Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:06:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội VNCH  (Đọc 384557 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #120 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2011, 10:50:12 pm »

Ngọn đồi họ chiếm đóng cao khoảng 300m, rất lợi thế cho việc cắt đường. Từ phía bắc nhìn xuống, con đường 110 lộ ra rõ ràng vì bom đã dọn sạch khu rừng che phủ. Phía bên kia, có dòng suối nhỏ chạy dọc theo con đường. Đối phương buộc phải thanh toán đại đội xung kích Hatchet Force nếu muốn đoàn xe Molotova của họ tiếp tục tiếp tế cho Mặt trận Bạch Hổ. Vì vậy, Quân Bắc Việt bắt đầu pháo kích lên đồi, nhưng vô hiệu, quân biệt kích nằm dưới hố cá nhân chờ đợi những đợt tấn công của đối phương. Đêm đó, quân biệt kích dùng kính phóng đại ánh sáng trăng, theo dõi lượng xe cộ của đối phương trên đường 110. Mỗi khi phát hiện có đoàn xe, họ gọi Hỏa Long AC 119 hoặc AC 130 lên tiêu diệt. Trong đêm đó, đối phương bò lên ném lựu đạn, bắn quấy rối, rồi biến mất.

Khe Sanh 1/1969

Sáng hôm sau, trực thăng SOG đem nước, tiếp tế cho đơn vị xung kích, trong khi đó đối phương tăng cường thêm súng phòng không. Đến trưa, một chiếc Phantom F4 thả nhầm 1 quả bom Napalm trên đồi làm 6 biệt kích Thượng thiệt mạng, cùng nhiều người khác bị thương. Lại thêm 1 quả đạn cối của đối phương trúng ổ đại bác 90 ly của đại đội xung kích, làm bị thương cả khẩu đội. SOG phải đưa toán biệt kích South Carolina đến thay thế.

Đối phương chỉ pháo kích, quấy rối chứ chưa dám tấn công đại đội xung kích trong vòng 6 ngày. Cuộc hành quân Spindown đã phá hủy 6 xe vận tải của đối phương, cùng nhiều chiếc khác bị ùn tắc, làm mồi cho máy bay oanh tạc. Quân Bắc Việt tấn công trại Bạch Hổ không được tiếp tế, sau đó phải rút quân về khu vực biên giới Việt Lào.

Lại nói, khi lực lượng Hatchet Force được thành lập vào năm 1966, vị Đại sứ Mỹ tại Lào chỉ cho phép SOG hành quân đến cấp trung đội và mỗi cuộc hành quân đều phải có sự chấp thuận của ông ta. Văn bản nhà nước cho thấy không có cuộc hành quân cấp đại đội nào trên đất Lào trong những năm 1967-1969. Nhưng đến năm 1969. Chính phủ Mỹ quyết định triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, với sách lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Để giảm thiểu đổ máu xương của lính Mỹ, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Mỹ đã cho phép SOG có thể hành quân đến cấp đại đội Hatchet Force, với sự chấp thuận của Đô đốc Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của liên quân Mỹ ở Hawaii. Theo đó, lực lượng Hatchet Force phát triển đến mức cao nhất trong năm 1969, với 4 đại đội, chia ra đóng quân tại Đà Nẵng, Kontum và Buôn Mê Thuột. Biên chế mỗi đại đội có 3 trung đội, với quân số 42 biệt kích quân người dân tộc thiểu số và 3 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ.


Tuy nhiên, các cuộc hành quân cấp đại đội gặp khó khăn về nhu cầu trực thăng. Cụ thể, cần 12 chiếc trực thăng đổ quân. Khác với các toán biệt kích, lực lượng Hatchet Force không thể tránh được đối phương hoặc lẩn trốn. Trường hợp bị một đơn vị lớn của đối phương tấn công mà không bốc ra kịp, đại đội xung kích có thể bị đối phương đè bẹp. Chưa kể khi gặp thời tiết xấu, trực thăng không bay được, rất nguy hiểm cho đại đội xung kích. Do đó Hatchet Force chỉ được sử dụng trực thăng trong những tháng có thời tiết tốt. Do không đủ trực thăng, nên khi sử dụng đại đội xung kích, thì các toán biệt kích buộc phải nằm nhà.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #121 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2011, 11:03:49 pm »

Trong khoảng thời gian diễn ra cuộc hành quân Spindown vào đầu năm 1969, một trung đội Hatchet Force từ Đà Nẵng được giao nhiệm vụ lục soát vùng rừng núi phía tây căn cứ Khe Sanh. Cùng hành quân với trung đội này có Đại úy Jim Storter, đi theo để huấn luyện cho hai Thiếu úy trẻ là Peter Mc Murray và Vincent Sabatinelli. Cả hai sĩ quan trẻ này đều không thọ quá 6 tháng. Sabatinelli tử trận ngày 25/7; Mc Murray tử trận ngày 27/8/1969.

Giấy chứng nhận của Nha Kỹ Thuật

Chỉ nhờ những sơ hở trong hệ thống an ninh của Quân đội Bắc Việt mà trung đội Hatchet Force lục soát vùng rừng núi này mà không gặp đối phương. Đêm đầu tiên, họ lập trận địa phòng thủ. Khoảng 3 giờ sáng, tất cả đều ngạc nhiên thức giấc vì nghe tiếng xe vận tải dừng gần nơi đóng quân đóng quân đêm của họ. Sáng hôm sau, Đại úy Storter báo cáo cho máy bay điều không FAC biết chuyện xảy ra trong đêm và xin một phi đội máy bay A1 Skyraider từ Đà Nẵng lên bao vùng. Khi hai chiếc khu trục lên, trung đội biệt kích đã di chuyển về hướng tây, nơi họ nghe tiếng xe vận tải của đối phương hồi đêm.

Họ di chuyển khoảng 300 thước, leo lên một rặng núi, nhìn xuống thung lũng. Những chiếc xe vận tải Molotova của đối phương quá to, không ngụy trang được hết nên các biệt kích quân đều thấy rõ. Đại úy Storter chỉ điểm cho hai chiếc khu trục đến oanh kích. Sau đó trung đội Hatchet Force xuống lục soát, kết quả 6 xe vận tải bị trúng hỏa tiễn, cùng mấy xác chết của đối phương để lại. Sau đó trung đội này rút êm về căn cứ.

Quân đội Bắc Việt đặt ống dẫn dầu từ Vinh, Nghệ An, Bắc Việt Nam qua đèo Mụ Giạ, vượt Tây Trường Sơn. Hệ thống dẫn dầu này dài trên 25 dặm, tới Bộ Tư lệnh tiền phương Đoàn 559, trong khu vực của mục tiêu Oscar Eight, trên hướng tây nam căn cứ Khe Sanh, thuộc lãnh thổ Lào, sau đó con đường uốn khúc quanh co trở vào thung lũng A Sầu, thuộc lãnh thổ Việt Nam. Mục tiêu chính của 2 toán biệt kích và lực lượng xung kích là tìm hệ thống đường ống dẫn dầu trong vùng phòng thủ kiên cố của đối phương để phá hủy.

Toán biệt kích Kansas do Eulis “Camel” Presley làm trưởng toán, có nhiệm vụ xâm nhập khu vực phía tây thung lũng A Sầu, tìm kiếm đường ống dẫn dầu bí mật dọc theo đường 922. Nhưng chỗ nào cũng có Quân đội Bắc Việt. Toán biệt kích cố lẩn tránh chỉ được 1 ngày thì chạm trán với đối phương, phải gọi trực thăng đến bốc ra. Một trung đội Hatchet Force được đưa vào, đụng độ ác liệt với Quân Bắc Việt. Trung đội Hatchet Force bị thiệt hại phân nửa, cuối cùng cũng phải bốc họ, đem về hậu cứ tại Đà Nẵng.

Bù Lách, 1968. Tập trung dân để trực thăng chuyển đến chỗ mới

Đêm 9/1/1970, máy bay AC 130 Spectre (Hỏa Long) của Mỹ bắn phá hai mục tiêu tình nghi là trạm bơm nhiên liệu của đối phương, nằm về hướng tây vùng phi quân sự, làm cháy kho nhiên liệu. Một chiếc phản lực Phantom F4 thả những quả bom loại 500 cân Anh xuống, gây thành đám cháy lớn. Trận đánh bom phá hủy hơn 60 xe Molotova, trong đó có 2 chiếc xe chở dầu.

Quân đội Bắc Việt Nam tiếp tục chở đồ tiếp tế trên con đường 110 của đất Lào. Ngày 23/2/1970, SOG mở cuộc hành quân Halfback, tái diễn trận đóng chốt cắt đường như năm 1969. Lực lượng hành quân do đại đội Hatchet Force B ở Kontum đảm nhiệm. Đại đội này đổ bộ đúng vị trí ngọn đồi mà Đại đội A đóng chốt năm ngoái.
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Ba, 2011, 11:35:23 pm gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #122 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2011, 11:26:52 pm »

Được hỏa lực yểm trợ mạnh mẽ gồm các loại máy bay A1 Skyraider, Phantom F4 oanh kích ban ngày; AC119, AC130 tấn công ban đêm; trong trường hợp bị mây che phủ, các cuộc oanh kích không thực hiện được thì đại đội biệt kích sẽ được pháo binh 175 ly của trại Bạch Hổ bắn yểm trợ. Cùng thời điểm trên, một toán biệt kích Lôi Hổ của Quân đội Sài Gòn hoạt động cách đó một dặm đã đụng độ với một trung đội của đối phương. Trưởng toán biệt kích Lôi Hổ, cùng một biệt kích quân bị thiệt mạng, bộ phận còn lại phải thoái lui.

Trung sĩ Philip Fink, Sư 1 Anh Cả Đỏ, tại Đồng Xoài, 12/6/1965

Quân đội Bắc Việt tấn công dữ dội lên đồi, nơi toán Lôi Hổ trụ lại. Thiếu úy Billy Potter bị thương nặng ở ngực bởi 1 viên đạn AK. Một chiếc trực thăng được phái đến để di tản thương binh, nhân cơ hội đó, một Trung sĩ do quá sợ, nên đã lẻn lên máy bay. Rich Ryan kể lại, với vẻ khinh miệt: “Chúng tôi không biết anh ta biến đi lúc nào!". Đó cũng là chiếc trực thăng duy nhất bay thoát ra được trong ngày.

Đối phương điều thêm súng phòng không vào vùng chiến sự, với quyết tâm phải nhổ cái chốt của đại đội xung kích. Với hỏa lực phòng không quá mạnh, đối phương đã làm cho máy bay Hỏa Long không bao vùng được nữa. Quân Bắc Việt bắt đầu đào địa đạo sát vào mục tiêu để tấn công. Đêm đó, một bức công điện của phòng liên lạc SOG từ Sài Gòn gửi ra Kontum, cho biết Trung đoàn 27 Bắc Việt, với hơn 1.500 quân đang trên đường di chuyển đến để đánh dứt điểm đại đội Hatchet Force. Thiếu tá Frank Jaks, sĩ quan hành quân trình lại với Chỉ huy trưởng sở chỉ huy Trung (CCC), yêu cầu cho đại đội xung kích rút quân, nếu không sẽ bị tiêu diệt.

Theo kế hoạch, đại đội xung kích sẽ di chuyển đến một bãi đáp cách đó chừng 1 cây số, rồi trực thăng sẽ đến bốc trước khi đối phương kịp phản ứng. Đồng thời một chiếc Kingbee sẽ đưa một y tá là Thượng sĩ William Boyle đến để chăm sóc những biệt kích quân bị thương. Hỏa lực phòng không của đối phương đã bắn rơi chiếc Kingbee. Nó nổ tung khi chạm đất, xác Thượng sĩ William Boyle không tìm ra.

Thêm hai chiếc Kingbee khác thuộc phi đoàn 219 của Không quân Quân đội Sài Gòn vào cũng rớt luôn. Quân đội Bắc Việt quyết tâm không cho biệt kích chạy thoát. Presley đang ở dưới hầm, được một biệt kích quân người Thượng duy nhất chưa bị thương vào cho biết: Tất cả đại đội đều chết, đối phương đã chiếm được ngọn đồi chốt chặn.

Phi đoàn 219 Kingbee

Bay trên đỉnh đồi, Trung sĩ nhất Lloyd O’Daniels chỉ điểm các phi tuần lên yểm trợ. Máy bay khu trục A1 Skyraider đến trước để thả bom CBU 19 (Cluster), có hơi cay để làm mờ mắt các xạ thủ súng phòng không của Quân đội Bắc Việt. Sau đó các phản lực cơ F4 sẽ thả bom nổ chậm trong vòng 8 giờ đồng hồ, làm thành bãi mìn cản phía sau đại đội xung kích. Các phi tuần F4 khác đánh bom dọn đường cho đại đội xung kích di chuyển đến mục tiêu. Sau cùng, trực thăng Cobra sẽ bắn hỏa tiễn khói làm bức màn ngụy trang cho trực thăng vào bốc các biệt kích quân Mỹ ra.

Sau cuộc hành quân Halfback, Đại đội B ứng cứu Hatchet Force cần ít nhất 6 tháng để bổ sung quân và tái huấn luyện. Đến tháng 8/1970, đại đội này mới sẵn sàng tham gia hành quân, cũng là lúc CIA yêu cầu Đại tá Skip Sadler cho một đơn vị Hatchet Force hành quân đến gần Chavane (Lào), để yểm trợ cho biệt kích quân Vàng Pao, người H'mong, do CIA tuyển mộ, yểm trợ và nuôi dưỡng.

Đại tá Skip Sadler, Chỉ huy trưởng SOG, tại căn cứ Long Thành

Mục tiêu này cách xa 20 dặm, nằm ngoài vùng hoạt động của SOG. Tuy nhiên, việc này đã được vị Đại sứ Mỹ ở Lào chấp thuận. Cuộc hành quân Tailwind được mở, nhắm đến những mục tiêu trên. Đây cũng là lần đầu tiên, Đại đội Hatchet Force được lệnh tấn công sâu vào vùng đối phương chiếm đóng, cũng là nơi đối phương chủ quan, không phòng thủ vững vàng như căn cứ Trug ương cục miền Nam hay mục tiêu Oscar Eight gần biên giới Việt – Lào. Ngày 4/9/1970, Đại đội B ở Kontum được lệnh sẵn sàng. Đại đội trưởng đại đội này là Đại úy Eugene Mc Carley, có nhiều kinh nghiệm qua những chuyến xâm nhập trên lãnh thổ Việt Nam, cộng thêm 15 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh và khoảng 110 biệt kích Thượng.

Ngày 11/9/1970, bốn đại đội xung kích ở Kontum được 12 chiếc Cobra của thủy quân lục chiến yểm trợ và trực thăng CH47 chở, ghé căn cứ Dakto lấy thêm xăng, rồi cất cánh. Đoàn trực thăng bay dọc theo biên giới, sau đó đổi sang hướng tây đến Chavane. Trong vòng 4 ngày, những chiếc máy bay trực thăng Cobra, A1, F4 thay nhau bay bao vùng, sẵn sàng yểm trợ cho đại đội xung kích. Đơn vị này liên tục di chuyển, phá hủy nhiều kho dự trữ đạn dược, binh trạm của đối phương. Cuộc hành quân coi như thành công.

Quốc lộ 13, An Lộc, 25/6/1972
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Ba, 2011, 01:00:18 am gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #123 vào lúc: 09 Tháng Ba, 2011, 10:13:50 pm »

HÀNH QUÂN BIỆT KÍCH

Mỗi căn cứ hành quân tiền phương (FOB) của SOG tại Đà Nẵng, Phú bài, Kontum, Buôn Mê Thuột có khoảng 12 toán biệt kích của Mỹ, do sĩ quan, hạ sĩ quan Mũ Nồi Xanh làm trưởng toán (không kể các toán Lôi Hổ, do sĩ quan Quân đội Sài Gòn làm trưởng toán). Tuy nhiên, lúc nào cũng chỉ có 6 toán sẵn sàng hành quân; 6 toán còn lại bị tổn thất, phải đợi bổ sung quân số và huấn luyện.

Huấn luyện tại căn cứ

Đầu năm 1968, toán biệt kích Maine ở Kontum sắp kết thúc nhiệm kỳ luân phiên 6 tháng. Trưởng toán Fred Zabitosky đã sẵn sàng cho chuyến đi cuối cùng của anh ta. Toán phó là Trung sĩ Doug Glover bị thương trong hai chuyến xâm nhập trước. Zabitosky từng tham dự hai chuyến xâm nhập Bright Light tìm một trưởng toán bị đối phương bắt, giam giữ và một chuyến khác tìm Charlie White bị rơi xuống từ dây cấp cứu Mc Guire tại Campuchia.

Lần này, Zab sẽ xâm nhập mục tiêu Bra. Đó là một khúc sông uốn quanh, nơi đường 110 tách ra khỏi đường 96 trên hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh đi về hướng đông. Tại mục tiêu Bra, quân chính quy Bắc Việt xây binh trạm số 37, một căn cứ lớn với nhiều kho tiếp vận, đạn dược. Quân Bắc Việt dùng binh trạm này để chuyển quân, tiếp tế vũ khí, trang bị, tiếp liệu vào vùng cao nguyên Nam Trung Bộ và bắc Campuchia. Căn cứ này được bảo vệ bởi hỏa lực phòng không rất mạnh, với một tiểu đoàn cảnh vệ và một đơn vị chống biệt kích. Mục tiêu Bra được coi như điểm nóng nhất khu vực nam Lào, khó khăn hơn những mục tiêu trước đây như Juliet, Hotel. India và November Nine.

Khu phi quân sự, 8/1966. Thủy quân lục chiến Mỹ trong chiến dịch Prairie

Sau này, Lowell Stevens, trưởng toán biệt kích kể lại: “Khi danh sách các mục tiêu đưa ra, tôi ngồi giấu mình im lặng, tôi không muốn Bra nổi tiếng, nhưng hy vọng và cầu nguyện không phải nhận mục tiêu đó”. Một trưởng toán khác, Lloyd O’Daniels cảnh báo: “Bạn nên đem theo đầy đủ đạn dược, vì bạn sẽ cần đến nó, không lâu đâu”.

Hai tuần lễ sau khi cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968 bắt đầu, thành phố Huế vẫn còn trong tay đối phương; căn cứ Khe Sanh bị bao vây. Toán biệt kích Maine xâm nhập mục tiêu Juliet Mine (Bra) để do thám Quân đội Bắc Việt đang rút quân nhằm tăng cường thêm quân và tiếp tế cho trận tấn công của họ trên Tây Nguyên. Doug Glover vừa mới xuất viện, sẽ thay Zabitosky làm trưởng toán, nên chuyến này để cho Glover làm quyền trưởng toán, Zabitosky làm phó. Toán Maine có thêm Trung sĩ Purcell Bragg.

Không toán biệt kích nào xâm nhập mục tiêu Bra mà không biết sợ. Toán Maine được hai trực thăng Huey thả xuống, Glover dẫn toán ra khỏi bãi đáp đếm một chỗ rậm rạp. Anh ta đâu biết đã đưa toán vào một hẻm núi, rộng khoảng 300 thước. Toán biệt kích phát hiện ra một dãy hầm hào, công sự của đối phương. Zabitosky đang xem xét các hầm hào, công sự để xác định các công trình này được xây lúc nào, bỗng một trung đội lính Bắc Việt bất ngờ tấn công toán biệt kích. Toán Maine vừa lùi ra, vừa bắn trả đối phương.

Huế, 26/4/1975

Glover nói thật to cho Zabitosky nghe: “Ông chỉ huy đi!”. Cùng lúc, Bragg cũng báo cáo: Covey, máy bay quan sát điều không FAC cho biết có hai toán biệt kích đang chạm trán với đối phương, nên toán Maine phải ráng “gồng mình” trong vòng 45 phút. Zab ra lệnh cho Glover đưa toán trở lại bãi trực thăng, lập vị trí phòng thủ, còn anh ta sẽ ở lại cầm chân đối phương, không cho xán lại gần.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #124 vào lúc: 09 Tháng Ba, 2011, 10:32:20 pm »

Ban tình báo của SOG sau này cho biết: Hẻm núi đó là Sở chỉ huy Trung đoàn của đối phương, mà cũng có thể là Sở chỉ huy binh trạm 37. Zab tiếp tục ném lựu đạn, bắn cầm chân đối phương chừng nửa giờ, rồi chạy ra bãi trực thăng. Tại bãi đáp, Glover đã tổ chức xong vị trí phòng thủ và đang chỉ điểm cho các phi tuần khu trục A1 đánh bom yểm trợ cho toán biệt kích. Trong lúc Zab còn trong hẻm núi, Quân đội Bắc Việt đem súng máy phòng không 12 ly 7 đến. Covey cho biết thêm, quan sát thấy bốn đại đội của đối phương đang trên đường đến vị trí toán biệt kích và một đại đội đã đến gần.

Huế, 1968. Y tá chiến trường Howe chăm sóc cho Binh nhất Crum, TQLC Mỹ.

Trên vùng trời đảm trách, chiếc máy bay quan sát vẫn liên lạc với toán biệt kích ở dưới. Covey hỏi Zab:

-   Anh đã tập hợp đủ mọi người chưa?
-   Đủ, có chuyện gì không?
-   Cách anh chừng 400 thước về hướng tây có chỗ an toàn hơn cho “gia đình” anh.


Điều rất nguy hiểm là đưa trực thăng vào bốc toán biệt kích, trong khi bãi này có hỏa lực phòng không mạnh và đối phương tập trung quân đông. Trong khi những chiếc máy bay khu trục, trực thăng vũ trang oanh tạc xung quanh bãi đáp thì Covey hướng dẫn toán Maine chạy khoảng 150 thước theo hướng đông nam, dọc theo con suối, qua một cánh rừng đến bãi đáp khác an toàn hơn. Họ đến một khoảng đất trống trải, không bị đối phương đuổi theo. Covey điều một trực thăng vào bốc toán Maine. Mọi người đều nín thở, Purcell Bragg cùng hai biệt kích Thượng chạy ra lao lên trực thăng, chiếc máy bay bốc lên cao qua khỏi ngọn cây. Thế là thoát.

Toán biệt kích còn lại gồm Zab, Glover và bốn biệt kích Thượng đợi chiếc thứ hai. Hàng trăm quân đối phương đang bao vây ba mặt bãi đáp, xung phong tấn công. Khu trục A1, cùng trực thăng vũ trang đến bắn hỏa tiễn xung quanh bãi đáp cho chiếc trực thăng thứ hai vào bốc số biệt kích quân còn lại. Khi trực thăng đáp xuống, toán biệt kích vừa chạy ra trực thăng vừa bắn xối xả. Quân Bắc Việt cũng nhào ra sống chết không để toán biệt kích chạy thoát. Khi chiếc trực thăng bốc lên cao khoảng 75 bộ, B40 của đối phương bắn trúng máy bay. Chiếc trực thăng rơi xuống, đứt làm đôi và bốc cháy.

Cà Mau, 12/11/1962

Bị thương, lại cháy xém hết quần áo, Zabitosky chạy lại chiếc trực thăng đang bốc cháy, lôi ra được viên phi công cùng người phi công phụ. Còn Doug Glover và bốn biệt kích Thượng, hai trung sĩ xạ thủ đại liên Melvin Dye, Robert Griffith đều chết. Trên một chiếc Huey khác bay cao khoảng 3000 bộ (915 m), quân y sĩ Luke Nance nhìn xuống chiếc trực thăng đang bốc cháy, nói to cho người phi công biết: “Có người còn sống ở đưới! Đáp xuống để tôi cứu họ!”. Hai viên phi công nghi ngờ Quân Bắc Việt đang lục soát xác chiếc trực thăng, nên trả lời: “Tốt hơn mình nên ra khỏi chỗ này!”. Nance cương quyết: “Không! Mình không đi đâu hết! Phải xuống cứu mấy người ở dưới đó”. Cuối cùng viên phi công phải bay xuống.

Mặc cho đạn AK, đạn 12 ly 7 bắn lên, chiếc trực thăng vẫn lao xuống, Nance thấy rõ Zabitosky ngã lên ngã xuống, cố gắng lôi hai viên phi công về hướng có tiếng trực thăng. Nance chạy lại giúp Zab lôi 2 viên phi công lên trực thăng, anh ta không nhận ra Zab, mặt mày bị cháy đen xì. Tất cả đều thoát, được đưa về quân y viện Mỹ tại Pleiku an toàn. Tướng Westmoreland đích thân đến quân y viện thăm, trao Huy hiệu thương binh dũng cảm và đề nghị tặng thưởng Huy chương danh dự hạng nhất cho Zabitosky.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #125 vào lúc: 09 Tháng Ba, 2011, 10:59:53 pm »

Bốn tháng sau, một toán biệt kích khác cũng từ Kontum (FOB 2), do John Kedenburg làm trưởng toán, xâm nhập đường 110, cách mục tiêu Bra 12 dặm về hướng đông. Toán biệt kích chạm súng với một toán tuần tiễu của đối phương, sau đó Quân Bắc Việt điều một tiểu đoàn đến bao vây toán biệt kích. Sáu tháng trước đó, Kedenburg chứng tỏ sự can đảm của mình, đã đem về được xác của Trung sĩ nhất Dan Wagner, trưởng toán Nevada, nên được giao cho trách nhiệm làm trưởng toán.

Chu Lai, 7/4/1969. UH-1D được câu bởi Chinook thuộc Lữ đoàn 196 bộ binh

Toán nevada bị đối phương đuổi theo sát nút, mỗi lần toán ngừng lại thở, Quân Bắc Việt lại bắt kịp. Hai bên ổ súng rồi toán biệt kích lại chạy tiếp. Cuối cùng, Kedenburg nằm lại cản đường cho đồng sự chạy, rồi anh chạy sau. Khi bắt kịp toán, một biệt kích Thượng chạy lạc, Kedenburg không thể hy sinh cả toán để ở lại chờ một người. Biết đâu tay biệt kích Thượng kia đã bị đối phương bắt hoặc chết. Kedenburg liên lạc với đơn vị ứng cứu, yêu cầu bốc toán biệt kích về. Họ nghĩ rằng đã cắt đuôi được lính Bắc Việt.

Khi trực thăng tới thả dây câu xuống câu lên được 4 biệt kích, Kedenburg chỉ điểm cho máy bay khu trục A1 bắn chặn đường. Chiếc Huey thứ hai đến thả bốn sợi dây cấp cứu xuống cho anh ta cùng ba biệt kích quân còn lại. Lúc đó đối phương đã băng qua lưới lửa do những chiếc A1 tạo nên. Đúng lúc người biệt kích Thượng chạy lạc cũng xuất hiện, do trông thấy trực thăng bao vùng. Thay vì cho trực thăng bay đi, Kedenburg tháo dây McGuire ra nhường cho người biệt kích Thượng, rồi ra dấu cho trực thăng bay lên, còn một mình ở lại đối phó với đối phương.

John Kedenburg

Mọi người trên trực thăng chứng kiến Kedenburg bắn chết 6 người lính Bắc Việt trước khi gục ngã. Hôm sau toán cấp cứu Bright Light vào đem được xác John Kedenburg về. Anh ta là người thứ hai trong lực lượng SOG được truy tặng Huy chương danh dự.

Thêm một tên tuổi nữa khá nổi tiếng ở Kontum. Anh ta là bạn của Zabitosky và Kedenburg. Đó là Trung sĩ nhất Robert Howard, người có thân hình lực lưỡng như thợ đốn củi. Robert Howard đến Kontun (FOB 2) vào đầu năn 1967, anh ta được đề nghị tặng thưởng Huy chương danh dự 3 lần, trong vòng 13 tháng.  Mọi người đều nghĩ rằng anh ta xứng đáng với những phần thưởng ấy. Cho tới nay, Howard là người lãnh nhiều huy chương nhất, kể cả 8 cái “Chiến thương bội tinh”. Một đêm, Howard chạy tới xe chở quân của đối phương trên đường 110, ném mìn vào xe, trước con mắt ngạc nhiên của Quân Bắc Việt, rồi cho nổ tung quả mìn.

Robert Howard (bìa trái), trong một lần đột kích giải cứu tù binh VNCH thành công, tại Sở chỉ huy Trung (CCC)

Howard được đề nghị tặng thưởng Huy chương danh dự lần đầu vào tháng 11/1967, khi toán biệt kích do Johnnie Gilreath làm trưởng toán phát hiện ra kho vũ khí, lương thực lớn của đối phương ở vùng đông nam Lào. Trong lúc Gilreath cùng các thành viên của toán tiếp tục theo dõi hoạt động của đối phương, thì SOG chuẩn bị cho đại đội xung kích Hatchet Force tấn công. Howard tình nguyện làm trưởng toán, hướng dẫn đại đội xung kích từ bãi đáp đến chỗ toán của Gilreath.

Nhưng bất ngờ không đến mãi, ba chiếc trực thăng đổ quân bị hỏa lực phòng không đối phương làm hỏng nặng. Howard dẫn được đại đội xung kích Hatchet Force đến vị trí toán biệt kích. Trong lúc đại đội xung kích phá hủy kho vũ khí, lương thực của đối phương, Howard dẫn toán biệt kích đi quan sát xung quanh, bắn hạ thêm 4 lính Bắc Việt, phá hủy thêm mấy trận địa giả của đối phương.

Sau trận tấn công, chỉ huy trưởng SOG đưa Gireath và Howard vào Sài Gòn tường trình về trận đánh cho tướng Westmoreland. Gilreath được cho đi học lái máy bay theo nguyện vọng của anh ta. Howard trở lại Kontum với Huy chương Ngoại Hạng (Distinguish Services Cross).

Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #126 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2011, 10:17:30 pm »

Mục tiêu Bra, nơi Zabitosky lĩnh Huy chương Danh dự vẫn là chỗ nguy hiểm nhất cho những toán biệt kích. Toán California do Joe Walker làm trưởng toán, tổ chức trận phục kích đơn vị chống biệt kích của đối phương, nhưng thất bại vì khẩu CAR15 của toán phó gặp trở ngại tác xạ. Quân đội Bắc Việt bắn trở lại bằng B40 làm tất cả mọi người trong toán đều bị thương.

Toán California tại Sở chỉ huy Trung (CCC)

Toán California phải lẩn trốn suốt đêm. Sáng hôm sau, một trung đội xung kích do Trung úy Daniel Swain chỉ huy xuống bãi đáp để đón toán California. Joe Walker cùng ba biệt kích Thượng tình nguyện ở lại giúp trung đội xung kích. Trung đội này được lệnh di chuyển dọc theo đường 96 vào sâu mục tiêu Bra, để tìm mục tiêu cho phi cơ oanh kích hoặc tấn công trên bộ.

Trung đội xung kích lục soát về hướng bắc hai ngày, không gặp đối phương, không một phát súng bắn tỉa. Walker cảm thấy không an tâm, càng lâu càng nguy hiểm và không ngờ rằng đối phương sẽ đến. Đêm thứ hai, họ đóng quân, lập tuyến phòng thủ giữa đường 96 và một nhánh sông rộng. Họ tin rằng quân Bắc Việt không thể tấn công từ bên kia sông sang. Nhưng nếu đối phương đánh từ đường vào, trung đội xung kích sẽ bị mắc kẹt, vì đằng sau là sông, hết đường chạy.

Walker cùng ba biệt kích Thượng của toán California không đào công sự chiến đấu, họ chui vào một bụi tre ngủ. Khoảng 3 giờ sáng, Walker thức giấc nhìn đồng hồ và nghe thây tiếng xe vận tải. Chiếc đầu ngưng lại cách khoảng 200 thước, rồi chiếc thứ hai, thứ ba... anh ta còn nghe được tiếng mở bửng sau xe vận tải Molotova do Liên Xô chế tạo, trang bị cho Quân đội Bắc Việt Nam. Viên sĩ quan Bắc Việt dùng loa tập hợp quân để tấn công. Trong những công sự chiến đấu gần đó, khẩu đại liên M60 đã được lắp đạn. Lúc đó, ánh sáng phát ra từ những cây đèn pin của đối phương quét qua, quét lại loang loáng xuyên màn đêm.

Đông Hà, 29/9/1966

Khẩu đại liên M60 nhả đạn trước, tiếng nổ xé tan màn đêm im lặng, Quân Bắc Việt tập trung hỏa lực tấn công vào tuyến phòng thủ của đơn vị biệt kích SOG. Đạn và mảnh ghim vào lưng, vào đùi Walker. Một góc trận địa phòng ngự của quân biệt kích bị vỡ, Quân Bắc Việt tràn vào bên trong đánh cận chiến. Trung úy Swain, Ranger Haynes bò qua chỗ Walker, nhưng một trái cối đã nổ đằng sau hai người khiến Swain bị thương nặng ở chân. Mặc dù bị thương, Walker vẫn cố gắng bò ra chỗ khác, kéo theo Trung úy Swain. Một hạ sĩ quan da màu Mỹ vừa đứng dậy, liền hứng hàng chục viên AK, anh ta kêu lên, rồi đổ xuống đất.

Walker tiếp tục bò về hướng bờ sông, lôi theo Swain. Anh ta vẫn đem theo khẩu đại liên M60 và tìm được chỗ cạn vượt qua sông. Bên kia đã có mấy biệt kích Thượng bị thương đang lẩn trốn. Nhìn lại bên kia sông, Walker thấy đèn pin của Quân Bắc Việt đi thu dọn chiến trường. Walker nhớ đến Swain, vội bò trở lại kéo Trung úy Swain lên bờ, lấy poncho cuốn lại. Anh ta không hề có thuốc men để chữa cho ông Trung đội trưởng trung đội xung kích.

Đà Nẵng, 27/5/1967. Chiến dịch Union 2

Tại Kontum, khi nhận được tin, Đại úy Ronal Goulet đánh thức Howard dậy thông báo: “Mình phải đi cứu Walker và Swain”. Một số hạ sĩ quan biệt kích khác cũng tình nguyện đi theo. Toán cấp cứu Bright Light gồm 12 người, do oulet chỉ huy, xâm nhập vào tìm kiếm quân nhân Mỹ tử trận hoặc mất tích. Trong màn đêm mịt mù, toán biệt kích Bright Light dò dẫm tìm Walker và Swain. Họ sờ từng xác chết một, xác nào chân dài là người Mỹ, cuối cùng họ tìm được Walker và Swain.

Đợi đến sáng, những chiếc máy bay oanh kích trở lại bao vùng. Toán Bright Light vượt sông, tới trận địa phòng ngự của trung đội xung kích khi đêm. Họ tìm được xác người hạ sĩ quan da màu Mỹ, cùng các quân nhân khác bị thương.

Dakto, 11/1967. Đồi 875 sau 21 ngày bị bao vây
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #127 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2011, 10:32:41 pm »

Giữa tháng 11, Howard tình nguyện trở lại mục tiêu Bra, cùng với một đại đội Hatchet Force để phá hoại, nhằm ngăn Quân đội Bắc Việt đang bao vây quân biệt kích của Vàng Pao, vốn được CIA nuôi dưỡng, đang đóng quân ở sâu trong đất Lào. SOG hy vọng “vố” này sẽ khiến cho Quân đội Bắc Việt phải đưa quân về giữ mục tiêu Bra. Đại đội xung kích Hatchet Force do một viên Đại úy chỉ huy, thêm Trung úy James Jerson, cùng một số hạ sĩ quan, trong đó có Lloyd O’Daniel thuộc trung đội 1.


Đơn vị này cũng không gặp đối phương bắn tỉa trong suốt bốn ngày đầu lục soát tại khu vực đường 96. Vùng này bị máy bay B52 ném bom trải thảm nhiều lần, trông rất tan hoang, cây cối đổ nát. Trước đây, vùng rừng núi này rất rậm rạp. Quân đội Bắc Việt tránh đụng độ như trước đây, giống với trung đội của Trung úy Swain. Đến đêm 16/11, khoảng 100 lính Bắc Việt tấn công vào trận địa phòng ngự của Đại đội Hatchet Force, rồi lại rút lui, không hề để lại dấu vết. Ngày 18/11, toán biệt kích bị quân Bắc Việt phục kích nhỏ, sau đó họ lại biến mất (!). Quân Mũ Nồi Xanh đoán chừng ý định của đối phương: “Có lẽ ngày mai mới đúng là ngày quyết tử”.

Sáng sớm 19/11, Howard thấy một Thiếu úy trẻ đi đầu thay vì 1 lính Thượng đầy kinh nghiệm. Rồi người sĩ quan trẻ tiếp tục dẫn đường và tìm thấy đường dây điện thoại. Dò theo đường dây đến một bụi cây, viên sĩ quan phát hiện ra một chòi quan sát, có một bát cơm vẫn còn nóng, anh ta biết ngay quân Bắc Việt sắp tấn công. Viên Thiếu úy vẫn tiếp tục dẫn đầu, đến một khoảng trống, anh ta định dẫn đại đội băng qua. Mấy người biệt kích Thượng ngần ngừ đợi lệnh và Đại úy đội trưởng ra lệnh: “Tiếp tục!”. Howard chạy lên trước cản viên Thiếu úy lại: “Bên kia cánh rừng có người, coi chừng!”. Anh ta lắc đầu trả lời: “Tôi sẽ giết hết tụi nó. Hãy chờ xem!”.

Viên Thiếu úy bắn phát đầu tiên trúng một lính đối phương. Thế rồi súng B40, súng cối thi nhau nổ chát chúa vào đội hình trung đội đi trước. Một quả cối 62 ly nổ gần chổ người sĩ quan trẻ, làm bay mất bàn chân phải và gần đứt bàn chân trái của anh ta. Howard đang lo băng bó cho viên Thiếu úy thì một trái B40 khác nổ gần bên, khiến nhiều mảnh đạn ghim vào lưng và chân anh ta. O’Daniel không ngờ, Howard nổi điên đứng dậy trở về trong lúc súng nổ như mưa, kể cả súng máy phòng không 12 ly 7 trên chiếc xe thiết giáp PT-76. Howard định dùng súng phóng hỏa tiễn M72 diệt chiếc thiết giáp của đối phương, thì một trái B40 khác nổ gần đó làm hỏng khẩu M72, thêm một sĩ quan khác bị thương. Howard dìu viên sĩ quan quay về ban chỉ huy đại đội, dẫn theo hai biệt kích Thượng bắn yểm trợ, còn anh ta đem theo hai khẩu M72 lên, bắn gục chiếc thiết giáp của Quân Bắc Việt.

An Lộc

Trong lúc đó, đại đội xung kích Hatchet Force phải lui về nơi có cây cối che chở để lập tuyến phòng thủ. Trực thăng tải thương được gọi đến, nhưng bị súng phòng không của đối phương bắn lên trúng đầu gối của xạ thủ đại liên. Anh ta thét lên đau đớn, đến nỗi ở dưới đất cũng nghe thấy. Chiếc trực thăng tiếp tục ăn đạn, chao đi rồi bốc cháy. Đối phương bắt đầu tấn công vào trung đội biệt kích dẫn đầu. Mặc dù đã hai lần bị thương nhưng Howard vẫn chạy lại chiếc trực thăng đang cháy, lôi ra một xạ thủ đại liên, còn người xạ thủ bên cạnh đã chết. Viên phi công chính giúp người phi công phụ ra khỏi máy bay, chạy về trận địa phòng ngự của đại đội xung kích.

Hôm sau, những chiếc phi tuần lên yểm trợ cho trực thăng vào tải thương, vừa chở đại đội Hatchet Force về căn cứ. Howard được đề nghị tặng thưởng Huy chương Danh dự lần thứ hai trong vòng một năm. Ba tuần sau, Howard lại tình nguyện đi theo toán biệt kích vào mục tiêu khó nuốt Bra.

Toán biệt kích do Larry White làm trưởng toán, ngoài ra còn có Trung sĩ Robert Clough, một sĩ quan biệt kích Quân đội Sài Gòn và sáu biệt kích Thượng. Tại bãi đáp chính, họ gặp đối phương bắn lên. Trực thăng phải bay đến bãi đáp thứ hai, cũng bị bắn; đến bãi đáp phụ thứ ba, thì bị súng phòng không của đối phương bắn rơi luôn chiếc trực thăng. White bị trúng đạn, rơi ra ngoài. Còn tay xạ thủ đại liên bị trúng đạn, gục bên cạnh khẩu M60, viên sĩ quan biệt kích Quân đội Sài Gòn trúng đạn chết. Ai cũng ăn đạn, chỉ trừ hai người là Howard và Clough.

Vạn Tường, 19/8/1965. Bên trong chiếc H34

Điều ngạc nhiên là chiếc trực thăng vẫn còn bay được, mọi người lại chui vào chiếc trực thăng và bốc lên cao, trước khi đối phương xông ra bắn tới tấp. Ba tuần sau, Howard theo một chuyến hành quân Bright Light sang Campuchia. Lần này anh ta được tặng Huy chương Danh dự thật sự.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #128 vào lúc: 13 Tháng Ba, 2011, 11:21:14 pm »

NHẢY DÙ XÂM NHẬP HALO

Chuyến giải cứu tù binh đầu tiên (Bright Light) do SOG thực hiện trong năm 1966, sau khi hai tiểu đoàn Quân Giải Phóng tiêu diệt cả trung đội do Huckleberry và Charlie Vessels chỉ huy. Sau nhiều phi vụ tập kích không thành công, chỉ huy trưởng SOG là Đại tá Jack Singlaub nhận thấy rằng có dấu hiệu cho thấy tù binh Mỹ đã được di chuyển đến nơi khác, chừng vài giờ trước khi quân biệt kích tấn công. Những sĩ quan tham mưu của SOG đặt ra nhiều câu hỏi cần lời giải đáp. Thiếu tá Ed Rybat, chỉ huy trưởng Sở chỉ huy tiền phương 1 (FOB 1) cũng băn khoăn: “Hình như đối phương biết mình trên đường đến mục tiêu”.

CH-47 tại đường 9 Nam Lào, 1968

Bước sang năm 1969, tình hình trở nên nghiêm trọng. Đại tá Steve Cavanaugh lên thay Jack Singlaub làm chỉ huy trường SOG, luôn quan tâm đến vấn đề an ninh nội bộ. Ông ta đến thăm các căn cứ hành quân tiền phương, hỏi thăm các toán trưởng biệt kích và đem theo toán an ninh lục quân Mỹ là Đại đội 101 kiểm thính để theo dõi tất cả các cuộc điện đàm trong các đơn vị SOG. Trong khi đó, các toán biệt kích xâm nhập đều biết rằng, đối phương cũng dò tần số liên lạc của họ để “thịt” các toán biệt kích xâm nhập. SOG phải tìm giải pháp xâm nhập khác để bảo vệ các toán biệt kích. Xâm nhập ban đêm, không sợ đối phương phát giác, nhưng các phi cơ trực thăng không được an toàn khi xuống bãi đáp trong màn đêm. Chỉ còn cách là nhảy dù xuống mục tiêu, xâm nhập vào lúc ban đêm.

Khi trưởng toán biệt kích Auger là Frank Oppel yêu cầu được phép nhảy dù xuống khu vực Lưỡi Câu trên đất Campuchia trong tháng 12/1969, Bộ chỉ huy SOG chấp thuận ngay. Chỉ có một trở ngại nhỏ, khi Oppel báo tin vui cho các thành viên, anh toán phó “lạnh chân” không chịu đi, phải tìm người khác thay thế, đó là Bob Graham mà sau này rất nổi tiếng ở Sở chỉ huy tiền phương Nam (CCS).

Hatchet Force xuất kích tại Dakto

Toán Auger gồm hai biệt kích quân Mỹ là Oppel, Graham cùng với ba biệt kích quân Nùng, bắt đầu tập nhảy dù từ trực thăng xuống, do phi công Green Hornet lái. Sau một tuần lễ thực tập nhảy dù đêm, đúng bốn giờ sáng ngày 23/12/1969, toán biệt kích Auger nhảy dù xuống, xâm nhập khu vực Lưỡi Câu trên lãnh thổ Campuchia. Họ xuống tới đất, nhanh chóng tập hợp. Tuy nhiên, có một biệt kích nùng bị trật chân, nên sáng hôm sau trực thăng phải vào bốc toán biệt kích đem về.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #129 vào lúc: 13 Tháng Ba, 2011, 11:31:57 pm »

Năm 1970, Đại tá John Sadler thay thế Đại tá Cavanaugh làm chỉ huy trưởng SOG. Ông ta là người rất am hiểu về kỹ thuật nhảy dù và skydiving (nhảy dù cánh dơi để lướt gió). Thuật ngữ quân sự gọi là HALO (High Altitude Low Opening). Nhảy dù HALO từ độ cao 10.000 bộ (3.050m), để rơi tự do, cách mặt đất khoảng 1.000-2.000 bộ (305-610m), rồi mở dù cánh dơi lái đến mục tiêu. Mặc dù lực lượng biệt kích Mỹ đã huấn luyện nhảy dù cánh dơi HALO từ năm 1957, nhưng Quân đội Mỹ cũng như quân đội các nước trên thế giới chưa từng sử dụng HALO trong chiến trận.

Tháng 7/1970, đại tá Sadler ra lệnh thành lập toán biệt kích HALO đầu tiên. Trung sĩ Cliff Newman và Trung sĩ nhất Sammy Hernandez đang chỉ huy toán biệt kích Virginia thám thính khu vực lân cận Khe Sanh, bỗng được lệnh tìm một bãi đáp gần nhất để rút quân. Toán biệt kích HALO đầu tiên gồm có Newman, Hernandez, thêm Trung sĩ nhất Melvin Hill, hai biệt kích quân người Thượng và một sĩ quan Lôi Hổ của Quân đội Sài Gòn. Mặc dù Newman cấp bậc thấp hơn hai viên Trung sĩ kia, nhưng anh ta có nhiều kinh nghiệm trong đơn vị SOG hơn, nên được cử làm trưởng toán HALO, lấy tên là toán Florida.


Sau đó, một chiếc C130, có biệt hiệu là Chim Đen (Blackbird), đã đưa toán biệt kích Florida qua Okinawa để huấn luyện kỹ thuật nhảy dù HALO. Họ được bí mật huấn luyện trong một khu vực riêng biệt, vì hai biệt kích quân Thượng và sĩ quan Lôi Hổ của Quân đội Sài Gòn bị chính phủ Nhật Bản từ chối không cho nhập cảnh.

Các huấn luyện viên được tuyển chọn là những bậc thầy về môn HALO trong Liên đoàn biệt kích số 1 của Mỹ. Khi nhảy ra khỏi phi cơ, chỉ cần 12 giây, con người đạt tới vận tốc rơi trong không khí 125 dặm mỗi giờ. Trong lúc thả rơ tự do, các quân nhân vẫn phải điều khiển thân mình theo hướng rơi tự do của nhóm. Khi bung dù cánh dơi ra, họ lái dù khoảng 2.500 bộ (762,5m) đến bãi đáp. Như vậy, nếu nhảy ra ở độ cao 12.500 bộ (3812,5m), để rơi tự do 60 giây, thêm hai phút rưỡi lái dù cánh dơi xuyên qua rừng đến bãi đáp, tổng cộng chỉ có ba phút rưỡi đồng hồ. Các quân nhân còn được trang bị thêm đồng hồ cao độ để mở dù tự động, trong trường hợp dù có chuyện bất trắc.

Sau một tháng huấn luyện ở Okinawa, toán biệt kích florida về tới Long Thành, huấn luyện thêm hai tuần về chiến thuật, và nhảy thêm vài kiểu HALO. Trong một chuyến thực tập nhảy dù đêm, Trung sĩ Hernandez bị gió thổi dạt qua một dãy nhà khác của Lục quân Mỹ. Một viên Trung sĩ chạy ra ngoài quan sát, vì Hernandez rơi trúng nóc nhà trước khi xuống đất. Nhìn thấy Hernandez vẫn còn vướng dù, bôi mặt ngụy trang, đeo kính che mắt, vũ trang đến tận răng: nào là khẩu CAR15, Shotgun cưa ngắn nòng, súng phóng lựu M79, dao găm, lựu đạn đeo đầy mình..., viên Trung sĩ văn phòng quỵ xuống, lên cơn đau tim vì tưởng lầm là lính dù cộng sản tấn công (!).

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM