Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:39:37 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội VNCH  (Đọc 384572 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #110 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2011, 11:36:10 pm »

Khi được đưa vào Sài Gòn để báo cáo với Trung tâm, Trung sĩ Bayer bị cười nhạo và cho rằng Bayer nằm mơ hay nói dóc (!). Cấp chỉ huy của anh ta ở căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài (FOB 1) là Thiếu tá Ed Rybat cũng mất mặt không kém: “Chúng tôi gửi báo cáo về, họ trả lời rằng không có gì hết, đó là dấu xe ủi đất!. Tôi từng phục vụ trong đơn vị thiết giáp trước đây, tôi biết thế nào là dấu xích xe tăng. Đó là dấu thiết vận xa lội nước PT 76 của đối phương”.


Tại Sài Gòn, chỉ huy trưởng SOG là Đại tá Singlaub tin rằng Quân đội Bắc Việt chuẩn bị xe tăng để tấn công. Ngược lại, Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam (MACV) bỏ ngoài tai lời cảnh báo của ông ta.

Thế rồi, rạng sáng ngày 6/2/1968, binh sĩ Thủy quân lục chiến trong giao thông hào phía tây căn cứ Khe Sanh nghe tiếng động cơ theo gió đưa tới, nghe như tiếng máy cưa(?). Không phải! Là xe tăng! Mặt đất trại biệt kích Làng Vây bỗng rung chuyển khi 11 chiếc xe tăng PT 76 cùng một tiểu đoàn bộ binh Bắc Việt được pháo 152 ly yểm trợ tràn vào trại. Đại bác 76 ly trên xe tăng bắn sập các công sự, lô cốt bên trong. Hơn một nữa lực lượng dân sự chiến đấu Thượng chết ngay tại trận. Lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh Mỹ sử dụng súng cối 105 ly đối phó với xe tăng PT 76.

Chỉ huy trưởng SOG thông báo về vụ tấn công trại biệt kích Làng Vây cho Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam, nhưng viên tướng trưởng phòng Nhì của Bộ Tư lệnh vẫn một mực không tin và buông một câu tỉnh queo: “Làm gì có xe tăng ở Việt Nam (!)”. Trong khi đó, trận đánh Làng Vây vẫn đang tiếp diễn, SOG trong Khe Sanh chuyển lời cầu cứu của trại biệt kích cần viện binh. Đại tá David Lawnds, chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh từ chối: “Tôi không muốn hy sinh tính mạng người Mỹ”. Biệt kích SOG kể rằng: “Ông ta liếc qua chúng tôi chớp nhoáng như máy quang tuyến, rồi khước từ một cách dã man”.

Khe Sanh, 1/4/1968. Lính Sư 1 Kỵ binh bay tập trung chờ được trực thăng bốc đi

Thiếu tá Jim Staton, sĩ quan điều hợp pháo binh của Thủy quân lục chiến trong căn cứ Làng Vây đã xác định: “Đúng vậy, chúng tôi có thỏa thuận rằng sẽ đi ứng cứu căn cứ Làng Vây trong trường hợp căn cứ này có thể bị dứt điểm. Tình trạng chiến đấu trong căn cứ đã xuống thấp, không ai đảm bảo vấn đề an toàn cho họ”.

Đã 2 lần trong đêm, viên sĩ quan tùy tùng của tướng Westmoreland phải đánh thức ông ta dậy để báo tin trại biệt kích Làng Vây bị tấn công. Đại tá Francis Kelly, chỉ huy trưởng Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ yêu cầu Tướng Westmoreland gửi quân tiếp viện cho Làng Vây. Nhưng Tướng Westmoreland rất ngần ngại khi ra lệnh cho Bộ Tư lệnh thủy quân lục chiến Mỹ. Cá nhân Westmoreland xem chuyện từ chối không tiếp viện cho trại Làng Vây là do mâu thuẫn giữa Bộ Tư lệnh MACV của ông ta với Bộ Tư lệnh thủy quân lục chiến của Mỹ. Ông ta ra lệnh triệu tập một cuộc họp với các vị tướng lĩnh thủy quân lục chiến Mỹ tại Đà Nẵng vào sáng hôm sau.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #111 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2011, 09:02:07 pm »

Trong lúc đó, tại trại biệt kích Làng Vây, Quân đội Bắc Việt đã hoàn toàn làm chủ tình thế. Sĩ quan Quân đội Bắc Việt ra lệnh cho tất cả binh sĩ lực lượng biệt kích Sài Gòn và Mỹ mở cửa hầm chỉ huy và ra đầu hàng. Sĩ quan biệt kích Sài Gòn ngoan cố và bị bắn tại chỗ vì tội phản quốc. Quân đội Bắc Việt dùng thuốc nổ phá các cửa hầm, sức ép bộc phá làm 8 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh bất tỉnh.

Gary Davies trong lúc chờ được trực thăng bốc đi tại Bến Hết, 27/6/1969

Cùng thời điểm trên, Tướng Westmoreland đến Đà Nẵng, ra lệnh cho Trung tướng Robert Cushman cung cấp trực thăng lập tức đưa một đơn vị SOG của căn cứ Khe Sanh đến Làng Vây ứng cứu. Sau này, Tướng Westmoreland mới biết mệnh lệnh của ông ta không được thi hành. Tướng Westmoreland viết: “Đó là điều xảy ra trong thời gian tôi phục vụ tại Việt Nam. Chuyện đó làm tôi muốn xin về hưu”.

Tại Khe Sanh, thiếu tá George Quamo, Thượng sĩ Charles Skip Minnicks có thể nhìn thấy khói bốc lên từ trại biệt kích Làng Vây. Quamo nói về sự nguy hiểm đang chờ đợi họ, rồi hỏi: “Ai muốn đi?”. Một tá lính Mũ Nồi Xanh xách tiểu liên CAR15, tập hợp 30 biệt kích Nùng, Thượng rồi leo lên trực thăng thủy quân lục chiến ra đi.

Sự thờ ơ của thủy quân lục chiến đã tác động đến viên phi công lái trực thăng, anh ta cũng không nhiệt tâm đi cứu. Từ trên máy bay nhìn xuống, họ thấy cảnh xe tăng cháy, doanh trại đổ nát. Mấy tay phi công CH46 kinh hoàng, họ lái máy bay lòng vòng trên không. Cuối cùng, Thiếu tá Quamo phải ra lệnh “vào!” thì họ mới hạ cánh.

Xuống tới đất, toán biệt kích SOG chia ra lục soát các hầm hào, công sự phòng thủ để tìm người sống sót. Quân Bắc Việt đã ngưng tấn công và rút ra xung quanh Làng Vây để đề phòng máy bay Mỹ oanh kích. Hầu hết các quân nhân Mỹ sống sót nhờ Trung sĩ nhất Eugene Ashley. Anh ta chết vào sáng hôm đó, trong những đợt phản công đẩy lui quân Bắc Việt ra khỏi Làng Vây. Anh ta được truy tặng huân chương danh dự cao nhất của Chính phủ Mỹ. Một số lính Mũ Nồi Xanh thoát chết nhờ viên tài xế lái chiếc xe Jeep của biệt kích Sài Gòn là Thiếu úy Quý đã xông vào trại, chở họ đi.

Toán biệt kích SOG gom tất cả những biệt kích Mỹ sống sót lại và với khả năng của họ, đem theo những biệt kích quân Thượng bị thương ra bãi đáp chờ trực thăng bốc về. Khi máy bay ứng cứu cất cánh, trưởng toán Alabama John Allen còn trông thấy một lính Mỹ chạy ra bãi đáp, vẫy tay cầu cứu, nhưng họ không thể quay trở lại, anh ta bị bỏ rơi cho số mệnh. Tay biệt kích Mỹ hẩm hiu ấy tên là Dennis Thompson, bị bắt làm tù binh và được trả tự do 5 năm sau đó. Thiếu tá Quamo đã giải cứu được 14 trong số 24 biệt kích quân Mỹ ở trại biệt kích Làng Vây, trong đó có một người bị thương.

Ngoài công ứng cứu, giải vây trong trận Khe Sanh, biệt kích SOG còn có công thu thập tin tức tình báo trên chiến trường Lào. Trong năm 1968, họ đã phát hiện ra môt căn cứ lớn, có sở chỉ huy, kho vũ khí, đạn dược của đối phương gần dãy núi Trường Sơn. Trận ném bom B52 Arc Light được lệnh tiêu hủy căn cứ này. Kết quả gây ra nhiều tiếng nổ phụ trong vòng hai giờ đồng hồ. Trong hồi ký của mình, Tướng Westmoreland tin rằng trận đánh bom B52 đã trúng vào Sở chỉ huy đầu não của đối phương. Trong trận bao vây Khe Sanh, có lẽ hệ thống thông tin của đôi phương bị gián đoạn khoảng 2 tuần lễ, dẫn đến sự rối loạn trong chỉ huy. Do đó, Quân đội Bắc Việt không mở trận tấn công tiếp vào căn cứ Khe Sanh trong Tết Mậu Thân.

Phan Thiết, 1968
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #112 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2011, 09:16:30 pm »

Cuối tháng 3/1968, trong khi Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ bắt đầu hành quân giải tỏa áp lực của đối phương xung quanh căn cứ Khe Sanh, thì toán Asp xâm nhập khu vực cách Khe Sanh 25 dặm về hướng tây bắc, để theo dõi sự rút lui của các đơn vị Quân đội Bắc Việt. Ai dè, toán biệt kích lại bất ngờ bị tấn công. Ngoài trưởng toán là Trung sĩ nhất George Brown, Asp còn có Trung sĩ Charles Huston và alan Boyer.


Một chiếc Kingbee định đến cứu George Brown và Charles Huston, nhưng bị hỏa lực đối phương khống chế, không làm gì được. Một chiếc Kingbee khác phát hiện Alan Boyer, bèn thả thang dây xuống cứu anh ta. Rủi thay, đạn bắn đứt dây thang, anh này rơi xuống giữa đội hình Quân đội Bắc Việt. Thế là cả toán biệt kích Mũ Nồi Xanh đều bị xóa sổ.
Đó chỉ là con số tổn thất khiêm tốn so với 205 lính thủy quân lục chiến Mỹ bỏ mạng trong 77 ngày căn cứ Khe Sanh bị bao vây.

Thiếu tá Quamo, chỉ huy cuộc giải cứu trại biệt kích Làng Vây, được chính máy bay của SOG chở về Đà Nẵng, nhưng chiếc máy bay cũng biến mất luôn. Có lẽ vì thời tiết xấu. Chỉ biết rằng hài cốt của Quamo mãi 6 năm sau (1974), mới tìm được. Phải mất vài tuần, sau khi căn cứ hành quân tiền phương (FOB) ở Khe Sanh đóng cửa, SOg mới dời sang trại biệt kích Mai Lộc ở đông bắc Khe Sanh.

Khi các cuộc chiến xung quanh Khe Sanh lắng dịu dần, các toán biệt kích SOG lại vượt biên xâm nhập Campuchia để do thám xem sau cuộc tổng công kích, đối phương có rút sang đó không?

Ngày 2/5/1968, toán biệt kích do Trung sĩ nhất Leroy Wright làm trưởng toán đã xâm nhập vào vùng Lưỡi Câu. Thành viên của toán còn có Trung sĩ Lloyd “Frenchie” Mousseau, Brian O’ Conner cùng 9 biệt kích Nùng.

Toán biệt kích xuất phát từ căn cứ Quản Lợi vào một buổi sáng. Trung sĩ nhất Roy Benavidez là bạn của Leroy Wright đã ra tiễn đưa, với lời chúc thành công. Thế nhưng, khi toán đáp đất, đã chạm trán với đối phương buộc phải quay trở lại trong lúc đối phương đuổi sát nút và sử dụng hỏa lực kiềm chế không để biệt kích quân ngóc đầu dậy; đồng thời bắn đuổi những chiếc trực thăng cấp cứu ra chỗ khác. Một trực thăng vũ trang trúng đạn, rơi xuống thành đống sắt vụn.

Đối phương tăng quân bao vây toán biệt kích đang nằm chịu trận dưới trận mưa của các loại hỏa lực như súng cối, B40, AK47... Bỗng một loạt đạn AK trúng đầu Wright, anh ta chết ngay tức khắc. Mousseau và O’Connor cùng bị nhiều vết thương. Còn tất cả những biệt kích quân Nùng đều trúng đạn, kẻ chết, người bị thương nằm la liệt. Toán biệt kích chỉ còn nước chờ bị xóa sổ.


Cùng thời điểm trên, tại một túp lều dã chiến trong căn cứ hành quân tiền phương Quản Lợi, Roy Benavidez lắng nghe những lời thoại qua máy truyền tin, điện đàm giữa các phi công trực thăng vũ trang và phi công lái máy bay quan sát điều hành không quân yểm trợ (FAC). Roy Benavidez rất sốt ruột, lo lắng cho các chiến hữu của mình. Leroy Wright, Mousseau, Brian O’Connor và cả những biệt kích Nùng đều lâm nạn. Một lữ đoàn của Sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ” đang hành quân gần đó, nhưng họ không được phép vượt biên sang Campuchia. Một toán cấp cứu Bright Light cũng không có. Phải làm gì đây? Roy Benavidez đứng ngồi không yên.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #113 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2011, 09:36:15 pm »

Bị mất nhiều máu, Brian O’Connor đuối dần. Anh nghe như tiếng trực thăng đang đến, nhưng không di chuyển được. Khi chiếc trực thăng vừa chạm đất, Roy Benavidez xách túi đựng dụng cụ y tế nhảy xuống và chạy thật nhanh vào bụi rậm, nơi các biệt kích SOG nằm la liệt. Roy tình nguyện một mình đi cứu toán biệt kích. Đối phương trông thấy chiếc trực thăng đáp xuống liền bắn ra tới tấp. Một viên trúng vào đùi Roy, anh ta vẫn tiếp tục chạy, không dám dừng lại. Vào đến vị trí toán biệt kích, Roy quan sát thật nhanh xung quanh: Wright đã chết, Mousseau trúng đạn vào đầu, nằm thẳng cẳng nhưng chưa chết, O’Connor bị thương nhưng vẫn còn bò lết được. Roy Benavidez băng bó cho bạn, chia số đạn còn lại cho những người bị thương để bắn cầm cự. Roy lãnh thêm 1 viên AK nữa vào đùi phải trong lúc chỉ điểm cho trực thăng oanh kích và để đưa những người sống sót ra.

Lính Sư 1 Anh cả đỏ bị thương được chuyển lên chiếc UH-1D, 10/5/1967

Khi chiếc trực thăng đã hạ cánh, Roy đưa khẩu AK cho O’Connor, còn mình thì vác theo xác Wright. Một viên AK khác trúng vào phổi, Roy đổ xuống, choáng váng. Chiếc trực thăng trúng đạn súng cối, gục đầu xuống, cả viên phi công và người xạ thủ đại liên đều chết. Roy cố lết lại chiếc trực thăng, giúp những người sống sót ra khỏi máy bay, trước khi nó bốc cháy. Roy tiếp tục chỉ điểm cho phản lực Phantom F4 oanh kích và lĩnh thêm 2 viên đạn AK nữa. Trong lúc đó, đối phương bắn rơi thêm một chiếc trực thăng Gunship nữa.

Rồi một chiếc Huey khác vào bãi đáp, trên chiếc trực thăng có Trung sĩ quân y Ronald Samsons, anh ta giúp Benavidez kéo, dìu phi hành đoàn chiếc trực thăng trúng đạn, xác biệt kích quân lên máy bay. Trên đường về, Benavidez bất tỉnh vì mất nhiều máu và kiệt sức. Mouseau chết vì vết thương ở đầu quá nặng. Wright đã chết trước đó. Về sau họ được truy tặng huân chương Ngoại hạng (Distinguish Service Cross). Benavidez nằm bệnh viện gần một năm, điều trị 7 vết thương đạn AK, cộng 28 mảnh B40, cối 60 ly của đối phương. Roy Benavidez liều mạng cứu 8 người, nhưng chẳng hiểu sao không hề được thưởng công. Người ta chỉ giải thích do giấy tờ bị thất lạc. Mười ba năm sau, khi đã về hưu, Thượng sĩ Roy Benavidez mới được máy bay quân đội chở đến Washington để Tổng thống Reagan gắn huy chương Danh dự (Medal of Honor).

Tướng Westmoreland thăm lính Sư 1 Anh Cả Đỏ tại Biên Hòa, 1965

Sau ngày Roy Benavidez cứu toán biệt kích ở Campuchia trong tháng 5/1968, toán Alabama mới xâm nhập lãnh thổ Lào, cách thung lũng A Sầu 15 dặm, họ gắn máy nghe trộm các cuộc điện đàm của đối phương. Trưởng toán là Trung sĩ John Allen, ngoài ra thành viên của toán còn có Kenneth Cryan, Paul King và sáu biệt kích Nùng. Toán Alabama xâm nhập vùng và nghi ngờ có 1 sư đoàn Bắc Việt. Đơn vị này rút qua Lào khi Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ mở cuộc hành quân càn quét khu vực xung quanh thung lũng A Sầu.

Khi chuẩn bị thả toán biệt kích gần đến bãi đáp, Allen trông thấy hầm hố, công sự phòng thủ của đối phương dưới rặng cây, nhưng không thấy bóng dáng quân Bắc Việt tại địa điểm thả toán. Allen bèn ra hiệu đáp xuống và toán biệt kích bắt đầu thực thi nhiệm vụ. Họ di chuyển khoảng 1 tiếng đồng hồ. Với kinh nghiệm của 20 chuyến xâm nhập ở Lào, một chuyến Bright Light xuống miền Bắc Việt Nam và giác quan thứ 6 mách bảo, Allen ra hiệu cho toán phó Ken Cryan biết: “Có điều gì đó không bình thường, ngửi mùi cũng biết chuyện đó”. Allen cùng một biệt kích Nùng tiến tới đằng trước quan sát.

Hai người lên trước khoảng 250 thước, họ trông thấy khoảng đất rộng đã được dọn dẹp, những nhánh cây cao trên đầu được cột lại, che giấu khoảng đất trống ở dưới. Ở giữa có một căn nhà làm bằng tre. Rõ ràng đây là Sở chỉ huy của đối phương, có lính Bắc Việt ra vào. Xa hơn chút nữa có đường hầm rộng đủ 2 người cùng đi đào sâu vào trong núi. Allen chụp mấy tấm ảnh rồi lùi về chỗ toán biệt kích Alabama.

Tập kích bắt tù binh đối phương

Toán phó Ken Cryan cho biết có vài lính Bắc Việt vừa đi ngang qua, có lẽ là đội săn lùng biệt kích. Allen quyết định “cắt đuôi”, rồi cả toán nghe tiếng hô, tiếng lùng sục trong các bụi rậm trên đường họ vừa di chuyển qua. Toán biệt kích chạy thoát. Vài phút sau, người biệt kích dẫn đường đưa toán băng qua một con đường mòn, có lẽ dẫn tới Sở chỉ huy. Âm thanh truy lùng toán biệt kích chỉ cách họ chừng 50 thước, Allen quyết định tăng tốc độ di chuyển. Họ băng qua một đường mòn nữa, nghe tiếng gọi nhau của đối phương ở cánh phải và cả tiếng trả lời phía sau. Toán biệt kích chạy hết sức lực lên ngọn đồi, để lại phía sau những tràng súng AK nổ vang dội. Một biệt kích đáp lại bằng tràng CAR15. Cryan quỵ xuống ôm lấy đùi bên phải, Allen chạy lại xốc nách Cryan dìu đi, mặc cho Cryan yêu cầu hãy chạy đi, để anh ta ở lại. Một biệt kích Nùng trúng 1 viên AK vào ngực, gục xuống đất chết, cũng được đồng đội cõng theo.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #114 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2011, 10:36:00 pm »

Trong khi Paul King gọi máy bay cấp cứu, Allen tìm chỗ để phòng thủ. Anh ta thấy một hố bom cách chừng 50 thước trên đường lên núi, bèn ra lệnh cho các thành viên bắn yểm trợ. Allen dìu Cryan di chuyển đến hố bom, bộ phận còn lại theo sau. Allen trải tấm panel màu cam giữa lòng hố bom, đánh dấu vị trí toán biệt kích để Paul King gọi phi cơ đến ứng cứu. Người biệt kích Nùng đã chết, Cryan trúng đạn vỡ xương đùi khiến anh ta đứng lên không nổi. Có lẽ phải cưa chân. King chích morphin cho Cryan, đủ cho anh ta đỡ đau và tỉnh táo.


Allen cùng những biệt kích còn lại chuẩn bị công sự phòng thủ xong thì Quân đội Bắc Việt xuất hiện, tiến lên đồi. Nhờ vị trí trên cao, toán biệt kích ném lựu đạn xuống khiến đối phương phải lui lại. Đúng lúc đó, King gọi Allen: “Đã có phi cơ FAC lên vùng” và đưa máy cho anh ta liên lạc. Khi King bước ra miệng hố thay cho Allen thì gần như ngay lập tức, một viên AK bắn trúng đầu King khiến anh ta chết ngay tức khắc. Toán Alabama giờ đã có 2 người chết.

Máy bay quan sát chỉ điểm cho những chiếc phi tuần đánh bom nhằm đẩy lui Quân Bắc Việt ra xa. Thế là hết Phantom F4 đến lượt Super Sabres F100, lại đến A1 Skyraider, rồi trực thăng đến. Nhưng viên phi công non gan, không dám xuống, mặc dù Allen đã trải panel, đánh dấu vị trí toán biệt kích và đưa tay ra hiệu. Lòng vòng một hồi, chiếc trực thăng phải bay về vì hết nhiên liệu, hẹn hôm sau sẽ trở lại (!) Toán Alabama đành phải đợi đến sáng hôm sau. Đêm đó, họ phải chiến đấu suốt đêm, thêm 1 biệt kích Nùng nữa bị thương nhẹ.

Sáng hôm sau, Quân Bắc Việt vẫn tiếp tục bò lên tấn công, bỗng có 1 tiếng nổ lớn rung động hố bom. Allen định thần nhìn quanh, toán Alabama 9 người lúc xâm nhập giờ đây chỉ còn lại anh ta và 1 biệt kích Nùng, còn tất cả đều thương vong, nằm la liệt trong hố bom. Đêm qua, quân Bắc Việt đã đem súng máy phòng không 12 ly 7 và 37 ly đến xung quanh khu vực toán biệt kích. Họ biết thế nào máy bay Mỹ cũng sẽ đến ứng cứu, nên đã chuẩn bị trận địa.

Đúng như dự đoán, một chiếc Phantom bị bắn rơi, những chiếc khác lo tìm cách tiêu diệt hỏa lực phòng không của đối phương. Đến chiều, trực thăng cấp cứu CH53 Jolly Green đến bốc toán Alabama. Do sườn núi dốc, chiếc CH53 không đáp đất được đành phải thả dây cấp cứu xuống. Allen đặt Cryan lên một dây, dây bên kia cho một biệt kích Nùng ngồi vào, rồi chào: “Hẹn gặp ở Phú Bài”.

Chiếc CH53 từ từ bốc lên, đạn AK bắn đuổi theo trúng cả hai, máu nhỏ xuống mặt Allen, chiếc trực thăng hốt hoảng bay đi luôn. Quân Bắc Việt vẫn bắn theo, nhằm vào đám biệt kích chứ không phải trực thăng. Hai xác chết xuôi tay, nhưng vẫn còn dính dây cấp cứu nên được trực thăng đem đi.

Chiến dịch Silver City, 13/4/1966

Allen nổi điên, chửi thề um xùm và nói với FAC là sẽ tìm đường khác. Viên phi công lái FAC rất bình tĩnh hỏi lại: “John, anh định tìm đường nào?”. John Allen lấy thêm đạn từ những biệt kích đã chết, rồi ra khỏi hố bom, chạy như bay xuống núi. Quân Bắc Việt bất ngờ nên không kịp bắn đuổi theo. Chạy được một quãng, John Allen gọi FAC:

-   Tôi đã ra khỏi, trực thăng có chưa?
-   Tôi vẫn theo bạn, sẽ có Kingbee đến đón.
-   Còn mấy ông bạn của tôi thì sao?
-   Y tá nói họ Ok! Họ Ok!
(viên phi công FAC nói dối, để trấn an Allen).

Cuối cùng chiếc Kingbee do phi công của Phi đoàn 219 lái đã đến bốc Allen đưa về căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài. Đến lúc này người ta mới biết Cryan và người biệt kích Nùng lĩnh mỗi người 30 viên đạn AK khi chiếc trực thăng CH53 đến bốc họ. Toán biệt kích Alabama cuối cùng chỉ còn mỗi mình Allen sống sót. Ngay cả biệt kích quân ngồi sau ghế phi công của chiếc FAC là Trung sĩ nhất John Robertson, cũng chết 15 ngày sau, khi đi theo Kingbee ứng cứu trong một phi vụ, cách toán Alabama xâm nhập khoảng 10 dặm. Quân Bắc Việt bắn rơi chiếc Kingbee bằng hỏa tiễn SA7.

Toán Alabama khi còn đông đủ tại FOB1 Phú Bài
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Ba, 2011, 10:44:17 pm gửi bởi NicolasCage » Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #115 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2011, 09:52:45 pm »

Ba ngày sau, toán Idaho xâm nhập cách đó khoảng 5 dặm. Mãi đến chiều hôm đó, trưởng toán Glen Lane, toán phó Robert Owen mới điện vắn tắt cho Covey (FAC) biết họ không báo cáo được vì Quân Bắc Việt đã bao vây toán. Đó là lần cuối cùng toán biệt kích Idaho báo cáo, không ai biết chuyện gì đã xảy ra cho toán biệt kích. Toán Oregon được cử đi tìm toán Idaho, nhưng chỉ tìm thấy dấu vết lựu đạn nổ, chứng tỏ có cuộc đụng độ và toán Idaho đã bị đối phương bắt. Đến phiên toán Oregon bị đơn vị chống biệt kích của Quân Bắc Việt tấn công, cả toán đều bị thương, nhưng đều thoát hiểm.


Đến mùa mưa năm 1968, SOG có chỉ huy trưởng mới là Đại tá Cavanaugh. Đoàn Nghiên cứu quan sát dồn nỗ lực sang lãnh thổ Lào và Campuchia. Một số thành viên của Thượng nghị viện Mỹ có lý khi chỉ trích Chính phủ Mỹ “mở rộng chiến tranh ra cả Đông Dương”. Tại chiến trường miền Nam, SOG chỉ quan tâm đến thung lũng A Sầu, cách Đà Nẵng 40 dặm về hướng nam. Thung lũng A Sầu rộng 25 dặm, kéo dài sang biên giới Việt – Lào về hướng tây bắc. Trong khu vực này, quân Mỹ đã phải bỏ 2 sân bay dã chiến và 3 trại biệt kích.

Ngày 3/8/1968, toán biệt kích Idaho mới được thành lập lại, do Wilbur Boggs làm trưởng toán, xâm nhập vào thung lũng A Sầu, cách chỗ Idaho đã biến mất ngày 20/5/1968 khoảng 10 dặm. Toán phó là John Walton, vốn thông minh, chơi xì phé giỏi (?!) (sau này được hưởng gia tài là những tiệm Wal Mart). Ngoài ra, toán còn có Tom Cunningham và biệt kích Thượng.

Idaho mới xâm nhập không lâu, đã bị tấn công. Trưởng toán Boggs bị thương nặng, hai biệt kích Thượng chết. Toán bị bao vây không còn lối thoát. Walton phải gọi máy bay oanh kích ngay trên đầu toán. Nhờ vậy, Quân Bắc Việt mới lui ra. Nhân đó, Walton nhanh chóng cấp cứu những biệt kích bị thương, kể cả Cunningham và tất cả đều thoát nạn.

Lính Lữ đoàn 3, Sư 1 Kỵ binh bay tại đông bắc Phan Thiết, 2/4/1967

Không ai có thể ngờ vào lúc 3 giờ sáng ngày 23/8/1968, đặc công Quân đội Bắc Việt đã táo bạo tấn công Sở chỉ huy Bắc (CCN). Trận tấn công kéo dài 3 tiếng đồng hồ, khiến 15 sĩ quan, hạ sĩ quan biệt kích Mỹ thiệt mạng. Đó là con số tổn thất lớn nhất kể từ khi SOG thành lập. Mười sáu biệt kích quân Kinh, Nùng, Thượng của Quân đội Sài Gòn chết. Theo báo cáo của SOG thì đối phương cũng bị thiệt mạng 38 người, 9 bị thương và bị bắt làm tù binh. Trong số xác của đối phương để lại, có cấp dưỡng ở bếp của Sở chỉ huy Bắc, là nội tuyến của đối phương gài vào.

Sau vụ Đà Nẵng, toán biệt kích SOG vẫn tiếp tục xâm nhập vào lãnh thổ Lào. Vào thời điểm cuối mùa mưa 1968, không ai may mắn hơn Trung sĩ Lynne Black Jr. Ngày 5/10/1968, toán của anh ta xâm nhập miền Trung Lào, chạm trán ngay đối phương. Toán trưởng là Trung sĩ James Stride chết ngay trong loạt đạn đầu. Như rắn mất đầu, toán biệt kích bỏ chạy tứ tán. Black cùng với hai biệt kích Thượng vô tình chạy ngang qua Sở chỉ huy quân Bắc Việt, nhưng do sự việc trên diễn ra quá nhanh, đối phương không phản ứng kịp.

Phát hiện căn cứ của đối phương

Đúng lúc đó, một chiếc CH53 Jolly Green đến từ Thái Lan đến. Black đưa hai biệt kích Thượng và Mỹ thất lạc lên máy bay trước. Nghe tiếng trực thăng, hai lính Bắc Việt chạy ra, đụng Black. Hai bên vật lộn, giằng co. Không hiểu sao Black thoát ra được và được trực thăng câu lên. Đúng lúc đó, chiếc trực thăng chao đi do trúng đạn B40, viên phi công đáp xuống một rặng núi khác, rồi một chiếc CH53 đến bốc tất cả về căn cứ an toàn, trừ xác trưởng toán Stride không tìm được.

Bill Copley không được may mắn như Lynne Black. Vài tuần sau khi Black thoát hiểm, toán biệt kích khác xâm nhập vào vùng nam Lào, bị đối phương bao vây, rượt đuổi. Copley bị thương, anh ta cầu cứu khẩn thiết: “Giúp tôi! Tôi bị thương!”. Một thành viên của toán cõng Copley chạy, đến khi kiệt sức phải bỏ lại vì đối phương đuổi theo sát gót. Sau đó, toán cấp cứu Bright Light vào tìm thì chỉ thấy vết máu nơi Copley nằm.

Tổng kết năm 1968, không kể vụ đặc công Bắc Việt tấn công Sở chỉ huy Bắc, SOG có 18 biệt kích Mũ Nồi Xanh tử trận, 18 người mất tích.


Sau khi lính Mỹ càn vào 1 ngôi làng cách Sài Gòn 72 km, ngày 12/9/1966.
Những người tình nghi sẽ được bàn giao cho quân đội VNCH. 2 đứa bé cũng có thể là VC và cần phải bịt mắt (?!)
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #116 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2011, 10:09:07 pm »

SOG CHIẾN ĐẤU TRONG ĐƠN ĐỘC

Sau cuộc tấn công sang Campuchia, Quân đội Mỹ gia tăng việc rút quân, các đơn vị còn lại tạm ngưng các cuộc hành quân để di chuyển về vùng trung tâm, bảo vệ các thành phố lớn, sân bay dọc theo bờ biển.

Củ Chi, 26/7/1966. Lính Sư 25 "Tia chớp nhiệt đới" trong 1 kế hoạch cung cấp sân chơi cho trẻ em

Chỉ trừ vài đơn vị pháo binh trong những căn cứ hỏa lực, không một đơn vị cơ động nào của Mỹ còn nằm sâu trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Khi Quân đội Mỹ rút khỏi khu phi quân sự Tây Nguyên và những vùng hẻo lánh, thì Quân đội Sài Gòn càng thiếu hỏa lực, không quân yểm trợ, nên không đủ sức làm chủ ngay trên địa bàn mà Quân đội Mỹ vừa bàn giao. Ngược lại, Quân Giải phóng, với sự hợp lực của Quân đội Bắc Việt, ngày càng mở rộng vùng kiểm soát. Họ đồng thời phát triển hệ thống đường tiếp tế đi qua lãnh thổ Lào, vừa xây dựng những căn cứ chiến lược dọc theo biên giới Việt – Lào. SOG tự đề cao vai trò, vị trí của mình rằng không lực lượng nào có thể ngăn cản được sự phát triển của đối phương, ngoài lực lượng biệt kích. Đại tá Roger Pezzelle, chỉ huy Trung tâm hành quân bộ của SOG tuyên bố: “Không có ai ngoài Đoàn Nghiên cứu, quan sát”.

Phải chăng đó là niềm kiêu hãnh của lính biệt kích. Chẳng thế mà Trung sĩ nhất Billy Greenwood ở căn cứ hành quân tiền phương 2 (FOB 2) đã đầy tự tin cho rằng: “Chúng tôi vẫn hành quân liên tục một cách bình thường như trước đây”. Nói thì dễ, còn thực tế lại chẳng dễ dàng chút nào. Vào một buổi chiều, Lloyd O’Daniel nhìn trực thăng đem xác Trung sĩ nhất David “Baby” Hayes về. Lloyd O’Daniel buồn rầu chán nản: “Hôm trực thăng câu xác anh ta về, họ dùng dây câu kéo lên từ trong rừng. Chiếc trực thăng bay rất chậm rồi từ từ hạ xác của anh ta xuống mặt đất. Hayes đã có vợ và 3 con. Chúa ơi! Có phải đó là thực sự là niềm kiêu hãnh hay không?”.

Cho dù xứng đáng hay đơn độc, các toán biệt kích SOG vẫn phải tiếp tục xâm nhập những vị trí phòng thủ kỹ lưỡng nhất của đối phương trên đất Lào, khu phi quân sự và cả lãnh thổ miền Nam. Kết quả, theo các báo cáo của họ cho là thành công một nửa, Riêng toán biệt kích Washington xâm nhập vào lãnh thổ Lào hai chuyến, nhắm vào mục tiêu Charlie 3 khoảng cuối mùa mưa 1970.

Ngày 5/11/1970, Đại úy Steve Wallace, trưởng toán biệt kích, cùng với Jeff Mauceri, Curt Green và ba biệt kích Thượng được thả vào vùng Nam Lào. Họ di chuyển rất cẩn thận, thám sát khu vực bốn ngày thì phát hiện vị trí đóng quân của một tiểu đoàn Quân đội Bắc Việt vừa mới di chuyển đi nơi khác. Họ tiếp tục thám sát mục tiêu thì tìm thấy một con đường lớn và đường dây điện thoại. Lần theo đường dây, toán biệt kích trông thấy sâu trong rừng là một cánh đồng lúa và lính hậu cần của Quân đội Bắc Việt đang canh tác.


Phía trên kia là một thung lũng, họ tìm ra một bệnh viện bỏ hoang và bãi nghĩa địa với hàng trăm nấm mộ. Có thể đây là tổn thất của đối phương sau trận đánh các trại biệt kích Dak Seang, Dak Pek ở khu vực biên giới Việt Lào, thuộc địa bàn Tây Nguyên năm tháng trước đó. Chiều hôm sau, toán Washington nghe có tiếng di chuyển đều đều, trưởng toán Wallace tìm một vị trí đóng quân qua đêm, định để sáng hôm sau xem có chuyện gì. Bất ngờ, toán biệt kích chạm trán đơn vị săn lùng biệt kích của đối phương, Mauceri bắn gục một lính đối phương, rồi cả toán bỏ chạy.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #117 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2011, 10:25:05 pm »

Đêm đó toán biệt kích trốn trong một bụi rậm gần một con suối. Sáng hôm sau, Wallace liên lạc với máy bay điều không FAC và được hướng dẫn di chuyển đến một bãi đáp. Trên đường đi, họ bắn chết một lính của đối phương nữa và thu được cuốn sổ tay ghi chép báo cáo về việc sản xuất. Dựa vào cuốn sổ đó, Bộ chỉ huy SOG ở Sài Gòn khen ngợi toán Washington đã khám phá ra chổ đóng quân mới của Trung đoàn 28, Quân đội Bắc Việt và ra lệnh cho toán biệt kích quay trở lại đặt máy nghe trộm tại vị trí toán biệt kích phát hiện ra đường dây điện thoại. Với vẻ ngán ngẩm, trưởng toán biệt kích lẩm bẩm: “Vừa mới chạy tè ra quần, lại phải quay lại (!)”. Cả toán chỉ cầu mong được nhận nhiệm vụ ở nơi khác.


Ngày 1/12/1970, toán Washington xâm nhập trở lại vị trí đóng quân của Trung đoàn 28, Quân Bắc Việt. Họ âm thầm di chuyển suốt 3 ngày thì đến ngọn đồi, nơi họ tìm thấy dây điện thoại. Đêm đó, họ đóng quân gần đường dây, định sáng hôm sau sẽ đặt máy nghe trộm.

Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, lúc họ đang lần tìm đường dây, thì bỗng người dẫn đường nổ súng, bắn gục một lính đối phương. Thế là cả một đại đội lính Bắc Việt đang ăn sáng gần đó nổ súng. Đạn AK của đối phương bắn trúng khẩu CAR 15 của Curt Green, làm hỏng khẩu súng và làm anh ta bị thương vào tay. Toán Washington bỏ chạy, họ băng qua một sườn đồi và lại chạm trán với một toán đối phương khác, bắt buộc toán biệt kích phải cắt ngang để chạy trốn. Green phải sử dụng khẩu súng lục P38.

Sư đoàn dù số 101 Mỹ trong một trận giao tranh, tháng 5/1966

Chiếc Covey bao vùng được gọi đến  để bắn cản phía sau toán và hướng dẫn biệt kích quân chạy đến một bãi đáp trên một đỉnh đồi. Toán Washington xem chừng đã dứt đuôi được toán quân đối phương truy kích và được Covey cho biết, sẽ có trực thăng trong vòng 10 phút nữa. Đại úy Wallace ra lệnh cho Mauceri dùng mìn Claymore đốn ngã 5 cây nhỏ để làm bãi đáp cho trực thăng. Toán phó Green chỉ điểm cho máy bay khu trục đánh chặn đường phía sau, không cho đối phương đuổi theo.

Bỗng một loạt đạn AK nổ vang dội, Green đổ xuống. Mauceri trông thấy Green nằm gục, tay ôm lấy lưng, nơi viên đạn xuyên qua, trong lúc quân đối phương đang tiến lên. Mauceri không thể làm gì cho Green, nhưng toán biệt kích phải thu lại máy bộ đàm để liên lạc. Toán phó Mauceri vừa chạy, vừa bắn và ném lựu đạn yểm trợ cho một biệt kích Thượng lấy ba lô của Green, vì trong đó có máy bộ đàm. Nhưng một viên AK trúng ngay người biệt kích Thượng. Mauceri dìu anh ta chạy trở lại, để tay biệt kích Thượng khác lấy ba lô của Green.

Một chiếc trực thăng Huey đang đáp xuống, đúng lúc một trung đội đối phương tấn công, đạn bắn xối xả vào chiếc trực thăng, khiến nó phải bay vọt lên. Wallace, Mauceri cùng hai biệt kích Thượng không bị thương bắn trả đối phương, buộc họ phải lùi lại. Đúng lúc đó, mấy quả B40 nổ tung, Wallace ôm lấy mặt, không nhìn thấy gì nữa. Mauceri đặt anh ta nằm dưới một bóng cây và nói dối: “Mình sẽ ra khỏi đây, không sao đâu!”.

Sài Gòn, 1968

Trên không trung, Larry White ngồi sau chiếc Covey báo cáo cho Mauceri biết: “Tụi bê bối (?!) di chuyển qua sườn bên phải của bạn. Coi chừng!”. Theo chỉ dẫn của Larry White, Mauceri bò về phía bên phải và ném xuống mấy quả lựu đạn. White khích lệ: “Bạn làm cú đẹp! Dứt nọc tụi nó rồi!”. Sau đó, khu trục A1 Skyraider nhào xuống thả bom chùm (Cluster), làm cho đối phương phải giãn ra. Trực thăng đáp xuống bốc toán biệt kích. Tất cả đều thoát, chỉ trừ Green không lấy được xác. Đại úy Wallace bị mất một mắt, sau đó giải ngũ. Mauceri lên chức trưởng toán biệt kích Washington.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #118 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2011, 10:57:17 pm »

Thế rồi, ngày 21/1/1971, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ bàn giao trại biệt kích cuối cùng cho Biệt động quân Sài Gòn. Việc các đơn vị biệt kích Mỹ rút quân đã gây trở ngại cho trung tâm SOG. Sở chỉ huy Bắc (CCN) phải đổi tên thành Ban cố vấn đặc nhiệm 1 (Task Force 1). Sở chỉ huy Trung (CCC) đổi thành Ban cố vấn đặc nhiệm 2. Quân Mỹ đội mũ lưỡi trai đen, nay thay bằng mũ bêrê xanh, đeo phù hiệu MACV.

Binh sĩ Úc tại miền Nam Việt Nam

Ngày 29/1/1971, trong khi John Plaster (người sau này biên soạn tài liệu SOG) ngồi trên chiếc Covey, do Đại úy không quân Jim Cryer lái, bay trên vùng lãnh thổ Nam Lào, sau khi toán biệt kích Hawaii, do Les Dover làm trưởng toán, báo cáo xin rút quân khẩn cấp trong một cuộc đụng độ với đối phương. Trong lúc chiếc Covey đang cố tìm cách bốc toán Hawaii, thì toán Colorado đang cách đó 8 dặm, cũng báo cáo khẩn cấp. John Plaster trao lại nhiệm vụ bốc toán Hawaii chotrực thăng khác, rồi bay về hướng nam để giúp toán biệt kích Colorado, do Pat Miller làm trưởng toán, toán phó bự con Dvid Lurch Mixter, cùng với John St. Laurent và mấy biệt kích Thượng. Khi chiếc Covey đến, Lurch đã xơi “kẹo đồng” chết, còn St. Laurent thì bị thương, những biệt kích Thượng vì quá hoảng sợ, đã bỏ chạy.

Trong lúc đó thì Quân Bắc Việt vẫn tiếp tục tấn công. Trong tình cảnh không thể đem xác Lurch theo được, Mitchell và St. Laurent định chiến đấu đến cùng. Nhưng thấy trực thăng vũ trang xuất hiện, bắn yểm trợ, John Plaster động viên Mitchell: “Không sao, vong linh Lurch sẽ hiểu. Phải lo cho người sống đã! Bây giờ chạy, trực thăng sẽ đánh dọn đường cho ta”. Thế là David Lurch Mixter trở thành quân nhân Mỹ xấu số cuối cùng mất tích trên đất Lào.

Bức ảnh nổi tiếng ghi lại cảnh y tá chiến trường Thomas Cole, với đôi mắt bị thương, đang hướng lên bầu trời tìm trực thăng cứu hộ trong một trận đánh đẫm máu giữa Sư 1 Kỵ binh bay và quân chính quy Bắc Việt Nam tại Tây Nguyên vào tháng 1/1966. Nằm cạnh bên là Trung sĩ Harrison Pell

Ngày 6/2/1971, Tư lệnh Quân Mỹ tại Việt Nam ra lệnh cho các đơn vị SOG chấm dứt mọi hoạt động của những toán biệt kích, do quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ làm trưởng toán ở bên Lào. Mệnh lệnh trên làm sửng sốt Đại tá Sadler, chỉ huy trưởng SOG. Ông ta đang theo dõi hoạt động quấy rối, nghi binh của những toán biệt kích để yểm trợ cho cuộc hành quân Lam Sơn 719 do Quân đội Sài Gòn đảm nhiệm, đánh vượt biên sang đất Lào. Thế mà Tổng thống trước đó trả lời báo New York Times rằng: “Không có một người nào ở bên Lào tử trận trong các trận đánh trên bộ”. Ít lâu sau, ngài Tổng thống “hé” ra một chút: “Chỉ có vài nhân viên CIA mất tích”. Rõ ràng Lầu Năm Góc vẫn giấu nhẹm những tổn thất của các đơn vị SOG, vì sau trận đánh qua Campuchia, Quốc hội Mỹ đã biểu quyết không cho Chính phủ đưa Quân đội Mỹ sang Lào. Sợ mất mặt chính quyền, Lầu Năm Góc đành ra lệnh cho các đơn vị SOG không được đưa các toán biệt kích có quân nhân Mỹ xâm nhập qua Lào.

Chẳng qua Quốc hội Mỹ muốn giảm thiểu xương máu của binh sĩ Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, thông qua chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”“Đông Dương hóa chiến tranh”, thay vào đó sẽ là máu xương của người Việt Nam và của người Đông Dương. Do đó, vào thời điểm rất khó khăn cho Quân đội Sài Gòn, Tư lệnh Quân Mỹ tại Việt Nam vẫn cho phép các đơn vị SOG hoạt động trong hành lang rộng 10 km dọc theo khu phi quân sự và biên giới Việt – Lào, với lệnh hành quân xâm nhập những căn cứ có đối phương tập trung quân, mà thời điểm đó, Quân đội Bắc Việt đã có đường Hồ Chí Minh nối liền từ miền Bắc qua đất Lào vào miền Nam Việt Nam.

Kế hoạch cuộc hành quân Lam Sơn 719 được hoạch định, với mục tiêu tấn công phá hủy các căn cứ tiếp vận, đóng quân, hậu cần, phá hủy hệ thống đường giao thông của Quân đội Bắc Việt trong mùa khô 1971-1972, cũng như trận vượt biên đánh sang Campuchia 1971. Xuất phát từ Khe Sanh, lực lượng Quân đội Sài Gòn sẽ tiến quân về hướng tây, theo trục đường số 9, nhằm phá hủy các căn cứ của đối phương xung quanh Tchepone, rồi quay xuống phía nam theo trục đường 92 để tấn công Sở chỉ huy Bộ tư lệnh tiền phương Đoàn 559 của đối phương. Cuối cùng, theo trục đường 922 trở về lãnh thổ Việt Nam qua thung lũng A Sầu.

Sau đó ít phút. Nhưng ít được biết đến hơn

Đã 3 lần, chỉ huy trưởng SOG báo cáo cho Tướng Abrams, cùng viên tướng trưởng Phòng 2 Bộ Tư lệnh MACV và viên tướng Tư lệnh Quân đoàn 24 của Mỹ: “Phải tránh xa chỗ đó! (Lào)”. Đại tá Sadler là người biết rõ trong vòng 4 tháng vừa qua, chỉ có 40% toán biệt kích hoạt động trong lòng đối phương quá 24 giờ đồng hồ. Đối phương đã đề phòng và bố trí lực lượng để đối phó với lực lượng biệt kích vì: “Họ đã ở vào thế phản công, và biết trước phe ta sẽ tấn công. Tử thần đang chờ đợi!”.

Đại tá Pinkerton, sĩ quan hành quân SOG kể tiếp: “Khi chúng tôi thuyết trình cho Bộ Tham mưu Quân đoàn 24, Tướng Sutherland nói rằng ông ta lo nhất vấn đề đưa họ (Quân đội Sài Gòn) vào vùng hành quân. Nhưng tôi trả lời, điều ông lo nhất nên là làm sao để đưa họ ra khỏi đó”.
Ngày 8/2, Quân đội Sài Gòn vượt biên, tiến về hướng tây trên con đường số 9. Trong khi đó, trực thăng đưa mấy tiểu đoàn Biệt động quân và lính dù vào chiếm những ngọn đồi, để bảo vệ sườn bắc và nam của trục tiến quân. Đường số 9 xe chạy được một chiều, dễ bị tắc nghẽn nếu chỉ một chiếc xe bị hỏng. Do đó, nếu đối phương cắt con đường huyết mạch này, quân Sài Gòn sẽ bị sa lầy.
Logged
NicolasCage
Thành viên
*
Bài viết: 213



« Trả lời #119 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2011, 10:37:15 pm »

ĐẠI ĐỘI XUNG KÍCH HATCHET FORCE

Khoảng 22 giờ đêm, ngày 3/3/1969, mười chiếc thiết giáp PT76 và một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 66 Quân đội Bắc Việt đã dàn đội hình tấn công một trại biệt kích tiền tiêu tại vùng 3 biên giới. Lần đầu tiên, kể từ khi trại biệt kích Làng Vây bị tấn công năm 1968, Quân đội Bắc Việt sử dụng xe tăng trên chiến trường Tây Nguyên. Mục tiêu tấn công là trại biệt kích Bạch Hổ (Ben Het). Trại này chỉ cách biên giới Việt – Lào khoảng 3 dặm.

Củ Chi, 17/4/1967. Binh nhất Class Milton, xạ thủ M 60, Sư 25 Tia chớp nhiệt đới

Trại biệt kích Bạch Hổ được bảo vệ bằng nhiều lớp hàng rào kẽm gai và bãi mìn phòng thủ. Quân số của trại gồm 12 biệt kích Mũ Nồi Xanh và 1.500 biệt kích quân Thượng. Ngoài ra, trại được tăng cường thêm 4 xe tăng Mỹ, một trận địa pháo 105 ly và 175 ly, cùng mấy đại đội biệt kích quân ứng cứu (Mike Forces).

Lực lượng của đối phương gồm 2 trung đoàn chính quy: Trung đoàn 28 và Trung đoàn 66, mấy tiểu đoàn pháo binh và một chi đội thiết giáp. Tương tự như trận Điện Biên Phủ và Khe Sanh, Quân đội Bắc Việt trước hết pháo kích như mưa vào trại biêt kích Bạch Hổ bằng súng cối, pháo 130 ly, hỏa tiễn 107 ly và 122 ly. Đồng thời đối phương cũng tung quân ra cắt đường tiếp tế và sử dụng hỏa lực phòng không khống chế, không để cho máy bay Mỹ thả đồ tiếp tế cho căn cứ.

Rút kinh nghiệm từ trận Làng Vây bị tấn công, lần này trại Bạch Hổ đã có sự chuẩn bị trước nhờ tin tình báo của SOG. Khi đoàn xe thiết giáp của Quân Bắc Việt tiến vào vị trí tấn công, thì đụng phải bãi mìn và lập tức xe tăng Mỹ, cùng các loại pháo 75 ly, 90 ly không giật ở trận địa ngọn đồi phía tây bắn xuống đoàn thiết giáp PT76. Sau đó, máy bay phản lực Mỹ nhào xuống vừa trút bom, vừa xả đại liên 20 ly khiến cho không một chiếc thiết giáp nào của đối phương có thể tiến xa hơn 100 thước.

Căn cứ pháo binh của Quân đội VNCH đặt tại Lào

Tuy nhiên, áp lực trùm lên trại Bạch Hổ không vì thế mà giảm bớt. Trại này đã bị cô lập, bao vây và đối phương tiếp tục đổ thêm quân. Ban ngày, trên đường 110 ở Tây Trường Sơn, từng đoàn xe vận tải Molotova của đối phương chất thêm đạn dược, sẵn sàng đưa đồ tiếp viện vào chiến trường. Từng đoàn thanh niên xung phong, công binh Quân đội Bắc Việt Nam nhanh chóng san, lấp hố bom sửa đường cho những đoàn xe cơ động. Cả quân Mỹ và Sài Gòn đều biết trước, nhưng không sao ngăn chặn được trận tấn công trại biệt kích Bạch Hổ. Họ quyết định thay đổi chiến thuật.

Như thường lệ, đoàn xe Motolova của Quân đội Bắc Việt nghe tiếng trực thăng đến từ hướng đông, liền bắn súng báo động và nép dưới những tán cây. Nhưng lần này thì khác, tiếng máy bay ầm ĩ hơn, những chiếc khu trục A1 Skyraider xà xuống thả bom chùm dọc theo con đường.
Tiếp theo là 6 chiếc trực thăng Cobra bay sát đầu ngọn cây bắn hỏa tiễn và đạn nhọn tới tấp vào đoàn xe.

Hai đoàn trực thăng khác chở quân đổ xuống một ngọn đồi trọc nhìn xuống đường 110, rồi bay lên. Vài phút sau, Quân Bắc Việt rất ngạc nhiên khi nghe tiếng cưa cây (?), tiếng cuốc xẻng đào hầm hố trên đồi. Hôm đó là ngày 4/3/1969, trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh, Quân Bắc Việt cơ động với mật độ rất cao. Cùng thời điểm trên, cách mặt trận Bạch Hổ khoảng 12 dặm, một đại đội xung kích Hatchet Force của SOG, đóng chốt khóa đường 110, con đường tiếp tế của đối phương tại chiến trường vùng 3 biên giới. Đại đội xung kích này đang làm chuyện “bạt mạng”.

Căn cứ Dục Mỹ

Dưới quyền chỉ huy của Đại úy Bobby Evans, SOG thực hiện cuộc hành quân “Spindow” nhằm chốt chặn, cắt đường tiếp tế của Quân đội Bắc Việt. Nhiệm vụ này được giao cho đại đội xung kích Hatchet Force A từ Đà Nẵng vào. Hơn 100 quân biệt kích cấp tốc đào hầm hố để tránh những đợt pháo kích của đối phương, sẽ chụp xuống trong giây lát.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM