây sự nghi ngờ trong nội bộ chính quyền Hà Nội”.

Trong những ngày cuối cùng ở Cù Lao Chàm, họ được dặn dò liên lạc với phong trào “Gươm thiêng ái quốc” địa phương. Họ được trao quà lưu niệm, những đồ dùng khan hiếm ở miền Bắc và radio để nghe đài “Gươm thiêng ái quốc”. Sau đó, họ được thả về làng cũ bằng cách thức như lúc họ bị bắt cóc đưa đến Cù Lao Chàm.

Năm 1966, được coi là năm hoạt động hiệu quả, 353 ngư dân và thường dân ngoài Bắc được đưa đến Cù Lao Chàm. Từ năm 1964 đến năm 1968, tổng cộng có 1.003 ngư dân và dân thường bị bắt cóc đưa đến Cù Lao Chàm để phong trào “Gươm thiêng ái quốc” “truyền giáo” . Quả thực, Kế hoạch 39 có cách thức hoạt động y như trong tiểu thuyết (!)

Toán Biệt hải tại Đà Nẵng

Trong những hải vụ xâm nhập, đương nhiên không thể tránh khỏi những cuộc đụng độ với tàu tuần tiễu của Bắc Việt. Trong trường hợp này nếu bắt được tù binh thì họ sẽ bị đưa ra tòa án “Gươm thiêng ái quốc”, tù binh sẽ bị khép vào tội “chống lại quê hương của họ” và lãnh án tử hình. Điều đó khác hẳn những gì mà phong trào “Gươm thiêng ái quốc” thường nêu cao là “phụng sự hòa bình”. Do đó, tù binh không bị tử hình mà được đưa đến Cù Lao Chàm. Tại đây, những tù binh luôn được rỉ tai, tuyên truyền kỹ lưỡng. Chưa hết, trước khi được trả về làng cũ, tù binh sẽ bị bắt buộc phải viết giấy thú tội, thề sẽ trung thành với phong trào.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #85 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2011, 11:11:44 pm »

Trong trường hợp ai đó bị khuất phục, họ sẽ được chọn lọc, huấn luyện thêm để làm việc cho phong trào. Khi trở về lại nguyên quán, họ sẽ hoạt động ngầm, tuyên truyền cho phong trào. Những người thật sự muốn ở lại “phần đất tự do” sẽ được đưa tiếp vào miền Nam, sống trong những khu định cư dành cho những phần tử chiêu hồi. Trong tay SOG, phong trào “Gươm thiêng ái quốc” thật sự trở thành công cụ phá hoại, chống lại chế độ xã hội ở miền Bắc, bằng việc xúi giục dân chúng miền Bắc vũ trang chống lại chế độ hoặc tổ chức ám sát giới chức lãnh đạo.

Tuy Hòa, 22/03/1975. Ảnh Nick Út

Tuy nhiên, mọi dự án đều không được chấp thuận. Theo tài liệu đã được giải mã thì Washington có bốn trở ngại. Thứ nhất, bành trướng phong trào “Gươm thiêng ái quốc” sẽ vi phạm đến những điều luật trong hiệp định Geneve, lộ âm mưu chống lại chính quyền Bắc Việt. Thứ hai, Washington lo ngại phong trào sẽ đi quá trớn, rất khó kiểm soát. Thứ ba, nếu gây ra sự khủng hoảng ở miền Bắc, có thể sẽ làm Hà Nội phản ứng mạnh mẽ bằng cách đưa thêm quân vào miền Nam. Thứ tư, nếu giấc mơ chế độ miền Bắc suy sụp trở thành hiện thực, biết đâu Trung Hoa sẽ nhảy vào vòng chiến đấu như cuộc chiến ở Triều Tiên.

Song song với đài “Gươm thiêng ái quốc”, Kế hoạch 39 đã tạo nên nhiều đài phát thanh khác như đài “Tiếng nói tự do” (Voice Of Freedom). Đài này thường đọc tin tức, thông qua các diễn đàn văn hóa để tuyên truyền về đời sống và lối sống tự do theo kiểu Mỹ. Trung bình mỗi tuân đài này phát thanh tới 75 giờ.

Bên cạnh đó còn có đài phát thanh “Cờ đỏ” (Red Flag), tập hợp những phần tử chống cộng quyết liệt, chuyên xuyên tạc, vu khống lãnh đạo và chế độ xã hội ở miền Bắc Việt Nam. Đồng thời đài còn cố tình xuyên tạc, gây hiềm khích giữa các nước XHCN với nhau, hoặc giữa các nước ủng hộ Việt Nam với dân tộc Việt Nam.

Cơ quan Trung ương tình báo Mỹ còn lập đài phát thanh “Sao đỏ” (Red Star) để chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đài này đưa ra khẩu hiệu “Miền Nam Việt Nam là của người miền Nam”.

Tất cả những hoạt động ngoài vĩ tuyến 17 được lệnh chấm dứt vào tháng 11/1968, sau khi chính quyền Johnson quyết định chấp nhận đề nghị của Hà Nội, tìm giải pháp cho hòa bình. Theo đó, Kế hoạch 39 buộc phải bỏ rơi Cù Lao Chàm, vốn được CIA đặt cho cái tên nghe rất cổ tích “Đảo thần tiên”, nhưng lại là nơi toan tính biết bao thứ của họ.

Xuân Lộc, 14/04/1975
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #86 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2011, 09:14:10 pm »

HÀNH QUÂN SHINING BRASS

Năm 1965, Đại tá Donald Blackburn được bổ nhiệm là chỉ huy trưởng Liên Đoàn Nghiên cứu, quan sát (SOG). Là một sĩ quan lâu năm trong lực lượng biệt kích, ông ta rất nổi tiếng về lý thuyết chiến tranh du kích. Theo lệnh của tướng Westmoreland, SOG tiến hành xâm nhập hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh, tuyến giao thông huyết mạch đưa Quân đội Bắc Việt vào chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam.

Vào thời điểm đó, chưa ai biết chắc chắn chuyện gì đang xảy ra bên Lào. Thế là họ thành lập Trung tâm hành quân Shining Brass, do SOG đảm nhiệm, đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Arthur D. “Bull” Simons. Ông ta là một người có tầm vóc đáng nể, rất xứng đáng với danh hiệu “Bò mộng” hay “Người khổng lồ”.

Trong Chiến Tranh Thế Giới lần II, Tiểu đoàn Biệt động quân số 6 của Bull Simons là đơn vị trinh sát, làm tai mắt cho Sư đoàn Dù số 11 của Mỹ, vừa là đơn vị mũi nhọn trong trận đổ bộ lên đảo Leyte, Phillipin.

Đại tá "Bull" Simons (hàng ngồi, thứ 3 từ trái sang) cùng các thành viên Tiểu đoàn đặc nhiệm số 6. Chính Simons là người chỉ huy cuộc tập kích Sơn Tây ngày 21/11/1970, với thành phần chính được chọn từ Tiểu đoàn Đặc nhiệm số 6 & 7

Đại tá Bull Simons từng biết vùng Nam Lào, bởi trước đó ông ta đã tuyển mộ, huấn luyện người dân tộc Kha cho CIA vào những năm 1961-1962. Khi Hiệp định Geneva 1962 về trung lập hóa vương quốc Lào được ký kết, Bull Simons cùng những phi vụ mật của ông ta ở Lào cũng tạm thời chấm dứt.

Trung tâm hành quân Shining Brass tuyển quân tình nguyện từ Liên đoàn biệt kích số 1 của Mỹ và bắt đầu huấn luyện tại Okinawa, Nhật Bản. Đến cuối mùa hè 1962, có 16 biệt kích Mũ Nồi Xanh đã kết thúc khóa huấn luyện, đủ khả năng tăng cường cho 5 toán thám báo, còn thừa 1 người làm dự bị. Theo cách thức tổ chức của Bull Simons, mỗi toán thám báo sẽ gồm 2 hoặc 3 biệt kích Mũ Nồi Xanh của Mỹ và 9 biệt kích quân tuyển mộ từ các bộ tộc thiểu số của Lào. Toán thám báo hỗn hợp này có đầy đủ kinh nghiệm để thực thi những phi vụ được giao, lại thêm được CIA trang bị đầy đủ các phương tiện, vũ khí, máy móc tối tân; cộng với kinh nghiệm đi rừng, mật phục của các biệt kích quân người dân tộc thiểu số, chiếm số lượng chủ chốt trong toán, thì chắc chắn sẽ giảm thiểu những thiệt hại về nhân mạng cho lực lượng Mũ Nồi Xanh của Mỹ.

Lúc đầu, quân số của toán thám báo hỗn hợp phần lớn là người Nùng. Gốc gác của họ từng định cư ở phía nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, họ được người Pháp biết đến như là những chiến binh can trường. Đặc biệt là về những hoạt động biệt kích trong lòng đối phương, họ luôn tỏ ra có khả năng trội hơn. Vì vậy, chính quyền Sài Gòn luôn dành cho họ những đặc quyền như: không phải động viên và thực hiện luật nghĩa vụ quân sự; các quân nhân Nùng có cấp bậc thấp đều được trợ cấp 60 USD/ 1 tháng, tương đương với mức lương của sĩ quan cấp Úy trong Quân đội Sài Gòn.

Theo kế hoạch của Bull Simons, trước tiên các toán thám báo sẽ do thám để phát hiện các căn cứ, nơi đóng quân của Quân đội Bắc Việt. Sau đó, chỉ điểm cho máy bay đến oanh kích các mục tiêu trên. SOG tổ chức thêm những đại đội xung kích, sử dụng chiến thuật trực thăng vận tấn công chớp nhoáng vào những căn cứ, sở chỉ huy, kho quân dụng của đối phương do những toán thám báo tìm ra. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ về hỏa lực của không quân, các đại đội xung kích (Hatchet Force) được máy bay đổ bộ xuống, tràn vào các mục tiêu, phá hủy rồi rút nhanh, trước khi đối phương kịp trở tay. Những đợt tấn công chớp nhoáng này đều nằm trong chương trình  giai đoạn hai của cuộc hành quân.

Đến giai đoạn ba, SOG sẽ tuyển quân từ các bộ tộc thiểu số của Lào, tiến hành phục kích phá hoại các đơn vị Bắc Việt; khiến họ phải tập trung vào vấn đề an ninh. Theo tính toán của Blackburn, lúc đó đối phương sẽ là miếng mồi ngon lành cho các phi vụ oanh kích của máy bay và các đại đội xung kích. Tuy nhiên kế hoạch của Đại tá Blackburn bị viên Đại sứ Mỹ tại vương quốc Lào là William Sullivan ngăn cản. Ông đại sứ giới hạn phạm vi hoạt động của SOG chỉ trong hai ô vuông trên bản đồ dọc theo biên giới Việt – Lào. Ông ta còn ra điều kiện cho tất cả các cuộc oanh kích đều phải xuất phát từ lãnh thổ Thái Lan và cấm sử dụng trực thăng đổ quân xâm nhập. Vì vậy các toán thám báo đều phải đi bộ xâm nhập vào đất Lào, mặc dù họ vẫn có thể được trực thăng bốc về trong trường hợp khẩn cấp.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Hai, 2011, 09:28:28 pm gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #87 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2011, 10:13:24 pm »

Để tránh rắc rối với vị Đại sứ Mỹ tại Lào, Đại tá Blackburn quay sang xin một phi đoàn trực thăng 219 của Không quân Quân đội Sài Gòn, đóng tại Đà Nẵng biệt phái sang Lào. Tuy rằng những phi công trong Phi đoàn 219 đều lái những chiếc trực thăng H34 cũ kỹ, nhưng rất bảo đảm, vì họ được đánh giá là những quân nhân can đảm và là niềm kiêu hãnh của lực lượng SOG, do đã giải cứu được nhiều biệt kích quân.

Trung Lập, 14/01/1966

Đầu tháng 9/1962, Đại tá Bull Simons lập sở chỉ huy tiền phương của cuộc hành quân Shining Brass tại Đà Nẵng, do Trung tá Ray Call chỉ huy. Sở chỉ huy tại Sài Gòn bắt đầu gọi Sở chỉ huy ở Đà Nẵng là tiền phương của tiền phương cho các toán viễn thám trong cuộc hành quân Shining Brass. Sau này Sở chỉ huy trên trở thành sở chỉ huy vùng như các sở chỉ huy Bắc, Trung, Nam (CCN, CCC, CCS). Riêng Sở chỉ huy Đà Nẵng nằm trong phi trường.

Tuy nhiên, Đà Nẵng vẫn còn cách xa biên giới Việt – Lào, mà Trung tâm hành quân Shining Brass cần 1 căn cứ hành quân cụ thể (FOB) để làm nơi chứa quân, cung cấp nhiên liệu cho trực thăng và đưa các toán thám báo xâm nhập. Họ quyết định sử dụng trại biệt kích Khâm Đức, cách Đà Nẵng 60 dặm về hướng tây nam, cách biên giới Việt – Lào chừng 10 dặm, làm căn cứ hành quân. Thiếu tá Charlie Norton được chỉ định làm chỉ huy trưởng căn cứ, Đại úy Larry Thorne chịu trách nhiệm thả các toán thám báo.

Trước mắt đã có 5 toán biệt kích đầu tiên (Iowa, Alaska, Idaho, Kansas và Dakota) kết thúc khóa huấn luyện tại trại Khâm Đức. Toán trưởng mỗi toán có mật hiệu là “Một – không” (One – Zero); toán phó là “Một – một”; nhân viên truyền tin là “Một – hai”. Ngoài ra, có thể có thêm thành viên người Nùng, hoặc thêm 1 sĩ quan biệt kích của Quân đội Sài Gòn đi theo để học hỏi kinh nghiệm về kỹ thuật thám báo.

Toán đầu tiên xâm nhập lãnh thổ Lào, trong chương trình hành quân Shining Brass là toán Iowa gồm 2 biệt kích quân Mỹ, 1 sĩ quan biệt kích Quân đội Sài Gòn và 7 biệt kích quân Nùng. Họ mặc quân phục không cấp bậc, phù hiệu đơn vị; quần áo, ba lô đều sản xuất tại Việt Nam. Vũ khí toán Iowa được trang bị gồm tiểu liên 9 ly của Thụy Sĩ; súng ngắn 9 ly của Bỉ. Tất cả đồ trang bị cho họ đều bí mật, trong trường hợp bị phát hiện, đối phương cũng không thể biết họ là ai.

Toán Iowa

Trong trường hợp toán bị bắt sống, các thành viên Iowa được dặn dò phải trả lời rằng họ trên đường đi tìm chiếc máy bay C123 bị bắn rớt và không ngờ “đi lạc” sang biên giới. Để câu trả lời có thêm trọng lượng, SOG còn làm thêm bản đồ giả, trong đó có đường biên giới quốc gia Việt – Lào dời sang lãnh thổ Lào tới 10 km về hướng tây (!)

Mặc dù Hà Nội không công nhận có quân ở bên Lào, nhưng đến tháng 10/1965, quân phòng vệ, công binh, tiếp vận của họ ở bên Lào lên đến 30.000 quân, chưa kể 4.500 quân xâm nhập vào miền Nam hàng tháng. Khoảng 200 xe vận tại chở đồ tiếp tế di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh hàng tháng. Đến mùa khô 1964-1965, qua không ảnh do máy bay thám thính U -2 chụp được cho thấy đối phương mở thêm đường mới bên Lào và đã thông đường cho xe vận tải.

Mục tiêu cho toán Iowa là D-1, ở vị trí khoảng 20 dặm về hướng tây bắc Khâm Đức, nơi có đường 165 của Lào đến gần biên giới. Mục tiêu D-1 là vị trí mà quân Mỹ nghi quân Bắc Việt đặt súng cối bắn hỏa tiễn vào các đơn vị thủy quân lục chiến và căn cứ không quân Mỹ đóng tại Đà Nẵng.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #88 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2011, 12:04:59 am »

Ngày 18/10/1965, báo chí Mỹ đăng tin Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 của họ chạm trán quyết liệt với 2 Trung đoàn 66 và 33 của Quân đội Bắc Việt tại thung lũng Ia Drang. Không ai biết cùng thời điểm ấy, tại trại Khâm Đức đang diễn ra một phi vụ bí mật.

Thung lũng Ia Drang, nơi 2 bên chủ động gặp nhau, và trở thành 1 trong
những trận đánh đẫm máu nhất trong chiến tranh VN

Đầu giờ chiều, tất cả các thành viên trong toán Iowa đều mở ba lô ra để kiểm tra mọi tư trang lần cuối cho chắc chắn. Họ không được phép mang theo những gì liên quan đến Mỹ. Trong khi các biệt kích quân đang thử lại súng của họ thì Thiếu tá Norton, Đại úy Thorne đưa các phi công Việt Nam, phi công trực thăng yểm trợ và máy bay thám thính, điều hành không yểm trợ tiền tuyến (FAC) đến Trung tâm hành quân bàn kế hoạch thả toán biệt kích Iowa.

Nơi thả toán Iowa là một khu vực cây cối đã bị đốn và đốt cháy, vì dân tộc Lào cũng như ở Việt Nam có thói quen đốt rừng làm rẫy. theo kế hoạch, toán sẽ được thả vào lúc trời sắp tối. Như vậy, đối phương sẽ không có thời gian cho quân truy lùng như ban ngày. Trường hợp chạm trán với đối phương ngay tại bãi đáp thì trực thăng H34 do phi công Việt Nam lái sẽ bốc toán biệt kích lên, trong lúc các trực thăng vũ trang khác bắn yểm trợ.

Lúc 18h kém 15’ chiều ngày 18/10/1965, máy bay thám thính (FAC) do Thiếu tá không quân Harley Pyles cất cánh trước, chở theo sĩ quan không yểm của SOG tại Sài Gòn là Đại úy thủy quân lục chiến Winfield Sisson. Vài phút sau, Harley Pyles báo cáo về là thời tiết có mây thấp cùng với sương mù. Lập tức lệnh thả toán thám báo được ban ra. Ba chiếc H34 nổ máy, sẵn sàng cất cánh. Các biệt kích quân Mỹ đều phải để lại tất cả giấy tờ tùy thân, từ thẻ bài, thẻ căn cước, cho đến thuốc lá Mỹ. Trong trường hợp họ bỏ mạng, không lấy được xác, thì chính quyền Mỹ sẽ chối bay về hành tung của họ. Xem ra người Mỹ quả là người biết tính toán kỹ.

Đúng 18 giờ chiều, những chiếc trực thăng cất cánh, đem theo toán Iowa. Còn những chiếc trực thăng vũ trang bay theo yểm trợ. Đến địa điểm quy định, ba chiếc H34 đáp xuống chớp nhoáng, thả toán Iowa biến mất vào trong rừng. Đại úy Thorne, người chịu trách nhiệm thả toán Iowa lệnh cho 2 chiếc H34 bay về trước, tiếp theo là máy bay thám thính và trực thăng vũ trang. Thorne chờ cho đến khi toán Iowa báo cáo đã đáp đất an toàn rồi mới bay trở về Khâm Đức. Thế nhưng, Đại úy Thorne cùng chiếc H34 của Phi đoàn 219 không quân Sài Gòn đã mất tích không hiểu vì lý do gì. Thế là ngay phút đầu tiên mở màn, cuộc hành quân Shining Brass đã bị tổn thất.


Chiếc máy bay thám thính do Thiếu tá Pyles lái cùng với Đại úy Sisson cất cánh rời trại Khâm Đức, trên đường về căn cứ Đà Nẵng cũng biến mất luôn. Trong một ngày, Quân đội Mỹ đã mất đi ba quân nhân không tìm ra tung tích. Phải đến 38 năm sau, vào năm 2003, người ta mới tìm ra hài cốt của họ.

Rạng sáng ngày hôm sau, 19/10/1965, Thiếu tá Norton được báo cáo rằng toán Iowa đã đến mục tiêu D-1, có Quân  đội Bắc Việt trong khu vực. Đối phương có mặt khắp nơi, đóng quân rải rác dọc theo hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh. Sang ngày thứ 3 (20/10), sau khi đi qua nhiều nhánh đường mòn, toán Iowa hướng về khu vực có tiếng động cơ xe vận tải để quan sát. Họ chạm trán với toán quân Bắc Việt đang đi tuần. Hai bên nổ súng, một biệt kích Nùng đi dầu trúng đạn gục xuống, quân Bắc Việt ráo riết đuổi theo.
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Hai, 2011, 01:21:41 am gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #89 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2011, 12:47:00 am »

Sau này, Thiếu tá Norton nhớ lại: “Chúng tôi không thể đem trực thăng vào bốc họ ra được”. Do phải đem theo trang bị cùng xác chết biệt kích quân xấu số, toán Iowa lẩn tránh quân Bắc Việt truy lùng một cách chậm chạp. Quân Bắc Việt quyết định tách thành 2 cánh như cánh quạt và tiếp tục truy lùng toán biệt kích. Hai hôm sau, trời quang đãng, toán Iowa gọi 37 cuộc cho máy bay F105 đến oanh kích, rồi trực thăng H34 vào bốc toán Iowa ra khỏi vùng nguy hiểm.

21/09/1966. Thủy quân lục chiến Mỹ sau 3 đêm liên tiếp bị Sư đoàn 324B Bắc Việt Nam tấn công

Mục tiêu kế tiếp trong cuộc hành quân Shining Brass nằm cách mục tiêu trước chừng 10 dặm. Đó là một con đường lớn gần biên giới, nơi quân Bắc Việt chọn làm binh trạm, dự trữ vật chất cho những trận tấn công trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Vị trí này được đặt tên là A1. Mục tiêu tấn công nằm trong thung lũng, có cỏ tranh cao, rất dễ để lại dấu vết cho đối phương.

Ngày 20/11/1965, toán thám báo Alaska có 3 biệt kích quân Mỹ xâm nhập mục tiêu A1. Quân Bắc Việt báo động có biệt kích xâm nhập. Hai bên chơi trò mèo vờn chuột cả đêm. Toán Alaska phát hiện ra một hệ thống đường mòn cho xe đạp và đi bộ, xuất phát từ đường 165 bên Lào và dẫn đến nơi xuất hiện những toán tuần tiễu của đối phương đang truy lùng họ. Sau 3 ngày lẩn trốn, đến ngày thứ tư, toán biệt kích Alaska bị Quân đội Bắc Việt tìm ra.

Sau này, một trong số biệt kích quân sống sót nhớ lại: “Chúng tôi chạy hoài, chạy mãi trong nỗi sợ hãi”. Sau cùng toán Alaska quyết định chạy lên 1 ngọn đồi cao nhất, dùng máy truyền tin liên lạc yêu cầu bốc toán về. Quân Bắc Việt bao vây tứ phía. Trên đỉnh đồi là đám cỏ tranh cao hơn đầu người, họ liên lạc được với máy bay thám thính (FAC) và được biết những máy bay oanh kích cùng trực thăng cấp cứu đang trên đường đến mục tiêu. Quân Bắc Việt đốt đám cỏ tranh không cho máy bay tìm thấy toán biệt kích và để bắt sống toán Alaska. Đám biệt kích ráng chịu đựng khói không ra hàng. Mười phút sau, những chiếc F105 đến oanh kích không cho đối phương tiến lên đồi, rồi một chiếc H34 khẩn cấp đáp xuống giữa đám cháy, bốc toán Alaska ra. Trong mắt các biệt kích quân, những phi công của Phi đoàn 219 đã trở thành ân nhân cứu mạng họ.

Đầu tháng 12/1965, những toán thám báo Kansas và Idaho cũng từ trại Khâm Đức xuất phát xâm nhập đất Lào. Tiếp theo đến lượt toán Idaho cũng phải chịu cảnh vừa chạy, vừa tìm lối thoát thân.

Toán Idaho

Sau vụ đó, Đại tá Bull Simons quyết định đổi hướng xâm nhập. Ngày 11/12/1965, một đoàn 24 chiếc B52 lần đầu tiên thả 2.600 quả bom xuống lãnh thổ Lào, theo sự chỉ điểm của toán biệt kích Iowa.

Sau trận mưa bom này, Đại tá Bull Simons quyết định đổi hướng cuộc hành quân Shining Brass xuống phía nam Lào, giáp với cao nguyên Trung phần của miền Nam Việt Nam. Những toán thám báo từ sân bay Dakto, tiến hành thăm dò vùng lân cận đường 110E của Lào; tìm kiếm các căn cứ của đối phương cũng như hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh ở Tây Trường Sơn, tiến sâu vào lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tại mục tiêu K1, toán thám báo Kansas mới xâm nhập đã chạm trán với đối phương, buộc phải phân tán. Hai biệt kích quân người Nùng bị mất tích. Toán Idaho nhảy vào cũng chạm trán đối phương, một biệt kích Mũ Nồi Xanh Mỹ bị thương, một biệt kích Nùng tử trận. Tính đến cuối năm 1965, có tất cả 8 chuyến xâm nhập lãnh thổ Lào thuộc chương trình hành quân Shining Brass. Sáu chuyến trong số đó phát hiện ra căn cứ, đường mòn hoặc kho tiếp vận của đối phương.


Trung bình sau mỗi chuyến xâm nhập khoảng 5, 6 ngày sau, các toán thám báo sẽ bay về Sài Gòn để báo cáo kết quả về chuyến xâm nhập với chỉ huy SOG. Những buổi tường trình có thể kéo dài nửa ngày hoặc nhiều ngày. Cuối cùng CIA cũng biết được giá trị của đường mòn Hồ Chí Minh ở tây Trường Sơn (trên đất Lào) trong cuộc chiến Việt Nam.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM