Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:26:21 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội VNCH  (Đọc 384548 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #50 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2011, 05:08:07 pm »

Trịnh Văn Truyên, nguyên là thủy thủ chiếc tàu Nautilus 3, có vợ là Thúy, đến định cư với chồng ở Biloxi, tiểu bang Mississippi và Truyên trở lại nghề biển. Thúy bị bắn ở New Orleans, tiểu bang Louisianna ngày 31/7/1990 trong một vụ cướp. Đám cướp chỉ lấy được chiếc bóp đầm không có tiền. Lúc đó bà ta đang có thai 7 tháng, đứa bé chưa chào đời đã phải cùng mẹ đi vào cõi hư vô. Thúy là một người đàn bà cứng cỏi, nhưng không cứng hơn người chồng của mình khi ông ta sống trong trại giam trên đất Bắc. Nhưng cái “chủ nghĩa quốc gia” mà anh ta tôn thờ cũng chẳng bảo vệ được vợ con anh ta ngay trên đất Mỹ vốn được xưng tụng là tự do nhất. Có thể cái chết thảm thương của mẹ con Thúy đã phần nào làm anh ta tỉnh ngộ. Với trái tim tan nát, anh ta thốt lên: “Nếu tôi biết được những chuyện mà giờ đây tôi tin là sự thật, tôi đã cho nhiều kẻ về chầu trời”.

Một trong những cựu biệt kích quân đầu tiên rời tổ quốc mình là Nguyễn Văn Hinh, nguyên là thành viên của toán Atila, anh ta vượt biển đến trại tị nạn của Singapore. Lúc phỏng vấn định cư, người Mỹ tỏ ra không tin câu chuyện về khoảng thời gian Hinh bị cải tạo lao động trên đất Bắc, nên đã nói không với nguyện vọng định cư của anh ta. Không những thế, họ còn nghi ngờ anh là phạm nhân đã tạo dựng nên một nhân vật không có thật. Trong thời gian sống ở trại tị nạn Singapore, anh ta gặp một phụ nữ, nguyên là một nữ tu. Sau đó chị ta phá giới chẳng hiểu vì lý do gì, nhưng cứ đổ nghiến cho “cộng sản không cho phép” để kết hôn với Hinh. Rồi hai người ung dung đến định cư ở Hà Lan. Hinh rất ít viết, vì theo anh ta thì đã viết quá nhiều bản tự khai trong trại giam. Nhưng lý do chính là vợ chồng anh ta muốn quên đi quá khứ của mình. Đó là điều dễ hiểu.

Hai biệt kích quân khác là Trần Văn Tư và Nguyễn Văn Lực đến định cư ở Úc đều cùng tâm trạng như Hinh. Quá khứ chẳng làm họ vẻ vang, cũng không đem lại cơm no, áo ấm cho các cựu biệt kích quân. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những “người hùng” biệt kích quân khác chẳng thể quên quá khứ của họ một cách dễ dàng. Như trường hợp của Mai Văn Học, Hoàng Văn Chương trong các toán Strata. Lưu Chí Chấn, Châu Hềnh Xương, Lý Sĩ Lâu, Vũ Đức Gương cùng những cựu biệt kích quân người nhái khác từng xâm nhập hải phận Bắc Việt. Năm 1986, vì cảm thấy quá bất công, Vũ Đức Gương làm đơn khiếu nại, yêu cầu chính phủ Mỹ trả lương cho anh ta trong thời gian suốt 20 năm mà anh ta bị cải tạo lao động ở Bắc Việt. Thế nhưng tòa án Liên Bang lại cho rằng không đủ căn cứ về cuộc hành quân, cộng thêm lý do tài liệu lưu trữ về lực lượng biệt kích của Bộ quốc phòng Mỹ vẫn chưa được giải mã, đang còn trong thời gian bảo mật. Giờ đây lý do này không còn là vấn đề trở ngại. Thế mà những cựu biệt kích quân vẫn bị chính phủ Mỹ chối bỏ.

Biệt kích Nùng tại Daklak 1966

Hầu hết các cựu biệt kích quân đã định cư ở Mỹ đều cố gắng xây dựng cho mình một mái ấm gia đình, có người được xem là thành công, nhưng số đó không nhiều. Thỉnh thoảng, họ gặp lại nhau, bùi ngùi bên ly rượu mỗi khi nhớ về quá khứ nặng nề, về những người đã khuất. Và những người còn lại đều tin vào định mệnh. Khi họ lọt vào mắt CIA, được phong là những “người hùng”, rồi bị bắt và rồi nghiền ngẫm sự đời sau những song sắt trại giam trên đất Bắc, hầu hết lúc đó họ đều rất trẻ. Tuổi đời chỉ khoảng 20 và còn độc thân. Giờ thì đã lên lão, có người nhuộm tóc để đuổi thời gian đi và trẻ lại thêm ít tuổi.

Người viết những trang sách này chẳng có tham vọng nào, chỉ mong sao cho đàn con cháu của họ lớn lên, đọ những trang viết này sẽ hiểu thêm rõ về cha, ông của chúng, những người được cho là may mắn hơn trong nhóm biệt kích. Nhưng không thể không nói đến những biệt kích quân khác kém may mắn như: Hoàng Ngọc Chính, Đoàn Phương, Nguyễn Văn Lý. vì quá chán ngán vì phải chờ đợi phúc đáp của chính phủ Mỹ và nôn nóng đi tìm vận may ở “miền đất hứa”, như lời hứa của CIA, họ tìm cách vượt biên. Phương và Lý đi theo đường biển. Còn Chính theo đường bộ sang đất Campuchia. Rốt cuộc, cả ba “người hùng” đều mất tích cho đến nay.

Chiến tranh đã đẩy những cô gái ở nông thôn dồn về thành thị, họ buộc phải tìm mọi cách để mưu sinh
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Hai, 2011, 07:18:32 am gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #51 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2011, 05:36:01 pm »

Lê Trung Tín, nguyên là thành viên của toán biệt kích Red Dragon từ Trung Hoa lục địa quay trở lại xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Hiện Tín đang lo thuyết phục giới chức phỏng vấn của Sở Di trú Mỹ tại Sài Gòn về câu chuyện của mình. Rằng, Tín cùng một chiến hữu nữa là Vòng A Cầu đã trốn khỏi trại giam và họ là hai người đầu tiên sống sót sau khi trốn trại. Thế nhưng Sở di trú Mỹ cho rằng họ ngồi tù cộng sản chưa đủ lâu, nên không hội đủ điều kiện xin cư trú ở Mỹ. Thật không còn gì để nói.

Một người kém may mắn khác là Hoàng Đình Mỹ, nguyên là thành viên của toán biệt kích Hector. Tháng 12/1984, Mỹ đứng trước vành móng ngựa của TAND Tp Sài Gòn lãnh án vì tội tham gia vào tổ chức do Lê Quốc Túy, một Việt kiều Pháp đứng đầu. Vì thế, năm 1995 anh ta vẫn còn thụ án tại một trại giam ở Nha Trang. Thực ra Mỹ đã được trả tự do từ trại giam Thanh Lam trên đất Bắc từ năm 1981. Sau đó Mỹ trở về sum họp với gia đình, nhưng chẳng hiểu ma xui, quỷ khiến thế nào mà Mỹ lại vượt biên sang Thái Lan, gia nhập tổ chức phản động của Lê Quốc Túy. Năm 1982, Mỹ xâm nhập về Việt Nam và bị bắt ngay trong tuần đầu.

Xuân Lộc, 18/4/1975

Nguyễn Văn Tân, nguyên thành viên của toán biệt kích Romeo, từng tuyệt thực trong trại giam năm 1973 để bảo vệ cho cái gọi là “chủ nghĩa quốc gia”“tinh thần chống cộng đến cùng”. Đến năm 1988, Tân nộp đơn xin trợ cấp thương tật khi đã định cư ở Mỹ, liền bị tay bác sĩ khám bệnh cho Tân khẳng định như đinh đóng cột rằng: “Tâm thần của anh có điều gì đó không hay! (không làm việc bình thường được nữa)”.

Còn Lương Văn Inh, nguyên là thành viên của toán biệt kích God, lại lên vùng Đức Trọng, Lâm Đồng thuộc nam Tây Nguyên lập nghiệp. Đầu tháng 6/1994, Inh bị tái phát bệnh sốt rét. Vị y sĩ địa phương khuyên vợ Inh nên đưa anh ta vào bệnh viện. Giữa cơn mưa bão lúc nửa đêm, hai người con trai của Inh cùng hai người hàng xóm cáng Inh từ trên núi xuống đường quốc lộ, cách nhà Inh khoảng 4 km. Inh đã chết trên đường đến bệnh viện. Vợ Inh, một phụ nữ rất mực yêu chồng đã viết thư cho tác giả Tourison rằng:” Điều duy nhất chồng tôi mong muốn là các con tôi được ăn học tử tế, thành người. Nhưng giờ anh ấy không còn nữa”.
Câu chuyện về số phận các cựu biệt kích quân Sài Gòn có lẽ còn lâu mới kết thúc, cho đến khi nào chính phủ Mỹ thôi bỏ rơi họ.

Toán Idaho

Trước sự bất bình của các cựu biệt kích quân Việt Nam và áp lực dư luận, ngày 23/3/1995, viên Đại sứ Mỹ tại Thái Lan đã gửi bức công hàm dài 5 trang giấy đến Bộ ngoại giao và Sở di trú nước này đặt câu hỏi: “Tại sao hầu hết các cựu biệt kích quân còn sống sót sau năm 1975 đều bị Sở di trú Thái Lan từ chối?”. Kết quả là tháng 5/1995, Sở di trú Mỹ phải thay đổi điều kiện nhập cảnh cho các cựu biệt kích quân Sài Gòn.

Trước đó, ngày 14/4/1995, tờ New York Times đăng bài viết của Tim Weiner về những cố gắng của viên Đại sứ trong việc sửa chữa việc làm sai trái của Sở di trú. Vài hôm sau, câu chuyện về số phận hẩm hiu của các cựu biệt kích quân Sài Gòn được nhiều người biết đến. Ngay cả cựu Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam là tướng William C. Westmoreland, rồi Thiếu tướng John Morrison, chuẩn tướng George Gaspard, thượng nghị sĩ Mc Cain cũng viết thư gửi thẳng cho Sở di trú Hoa Kỳ.

Cảnh hỗn loạn tại bãi biển Đà Nẵng ngày 29/3/1975. Dùng đủ mọi cách để bơi ra tàu.

Ngày 24/4/1995, John Mattes, một luật sư ở Miami, Florida đưa đơn kiện Chính phủ Mỹ tại tòa án liên bang ở thủ đô Washington, đòi bồi thường cho 281 cựu biệt kích quân Sài Gòn trong các trại cải tạo lao động hoặc đã chết trong các phi vụ xâm nhập lãnh thỗ Bắc Việt Nam. Rằng Chính phủ Mỹ phải trả lương cho họ xứng đáng theo đúng bản hợp đồng tuyển mộ các biệt kích quân Sài Gòn ở Nam Việt Nam.



Theo tài liệu: “Secret Army, Secret War”, by Sedgwick Tourison.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Hai, 2011, 08:53:09 pm gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #52 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 08:57:58 pm »

LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

1.  Lời giới thiệu

Từ năm 1957, đã có quân của Lực lượng đặc biệt (biệt kích) Mỹ hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Vào thời điểm đó, họ mới chỉ đảm nhiệm việc huấn luyện trên cương vị cố vấn, mang tính chất nâng đỡ cho Quân đội Sài Gòn.

Thông thường những biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ phải tình nguyện tới hai lần. Lần đầu học nhảy dù và sau đó học về chiến, kỹ thuật của Lực lượng đặc biệt (từ đây gọi là biệt kích).

Daklak 1966

Ngày 24/6/1957, Liên đoàn biệt kích 1 được thành lập tại Okinawa và lập tức cử một bộ phận sang Nam Việt Nam huấn luyện cho 58 biệt kích quân của Quân đội Sài Gòn tại Trung tâm huấn luyện Biệt động đội ở Nha Trang. Những sĩ quan Sài Gòn tham dự khóa huấn luyện này về sau đều trở thành huấn luyện viên hoặc chỉ huy nòng cốt cho các đơn vị biệt kích đầu tiên của Quân đội Sài Gòn. Mười năm sau (1967), lực lượng biệt kích Mỹ với vai trò cố vấn đã yểm trợ cho trên 40.000 dân sự chiến đấu, hoạt động trên khắp lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

2. Bước phát triển

Trong những năm từ 1959-1960, với sự gia tăng cả về quân số cũng như hoạt động hiệu quả của Việt cộng trên chiến trường miền Nam, làm tăng thêm sự bất ổn đối với chính quyền Sài Gòn, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Để cải thiện tình hình, Quân đội Mỹ buộc phải gửi thêm 30 huấn luyện viên biệt kích Mũ Nồi Xanh từ căn cứ Fort Bragg sang Nam Việt Nam để xây dựng một chương trình huấn luyện cho Quân đội Sài Gòn.

Ngày 21/9/1961, Tổng thống thứ 35 của nước Mỹ là John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân sách viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn. Vì Chính phủ Mỹ lo ngại về sự gia tăng chi viện người và vũ khí của Cộng sản vào miền Nam, do đó phải tìm cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán biệt kích Mũ Nồi Xanh được giao trách nhiệm tổ chức và huấn luyện những đơn vị chiến đấu là người dân tộc thiểu số để phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của qâun đội Bắc Việt từ Bắc vào Nam. Về sau những đơn vị chiến đấu này được gọi là “Lực lượng Dân sự chiến đấu” (CIDG - Civilian Irregular Defense Group).

CIDG, biên giới Việt Nam - Campuchia 11/11/1969

Bước vào những năm 60 của thế kỷ XX, dường như cộng sản miền Nam có sự trỗi dậy mạnh mẽ. Chính phủ Mỹ quy hết nguyên nhân đều do sự gia tăng chi viện của Bắc Việt. Do đó càng quyết tâm ngăn chặn và phá hoại bằng được con đường tiếp tế chiến lược - đường mòn Hồ Chí Minh.

 Trước hết, Chính phủ Mỹ gửi Liên đoàn biệt kích số 5 sang Nam Việt Nam, chuyên trách đảm nhiệm các hoạt động, các cuộc hành quân đặc biệt trên chiến trường miền Nam. Để thích ứng với vai trò mới này, Bộ Tham mưu liên quân Mỹ quyết định tổ chức lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh sao cho thích ứng với các cuộc hành quân ngoại lệ, mà giới khoa học quân sự Mỹ đưa ra khái niệm mới là “ba khía cạnh liên hệ mật thiết trong du kích chiến tranh gồm trốn tránh, đào tẩu và gậy ông lại đập lưng ông, chống lại đối phương”. Còn chiến tranh ngoại lệ được định nghĩa là: “Hoạt động ngay trong lòng đối phương hoặc những nơi đối phương kiểm soát”.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #53 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:09:31 pm »

Theo đó, cơ cấu tổ chức cơ bản của Liên đoàn biệt kích số 5 gồm: Bộ chỉ huy trung tâm, Ban chỉ huy các đại đội gồm 3 đại đội hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi đoàn không quân yểm trợ. Từ Bộ chỉ huy trung tâm cho đến Ban chỉ huy các đại đội đều có đủ các Ban tham mưu để chỉ huy và theo dõi tình hình hai bên. Ngoài ra còn có các đơn vị bảo đảm như quân y, tiếp tế thả dù. Mỗi đại đội biệt kích thường do một sỹ quan cấp bậc trung tá chỉ huy. Thông thường gồm có một Ban Tham mưu và một Bộ chỉ huy hành quân (C), Bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba ban chỉ huy hành quân (B), mỗi ban chỉ huy hành quân sẽ chỉ huy bốn toán biệt kích (A). Toán biệt kích hay phân đội được biên chế 12 biệt kích quân.

3. Lực lượng dân sự chiến đấu

Có hai lý do thúc đẩy việc tổ chức lực lượng “Dân sự chiến đấu”. Một là Chính phủ Mỹ cho rằng nên vũ trang nhóm người dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của cộng sản. Lý do thứ 2 là người Thượng và các dân tộc thiểu số nói chung là đối tượng chính cho việc tuyên truyền của cộng sản, họ bất bình với chính quyền Sài Gòn, lại dễ bị cộng sản lợi dụng, lôi kéo, tuyển mộ.

Với quan điểm trên, tháng 9/1962, Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt (biệt kích Mỹ tại Việt Nam) được thành lập, trực thuộc bộ Tư lệnh phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài Gòn (MACV). Tính đến tháng 10/1962 có tất cả 24 toán biệt kích Mỹ hoạt động trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tháng 11/1963, lực lượng biệt kích Mỹ tại Việt Nam được tổ chức gồm Bộ chỉ huy (C), ba Ban chỉ huy (C) và 26 toán (A). Ngoài ra còn có Bộ chỉ huy Trung tâm đặt tại Sài Gòn. Bộ chỉ huy không đơn thuần chỉ huy, điều hành mà làm chức năng như là Bộ tư lệnh binh chủng của lực lượng đặc biệt ở chiến trường Việt Nam.

Từ tháng 12/1962 đến 2/1963, Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích Mỹ đảm đương hoàn toàn việc chỉ huy mọi hoạt động của các toán biệt kích tại Việt Nam. Vào thời điểm đó các toán biệt kích Mỹ đã thiết lập những trại Dân sự chiến đấu trên khắp bốn vùng chiến thuật của Quân đội Sài Gòn. Những Ban chỉ huy khu vực (B) được thành lập tại mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của Quân đội Sài Gòn và trực tiếp chỉ huy các toán biệt kích. Các toán biệt kích được lâm thời tổ chức trên cơ sở tạm thời điều động quân của Liên đoàn 1 từ Okinawa và 2 Liên đoàn 5, 7 biệt kích từ Fort Bragg, Bắc Carolina.

Đến tháng 12/1963, các toán biệt kích Mỹ phối hợp với lực lượng biệt kích của quân đội Sài Gòn đã được huấn luyện và trang bị, gồm 18.000 quân thuộc lực lượng xung kích; 43.000 quân thuộc lực lượng “Phòng vệ dân sự”. Tháng 2/1963, Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt Mỹ từ Sài Gòn rời đi Nha Trang, với 2 lý do: thứ nhất, Nha Trang nằm ở khoảng giữa từ vĩ tuyến 17 đến Nam bộ, rất thuận tiện cho việc điều hành các toán biệt kích nằm rải rác khắp miền Nam Việt Nam. Thứ 2, Nha Trang nằm bên bờ biển, thuận lợi cho việc tiếp nhận vũ khí, trang thiết bị viện trợ đến từ Okinawa, lại có sân bay và hệ thống đường bộ rất tiện cho việc vận chuyển, tiếp tế hậu cần.

Cuối năm 1964, lực lượng Dân sự chiến đấu không còn là vấn đề phát triển số lượng nữa. Vì mục đích và nhiệm vụ của nó cũng thay đổi. Ngoài chức năng phòng vệ tại chỗ là giữ địa bàn nông thôn, miền núi thì các trại Dân sự chiến đấu đều được sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc hành quân tấn công vào căn cứ của Việt Cộng. Với sự điều chỉnh chức năng trên, sẽ làm tăng phần hiệu quả cho việc kiểm soát khu vực biên giới, thông qua việc lực lượng biệt kích Mỹ triển khai thêm một số đồn, trạm biên phòng.

Chi Lăng, An Giang 23/9/1969

Cuộc hành quân Switchback từ 11/1962 đến 7/1963 gồm các hoạt động tấn công của lực lượng xung kích Dân sự chiến đấu như phục kích, tuần tiễu, thám sát tại địa bàn phụ trách của mỗi trại. Ngoài ra còn có những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị của Quân đội Sài Gòn, bao gồm lực lượng Dân sự chiến đấu của các trại. Chỉ tính riêng tháng 6/1963 đã có 4 đại đội xung kích Dân sự chiến đấu được tuyển từ các trại Dakto, Plei M’rong và Plei K’rong phối hợp hành quân lùng sục quân đội Cộng sản.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #54 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2011, 09:39:15 pm »

Lực lượng vũ trang Cộng sản phản ứng lại bằng pháo kích, quấy rối các đồn trại biên phòng. Trong lúc các lực lượng biệt kích Mỹ mở cuộc hành quân Switchback thì các hoạt động của cộng sản ngày càng gia tăng, hầu hết các trại biệt kích đều bị tập kích hoặc uy hiếp, quấy rối.

 Ngày 3/1/1963, lực lượng Đặc công cùng 2 đại đội Quân Giải phóng tấn công và tràn ngập trại Plei M’rong. Sau vụ tấn công của cộng sản Bắc Việt, vấn đề phòng thủ của các đồn trại biên phòng được xem xét lại. Bộ Tư lệnh Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài Gòn đã ra lệnh cho các toán biệt kích thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai cho tất cả các đồn trạm của lực lượng biệt kích Mỹ, đồng thời tăng cường thêm 2 tiểu đoàn công binh hải quân Seebee để hỗ trợ trong việc xây cất các công trình quân sự.

Căn cứ LLĐB tại Ea Yang bị tấn công 1966

Việc sử dụng Lực lượng dân dự chiến đấu trong các hoạt động tuần tiễu, lục soát những địa bàn ngoài phạm vi trách nhiệm của đồn trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng ứng cứu.

Sau đó lực lượng xung kích với 20.000 quân được thành lập vào tháng 11/1963, đến tháng 7/1964 được biên chế, tổ chức hoàn chỉnh. Mỗi đại đội dân dự chiến đấu có quân số 150 người, bao gồm Bộ chỉ huy 10 người, ba trung đội thực binh 35 người, trung đội hỏa lực 35 người. Mỗi trại được biên chế đủ 4 đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài trại tại các căn cứ tiền phương, thường tung các trung đội cùng các toán trinh sát 5 người ra hoạt động trên địa bàn được phân công.

Đến tháng 1/19695, trước khi chính phủ Mỹ đem quân vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Bộ Tư lệnh binh chủng biệt kích Mỹ đã hoạch định “Kế hoạch chống xâm nhập”, gửi đến Bộ chỉ huy Liên đoàn biệt kích số 5 và các Ban chỉ huy vùng cùng các toán biệt kích, trong đó xác định rõ: “Kế hoạch chống xâm nhập của lực lượng biệt kích là một chương trình hỗn hợp, phối hợp giữa quân sự với dân sự nhằm thực hiện 3 mục tiêu cơ bản sau: một là loại trừ Việt cộng, thiết lập an ninh trên địa bàn được giao. Hai là bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn đối với dân chúng trong vùng. Ba là huy động được dân chúng tham gia vào các chương trình của chính quyền Sài Gòn”.

Những mục tiêu trên chỉ có thể đạt được khi thực thi một trong ba nhiệm vụ sau: Một, kiểm soát và quản lý chặt khu vực biên giới. Hai, hoạt động ngăn chặn hiệu quả tại các tuyến đường Bắc Việt thường xâm nhập. Ba, tổ chức tốt các cuộc hành quân đánh phá các chiến khu, căn cứ của Việt cộng.

Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1965, Bắc Việt cũng thay đổi chiến thuật từ “Chiến tranh du kích” sang “Chiến tranh nhân dân”. Trước thực tế trên, mọi hoạt động của lực lượng biệt kích Mỹ được phân làm 3 loại. Một, thiết lập thêm trại dân sự chiến đấu nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp tế của Bắc Việt; đồng thời bỏ một số trại do áp lực quá nặng của cộng sản. Mặt khác tổ chức phòng thủ tốt các trại dọc theo biên giới như A Sầu, Làng Vây, Cồn Thiên, Lộc Ninh, Bù Đốp...

Căn cứ Làng Vây, 14/4/1968

Hai là thành lập các sở chỉ huy hành quân ngoại biên như: Sở chỉ huy hành quân Delta ở Vùng I chiến thuật; Sở chỉ huy hành quân Black Jack 33 ở vùng III chiến thuật. Cả 2 sở chỉ huy hành quan đều nằm trong “Kế hoạch hành quân Sigma”. Đây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn vị xung kích cơ động và đơn vị xung kích tiếp ứng. Trong cuộc hành quân Black Jack 41, có 2 đại đội xung kích cơ động nhảy dù xuống tấn công căn cứ của Việt cộng tại vùng núi Thất Sơn, thuộc vùng IV chiến thuật. Cuộc hành quân Attleboro do một đơn vị xung kích đánh phá căn cứ Suối Đá, Tây Ninh của Việt cộng ở vùng III chiến thuật, loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn chủ lực quân Giải Phóng.

Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp giữa các đơn vị dân sự chiến đấu với các đơn vị của Liên quân Mỹ như cuộc hành quân Nathan Hale, phối hợp giữa lực lượng dân sự chiến đấu với Sư đoàn 1 kỵ binh bay và Sư đoàn dù 101 của Mỹ. Cuộc hành quân Henry Clay và Thayer, hay cuộc hành quân Rio Blanco ở vùng I chiến thuật, bao gồm các đơn vị dân sự chiến đấu, địa phương quân, biệt động quân của quân đội Sài Gòn với thủy quân lục chiến Hàn Quốc và thủy quân lục chiến Mỹ. Cuộc hành quân Sam Houston ở vùng II, có sự phối hợp giữa Sư đoàn bộ binh 4 của Mỹ với lực lượng dân sự chiến đấu.

Đức Phong, Sông Bé 24/4/1966
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #55 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2011, 12:17:55 am »

4. Hành quân ngoại biên

Đồng thời với việc thành lập các đơn vị xung kích cơ động và các sở chỉ huy hành quân Sigma, Omega (được thành lập từ 8-10/1966), trình độ tác chiến trong chiến tranh ngoại biên của biệt kích Mỹ theo giới quân sự đánh giá được nâng lên. Một trong những khả năng của lực lượng biệt kích là mở các cuộc hành quân càn quét ngắn hoặc dài ngày ở những vùng do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát.

Lực lượng xung kích cơ động được thành lập vào mùa khô 1966-1967, trên cơ sở các đơn vị xung kích cơ động, được tổ chức, huấn luyện và trang bị để chuyên hoạt động ở những vùng xa xôi hẻo lánh, vùng căn cứ được xem là “đất thánh” của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và quân Bắc Việt. Với chức năng trên, lực lượng xung kích cơ động thực chất là lực lượng “thám báo”, được trang bị gọn nhẹ, làm nhiệm vụ thâm nhập vào các vùng căn cứ, vùng giải phóng để tiến hành do thám các tuyến đường hành lang vận chuyển, tìm kiếm dấu vết căn cứ, thu thập tin tức tình báo về những cuộc chuyển quân của đối phương. Khi phát hiện được vị trí đóng quân của đối phương, các toán thám báo sẽ theo dõi mọi hoạt động của đối phương để tổ chức các trận phục kích nhỏ lẻ, hoặc quấy rối, gài mìn, mật phục... Trường hợp phát hiện được kho hậu cần, sẽ tìm mọi cách phá hủy hoặc chỉ điểm cho máy bay oanh tạc.

Phi trường Liên Khương,1968

Mỗi đơn vị thám báo thường được cơ động đến địa bàn hoạt động bằng tất cả các loại phương tiện có sẵn. Khi đã đến địa bàn hoạt động, các đơn vị thám báo thực hiện vai trò của các toán biệt kích quân. Đồ tiếp tế được chuyển đến bằng máy bay. Những đơn vị biệt kích, thám báo này thường hoạt động trong lòng đối phương từ 30-60 ngày. Họ trở thành những “chủ nhân ông” trên địa bàn hoạt động; được toàn quyền hành động, kể cả yêu cầu yểm trợ bằng không quân để đạt được mục tiêu đánh phá. Nhằm tránh để lộ hành tung, đôi khi phải giấu đồ tiếp tế vào những quả bom Napalm giả, do máy bay khu trục A1E Skyraider thả xuống trong những phi vụ oanh tạc giả.

Ngoài việc phát triển đơn vị thám báo cho các vùng chiến thuật, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ còn tổ chức thêm những sở chỉ huy hành quân ngoại biên như Sở chỉ huy hành quân Omega và Sigma. Hai sở chỉ huy hành quân trên có vẻ như làm tăng thêm khả năng trinh sát, thu lượm tin tức tình báo cho liên đoàn, ngoài Sở chỉ huy hành quân Delta đã có sẵn. Mỗi Sở chỉ huy có quân số khoảng 600 quân, gồm 1 đơn vị trinh sát, 1 đơn vị xung kích ứng cứu và một đoàn cố vấn, được tổ chức tương đương với Ban chỉ huy vùng của lực lượng biệt kích.

Trụ sở MACV ở Bến Tre

Sở chỉ huy hành quân Delta được đặt dưới quyền chỉ huy của Liên quân biệt kích Việt – Mỹ; nhận lệnh trực tiếp của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn và Bộ Tư lệnh phái bộ viện trợ quân sự Mỹ (MACV). Các toán thám báo thuộc Sở chỉ huy hành quân Delta được Tiểu đoàn 9, Biệt kích dù sẵn sàng làm lực lượng tiếp ứng, yểm trợ. Những toán thuộc Sở chỉ huy hành quân Omega và Sigma được lực lượng biệt kích dù trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và vùng II chiến thuật. Những toán thám báo được các đơn vị biệt kích cơ động thuộc lực lượng dân sự chiến đấu yểm trợ.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #56 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2011, 12:36:17 am »

5. Huấn luyện về không trợ

Chương trình huấn luyện cho các sở chỉ huy hành quân thám báo, trước hết là phần huấn luyện về bộ binh, kỹ thuật tác chiến tại địa hình khu vực Đông Nam Á. Những quân nhân được tuyển chọn về sở chỉ huy hành quân thám báo, thường đã trải qua thời gian phục vụ trong lực lượng dân sự chiến đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân thám báo bắt đầu từ giai đoạn huấn luyện bộ binh. Trước tiên phải trải qua huấn luyện nhảy dù. Sau đó là các môn học đặc biệt về hành quân như: di chuyển lặng lẽ, bí mật; phương pháp tìm dấu vết; theo dõi; cách sử dụng bản đồ, la bàn, dụng cụ làm dấu; những kỹ thuật xâm nhập, rút lui khỏi khu vực do thám, địa bàn hoạt động; sử dụng các loại vũ khí đặc biệt; cứu thương; kỹ thuật tập kích, phục kích.


Chương trình huấn luyện kéo dài khoảng 5 hoặc 6 tuần, với 6 ngày 1 tuần và khoảng 10h mỗi ngày. Các buổi huấn luyện được tiến hành trong căn cứ và thực tập ngoài thực địa.

Hoạt động của lực lượng thám báo rất cần sự yểm trợ của không quân. Phi đoàn không quân yểm trợ của Liên quân Mỹ biệt phái cho Liên đoàn biệt kích số 5 đã yểm trợ trực tiếp bằng những phi đội trực thăng vũ trang và trực thăng vận tải. Ngoài ra, không quân Mỹ còn cung cấp phương tiện vận chuyển, cơ động quân và tiếp tế. Không quân Mỹ và Quân đội Sài Gòn còn yểm trợ thêm bằng các cuộc oanh tạc hoặc chuyển tiếp công điện qua hệ thống truyền tin. Tại vùng I chiến thuật, máy bay của Thủy quân lục chiến Mỹ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ tương tự như trên.

6. Soạn thảo kế hoạch hành quân

Chiến tranh ngoại biên giữ một vai trò rất quan trọng của lực lượng biệt kích Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều nghiên rất kỹ lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng tham chiến được cơ động đến căn cứ tiền phương trước khi mở các cuộc hành quân. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tùy theo tính chất mỗi cuộc hành quân và mức độ khẩn thiết của cuộc hành quân.

Đèo MangYang

Lệnh hành quân được soạn thảo với đầy đủ chi tiết tin tức tình báo về khu vực hành quân. Mọi dữ kiện về địa thế, thời tiết và những nơi tình nghi có đối phương đều được thu thập và phân tích tỉ mỉ. Tất cả những chi tiết, động thái đó đều được ghi trên bản đồ; cùng những lộ trình chính và phụ cho nhiệm vụ trinh sát đều được lựa chọn và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về tình báo, không ảnh, thẩm vấn tù binh và những bản báo cáo của các đơn vị bạn từng hành quân qua trước đó. Nếu cần, Ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân hay những phi vụ thám thính trước khu vực sẽ hoạt động. Những chuyến không thám này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn địa điểm xâm nhập, lui quân chính và phụ.

Khi việc soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân. Trường hợp cần thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương, đã có máy bay yểm trợ. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít trang bị hậu cần thì máy bay trực thăng của Lục quân và Thủy quân lục chiến Mỹ hay phi cơ nhỏ được sử dụng. Nếu cuộc hành quân với quân số cấp đại đội trở lên, sẽ được Không quân Mỹ cung cấp loại máy bay C7A hoặc C130.

Khi đến căn cứ hành quân tiền phương, người ta sẽ tiến hành kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị. Những sĩ quan thuộc quyền Sở chỉ huy hành quân sẽ được nghe thuyết trình về mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc hành quân, cùng với mệnh lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu đội hoặc phân đội (toán).

Trong số những nhiệm vụ trinh sát, các phương pháp, thủ đoạn cho từng hoạt động sẽ được trình bày chi tiết tùy theo mỗi cuộc hành quân. Khi xâm nhập vùng đối phương kiểm soát, hay lúc ra khỏi máy bay; hoặc di chuyển trong khu vực hành quân; trường hợp chạm trán đối phương, cũng như giờ giấc cho việc lui quân.

Sự thành công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố bất ngờ. Thêm vào phần an ninh của toán biệt kích, nhiều lúc cần phải tìm cách đánh lừa đối phương. Việc đánh lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong kế hoạch hành quân. Tùy theo tình hình thời tiết, địa hình và quân số trong cuộc hành quân mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ, đường không hoặc đường thủy. Tuy nhiên, trên chiến trường Việt Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập, rút lui đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.

Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #57 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2011, 10:15:29 pm »

Qua các cuộc hành quân, kinh nghiệm cho thấy, thời gian tốt nhất để các toán xâm nhập là vào lúc trời sắp tối, đủ thời gian cho các toán thám báo lẫn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đêm. Tuy nhiên, đối phương vẫn khám phá ra các cách thức thả những toán thám báo và tìm cách đối phó. Do đó rất cần phải tìm cách đánh lừa đối phương về địa điểm thả quân. Cụ thể trực thăng sẽ đáp xuống ba hoặc 4 chỗ, hoặc nhiều hơn nữa, trước khi trực thăng thả các toán thám báo. Điều đó sẽ làm cho đối phương phân vân không biết chính xác đâu là điểm thả quân. Một thủ đoạn khác là đoàn trực thăng 3 chiếc bay thấp nối đuôi nhau. Chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt kích trong chớp nhoáng, rồi bốc lên thật nhanh nối đuôi 2 chiếc kia, kết thành hình phi đội 3 chiếc như ban đầu.


Trong trường hợp cơ động các toán thám báo bằng đường bộ, hay các toán “Chạy đường mòn” (Roadrunner), nhằm trinh sát, xâm nhập vùng đối phương kiểm soát một cách dễ dàng, tốt nhất chọn lúc trời tối hoặc giữa ban ngày. Đối với trường hợp địa bàn, vẫn thường tung các toán thám báo ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một quy luật nhất định. Trong trường hợp khác, toán thám báo đi lẫn vào trong đội hình một đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán sẽ lặng lẽ di chuyển đến địa bàn đã được phân công.

Tất cả mọi sự di chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống còn của một toán thám báo nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán, sự hiểu biết về nhiệm vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời gian biểu lúc di chuyển. Trong kế hoạch hành quân, đôi khi phải  lưu ý thêm trường hợp các toán thám báo phải phân tán tạm thời trước áp lực của đối phương, phải tuân thủ thời gian, vị trí và điểm hẹn tập hợp.

Bí mật là đòi hỏi cơ bản trong vấn đề di chuyển của các đơn vị thám báo trong các cuộc hành quân ngoại biên. Mặc dù đối phương có đề phòng về sự xâm nhập của lực lượng biệt kích, thám báo nhưng đối phương không thể biết rõ vị trí xâm nhập một cách chính xác của các toán. Do đó đòi hỏi mỗi động thái khi di chuyển phải giữ được im lặng, thủ ngữ và thủ hiệu được sử dụng để truyền tin và ra lệnh thay cho lời nói; kết hợp với việc ít sử dụng máy truyền tin và để độ âm thanh tối thiểu; vũ khí, trang bị gọn gàng không để phát ra tiếng động khi chạm vào cây lá hoặc đá, và tuyệt đối phải giữ im lặng khi di chuyển.

Vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra nghiêm ngặt. Có một thực tế là các quân nhân biệt kích, thám báo trong chiến tranh ngoại biên không thể mang theo lương thực, đạn dược và trang bị quá 5 ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân đều đề cập đến vấn đề tái tiếp tế trong vòng từ 3-5 ngày tại một địa điểm định trước. Yêu cầu đặt ra là sự an toàn, không để lộ vị trí của các toán biệt kích, thám báo. Nếu thả dù tiếp tế giữa ban ngày sẽ khiến cho đối phương báo động, đề phòng. Còn thả ban đêm, ở vùng rừng núi thì cơ hội thu hồi kiện hàng rất ít.

Rút lui theo đúng kỳ hạn hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử hay cả toán cũng phải tính trước. Lực lượng thám báo có vẻ thành công trong vấn đề rút lui vào thời điểm bắt đầu thành lập lực lượng cho đến giữa năm 1967. Phần lớn các toán biệt kích, thám báo đều thực thi phi vụ đúng theo kế hoạch, hết thời gian là ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về.


Những toán “xâm nhập đường mòn”, trinh sát rất dễ bị đối phương phát hiện và tiêu diệt. Do đó các nhân viên trong Sở chỉ huy hành quân có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của các toán biệt kích, thám báo; phải chuẩn bị sẵn sàng tư thế lập tức rút quân ra khỏi vùng đối phương kiểm soát ngay khi nhận được báo các khẩn cấp.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #58 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2011, 09:04:32 pm »

7. Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt

+ Sở chỉ huy hành quân Omega:

Trên cơ sở kết quả hoạt động thực tiễn và yêu cầu của chiến trường, Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt đã thành lập các sở chỉ huy hành quân. Trước tiên là Sở chỉ huy hành quân Omega (viết tắt là B50) của lực lượng biệt kích Mỹ, được thành lập vào tháng 7/1966, đặt trụ sở tại Nha Trang. Sở chỉ huy hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân thăm dò, thu thập tin tức tình báo tác chiến. Tuy nhiên, Sở chỉ huy hành quân Omega không giống như sở chỉ huy hành quân Delta (thành lập ngày 1/9/1967), trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam (thành lập ngày 8/2/1962, với tên gọi ban đầu là Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam, viết tắt là MACV. Đến tháng 6/1964, đổi tên thành Cơ quan tùy viên quân sự Mỹ tại Việt Nam, viết tắt DAO).

B50 tuyển mộ thanh niên là dân tộc người thiểu số như Jah, Rhade, Sedang, Chăm, Khmer, Hoa. Lúc đầu biên chế thành 8 toán do thám và 4 toán “xâm nhập đường mòn”, sau đó tăng lên 16 toán viễn thám và 8 toán “xâm nhập đường mòn”. Đến năm 1968, những toán “xâm nhập đường mòn” chuyển về trực thuộc Sở chỉ huy B57, lực lượng chuyên về các hoạt động tuần tiễu, thu thập tin tức.

Sở chỉ huy hành quân Omega có 3 đại đội xung kích, làm thành phần tiếp ứng, dự bị. B50 kết thúc vai trò tại Nam Việt Nam vào tháng 6/1972.

+ Sở chỉ huy Trung tâm huấn luyện Động Ba Thìn (gọi tắt là B51):

Động Ba Thìn là căn cứ huấn luyện của Quân đội Sài Gòn. Năm 1964, Sở chỉ huy Trung tâm huấn luyện cho Quân đội Mỹ tại Việt Nam bắt đầu đảm nhiệm vai trò cố vấn cho căn cứ huấn luyện Động Ba Thìn. Theo đó, nhiều chương trình huấn luyện dần được cải tiến, với các khóa huấn luyện cơ bản, nhảy dù cho lực lượng biệt kích Sài Gòn; huấn luyện cho lực lượng dân sự chiến đấu, huấn luyện võ Teakwondo Hàn Quốc, huấn luyện truyền tin cùng nhiều khóa huấn luyện khác.


Năm 1968, B51 chuyển các khóa huấn luyện đến căn cứ An Khê, nhưng đến 10/1969 thì chuyển trở lại Động Ba Thìn, và căn cứ được đổi tên là Trung tâm huấn luyện Quốc gia. Sau đó B51 được Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam giao cho nhiệm vụ huấn luyện cho Quân đội Hoàng gia Campuchia. Sở chỉ huy B51 rời Việt Nam vào tháng 3/1971.

+ Sở chỉ huy hành quân Delta (B52):

Tháng 5/1964, cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) triển khai chương trình Leaping Lena, sử dụng lực lượng biệt kích Mỹ huấn luyện cho biệt kích Sài Gòn và lực lượng dân sự chiến đấu về những kỹ năng trinh sát, thu thập tin tức. Khi chương trình phát triển, nhu cầu về nhân lực của lực lượng biệt kích Mỹ không ngừng tăng lên. Đến tháng 6/1965, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ được giao phó thêm trách nhiệm và Sở chỉ huy hành quân Delta (B52) được thành lập để chỉ huy và theo dõi các hoạt động do thám. Sở chỉ huy hành quân Delta tổ chức mỗi toán thường có 2 biệt kích quân Mỹ, trừ các toán “xâm nhập đường mòn”, có từ 4-6 biệt kích quân Sài Gòn và thường ăn mặc, trang bị giống quân Giải phóng để dễ trà trộn, hoạt động trong vùng giải phóng, hay các căn cứ địa.


Sở chỉ huy B52 vẫn thường thay đổi cách thức làm việc, tổ chức lực lượng tùy theo nhu cầu chiến trường đòi hỏi. Khi mới thành lập, chỉ có 12 toán trinh sát biệt kích Việt - Mỹ và 12 toán thám báo “xâm nhập đường mòn”, 1 đại đội phòng thủ người Nùng và Tiểu đoàn 81 biệt kích dù, gồm 5 đại đội là lực lượng xung kích ứng cứu.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #59 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2011, 09:29:09 pm »

Sở chỉ huy hành quân Delta có chức năng: xác định vị trí đóng quân của các đơn vị đối phương; thu thập tin tức tình báo chiến lược; giám sát kết quả các trận oanh kích của không quân Mỹ nhằm triệt phá các căn cứ, vùng giải phóng của đối phương; tổ chức các cuộc tập kích, phá hoại các cơ sở hậu cần của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sở chỉ huy hành quân Delta rất nổi tiếng trong các phi vụ phá hoại.

1 trong những "mối tình" thời chiến

Từ 1966, Sở chỉ huy hành quân Delta trực tiếp đặt dưới quyền của Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam (MACV), chịu trách nhiệm về mọi hoạt động quân sự Mỹ trên khắp miền Nam Việt Nam. Cùng thời điểm năm 1966, hai sở chỉ huy hành quân Sigma và Omega được thành lập với nhiệm vụ tương tự Sở chỉ huy hành quân Delta, hoạt động trên lãnh thổ vùng I và vùng II. Ngoài ra, Sở chỉ huy hành quân Delta còn được Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam giao nhiệm vụ huấn luyện cho biệt kích Mỹ về kỹ thuật trinh sát.
52 đóng căn cứ tại Nha Trang cho đến tháng 6/1970, khi chương trình Delta chấm dứt.

+ Sở chỉ huy Đoàn cố vấn hành quân đặc biệt (B53):

Sở chỉ huy Đoàn cố vấn hành quân đặc biệt (B53) được chính thức thành lập tại Việt Nam vào tháng 2/1964. Lúc đầu đặt sở chỉ huy đoàn tại căn cứ huấn luyện lực lượng đặc biệt ở Trung tâm huấn luyện Long Thành, Biên Hòa, đặt dưới sự điều hành của Cơ quan nghiên cứu, quan sát thuộc Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV-SOG).

Khi Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ rời khỏi Việt Nam vào năm 1971, vấn đề huấn luyện cho quân đội Sài Gòn về chiến tranh ngoại lệ vẫn rất cần thiết thì Sở chỉ huy đoàn cố vấn hành quân đặc biệt trở thành hạt nhân cho chương trình huấn luyện. Tháng 1/1971, Sở chỉ huy hành quân đặc biệt đổi tên là “Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt” (SMAG). Sau khi thành lập đoàn, căn cứ được đặt tại Trường huấn luyện trinh sát (MACV RECONDO). Đến tháng 3/1971, đoàn lấy căn cứ Bộ chỉ huy Liên đoàn biệt kích số 5 làm căn cứ Sở chỉ huy.

Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt (SMAG) có nhiệm vụ huấn luyến, cố vấn và cung cấp cho Liên đoàn biệt kích số 5 những dịch vụ chuyên môn đặc biệt (Special Mission Service – SMS). Đơn vị được Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt huấn luyện sau này trở thành tiền thân của lực lượng biệt kích Sài Gòn trong chiến tranh ngoại lệ. Tháng 9/1971, SMS được lệnh phối hợp với một đơn vị thuộc Sở thông tin liên lạc của Quân đội Sài Gòn, đóng căn cứ tại Đà Nẵng. Sau này đổi thành Bộ chỉ huy Bắc (Sở Bắc) của Đoàn Nghiên cứu, Quan sát của Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam (MACV-SOG). Tính đến tháng 3/1972, trong vòng 11 tháng, Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt (SMAG) đã huấn luyện cho 27 toán biệt kích và 15 toán trinh sát. SMAG chấm dứt hoạt động vào tháng 4/1972, Sở chỉ huy Đoàn cố vấn (B53) cũng rời Việt Nam.

Sài Gòn, 14/4/1975. Kết quả là xuất hiện 1 thế hệ bị kỳ thị khi chàng về nước, nàng thì chối bỏ

+ Ban liên lạc B55 hay Trung tâm hành quân chiến thuật (TOC):

Với sự có mặt của lực lượng biệt kích Mỹ từ năm 1962, đã đặt ra nhu cầu phải có một ban liên lạc gần Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Sài Gòn của Nam Việt Nam để thuận lợi trong việc soạn thảo kế hoạch, huấn luyện và chuyển những tin tức tình báo. Đó là nhiệm vụ của Ban liên lạc B55, hay Trung tâm hành quân chiến thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơ quan này làm nhiệm vụ giải mã những tin tình báo. TOC được Ban cố vấn kỹ thuật hỗ hợp (JTAD) huấn luyện, kết hợp với Ban nghiên cứu hỗn hợp (CDS) hướng dẫn. Sau khi Sở nghiên cứu, quan sát (MACV-SOG) đi vào hoạt động, B55 làm nhiệm vụ phối hợp giữa hai tổ chức Ban cố vấn kỹ thuật và Ban nghiên cứu hỗn hợp tại Việt Nam.

Với chức năng là cơ quan liên lạc tại Sài Gòn, B55 phải lo thủ tục giấy tờ cho các quân nhân biệt kích Mỹ tại Việt Nam; tham dự các buổi họp, thuyết trình giữa các bộ chỉ huy; thuyển mộ lính đánh thuê. Ngày 23/5/1968, Trung tâm hành quân chiến thuật đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy lực lượng 5 xung kích cơ động (Mike Force). B55 thực thi nhiệm vụ này cho đến ngày lên đường về Mỹ vào năm 1970.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM