Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:12:04 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi Ký Đường Ra Trận - CCB Sư đoàn 2 : Ông Nguyễn Đăng San.  (Đọc 52076 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 04:22:58 pm »

Được sự đồng ý và cho phép của Ông Nguyễn Đăng San, CCB sư đoàn 2, tôi xin đưa lên cuốn sách Hồi Ký Đường Ra Trận của Ông để mọi người có thể hiểu thêm về một thời Hoa Lửa, một thời oai hùng của những người con Việt.


Tập Bút Ký Của Nguyễn Đăng San
Ký ức thời binh lửa - Nhà xuất bản hội nhà văn - Sách có 186 trang.

65 - Nguyễn Du - Hà Nội - Tel & Fax: 0438.222.135
Email: nxbhoinhavan@yahoo.com.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: Trung Trung Đỉnh
Chịu trách nhiệm bản thảo: Trần Quang Quý - Biên tập: Nguyễn Văn Sơn.
Vẽ bìa: Lã Quý Hưng - Văn Hợi
Sửa bản in: Lã Quý Hưng.

In 2000 cuốn khổ 15 x 21. Tại Công ty in Thành Trung lô 7/7.
Đường Trần Phú - P Trần Hưng Đạo - TP. Thái Bình.
Giấy đăng ký KHXB số: 1182-2010/CXB/28-74/HNV.
Số quyết định của Giám đốc: 939/QĐ.
NXBHNV - Nộp lưu chuyển tháng 12 năm 2010.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Giêng, 2011, 01:46:10 pm gửi bởi macbupda » Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #1 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 04:25:31 pm »

                                            
 Lời Giới Thiệu

   Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước anh hùng của dân tộc Việt Nam, sẽ còn được tái hiện qua những tác phẩm văn học dưới nhiều dạng thức nghệ thuật khác nhau. “ Ký ức thời binh lửa” của Nguyễn Đăng San góp thêm một tiếng nói, một góc nhìn về khoảnh khắc thời trận mạc mà chính tác giả đã trải qua. Bằng cách nhìn thẳng thắn, trực diện của người trong cuộc, dưới ngòi bút của Nguyễn Đăng San, những câu chuyện về chiến tranh, về tình đồng đội, thân phận con người hôm qua và hôm nay, cả sự cam go quyết liệt trong từng trận đánh được hiện ra chân thực và cảm động. Hình ảnh người chiến sỹ trong“ Ký ức thời binh lửa” được tác giả khắc hoạ bằng sự rung động của một trái tim đầy nhiệt huyết. Nguyễn Đăng San đã cho bạn đọc hiểu thêm giá trị hiện thực của một thời số phận con người được gắn liền với số phận dân tộc. Hiểu thêm về sự mất mát hy sinh của người lính, một sự hy sinh vô giá. Gian khổ, đói khát, ngày tiếp ngày đối mặt với đạn bom, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Nhưng phẩm chất của họ thật anh hùng và vô cùng cao đẹp. Dù chông gai, dù máu đổ họ vẫn băng vượt, tất cả vì miền Nam ruột thịt.“ Không kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi”. Đó là âm hưởng vang vọng trong“ Ký ức thời binh lửa”. Bằng cách thể hiện dung dị, đằm thắm, đơn sơ mà chân tình. Tuy chưa đạt tới giá trị văn chương, câu chữ ngôn từ còn thô ráp, nhưng từng câu chuyện ít nhiều đều có được cái hồn của người viết thổi vào ngọn bút.
   “ Ký ức thời binh lửa”chủ yếu miêu tả người thật việc thật, nhân vật có tên tuổi gắn với từng vùng quê cụ thể. Tuy vậy các chi tiết vẫn có có sức lay gợi, ẩn chứa nỗi niềm sâu nặng của tác giả đối với đồng đội, đối với quê hương. Nguyễn Đăng San từng cầm súng thời trận mạc, từng lăn lội đi tìm hài cốt đồng đội những năm hoà bình, điều đó đã làm nên sức nặng và tính nhân văn của cuốn sách“ Ký ức thời binh lửa” đã toát lên được cái ân nghĩa tình đời của những con người hôm qua và hôm nay, chân thành, giản dị mà sâu nặng vô cùng.
   Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập“ Ký ức thời binh lửa”. Và mong nhận được sự góp ý phê bình của bạn đọc đối với cuốn sách.


                                                              
Minh Chuyên ( Nhà văn)
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #2 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 04:27:40 pm »

Ký ức thời binh lửa

Từ những năm 1964-1970, cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra trên đất nước ta, ngày càng trở nên rất khó khăn và ác liệt. Là học sinh năm cuối trường cấp ba, được thông qua báo chí tuyên truyền về cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân ta, và tội ác của kẻ thù trên khắp các chiến trường. Những điều tôi nhận được ở người cha cùng người mẹ tảo tần hôm sớm, từ những người anh người chị đang tham gia nơi lửa đạn, đã làm thôi thúc tôi cầm súng lên đường đi cứu nước. Tạm biệt mái trường cùng làng quê yêu dấu của mình, ngày 16 tháng 4 năm 1970 tôi bước vào Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Ngày ra đi có người thân cùng bạn bè ngả nón trông theo, tiếng hát được cất lên sau luỹ tre làng: “ Yên tâm vững bước mà đi, hỡi người mà em yêu.  Việc nhà việc nước, dẫu có bao nhiêu em vẫn làm tròn. Anh cứ yên tâm vững bước anh lên đường…”.

                                       
Chương I
NGÀY ĐẦU TRONG QUÂN NGŨ

Ngày đầu trong quân đội tôi được biên chế vào Đại đội 2, Tiểu đoàn 629, Trung đoàn 2, Quân khu Tả Ngạn (nay là Quân khu 3). Đơn vị tập trung tại xã An Châu, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Do thay đổi sinh hoạt, nên sức khoẻ tôi có phần giảm sút, người đang từ 45 kg giảm xuống còn 42 kg, lo ngại bị trả về địa phương, nên khi quân y kiểm tra đã cùng mấy đồng chí sút cân cho thêm ít đá, sỏi, vào túi quần áo để được ở lại phục vụ trong quân đội.
Những ngày đầu đơn vị cùng nhân dân Hải Dương tham gia phòng chống bão lụt, trên con đê sông Thái Bình và Kinh Thày. Chuyển sang đất Chí Linh rồi đến thị trấn Đông Triều tỉnh Quảng Ninh, nhận thay quân trang. Những chàng trai tuổi mười bẩy mười tám vừa bước vào quân ngũ, khoác trên người bộ trang phục cũ lại rộng, thay đổi cho nhau mãi mà mặc vẫn không đúng với số đo, lính trẻ cười đùa nói với nhau; ăn cơm Chính phủ rồi sẽ vừa thôi.
Ngày đêm đơn vị học cách đánh địch trong hầm hào kiên cố, cùng phản kháng chống cự của giặc, học bắn máy bay, đánh xe tăng, học leo trèo cùng tác phong nghi lễ và kỷ luật trong quân đội…
Đường hành quân, trên vai chiếc ba lô đựng quần áo cùng đất cát cho vào căng phồng nặng trĩu, đoàn quân vừa đi vừa hát bài: Tiến bước dưới Quân Kỳ- Vì nhân dân quên mình- Hành quân đêm... qua đồng ruộng phì nhiêu màu mỡ được nhân dân hát cho nghe những làn điệu chèo của đồng bằng Bắc bộ.

Nghe em hát sắp qua cầu.
Trời Côn Sơn bỗng xanh mầu dân ca.
Em về Chi Ngãi đâu xa.
Sao em lại bảo rằng ta qua cầu
Qua cầu sợ dòng sông sâu.
Để em dải yếm bắc cầu anh qua...


Tếng ai đó hát ru con ngủ, nghe sao chứa đầy gian lao thử thách.

“… à ơi! đố ai đốt cháy ao bèo.
Để anh gánh đất gánh đá
Đông Triều về ngâm.
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa.
Sáo đẻ dưới nước, thì ta lấy mình.
Bao giờ rau riếp làm đình.
Gỗ lim làm ghém thì mình lấy ta…”.

Trong lúc đất nước có chiến tranh, thanh niên nam nữ đi tham gia bảo vệ Tổ quốc, bao lời ca tiếng hát của quê hương thấm trong tâm hồn người lính chúng tôi đi vào nơi khó khăn ác liệt trong cuộc chiến.
Đồi núi nơi đóng quân luyện tập, tiếng chim hót rộn ràng bay bổng, nhưng có lẽ chúng cũng biết chia sẻ với bộ đội đang ngày đêm trên thao trường vất vả, tiếng chim ngân: Bắt con tép kho cà, như mách bảo chiến sỹ đang hành quân là: dốc cao khó vượt, chúng tôi nói với chim rằng: khó khăn khắc phục. Đêm đến, đồng đội kể cho nhau nghe về sự tích của Sao Hôm, Sao Mai, Hòn Vọng Phu hoá đá chờ chồng…Và tiếng ai đó hát vọng lại.

“Chiều chưa đi màn đêm buông xuống …
Có người thiếu nữ đêm đông mong chồng…”.

Lời ca trong bài Đêm Đông của nhạc sỹ Nguyễn Văn Thương, cũng làm cho người ra đi nhớ về nơi có cây đa bến nước sân đình cùng mây khói lam chiều, mà bao người thân đang mong mỏi đợi trông.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Giêng, 2011, 01:51:03 pm gửi bởi macbupda » Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #3 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 04:28:56 pm »

Đoàn quân hành quân qua Bến Tắm, Côn Sơn, vẫn thấy vang lên trong hồn thơ của Đại Cáo Bình Ngô. Dòng lục đầu Giang được gắn liền với chiến công Chương Dương Vạn Kiếp. Cánh núi Phượng Hoàng thoảng gió thông reo, nhắc truyện dâng sớ của thầy Chu Văn An mà khí phách kiên trung. Bao câu chuyện xưa vẫn ngân vang cùng hồn thiêng sông núi. Đất nước trải qua hàng ngàn năm cơn binh đao khói lửa, những gì có được hôm nay thì biết bao thế hệ đã phải ngã xuống cho Tổ quốc bình yên.
Qua vùng Đông Bắc được nhân dân đón tiếp bằng tình quân dân về một thời chiến tranh gian khổ, được nghe những khúc tình ca của người hậu phương gửi ra tiền tuyến.
“…Bài hát em hát gửi ra chiến trường
Rằng em vẫn là thuỷ chung.
Chứ em đợi chờ ấy là người ơi!
Sông bến đây cũng một con đò.
Trong bão tố cũng phải chèo xá chi…”.

Lời ca tiếng hát được chúng tôi mang vào cuộc chiến, trong đoàn quân thay nhau ra mặt trận, cũng không ít người ôm ấp niềm tin chung thuỷ được gắn mãi cùng hồn thiêng sông núi, ẩn hiện giữa mây trời phương Nam Tổ quốc.
Sau năm tháng học tập chính trị quân sự, đơn vị tiến hành kiểm tra bắn xạ kích bài một, bài hai, ba, ném lựu đạn, thủ pháo, cùng tất cả các môn đánh địch trong mọi tình huống. Thế là chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ trên đất Bắc, được cấp trên cho về chia tay gia đình cùng bà con làng xóm để vào nơi gian khổ ác liệt nhất của cuộc chiến tranh.
Ngày chia tay đi chiến trường có người thân trong gia đình, cùng bà con thôn xóm tiễn chân tôi qua cây đa năm gốc cuối thôn. Chị Hà người con gái thứ ba trong gia đình đi lấy chồng xa tới muộn, chạy đến ấn vào túi cóc ba lô tôi chị nói: Chị cho cậu mấy đồng tích cóp từ việc bán mía, để em mua thuốc bồi dưỡng sức khoẻ, phải cố gắng giữ gìn sức khoẻ thì cậu mới hoàn thành nhiệm vụ được giao, bố mẹ lo nghĩ về em nhiều lắm đấy. Chị chúc em đi chân cứng đá mềm… Chị chớp nhanh những giọt nước mắt vẫy nón nhìn theo…
Trở lại nơi đóng quân, mấy anh em đi thị trấn Phả Lại chụp ảnh nói với nhau: Chúng mình vào chiến trường B- C- K, trong cuộc chiến nếu có phải hy sinh, thì hình ảnh hôm nay sẽ mãi là tấm hình để gia đình cùng quê hương làm kỷ niệm. Khi chỉnh sửa thấy quần áo trên người mặc cũ quá, nên tôi đã mượn chiếc áo của đồng đội tên là Nguyễn Văn Doanh còn lành và mới hơn để chụp. Đồng chí nào cũng mua sổ tay, giấy bút, một vài kiều ảnh tô màu làm kỷ niệm.
Đầu tháng 10, các chiến sỹ đi chiến trường được cấp phát quần áo, mũ tai bèo, bình tông nước, cạp lồng, thuốc phòng chống sốt rét, dụng cụ chống độc, võng, màn, tăng bạt che mưa gió, cùng hai miếng lân tinh dùng cho việc hành quân cơ động ban đêm v.v… Phương tiện phục vụ cho cuộc hành quân vào mặt trận, được sắp đặt trong chiếc ba lô con cóc gọn gàng. Gia tài người lính vào cuộc chiến thật giản dị, nhưng cũng mang đầy một tình yêu quê hương đất nước.
Đêm khuya lắm rồi anh em ngày mai vào chiến trường tâm sự với nhau. Không lo gì cho cá nhân mà sao cứ thấy bâng khuâng, người nào cũng mong sớm có ngày vui thống nhất để không còn cảnh khắc khoải chờ mong. Gà đã gáy sang canh hai mà không ai chợp mắt, có lẽ tâm trạng người nào cũng đang nhớ về nơi làng quê yêu dấu của mình và các gia đình có người ngày mai ra trận, cũng đang nghĩ về những người con yêu quí của mình.
Còn bố mẹ tôi sẽ ghi vào sổ theo dõi người con trai thứ ba của gia đình, tham gia trong Quân đội ngày vào chiến trường với biết bao thử thách của khói lửa chiến tranh.[/size]
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #4 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 04:30:52 pm »

Chương II
ĐƯỜNG RA MẶT TRẬN

Đúng 8 giờ sáng ngày mùng 10 tháng 10 năm 1970. Bộ đội với trang phục cùng ngôi sao vàng lấp lánh, tập trung tại sân kho hợp tác xã Văn An. Đoàn quân nghiêm trang chào cờ Quân Giải phóng Miền Nam. Lễ xuất quân đi chiến trường hôm nay có lãnh đạo Trung đoàn, Bộ tư lệnh Quân khu. Nhân dân chính quyền nơi huấn luyện, cùng gia đình có người thân ra trận đến rất đông, trai gái hẹn hò nhau ngày Nam Bắc thống nhất. Khi chia tay còn có chị em cô gái nơi trung đội tôi đóng quân, Thuỳ Vân người con gái nhanh nhẹn chạy ra hàng quân nắm chặt tay nói trong nghẹn ngào: Hẹn các anh ngày đất nước hoà bình trên quê hương chúng em thôn Bình Giang, xã Cổ Thành, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Phút chia tay cô gái đầy lưu luyến xinh đẹp, tôi cầm tay Vân rồi nói.
“… Về đi em!  Nếu yêu nhau.
Hãy yêu rộng hơn cả non nước cuộc đời.
Cầm bàn tay em, mà anh nói gì nhiều đâu.
Cuộc đời đang xuân mà thôi nhé tạm biệt.
Dòng nước mắt, dù thiêng liêng.
Cũng không làm cho lòng ta lùi bước…”.

Tạm biệt mảnh đất Chí Linh vùng Đông Bắc, cùng bóng dáng cô thôn nữ trong chiếc áo vải nâu và chiếc nón bài thơ duyên dáng xinh đẹp, cũng làm cho trái tim khát vọng của tuổi trẻ chúng tôi đi vào cuộc chiến với bao ước hẹn của tương lai.
Đoàn quân đến ga Cao Xá thuộc huyện Cẩm Giàng, 14 giờ chiều hôm sau lên chuyến xe lửa đi vào phương Nam. Sân ga hôm nay có hàng trăm người đến tạm biệt  con em của mảnh đất Hải Dương vào chiến trường. Người đi người ở ôm hôn nhau mà không sao nén được xúc động của những giọt nước mắt chia ly. Bao người thân cùng đồng đội tôi không nói ra, nhưng vẫn nhận biết được một việc có thể xẩy ra, trong số người lên chuyến xe lửa vào chiến trường chiều nay, thì đây cũng sẽ là lần gặp người thân của mình lần cuối cùng.
Còi tàu cất lên đoàn xe dần dần chuyển bánh, hai bên sân ga bà con cầm nón mũ vẫy chào đoàn quân ra trận. Ôi mảnh đất Hải Dương quê hương tôi miền Bắc với khẩu hiệu. “ Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, hôm nay lại vẫy chào con em mình vào chiến trường miền Nam đánh giặc.
Tàu qua mảnh đất Hải Dương, Hưng Yên, thành phố Hà Nội, dừng lại ga Thường Tín, Hà Tây. Nơi khởi đầu của việc đưa đón binh khách được nghỉ lại đây hai ngày, tối đến xem chiếu phim cùng văn công phục vụ. Không khí ngày ra trận thật nhộn nhịp đông vui, binh trạm có hàng ngàn người vào Nam ra Bắc, càng thúc dục đoàn quân tiến nhanh về phía trước.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Giêng, 2011, 01:53:57 pm gửi bởi macbupda » Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #5 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 04:31:58 pm »

Chúng tôi tạm biệt hậu phương lớn miền Bắc ra chiến trường với lời thề: Ra đi không hẹn ngày về, chưa tan hết giặc chưa về quê hương. Xe lửa chạy qua thành phố Nam Định - Ninh Bình - Thanh Hoá - Vinh. Do chiến tranh quê tôi đã khó khăn, nhưng đi vào các tỉnh phía trong, thì làng mạc cùng nhân dân phía Nam càng khó khăn và ác liệt hơn nhiều. Qua sông Lam, núi Quyết, xe ô tô vận chuyển đến cách thị xã Hà Tĩnh gần chục km dừng lại. Đêm Khu 4 thường có máy bay địch đánh phá oanh tạc, đơn vị được các mẹ và dân quân du kích tới thăm hỏi động viên, kể cho nghe về những chiến công cùng với việc hy sinh của hàng trăm bộ đội thanh niên xung phong nơi tuyến lửa, đặc biệt là Tiểu đội mười cô gái hy sinh trên ngã ba Đồng Lộc. Chiều hôm sau xe chạy qua đèo Ngang, đường quốc lộ bị bom đạn máy bay đánh phá liên tục, có nhiều ổ trâu ổ gà chưa kịp sửa chữa, xe chạy trong đêm chỉ có đèn gầm, chiến sỹ lái xe nhìn không rõ chạy vấp phải hố bom pháo làm hất cả chính trị viên Đại đội xuống đất. Đêm ngày 20 tháng 10 năm 1970, đoàn quân đi chiến trường xuống mấy chiếc tàu kéo chạy ngược lên thượng lưu Sông Gianh đi vào trạm Xuân Sơn.

Trong khoang hầm sà lan trời tối đen như mực, anh em hát những khúc ca của đồng bằng Bắc bộ, còn tôi đứng lên ngâm bài thơ của Lưu Trùng Dương.

“ Vượt núi băng sông.
Chân tôi bước, qua hương đồng cỏ lội.
Vòng lá nguỵ trang đã bao lần thay lá mới.
Tôi lên đường, theo tiếng gọi quê hương.
Ra tiền tuyến, ra tiền tuyến
Đôi chân tôi mạnh bước.
Đời của ta đâu có giặc là ta cứ đi
Tiếng hát năm xưa, bay bổng diệu kỳ
Như chắp cánh vinh quang, người lính trẻ …”.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Giêng, 2011, 01:52:35 pm gửi bởi macbupda » Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #6 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 04:33:08 pm »

Đồng chí Hiệu chiến sỹ cùng trung đội, đứng lên bắt nhịp cho hát bài “ Vui hội tòng quân” của nhạc sỹ Huy Du, được phổ thơ Chính Hữu.
“ Có những ngày vui sao cả nước lên đường.
Xao xuyến bờ tre từng hồi tiếng trống
Có những ngày vui sao rộn rã lên đường
Tiếng hát hành quân từng hồi trống giục.
Xóm dưới làng trên con trai con gái,
          Xới nắm cơm đùm
Ríu rít theo nhau súng nhỏ súng to,
Trên đường chật chội
Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu…
          …Ơ đất nước mình đây hai mươi năm trước
Xôi nắm cơm đùm hành quân không mỏi
Xung sướng bao nhiêu tôi là đồng đội
Của những người đi đánh giặc hôm nay…”.

Lời bài hát này vừa dứt nhịp hát khác lại dâng lên, khúc ca chứa đựng tình yêu quê hương đất nước, làm chúng tôi thêm tự hào đã có những tháng năm cùng cả nước tham gia đánh đuổi giặc ngoại xâm. Lời ca là động lực để mỗi người có thêm sức mạnh vượt qua khó khăn thử thách.
Bỗng ngọn lửa trong khoang sà lan cháy bùng lên, tiếng kêu thất thanh: Sà lan cháy, sà lan cháy … những chiếc balô trong khoang tàu được đẩy lăn đi lăn lại chặn ngọn lửa, dầu trong thùng ống nổ vung ra tràn vào sàn có tre nứa, lửa cháy càng thêm hung dữ.
Trung đội trưởng Tô Sỹ Quảng ra lệnh cho bộ đội nhảy lên mặt boong, lựu đạn từ túi cóc ba lô rơi vào đám cháy, được mấy anh nhanh tay cầm vứt ra sông. Đồng chí Mai Hải, Kim Sơn cùng tôi kéo chiếc bạt bịt vào đám cháy.
Hầm sà lan cháy làm một số chiến sỹ mất bình tĩnh, người trước chưa nhảy lên được miệng hầm tàu, thì người sau đã nhảy thúc vào mông người trước rơi xuống sông. Tiếng kêu cứu… cứu… những đồng chí bám vào dây kéo lên được ngay, số người bị nước sông mưa to chảy mạnh trôi dạt vào bãi. Thật đau xót cho trung đội tôi trong số đồng chí ngã xuống sông đêm ấy, thì Nguyễn Văn Doanh đã phải vĩnh biệt yên nghỉ bên bờ sông Gianh của tỉnh Quảng Bình.
Xe vận chuyển đơn vị tôi vào xã có phong trào du kích mạnh Cự Nẫm, phía tây tỉnh Quảng Bình, cũng từ đó ngày đêm chúng tôi hành quân theo chiều dài dãy Trường Sơn đi vào phương nam. Vượt qua núi cao suối sâu, cung đường bị máy bay địch đánh phá thường xuyên. Đêm tối đồng đội chống gậy đi theo nhau bằng miếng lân tinh phát sáng gắn sau mũ. Những con vắt xanh to bằng cuống chiếu nhẩy từ cành cây bò vào cắn tai, cắn cổ, hút máu, dưới đất là đàn mối, rắn, rết, bọ cạp, người đi tới đâu thì hàng trăm con côn trùng đói khát nghiêng đầu bám đuổi. Nhiều lúc anh em không bám sát đội hình, phải gọi hú tìm nhau vang cả cánh rừng. Trời mưa to không lấy được củi khô đun nấu phải ăn toàn gạo rang và lương khô, bữa cơm là một hai soong nước gạo rang vàng pha muối, cho vào một hai hộp thịt lợn 0,25 kg làm nước mắm. Nắm cơm mang theo ăn đường hành quân chấm với ruốc thịt ruốc cá mặn chát, hơi sặc mùi ngũ vị hương.
Nhân dân trên rừng núi thiếu gạo, muối, quần áo, chăn màn, thuốc chữa bệnh, cuộc sống người dẻo cao thật đơn sơ, họ đem con sóc, chuột rừng, đứng ở đường mòn, đợi người qua lại đổi gạo muối… Anh em đi chiến trường cũng chẳng có gì trao đổi lấy ảnh tô màu cho đồng bào xem. Nhìn nhân dân trong rừng núi ngạc nhiên thích thú, nên chúng tôi đã tặng lại cho họ.
Trạm giao liên dưới cánh rừng cổ thụ bị máy bay địch bắn phá ngày đêm. Đã lâu không có rau ăn chúng tôi nói với nhau; anh nào biết rau tàu bay đi hái về cải thiện. Những tưởng được bát canh rau ngon và mát ruột, nhưng khi đưa lên miệng lại là bát nước canh đắng ngắt. Lúc ấy tìm hiểu ra mới biết; cây ấy dân làng tôi thường gọi nó là cây cứt lợn, đồng đội nhìn nhau cười mà rơi đầy nước mắt.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Giêng, 2011, 01:52:58 pm gửi bởi macbupda » Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #7 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2011, 08:44:45 pm »

Đoàn quân vào chiến trường được cán bộ quân lực Trung đoàn 1- Sư đoàn 2, Quân khu 5 tiếp nhận bổ sung vào các phân đội chiến đấu. Trên đường đi đã có mấy người ốm đau sốt rét, tôi sốt cao không thể hành quân tiếp do vậy mà đồng chí Sơn cán bộ ra tiếp nhận đã gửi tôi vào trạm quân giới nhờ y tế cấp cứu.
Người tôi nóng lên 39- 41 độ, cơ thể rét run cầm cập mà mồ hôi chảy ra như tắm, miệng nôn ra nước vàng đắng ngắt. Các đồng chí đến kiểm tra nói với nhau: Chiến sỹ trẻ từ miền Bắc mới vào rất hay bị sốt ác tính, phải theo dõi và tiêm thuốc cắt cơn sốt cho đồng chí này.
Được y tế trạm chăm sóc tiêm thuốc liên tục, tôi qua được cơn sốt rét đầu trong núi rừng Trường Sơn nguy hiểm, tình cảm các anh đã làm tôi nhớ đến bài thơ “Tình Đồng Chí” của Chính Hữu, khi chia tay anh em chưa kịp nhớ tên, tôi giới thiệu và đọc tặng những người đồng đội.
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi hai người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày.
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai, quần tôi có đôi miếng vá.
Miệng cười buốt giá chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…”.
Nghe xong mấy anh đứng lên bắt tay nói: Đồng chí đọc bài thơ làm chúng tôi cảm động quá, đơn vị đồng chí đóng cách đây không xa, thế nào rồi cũng ra kho đây lấy hàng, nếu ra nhớ vào thăm chúng mình ở xưởng cưa thuộc binh trạm 31, đóng quân ở tỉnh Savanakhẹt của đất nước Triệu Voi này nhé.
Được các anh chỉ vẽ đường tôi đi gần một ngày về đến sở chỉ huy Trung đoàn. Đoàn bộ đang đóng quân gần bản Chiềng thuộc khu địa đạo Kà Tồn, nằm ở phía bắc  huyện Mường Phìn. Được Ban quân lực E biên chế vào đại đội 7- D2 (tiểu đoàn 60), lần theo đường dây điện thoại về doanh trại trời cũng sắp tối. Chính trị viên Đoàn Văn Quế, gặp mặt thăm hỏi động viên và cho đồng chí Thập liên lạc dẫn bổ sung vào B.2, Trung đội do anh Nguyễn Văn Hài làm B trưởng, ở cùng nhà hầm với các đồng chí: Lâm- Khuyến- Nhuận- Quỳnh- Tân- Sứ- Đức- Tiến.
Các anh từ chiến trường Quảng Nam, Quảng Ngãi mới ra, mỗi đồng chí mang theo một loại vũ khí, ngang lưng một hai quả lựu đạn US (lựu đạn thu được của Mỹ sản xuất), quần áo, tăng, võng các anh đựng trong chiếc gùi cũ bạc màu, do chiến trường khó khăn gian khổ người nào cũng ốm yếu. Chúng tôi những chiến sỹ trẻ đoàn Hà Nội, Hải Dương mới bổ sung chưa thích nghi với rừng sâu nước độc, do vậy ngày nào cũng có người ốm đau sốt rét. Quần áo chăn màn tắm giặt không có xà phòng thuốc tẩy, hạn chế phơi chỗ trống có nắng đề phòng máy bay biệt kích địch phát hiện. Vị trí ăn ở ẩm thấp đã làm cho cơ thể bị ghẻ nở và ký sinh trùng phát triển, lũ ve rận đẻ bám đầy gấu quần vạt áo phải vạch bắt cho nhau, đun nước sôi luộc chăn màn quần áo mấy lần mới hết ngứa. Người đau ốm ăn uống thiếu dinh dưỡng, dẫn đến thiếu hồng cầu nghiêm trọng, ngày đêm luyện tập trên thao trường vất vả, nên người nào cũng bị hoa mắt chóng mặt, đi lại mấy chục mét đến nhà bếp ăn cơm và đem nước về uống, cũng phải bám cây ngồi bệt xuống đất nghỉ mấy lần.
Tranh thủ giờ nghỉ anh em xuống khe suối câu con cua con cá, hái rau rừng nấu ăn, sau đó các loại rau cũng không thể mọc kịp để mà xào nấu cải thiện. Một lần hai chúng tôi ra suối bắt được con lười (xấu hổ) đem về chuẩn bị giết thịt, thì anh Nguyễn Xuân Cử người Thái Nguyên chiến sỹ trung đội 4 đến chơi bảo: Thả nó về với núi rừng, chứ giết con vật này “ đen” lắm. Anh em mang gạo giã làm bánh trôi bánh chay, lính trẻ chưa hiểu ẩm thực lấy đường ngọt trộn nắm thành cục, do vậy luộc mãi mà bột vẫn sống.
Chúng tôi mới vào được các anh vào trước mách bảo: Ba lô đồng chí nào cũng phải có túi gạo rang, gói muối, đề phòng lạc trong núi rừng, hết thực phẩm... Bữa cơm có bột cá khô, hạt đậu xị kho với quả trám rừng, bát canh lá tai chua, quả bứa, thỉnh thoảng được mấy ngọn lá rau khoai, sắn, măng tre nứa và củ chuối rừng xào với mỡ hoá học.
Trong khó khăn gian khổ nhưng tình đồng đội được thể hiện từ lời nói đến việc làm, chăm sóc khi ốm đau bệnh tật, bữa cơm có lá rau miếng thịt đều dành cho người ốm yếu. Anh em mời nhau bát nước chè rừng, hơi thuốc lào trộn lá sắn phơi khô. Cùng nhau tâm sự về làng quê yêu dấu, người có em gái trêu đùa: Chiến tranh kết thúc bạn nào còn sống trở về chưa vợ sẽ gả em gái cho...
Tiếng hát anh chị em thanh niên xung phong dân công hoả tuyến vang lên trên mỗi cung đường binh trạm: “ Ơ..ơ..! Trông lên mà đỉnh núi ơ thời cao, tình thần mà cứu nước ớ còn cao hơn nhiều. Bạn thanh niên ơi, lên cao trên núi mà trông. Sóng vỗ biển đông, mênh mông đất nước. Như nhắn nhủ khó khăn không lùi, mưa nắng gian khổ gió sương không ngại bạn thanh niên ơi… Đời chưa hết giặc là ta chưa về…”.
Đúng như vậy đời chưa hết giặc là ta chưa về. Ngày đêm máy bay địch quần đảo thả pháo sáng đèn dù ném bom phóng Rốc két, rừng núi không một lúc nào yên lặng. Cung đường binh trạm bị máy bay đánh phá, được các anh các chị nhanh chóng chạy ra san lấp phá bom nổ chậm, kịp cho những chuyến hàng tới tiền phương.
Một lần chiều trở trời thấy tiếng thú rừng kêu mấy anh trong tiểu đội đem súng đi săn về không tháo đạn để vào giá đỡ, hai giờ sáng tôi khoác súng đi diễn tập theo phương án phổ biến. Khi pháo hiệu bắn lên tấn công vào hầm hào quân xanh, khi tiến lên bóp cò thì một loạt đạn thật phát nổ kêu tằng tằng chiu chíu. Lệnh cho dừng cuộc diễn tập, đồng chí tiểu đội trưởng chạy đến nói: Súng đồng chí vừa có đạn nổ. Lúc đó mới biết là khẩu AK của mình có đạn thật bắn ra và tôi giật mình về sự bất cẩn nguy hiểm đó. Nhưng rất may không xảy ra mất an toàn cho đồng đội trên thao trường.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #8 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2011, 08:45:40 pm »

Đỉnh Phukatồn một dãy núi cao nhất khu vực Trung đoàn tôi đóng quân, phỉ biệt kích nguỵ Lào thường tập trung cho quân đi cướp phá kho tàng, chỉ điểm máy bay địch đánh phá nơi trú quân, vào cuối tháng 10 năm 1970 chúng đã cho quân xuống đánh phá khu trú quân của đơn vị.
Trước tình hình địch đánh phá như vậy, Trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn chúng tôi triệt phá khu có giặc. Phân đội cho bao vây ba hướng là. Đông- Tây- Nam. Phía Bắc vách núi cao dựng đứng thác sâu không cần vây bỏ trống. Khi hoả lực nã vào địch chống cự bằng đạn cối 61 và M79, đạn súng cạc pin và tiểu liên cực nhanh. Không thấy địch phản ứng đơn vị cho bộ đội xung phong. Nhưng địch đã quăng dây rút chạy bằng con đường dốc đá hiểm trở mà phía phân đội chủ quan không vây hãm. Kiểm tra nơi đóng quân, chỉ còn một xác chết và mấy sợi dây buộc ở gốc cây, mỏm đá. Cho bộ đội truy kích thì vấp phải mìn lá địch rải trên đường rút chạy.
Rút kinh nghiệm về trận tập kích địch trên đỉnh núi, đơn vị chỉ ra rất nghiêm túc về việc đánh phỉ biệt kích nguỵ Lào trên núi cao có thác sâu hiểm trở.
Ngay sau khi đánh thu hồi khu trú quân địch trên dãy núi, các đơn vị trong tiểu đoàn thay nhau giữ chốt. Núi cao gió thổi ào ào các tay súng sẵn sàng đánh địch trong từng phút từng giờ, cuộc sống trên cao rất căng thẳng, hàng ngày nuôi quân đun nấu cơm nước đem từ chân núi lên sẵn sàng nhả đạn vào phỉ biệt kích địch rình phục, đường leo trèo hơn 8 giờ đồng hồ mới vào được vị trí chốt giữ.
Cao điểm được Trung đội tôi chốt giữ an toàn, đến lượt đơn vị khác thay thế, mấy ngày sau anh em nhận được tin đáng tiếc xẩy ra, đồng chí Trung đội phó đi kiểm tra đốc gác, bị chiến sỹ canh gác ngủ gật nghe tiếng động tưởng phỉ biệt kích địch đột nhập, đã nổ súng vào người anh bằng mấy viên đạn AK.
 Một hôm đơn vị đang học cách đánh địch có hầm hào kiên cố, thì Sư đoàn trưởng mặc quần áo bà ba đen đến kiểm tra đột suất, một lúc sau Sư đoàn trưởng ra lệnh: Đại đội 8, tiểu đoàn 2 dùng hoả lực bắn sát mặt đất…
 Lệnh của Sư trưởng được tiểu đoàn trưởng Trần Như Tiếp chấp hành. Tiếng súng đại liên nổ từng loạt, đạn bắn vào cành cây lá rụng bay tung toé, mùi khói súng khét lẹt, các chiến sỹ bò vận động đúng kỹ chiến thuật, tiến mãi mới vào được hầm hào quân xanh…
 Tôi đã được gặp và nghe Sư đoàn trưởng nói truyện mấy lần, chưa lần nào thấy ông cười, nhưng hôm nay thấy Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn cười vui hơn. Rút kinh nghiệm học tập tại thao trường. Thủ trưởng nói: Tình huống học tập, giả định, phải thật sát thực tế. Khi tiến đánh đồn bốt giặc chúng bắn trả rất dữ dội, các đồng chí phải vận dụng địa hình mới tiến lên vào được… thao trường có đổ mồ hôi, thì chiến trường mới giảm bớt thương vong đổ máu…
 Rừng già nhiều muỗi, vắt, bọ cạp, cắn đốt cùng chất độc hoá học rải xuống huỷ hoại. Truyền đơn địch kêu gọi đi theo rải xuống trắng các cánh rừng, lời lẽ bi ai, làm các chiến sỹ càng thêm căm tức bọn tay sai bán nước.
Hàng ngày tổ ba người đều hội ý rút kinh nghiệm, khoảng 10 đến 15 ngày phân công nhau đi lấy lương thực, thực phẩm. Vượt qua trọng điểm máy bay địch đánh phá cùng ngầm sông thác lũ, đến kho bãi trên đường vận tải có lúc gạo đã hết mà thực phẩm cũng chẳng còn, trời mưa tầm tã anh em mắc võng nằm đợi đoàn xe của 559 quấn xích vào lốp vận chuyển đến. Có ngày nằm đợi công binh lao xuống dòng nước vớt gạo, gói bọc trong túi nilon thả từ đầu nguồn sông xuống. Hàng nhận xong, chúng tôi đi hàng chục ngày mới về đến nơi trú quân, số gạo thực phẩm trên đường đi người đi lấy mang về ăn cũng gần hết.
Ngày lễ tết đơn vị cho người biết tiếng Lào đi mua lợn về giết thịt cải thiện, do nhiều ngày ăn uống thiếu dinh dưỡng, nên khi có mỡ thịt vào bụng, hầu hết các chiến sỹ đều bị đường ruột. Trên võng ngủ cũng như ngày đi công tác phải nhanh chóng đào hầm, chuẩn bị sẵn hướng đề phòng máy bay địch đánh phá.
Gian khổ ác liệt có người tinh thần sa sút giả vờ ốm đau. Nghiêm trọng hơn ở một đại đội trong Tiểu đoàn có người giả vờ điên loạn lấy súng tự thương vào chân tay, sát hại cán bộ. Có anh đang hành quân giả động kinh chết ngất, biết người này có biểu hiện như vậy y tá lấy nước cất tiêm vào người, mấy phút sau anh ta tỉnh dậy chúng tôi nhìn nhau cười mà suy ngẫm.
Trong số vào chiến trường với nhau một đợt, có tên cầm truyền đơn đi theo giặc, chỉ điểm cho máy bay địch đánh phá khu đóng quân đơn vị. Tiếng tên phản lại đồng đội trên máy bay OV- 10 phát xuống, làm các chiến sỹ càng thêm căm phẫn.
Đêm giao thừa năm Tân Hợi 1971. Cái tết đầu tiên chúng tôi cầm súng xa nhà đi chiến đấu, đóng quân trên núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Đại đội tổ chức cho bộ đội đón xuân dưới ánh sáng đề phòng máy bay địch phát hiện, trong cánh rừng già hoang vắng, lời người giới thiệu nghe thật vui tai: Đàn thùng, Nhị nứa, Sáo tre, hoà cùng bản nhạc Tiếng Đàn Ta Lư. Đồng đội chúng tôi cùng ngân vang bài “… Xuân chiến khu nhớ từng làng quê xóm cũ…”, đến ca khúc: Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây...
Cũng cái tết đón xuân cùng anh em đồng đội, anh Hoà người Hà Tây với cảm xúc đã đọc đoạn thơ: Đường vào, trong bài thơ dài “ Nước non ngàn dặm”, của nhà thơ Tố Hữu. Tiếng sáo trúc cùng giọng anh ngân lên làm chúng tôi trào dâng theo lời thơ đưa về một miền ký ức.
“ Đường vào khu Bốn, vào Thanh
Không đi thì nhớ không đành phải đi.
Lắng nghe sóng biển rầm rì.
Đường ra tiền tuyến lắm khi giục lòng!
Đường đi vào đó miền trong
Đường về Nam ấy, ai mong cũng là
Đường về xứ Huế quê ta
Mấy sông cũng lội, mấy xa cũng gần…
Đêm nay trăng lặn cuối tuần.
Còn thu hay đã lạnh dần hết thu?
Quân đi rung lá nguỵ trang
Xôn xao như sóng trường giang trùng trùng
Đường ta đi, đẹp vô cùng.
Nghìn năm luyện bước anh hùng đấy trăng?
Đường vui, không đợi mùa trăng
Ta đi, làm ánh sao băng giữa đời
Người đi, không thấy mặt người
Vẫn nghe ríu rít tiếng cười tuổi xuân…”.
Bữa cơm chiều 30 tết có thêm hộp thịt lợn hai lạng, gói thuốc lào thuốc lá Trường Sơn và mấy chiếc bánh kẹo. Trong căn nhà hầm đồng đội kể cho nhau nghe, về phong tục tập quán của mỗi người trên đất nước. Trong ánh sáng le lói hắt ra từ chiếc đèn dầu tự tạo, xa xa tiếng máy bay địch gầm rít, cùng tiếng bom rơi đạn nổ của núi rừng vọng lại; xin thùng… xin thùng… Võng đung đưa mà chúng tôi nhớ về làng quê yêu dấu.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #9 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2011, 08:48:45 pm »



CUỘC CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN ĐƯỜNG 9- NAM LÀO 1971

Hai giờ sáng ngày 01 tháng 2 năm 1971, tức ngày mùng 6 tết Tân Hợi. Đơn vị báo động diễn tập chiến đấu, đoàn quân bám sát nhau theo miếng lân tinh gắn sau người trước phát sáng. Qua ngầm Koongle, nước sông chảy mạnh làm mấy đồng chí trượt chân trôi hàng chục mét. Đến thị trấn Mường Phìn, thì hai ngày sau được lãnh đạo phổ biến chuyển trạng thái từ diễn tập sang chiến đấu, đánh ngăn chặn cuộc hành quân của địch đưa ra đánh phá đường vận tải chiến lược của ta ở đường 9 Nam Lào, mà chúng lấy tên là: Cuộc hành quân Lam Sơn 719.
 Hàng chục ngày đợi địch đến tác chiến. Cuộc đánh ngăn chặn địch ra đường 9 đã được Bộ tư lệnh chỉ đạo đến từng khu vực. Chiều ngày 16 tháng 2 phân đội đang đào hầm trên bãi cỏ tranh, hàng đàn máy bay HU1A địch bay đến cách mặt đất hơn 100 mét bắn đại liên phóng Rốc két. Cả đơn vị định nổ súng nhưng đều phải dừng lại, vì chưa có ý kiến của chỉ huy mặt trận.
 Ngay sau khi bị máy bay địch phát hiện phân đội cơ động về phía Đông Bắc sân bay Thà Khống (sân bay chỉ còn là một bãi đất rộng), phục kích đánh địch đổ bộ theo chỉ đạo của Trung đoàn. Từng đàn máy bay địch, chúng nghi chỗ nào có quân đội và hàng hoá của ta, là chúng cho rà sát xuống mặt đất dùng cánh quạt rẽ nát cành cây ngọn cỏ rồi ném lựu đạn, cho binh lính xuống càn quét bắn phá. Hàng chục chiếc cần cẩu bay H34 vận chuyển vũ khí súng đạn cùng xe tăng đại bác đến các cao điểm, chúng tỏ ra với sức mạnh cùng ưu thế của vũ khí Hoa Kỳ. Nhằm cắt đứt ngăn chặn đường vận tải của ta từ Bắc vào chiến trường. Còn là cuộc thử nghiệm của chúng về “Việt Nam hoá chiến tranh”. Cho nên địch đã tập trung một số lượng lớn về pháo binh, không quân với trên một trăm nghìn binh lính bộ binh tinh nhuệ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của hơn một vạn sỹ quan cố vấn Mỹ. Có trợ thủ tích cực của hàng chục tiểu đoàn phỉ nguỵ Lào quấy nhiễu đánh phá.
Nhưng kẻ thù đã bị ta biết trước ý đồ đen tối, nên khi địch đổ quân xuống Đông bắc đường số 9, ngay lập tức bị quân chủ lực ta cho một đòn, bằng việc tiêu diệt lữ đoàn biệt động số 39 và bắt sống tên đại tá Thọ.
Từng đàn máy bay địch thi nhau lên xuống bắn phá chuẩn bị cho việc đổ quân. Khi chiếc cần cẩu H34 của Mỹ bị pháo cao xạ ta bắn cháy nổ gẫy đôi, kéo theo xe pháo văng xuống đất, lập tức bầu trời quanh khu vực đen đặc với trên 50 chiếc máy bay các loại, tạo thành ba tầng lao tới phóng Rốc két bắn đại liên.
Pháo phòng không 37 ly của mặt trận thỉnh thoảng điểm vào tốp máy bay chúng một loạt, địch sợ hãi không dám xuống thấp mà cho máy bay đánh bom phá huỷ khu vực. Thấy giặc đánh bom triệt phá như vậy chúng tôi nói; lũ giặc vô cùng tàn bạo phải trả giá với quân ta ở mặt trận này.
Mờ sáng hôm sau tôi cùng Trần Chí Sứ tiểu đội phó, chạy đến chỗ máy bay cháy, thấy hai xác giặc mặc quần áo trắng to béo chết gục. Anh Sứ nói; hai thằng này rất to con, khả năng đây là hai thằng Mỹ. Hai anh em định vào lục soát tìm vũ khí, thì có tiếng máy bay địch xuất hiện, hai người vừa về đến hầm thì mấy chục chiếc trực thăng đến bắn phá và cho quân xuống lấy xác hai tên chết thảm hại mang đi.
Khi địch cho binh lính xuống khu vực nào, là các loại máy bay trinh sát OV10- L19, máy bay chiến đấu F105 - AĐ6- C130, chiến lược B52 đánh phá, dùng cần cẩu bay vận chuyển xe tăng, súng đạn xe quân sự, máy xúc, máy ủi đến san lấp mặt bằng, lắp hầm Boong ke và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác. Phải khẳng định vũ khí quân sự cùng công tác hậu cần của địch đưa ra đường 9, để đánh vào đường vận tải của ta, địch hơn ta rất nhiều lần.
Nhưng phía ta đã chủ động đưa các Sư đoàn 320- 308- 304- 324, Sư đoàn 2, cùng một số quân binh chủng ra nghênh chiến với chúng. Sư đoàn 2 chúng tôi hành quân từ Khu 5 ra Nam Lào từ tháng 9 năm 1970. Đơn vị được bổ sung quân số và huấn luyện ngay ở khu vực sau này địch ra chiếm đóng.
Sau chiến dịch Lam Sơn 719 địch thất bại, chúng đã cách chức một số tên tình báo vì không nắm được quân số và di chuyển của quân chủ lực, trong đó có nói đến lực lượng của Sư đoàn 2 quân khu 5.
 Tiểu đoàn 2 (60), chúng tôi tổ chức đánh địch đổ ra phía tây bắc Bản Đông, hàng chục ngày cơ động làm mấy đồng chí đau chân, không bám đội hình. Đường thường xuyên chuyển hướng cho đơn vị khác di chuyển,(chuyển làn rẽ bằng cành lá cây cho phía sau), làm tôi lạc hướng. Đường tiếp cận mới phát cây cối rậm rạp khó nhận, đêm tối chân đau tôi không thể bám sát đội hình, nên phải nằm lại khe suối. Đến nửa đêm bị máy bay địch ném bom nổ cách hơn 100 mét, đất đá văng phủ kín người, làm cả đêm tôi suy nghĩ về việc không bám sát dẫn đến lạc đội hình vào lúc chuẩn bị tấn công địch, đồng đội có hiểu cho không hay nghĩ mình lẩn trốn trận chiến đấu.
Trời tảng sáng nhanh chóng quay lại đường cũ, qua bãi máy bay địch đánh phá trong đêm, gặp trinh sát tiểu đoàn đang tìm gọi người đi lạc. Như vậy trong đêm nhiều đồng chí đi không đúng đội hình và bị trúng bom, về đơn vị anh em chạy ra thăm hỏi động viên: Cả Trung đội lo nghĩ tới đồng chí trong trận bom máy bay B52 đêm qua…
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM