Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 11:58:24 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với sử học Việt Nam  (Đọc 70033 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #80 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2011, 10:37:36 am »

MỘT CHIẾN SĨ CỘNG SẢN KIÊN ĐỊNH,
MỘT VỊ TƯỚNG CÓ TÀI NĂNG
(1)

Thưa đồng chí Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử,

Thưa toàn thể gia quyến của tướng Nguyễn Sơn.

Tôi rất xúc động hôm nay được đến dự buổi lễ tưởng niệm anh Sơn, nhân ngày sinh lần thứ 85 năm của anh. Tôi và anh Sơn có nhiều kỷ niệm trong những ngày cách mạng mới thành công, rồi trong những ngày cuối đời anh về nước.

Cũng như anh Phùng Chí Kiên, anh Nguyễn Sơn đã sớm tham gia phong trào thanh niên và đã có may mắn được theo học ở trường Hoàng Phố. Về thân thế và sự nghiệp thì trong buổi họp mặt hôm nay không có thời gian trình bày, nhưng chắc chắn lịch sử sẽ không quên. Hôm nay, tôi chỉ muốn nhắc lại một số kỷ niệm giữa tôi và anh trong những ngày chúng tôi cùng làm việc.

Lúc anh Sơn về nước thì quân Pháp đã gây ra chiến tranh xâm lược ở miền Nam, nước ta đã bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong Thường vụ, Bác, anh Trường Chinh và tôi đều muốn anh Sơn vào phía nam là nơi chiến sự đang diễn ra quyết liệt. Cuối 1946, tôi đi vào mặt trận Khánh Hòa gặp anh Phạm Kiệt, trao đổi ý kiến thấy cần tăng cường cán bộ chủ trì, nhất là về quân sự. Không lâu sau, anh Sơn được cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam, trong khi tôi giữ chức vụ Chủ tịch Quân sự ủy viên hộ toàn quốc (về sau đổi là Ủy ban Kháng chiến toàn quốc). Đó là một trọng trách rất lớn nói lên sự tín nhiệm của Đảng và Chính phủ đối với anh.

Anh Nguyễn Sơn là một chiến sĩ cách mạng ưu tú của Đảng, một tướng có công của quân đội ta. Đặc biệt, anh là vị tướng nước ngoài duy nhất của Quân giải phóng Trung Quốc đã từng tham gia cách mạng và kháng chiến ở Trung Quốc trong nhiều năm. Do vậy các đồng chí bạn thường nhắc đến anh với tình cảm sâu sắc và trân trọng. Năm ngoái, trong dịp thăm Trung Quốc, tôi có gặp chị Sơn và các cháu, rất mừng thấy tinh thần rất tốt, các cháu ở bên đó cũng như các cháu ở nhà trong gia đình, đều cố gắng học tập và làm việc để xứng đáng với sự mong mỏi của bố.

Như vậy, có thể nói Nguyễn Sơn là một chiến sĩ quốc tế đã để lại tấm gương tốt đẹp và tình hữu nghị giữa Cách mạng Việt Nam và Cách mạng Trung Quốc.

Nguyễn Sơn là một chiến sĩ cộng sản kiên định, một con người có khí phách, có chút ngang tàng (như có đồng chí vừa nói); nhưng phải nói anh là một vị tướng có tài năng. Anh Sơn chẳng những có tài về quân sự mà còn có khả năng về chính trị, về tuyên truyền, về văn nghệ. Anh lại có phong cách riêng - rất là Nguyễn Sơn. Vì dụ: làm chủ hôn mà bắt cô dâu và chú rể phải làm thơ thì chỉ có anh Sơn thôi!

Anh luôn chú trọng đào tạo cán bộ, ở trường Lục quân Quảng Ngãi, rồi trường quân chính Khu IV. Trong phong trào luyện quân lập công, anh đã tổ chức thành công “Đại hội tập”, một hình thức huấn luyện lôi cuốn cả quân đội và nhân dân.

Anh coi trọng bạn bè, coi trọng con người, coi trọng bồi dưỡng đội ngũ kế cận.

Có thể nói thời bấy giờ - Cách mạng Tháng Tám mới thành công, Cách mạng Trung Quốc chưa thắng lợi - là thời kỳ tiêu biểu cho chí khí tự lực tự cường, độc lập sáng tạo của Đảng ta, của nhân dân, kiên quyết giữ vững chính quyền còn non trẻ, chiến đấu trong vòng vây trong điều kiện cực kỳ khó khăn phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và của Đảng, toàn dân ta đã đoàn kết chiến đấu, xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang, từ dân quân đến những đại đoàn chủ lực đầu tiên. Chúng ta đã đứng vững và trưởng thành, dã xây dựng nền tảng vững chắc để sau này tiếp thu và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ hết lòng của các nước anh em, nhất là của nước Trung Hoa mới.

Chính vào những ngày khó khăn ấy, anh hùng Sơn về nước. Trong các cuộc họp bàn về quân sự, về kháng chiến, anh đã tham gia tích cực, có nhiều ý kiến sâu sắc về đào tạo cán bộ cũng như tác chiến, về xây dựng chủ lực cũng như về xây dựng lực lượng dân quân - một vấn đề mà anh hết sức coi trọng. Trong các buổi họp, trên diễn đàn, anh nói chuyện sôi nổi, hấp dẫn. Trong quan hệ giao tiếp với bạn bè, anh quý trọng đồng chí, đồng đội, nhiều khi trò chuyện thâu đêm, say sưa, cởi mở.

Thời gian về nước tuy không lâu lắm, nhưng anh đã cống hiến hết sức mình. Sau chiến dịch giải phóng biên giới Việt - Trung năm 1950, do phân công công tác, anh đã trở sang Bắc Kinh. Đã nhiều năm bôn ba hoạt động cách mạng xa quê hương, bao giờ anh cũng luôn hướng về Tổ quốc. Cho đến khi lâm bệnh hiểm nghèo, mặc dù bạn đã hết lòng cứu chữa, kể cả gửi bệnh án sang Liên Xô, cũng không thể qua khỏi; theo đề nghị của anh, Đảng đã cho đón anh về nước, và anh đã từ trần nơi đất mẹ, trong niềm thương tiếc vô hạn của gia đình và các bạn chiến đấu của anh.

Nếu còn sống, đến nay, anh đã 85 tuổi. Tiếc rằng anh ra đi quá sớm. nhưng trong lịch sử cách mạng Việt Nam cũng như trong lòng mỗi người chúng ta, anh vẫn còn sống mãi với hình ảnh một người cộng sản kiên định, một người bạn, người đồng chí, một người chiến hữu thân thiết và rất mực chân thành, suốt đời phục vụ sự nghiệp cách mạng của nước ta và nước bạn.


(1) Phát biểu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại buổi sinh hoạt kỷ niệm 85 năm ngày sinh của tướng Nguyễn Sơn (31-12-1993) tại Hà Nội. Tiêu đề do Tạp chí Xưa & Nay đặt. Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 269, tháng 10 năm 2006, tr.1-2.
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Hai, 2011, 10:46:49 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #81 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 07:51:05 pm »

“CON NGƯỜI TƯỢNG TRƯNG
CHO LÒNG YÊU NƯỚC”
(1)

Đó là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của nhân loại về cụ Phan Đình Phùng, người anh hùng của phong trào vũ trang yêu nước chống Pháp vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX mà hôm nay chúng ta trận trọng tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày mất của cụ.

Khi cụ Phan Đình Phùng hy sinh vì nghĩa lớn thì Bác Hồ của chúng ta mới lên 5 tuổi. Quê hương (làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh) cũng như vùng núi rừng Hương Sơn, Hương Khê (Vụ Quang) căn cứ địa kháng chiến của Phan Đình Phùng không xa quê hương Nam Đàn, Nghệ An của Bác. Chắc chắn, tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trên những chặng đường hoạt động sau này, hình ảnh người thủ lĩnh nghĩa quân Phan Đình Phùng rất sâu đậm. Người còn nhấn mạnh đến nét đặc sắc trong tiểu sử cụ Phan là “một học giả nổi tiếng, một vị quan to, một chí sĩ yêu nước và là người đã tổ chức những phần tử trí thức và nông dân…” tham gia sự nghiệp cứu nước.

Lòng ngưỡng mộ và khâm phục của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cụ Phan đã nói lên tầm vóc của người tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương ở miền Trung (ở các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình), một vùng đất cũng tiêu biểu nhất cho tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của Tổ quốc chúng ta.

“Có thể nói, cho đến nay sự đánh giá vị trí của cụ Phan Đình Phùng gắn liền với cuộc khởi nghĩa Hương Khê là nhất trí. Cụ là người chí sĩ bất khuất, biết dùng người tài như Cao Thắng. Đã chọn núi rừng hiểm yếu làm căn cứ địa, tổ chức ra 15 quân thứ có kỷ cương, coi trọng chế tạo vũ khí cả thô sơ và súng mới, biết dựa vào dân mà tích trữ quân lương. Nghệ thuật đánh giặc thì chủ động và sáng tạo, khi tập kích, phục kích, khi đánh ngay vào đầu não của địch, khi dùng mưu trí để diệt địch trong trận Vụ Quang nổi tiếng, chiến đấu suốt mười năm, rõ ràng đã có tư tưởng đánh lâu dài với quân Pháp. Song để tìm thấy ở con người đó những bài học cho cuộc sống bảo vệ, xây dựng và đổi mới đất nước ngày hôm nay, chúng ta còn phải tiếp tục nghiên cứu, còn nhiều việc phải làm.

Cuộc hội thảo ngày hôm nay, chúng đã nghe nhiều tham luận khoa học nói về thân thế, sự nghiệp và vị trí của Phan Đình Phùng trong lịch sử. Nhưng làm sao cho những tri thức của các nhà khoa học trở thành tri thức của xã hội, nhất là của lớp trẻ sống trong một hoàn cảnh lịch sử khác xa thời mất nước, nô lệ như thuở cụ Phan đã sống. thực sự chúng ta thấy lo lắng khi chứng kiến hiểu biết về quá khứ, về lịch sử của xã hội ngày càng thấp. Một điều tra được công bố trên báo chí vừa qua cho biết, gần một nửa số người được hỏi mà chủ yếu là các cháu học sinh, không biết Vua Hùng là ai. Sự xuống cấp về tri thức lịch sử ấy được coi là một biểu hiện nghiêm trọng của sự xuống cấp về đạo đức xã hội. Bác Hồ luôn dạy chúng ta “Dân ta phải biết sử ta”, tổ tiên ta ngày trước cũng như Đảng ta ngày nay luôn coi việc học quốc sử là một phần tri thức tạo nên nhân chác một con người có ích cho xã hội.

Bởi vậy, tổ chức kỷ niệm nhân ngày giỗ lần thứ 100 của cụ Phan Đình Phùng cũng như nhiều cuộc sinh hoạt tưởng niệm các danh nhân hay sự kiện lịch sử khác, chúng ta không nên chỉ tổ chức cho long trọng ở hội trường, xây mộ hay dựng bia - đó là những việc cần làm - mà quan trọng hơn là làm sao cho những tri thức này được truyền bá rộng rãi trong quần chúng, đặc biệt là trong giới trẻ. Bởi vì, trong cuộc đời của các vị tiền bối như Phan Đình Phùng có biết bao điều cao quý có tác dụng lớn với việc xây dựng con người mới có chí lớn, có hoài bão, có nghị lực, tài năng và nhất là có lòng yêu nước và tự tôn dân tộc. Điều này càng có ý nghĩa thiết thực trong thời mở cửa, tiếp nhận nhiều thông tin, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa các nước. Thử nhắc lại câu trả lời của Phan Đình Phùng trước thủ đoạn trả thù hèn hạ của thực dân quật mồ mả tổ tiên của mình, dọa bắt giết người anh ruột, cụ đã khảng khái đáp rằng ngội mộ to nhất nên giữ là Tổ quốc Việt Nam, người thân, rất thân nhất là cả mấy triệu đồng bào… thì quả thực tấm gương ấy rất cần cho cuộc sống hôm nay. Xây dựng cuộc sống hòa bình càng phải giữ phẩm chất khí tiết để biết bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích đồng bào, không chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình.

Trong bất kỳ thời đại nào của lịch sử dân tộc, chủ nghĩa yêu nước cũng là một động lực cho sự tồn vong và phát triển của đất nước. Do đó, kỷ niệm cụ Phan Đình Phùng, một con người tượng trưng cho lòng yêu nước, chúng ta càng cảm nhận được sâu sắc ý nghĩa thiết thực của việc cần làm này.

Nhân dịp ngày giỗ thứ 100 của cụ Phan Đình Phùng cũng là vào dịp sắp qua năm mới, xin chúc tất cả chúng ta sức khỏe, dốc lòng phấn đấu vì sự nghiệp chung của đất nước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, khỏi phụ công ơn những bậc tiền bối đã từng chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc như cụ Phan Đình Phùng.


(1) Bài phát biểu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày mất của Phan Đình Phùng, tại Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, ngày 28-12-1995. Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, tháng 1 năm 1996, tr.9.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #82 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 07:52:26 pm »

BÀI PHÁT BIỂU
CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
TẠI HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH HỘI KHOA HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM KỲ III KHÓA III
NGÀY 22-7-1996 TẠI ĐỒ SƠN, HẢI PHÒNG
(1)

Tôi xin gửi lời chúc mừng đến toàn thể các đại biểu về dự Hội nghị Ban Chấp hành của Hội Khoa học lịch sử hôm nay. Tôi rất vui mừng trước sự trưởng thành về đội ngũ những người làm công tác sử học nói chung và đặc biệt của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trong những năm gần đây.

Nhân dịp này, tôi muốn phát biểu một vài ý kiến.

1. Quốc gia nào cũng có một nền sử học và dân tộc nào cũng có lịch sử của mình. Dân tộc Việt Nam chúng ta không những có lịch sử lâu dài của những cộng đồng cư dân sinh sống và phát triển trên lãnh thổ của đất nước ta, mà một đặc điểm không phải dân tộc nào cũng có, đó là tính cộng đồng sớm phát triển thành một ý thức dân tộc phản ánh trong một nền văn hóa phong phú, rất đậm nét bản sắc riêng và cùng với nền văn hóa ấy là tinh thần tự chủ của một quốc gia dân tộc hình thành từ rất sớm. Quốc gia dân tộc ấy mặc dầu luôn phải đương đầu với những cuộc xâm lăng từ bên ngoài, thậm chí nhiều lần bị ách thóng trị của nước ngoài đô hộ nhưng luôn quật khởi vùng dậy tự giải phóng và khẳng định nền độc lập của mình. Hàng ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm và xây dựng nền văn hiến của các triều đại xa xưa cũng như sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn một nửa thế kỷ vừa qua đã nói lên điều đó.

Và trong sự nghiệp ấy, ông cha ta luôn coi việc viết lịch sử, truyền bá tri thức lịch sử là một nền tảng cho việc xây dựng tâm hồn và bản lĩnh của người Việt Nam, tạo nên một chủ nghĩa yêu nước, một chủ anh hùng truyền từ đời này sang đời khác. Mặc dâu có nhiều pho sử bị thất tuyền nhưng những bộ sử còn lại của các thế hệ sử gia trong quá khứ cũng như những thành tựu của giới sử học trong thời kỳ vừa qua cho thấy những đóng góp to lớn của sử học đối với dân tộc.

Chúng ta biết rằng trong quá trình vận động cách mạng đào tạo cán bộ và giác ngộ quần chúng, Bác Hồ luôn quan tâm đến những tri thức lịch sử. Chương trình đào tạo cho những chiến sĩ cách mạng ở Quảng Châu giữa những năm 1920, hay khi viết bài diễn ca “Lịch sử nước ta” vào thời điểm trực tiếp chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là những bằng chứng.

Gần đây, nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước đã phát biểu nhiều về vai trò của sử học và tầm quan trọng của việc viết và truyền bá tri thức lịch sử.

2. Chúng ta thấy một điều đáng mừng là càng ngày càng có nhiều tác phẩm sử học được in thành sách. Bên cạnh viêc nhiều bộ sử học lớn được dịch và in lại một cách trang trọng là nhiều công trình nghiên cứu mới do các trung tâm, các viện nghiên cứu tổ chức biên soạn, các ngành, các địa phương cũng quan tâm đến việc viết lịch sử của mình, giới nghiên cứu cũng có nhiều công trình cá nhân được công bố về với sự tiếp nhận của bạn đọc. Riêng giới lịch sử quân sự vừa tổng kết hoạt động của ngành đã cho thấy quy mô to lớn của công tác tổng kết chiến tranh với những thành tựu bước đầu đã đạt được.

Nhưng điều toi muốn nói là mặc dù những cố gắng của giới sử học là đáng khích lệ nhưng thực sự nó vẫn chưa tương xứng với tầm vóc và sự phong phú của hiện thực lịch sử mà nhân dân ta qua các thế hệ đã làm nên, trong đó có lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến của dân tộc ta trong những thập kỷ vừa qua. Đó là chưa nói đến, bên cạnh lịch sử các sự kiện chính trị, lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm còn biết bao lĩnh vực khác nữa như lịch sử kinh tế, xã hội, văn hóa, ngoại giao, v.v. mà những bài học của nó đáng tự hào vừa rất thiết thực góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước và đổi mới hiện nay…

Tôi cũng hoan nghênh một số công việc của Hội cùng với giới sử học đã góp phần nhắc nhở ý thức “uống nước nhớ nguồn” đối với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, việc tôn vinh những nhân vật lịch sử có công với dân với nước, trong đó có những nhân vật mà do những điều kiện lịch sử trước đây chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ, lại quan tâm đến nhiều nhân vật lịch sử cùng thời với chúng ta, ví như việc tổ chức tưởng niệm các tướng lĩnh của quân đội ta có công với đất nước. Những việc làm nói trên là rất đáng hoan nghênh, chính xác, đúng với nguyên tắc cơ bản của những người làm lịch sử.


(1) Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 30, tháng 8 năm 1996, tr.5-6.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #83 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 07:53:38 pm »

3. Tuy nhiên, tôi vẫn còn có điều băn khoăn và hơn thế nữa là sự lo lắng, đó là vì sao kiến thức lịch sử lại không phổ biến sâu rộng được trong quản đại quần chúng, như là giới trẻ? Báo chí đã nói nhiều về vấn đề này. Tôi nhớ khi còn trẻ, lúc đó đất nước còn bị thực dân đô hộ, tri thức lịch sử trở thành niềm tự hào, thành động lực để động viên mọi người làm cách mạng theo tấm gương của người xưa. Cụ Phan Bội Châu viết “Việt Nam vong quốc sử” để mọi người thấy được mối nhục mất nước mà phấn đấu để không hổ thẹn với các bậc tiền bối.

Giơ đây đặt câu hỏi ấy, vì sao lịch sử chưa hấp dẫn được người đọc? chúng ta có thể nói đến nhiều lý do nhưng điều đáng để chúng ta suy nghĩ còn là: giới sử học đã làm gì để những tác phẩm của mình đi được vào lòng quần chúng? Tô9i chợt nhớ đến những cuốn sách giáo khoa, hay lời giảng của các thầy dạy sử năm xưa, trong bối cảnh bị thực dân thống trị vẫn có cách để nói lên được lịch sử truyền thống hào hùng của dân tộc, rồi những câu viết kín đáo trong sách giáo khoa, những thể loại rất truyền thống của người Việt Nam như một khúc diễn ca, một câu ca dao cũng để mọi người học hỏi và ghi nhớ. Tôi cứ nghĩ nến chúng ta in lại cuốn “Đại Nam quốc sử diễn ca” của các cụ Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái với những câu mộc mạc: “Bà Trưng quê ở Châu Phong…” chắc người đọc, nhất là các cháu thiến niên nhi đồng vẫn thấy thích, lại dễ nhớ. Rồi để nâng cao dân trí có thể chú thích nhêm những ý, những nội dung mà thế hệ chúng ta ngày nay nhận thức cao hơn… Những tri thức lịch sử diễn ca viết thành thơ hay vẽ thành tranh chắc chắn sẽ hấp dẫn giới trẻ để họ hiểu về cội nguồn, về dân tộc chứ không phải chỉ say mê với những nhân vật, tích truyện của người nước ngoài. Tôi mong rằng giới sử học cùng với giới sáng tác nghệ thuật sẽ có nhiều hình thức chuyển tải tri thức lịch sử dân tộc cho giới trẻ…

Ngay cả những bộ sách lớn, các nhà xuất bản, các tác giả đâu tư rất nhiều công sức nhưng đôi khi lại không phát huy được tác dụng. Sách viết về các nền văn minh kim cổ rất nhiều mà lại sao nhãng giới thiệu về nền văn minh Việt Nam qua các di tích, di chỉ các thành tựu của nhiều thời đại, các gương mặt tiêu biểu… Trong lúc học giả nước ngoài có uy tín khi nghiên cứu lịch sử các nền văn minh trên thế giới đã trân trọng đặt nền văn hóa của dân tộc ta như một trong vài ba chục nền văn minh tiêu biểu của nhân loại, thì chính chúng ta lại coi thường, giới thiệu quá sơ lược. Mỗi một tác phẩm lịch sử phải truyền đạt được và để lại trong lòng người đọc một tình cảm yêu nước, một chí khí bất khuất. Đó mới là những tác phẩm sử học chân chính mà nhân dân đang mong đợi.

4. Một vấn đề đang trở thành bức xúc trong bối cảnh chúng ta đang mở cửa, đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xử lý mối quan hệ giữa những lợi ích kinh tế và yêu cầu văn hóa. Chúng ta biết rằng, nhân loại ngày càng nhận thức được rằng giữa văn hóa và kinh tế có một mối quan hệ hỗ tương rất chặt chẽ, coi văn hóa là động lực cho phát triển kinh tế. Nhưng đôi khi sự thiển chận dẫn tới việc hy sinh những giá trị văn hóa để đạt được những lợi ích vật chất trước mắt. Một phần do nhận thức về trình độ quản lý chúng ta đang đứng trước một hiện trang đángg báo động về việc cảnh qua môi trường thiên nhiên và lịch sử bị xâm phạm nghiêm trọng trước các hoạt động kinh doanh. Lẽ ra cần phải tạo ra một mối quan hệ hài hòa thì ta lại chứng kiến chúng trở thành đối lập. Nhiều công tình xây dựng vì những mục đích kinh tế phá vỡ và làm xuống cấp nghiêm trọng môi trường hiên nhiên, văn hóa và lịch sử. Nhiều di tích lịch sử (kể cả đã được Nhà nước xếp hạng) bị vi phạm. Dư luận xã hội và Hội Khoa học Lịch sử đã mạnh mẽ lên tiếng, nhưng để thức tỉnh được những người đặt lợi ích kinh tế trước mắt cao hơn cả nền văn hóa và tương lai tinh thần của dân tộc thì đây sẽ là một cuộc đấu tranh không dễ dàng. Đừng để Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây mất đi những cảnh quan và di tích văn hóa lâu đời, đừng để thành Cổ Loa bị xâm lấn… Bảo vệ bằng được những di tích lịch sử và văn hóa của dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ cao cả của Nhà nước và mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có vai trò quan trọng của các nhà sử học, các nhà văn hóa và kiến trúc. Ở đây không chỉ có vấn đề lợi ích mà còn là vấn đề phẩm giá, là thước đo đối với một dân tộc vốn có nền văn hiến như dân tộc Việt Nam ta.

5. Trở lại vấn đề giáo dục lịch sử. Tôi có dịp thăm một số trường chuyên, lớp chọn, các em rất giỏi về khoa học tự nhiên, toán, ly hóa, ngoại ngữ, tin học… nhưng do coi nhẹ giáo dục các môn khoa học xã hội và nhân văn, nên kiến thức về mặt này của các em rất kém. Tôi cũng dự lễ phát phần thưởng cho các học sinh giỏi toàn quốc, trong đó không thấy có học sinh giỏi môn sử. Hỏi ra mới biết là sử học không được xếp vào các môn thi học sinh giỏi toàn quốc. Đây là thiếu sót lớn.

Chúng ta có một lực lượng đông đảo các thầy cô giáo giảng dạy bộ môn lịch sử ở các cấp từ phổ thông đến đại học và trên đại học, chúng ta có một đội ngũ rất đông đảo các nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, trong đó có nhiều người đạt tới trình độ cao về học hàm học vị. Đó là một lực lượng rất đáng quý. Nhưng điều quan trọng là làm sao cho đội ngũ ấy thông qua các hoạt động của mình: nghiên cứu, viết sách, giảng dạy… phải đưa những tri thức vào đông đảo quần chúng để rồi biến những tri thức ấy thành tình cảm và ý thức của mỗi người Việt Nam về lòng yêu nước, lòng tự hào đối với quá khứ cũng như trách nhiệm đối với hiện tại và tương lai, thành một trong những động lực tinh thần quan trọng cho sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Sử học phải góp phần tích cực vào nhiệm vụ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra. Sử học phải có vị trí xứng đáng trong đời sống tinh thần của dân tộc, nhất là ở một đất nước có văn hiến và truyền thống lịch sử như đất nước ta. Điều đó phụ thuộc nhiều và trước hết vào những việc làm của giới sử học chúng ta.

Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #84 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 07:54:54 pm »

MẤY SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ “VIỆT NAM HỌC”(1)

Cuộc hội thảo về Việt Nam học lần này là cuộc hội thảo đầu tiên tổ chức tại Hà Nội, nhưng từ lâu nhiều nhà khoa học ở trong nước và nước ngoài đã dày công nghiên cứu và đã có những công tình quan trọng giúp chúng ta hiểu biết thêm về đất nước và con người Việt Nam. Điều cơ bản là đối tượng của Việt Nam học là một lĩnh vực rộng lớn, nội dung phong phú, còn có những vấn đề quan trọng cần được đi sâu nghiên cứu và lý giải.

Việt Nam là một quốc gia dân tộc hình thành rất sớm, khác với các quốc gia dân tộc ở phương Tây.

Việt Nam có một nền văn hóa sớm phát triển. Những di chỉ của văn hóa Đông Sơn với những trống đồng nổi tiếng đã có từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Nói đến nhà nước Văn Lang - Âu Lạc với cố đô Cổ Loa - một trung tâm chính trị và quân sự với những thành quách, những mũi tên đồng thì cũng ở vào thế kỷ III trước Công nguyên. Có thể nói rằng những cư dân bản địa đầu tiên rất sớm đã có một triết lý sống, một triết lý hành động trong cuộc đấu tranh chống thiên tai và địch họa. Triết lý ấy được thể hiện trong cả một kho tàng ca dao, tục ngữ được lưu truyền từ đời này qua đời khác như dòng sữa nuôi dưỡng tâm hồn và nhân cách con người Việt Nam, những truyền thiết về nguồn gốc dân tộc với hình tượng “Con Lạc cháu Hồng”, “Con Rồng cháu Tiên”, “Mẹ Âu Cơ và bọc trứng trăm con”… luôn luôn răn dạy con người Việt Nam về côi nguồn cùng chung một gốc để gìn giữ tình nghĩa “đồng bào”, “tình làng nghĩa xóm. Đặc biệt là hình tượng Vua Hung với 18 đời kế vị đã trở thành tiềm thức của người Việt Nam. Những tuyền thuyết về “Sơn Tinh, thủy Tinh”, về “Thánh Gióng”… nhắc nhở mọi người dân ghi nhớ rằng chinh phục thiên nhiên cũng như chống giặc ngoại xâm là nghĩa vụ thiêng liêng đối với mọi thế hệ. Các tập tục cổ truyền như thờ cúng tố tiên, tôn vinh những người có công với nước, những lễ hội diễn xướng dân gian là những cách thức để giữ gìn và bồi đắp bản lĩnh cũng như đạo làm người của dân tộc Việt Nam.

Về sau, triết lý phổ biến và sâu sắc ấy mới được ghi vào lịch sử thành văn đã từng bước tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tinh thần đấu tranh bất khuất chống mọi kẻ địch xâm lược để làm chủ nước nhà; là đức tính lao động cần cù và bền bỉ để làm chủ thiên nhiên; là tinh thần nhân ái, cố kết, chung lưng đấu cật để bảo vệ, xây dựng cộng đồng; là tinh thần sống hòa bình và hữu nghị với các nước láng giếng và trải qua một cuộc đấu tranh biết bao gian khổ và lâu dài để dựng nước và giữ nước, tạo ra cho dân tộc Việt Nam một tinh thần thông minh sáng tạo khá đặc biệt, nhất là trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm.

Nền văn hóa nói đây đương nhiên bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà con người Việt Nam đã sáng tạo ra trong hoạt động sản xuất cũng như trong đấu tranh xã hội để đáp ứng mục tiêu tồn tại và phát triển, dựng nước và giữ nước.

Chính nền văn hóa truyền thống ấy đã tạo nên một điển hình hiếm thấy là trên lãnh thổ Việt Nam, 54 dân tộc với những tiếng nói khác nhau, phong tục tập quán khác nhau trong suốt quá trình lịch sử đã thường xuyên sát cánh bên nhau trong sản xuất cũng như trong chiến đấu, chưa hề xảy ra những cuộc chiến tranh sắc tộc. Trước thiên tai, đặc biệt là trước địch họa, các dân tộc càng đoàn kết với nhau trong khi vẫn giữ bản sắc của mỗi dân tộc, lại cùng tạo nên một nền văn hóa chung của một nước Việt Nam thống nhất. Tinh thần đoàn kết thống nhất ấy toát lên trong câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Đoàn kết là sức manh, tinh thần đoàn kết, đại đoàn kết nói trên, một nét tiêu biểu của nền văn hóa Việt Nam, đã mang lại cho dân tộc ta một sức sống mãnh liệt.

Do đâu mà trải qua hơn 1.000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, dân tộc Việt Nam không những không bị đồng hóa, trái lại còn tích lũy lực lượng, cuối cùng vùng lên giành lại độc lập. Đó là nhờ người dân Việt Nam đã giữ vững được nền văn hóa vốn có.

Do đâu mà một nước nhỏ, đất không rộng, người không đông, mà đã đánh bại một kẻ xâm lược từ cuộc chiến thắng mấy vạn quân Tần vào đầu Công nguyên, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí và những vị anh hùng yêu nước khác ngay trong thời bị đô học cho đến chiến thắng hiển hách trên sông Bạch Đằng vào thế kỷ X, lập nên nước Đại Cồ Việt. Và từ đó, trải qua gần 1.000 năm nước nhà độc lập thì đã liên tiếp đánh thắng các độ quân xâm lược lớn mạnh của các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, đặc biệt là đã ba lần chiến thắng giặc Nguyên - Mông, đội quân xâm lược hung bạo nhất của thời trung cổ. Đó là nhờ ở sức mạnh của nền văn hóa truyền thống, trên cơ sở ấy đã biết hết hợp tinh thần quyết chiến giữ nước với tài thao lược sáng tạo xây dựng nên học thuyết quân sự Việt Nam độc đáo.


(1) Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 54,tháng 8 năm 1998, tr.7-9.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #85 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 07:56:38 pm »

Trong suốt thời đại Đại Việt, chế độ phong kiến với tính chất và đặc điểm riêng, đã hình thành và ngày càng được củng cố; công cuộc xây dựng đất nước và không ngừng phát triển về nhiều mặt với nền văn minh lúa nước, hệ thống đê điều và các nghề thủ công tinh xảo, việc giao lưu hàng hóa với các nước đã được mở mang với một lực lượng hàng hải khá mạnh ở biển Đông. Xây dựng nhà nước tập quyền, ban hành các bộ luật, tổ chức quân đội, thực hiện chế độ thi thuyển chọn nhân tài, mở mang nền văn hiến… Hình thái kinh tế - xã hội có những đặc điểm gì liên quan đến cái gọi là phương thức sản xuất châu Á mà Mác đã đề cập; vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, nhưng rõ ràng xã hội Việt Nam đã không trải qua chế độ nô lệ.

Có thể nói, nước Việt Nam thời bấy giờ được coi là cường thịnh so với các nước trong khu vực.

Về địa lý chiến lược, nước Việt Nam có một vị trí quan trọng nằm trên con đường giao lưu quốc tế giữa hai quốc gia lớn cũng là hai nền văn hóa vĩ đại của loài người: Trung Hoa và Ấn Độ. Nước Việt Nam còn nằm trên con đường giao thông hàng hải trọng yếu của khu vực giữa Đông Á và Nam Á. Trong lịch sử, Việt Nam cũng là một đối tượng trọng yếu của chủ nghĩa bành trướng, chủ nghĩa thực dân của các cường quốc. Do vậy mà Việt Nam là một trong số không nhiều dân tộc từ xa xưa đã có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn minh lớn trên thế giới ở phương Đông cũng như ở phương Tây.

Nhìn chung về giao lưu văn hóa, Việt Nam luôn có thái độ rộng mở. Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo của phương Đông và sau này của Thiên chúa giáo của phương Tây đã được du nhập, được tiếp nhận và chuyển hóa phù hợp với tâm tính của người Việt Nam và lợi ích của dân tộc Việt Nam. Một ví dụ điển hình là những nhà nho nổi tiếng đều là những sĩ phu yêu nước, thực chất là những nhà yêu nước uyên bác về Nho học. chúng ta đã tiếp nhận chữ Hán để chuyển tải nền văn hóa của mình và làm nên những áng hùng văn như “Bình Ngô đại cáo”; về chữ viết, chúng ta chấp nhận việc latinh hóa và coi thữ chữ ấy là “quốc ngữ”; sự tiếp nhận ấy đã góp phần quan trọng phổ biến kiến thức và nâng cao dân trí của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các thương gia cũng như các nhà truyền giáo nước ngoài nói chung đều được phép tự do hoạt động với điều kiện tôn trọng chủ quyền và lợi ích dân tộc Việt Nam. Mãi hco đến sau này, trong một thời gian nhất định, triều đình nhà Nguyễn đã cho thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng” và “bài trừ tà đạo”.

Bước sang thời kỳ cận đại, đã diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử giữa các nước tư bản phương Tây với nền văn minh công nghiệp và các nước phong kiến phương Đông với nền văn minh nông nghiệp. Tiếp theo sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trọng thương là các cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhỏ để chiếm lĩnh thuộc địa, phân chia lại thị trường. Thời gian này đặt ra cho “Việt Nam học” nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, đồng thời phải đặt nó nằm trong phạm vi rộng lớn hơn của dân tộc học phương Đông. Từ các nước Nam Á, Đông Nam Á, Nhật Bản, Trung Quốc cho đến Việt Nam nói riêng, tình hình đã diễn ra với những đặc điểm vừa có sự đồng nhất vừa có sự khác biệt nhất định.

Việt Nam, từ giữa thế kỷ XIX đã từng bước bị tiến thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp, một thuộc địa khai thác, đồng thời là đối tượng của chính sách chia để trị trong khuôn khổ liên bang Đông Dương.

Thế thì cái gọi là chính sách “khai hóa” với những thủ đoạn cưc kỳ độc ác, cực kỳ tàn bạo mà Người đã nêu trong Bản án chế độ thực dân Pháp đã nêu lên cũng cần được nghiên cứu cụ thể hơn để thấy cho hết chủ nghĩa thực dân thực sự là một vết nhơ trong lịch sử nhân loại.

Một đối tượng quan trọng hàng đầu của Việt Nam học là các cuộc khởi nghĩa, các phong trào kháng Pháp liên tiếp nổi dậy và liên tiếp bị thất bại, bị dập tắt trong biển máu. Nguyên nhân là ở đâu? Nền văn hóa truyền thống với chủ nghĩa yêu nước kiên cường bất khuất đã trải qua những bước biến hiên như thế nào mà lại đưa cả một dân tộc giàu tinh thần đấu tranh bất khuất đi đến một cảnh ngộ không có lối thoát?
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #86 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 07:57:22 pm »

Mãi cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước thì sự nghiệp giải phóng dân tộc mới từng bước tiến lên trên con đường thắng lợi. Nhà yêu nước vĩ đại sinh ra ở đất Lam Hồng hấp thụ sâu sắc tình hình hoa của tuyền thống văn hóa Việt Nam, lại có hiểu biết sâu rộng về văn hóa phương Đông; trải qua bao năm bôn ba khắp bốn biển năm châu, Người đã nhạy bén tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới của nền văn hóa phương Tây. Người nói: Phương Đông hay phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt thì ta tiếp thu, tiếp thu có chọn lọc và phát triển thành thuần túy Việt Nam, “Có như thế mới là dân chủ”, nghĩa là mới biến thành tài sản của mỗi một người dân - người làm chủ đất nước. Và khi Người đã đi đến với Chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra chân lý cứu nước thì các mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, quốc gia với quốc tế đã được giải quyết… Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã gắn liền với chủ nghĩa xã hội, do đó, đã tạo nên cho nền văn hóa Việt Nam truyền thống một chắt lượng mới, một sức mạnh mới. Người đã xây dựng nên một chủ nghĩa nhân văn cao cả, coi trọng quyền sống thiêng liêng của con người, một triết lý nhân văn hành động, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Người đã phát hiện sức mạnh vô tận của nhân dân, của toàn dân. Có phát động được lực lượng của mọi giai cấp, mọi tầng lớp yêu nước, nhằm mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, cho toàn dân thì mới có thể đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.

Do đâu mà sau biết bao cuộc khởi nghĩa thất bại, nhân dân Việt Nam đã giành được, trong một thời gian ngắn, thắng lợi hoàn toàn trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám đưa lại quyền độc lập cho nước Việt Nam, với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á.

Do đâu mà tiếp đó, trải qua 30 năm của cuộc chiến tranh xâm lược lâu dài nhất và khốc liệt nhất trong lịch sử, dân tộc Việt Nam đã làm nên được những chiến công hiển hách chưa từng có, tưởng chừng như không thể làm được, cuối cùng đã giành được thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn: một nước nhỏ đã đánh thắng hai đế quốc to là đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ. Đó chính là nhờ ở sức mạnh tổng hợp mà địch không lường hết của dân tộc Việt Nam, của toàn dân, sức mạnh của khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh toàn dân Việt Nam,của học thuyết quân sự Việt Nam phát triển đến đỉnh cao trong thế kỷ XX, của nền văn hóa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đây cũng là thắng lợi của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp và Mỹ. Chính nhiều nhà chính khách và nhà khoa học Mỹ cũng đã nói: Mỹ thất bại vì không hiểu lịch sử Việt Nam, không hiểu văn hóa Việt Nam. Một chính khác của Mỹ lại nói: nếu Việt Nam chỉ có tinh thần chiến đấu anh hùng không thôi thì sức mạnh quân sự khổng lồ của Mỹ đã đánh bại, nhưng Việt Nam còn có trí thông minh sáng tạo. Tuy vậy cho đến nay câu hỏi: sao Việt Nam đã thắng còn đặt ra với nhiều người và Việt Nam học nên tiếp tục nghiên cứu.

Sau khi giành được độc lập và thống nhất hoàn toàn, nhân dân Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trải qua một thời gian đi theo mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xôviết, tuy có giành được những thành tựu quan trọng nhất định, nhưng tình hình kinh tế - xã hội ngày càng lâm vào trì trệ và khủng hoảng. Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện vấn đề, tổng kết thực tiễn, đề ra đường lối đổi mới sáng tạo, đưa lại những thắng lợi quan trọng.

Tuy vậy, nhân dân Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ mới trong tình hình phải khắc phục những tổn thất lớn lao của mấy thập kỷ chiến tranh. Mặt khác, con đường của một nước đang phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế nhiều thành phần, và cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước lại là một con đường rất mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, chưa hề có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam học cần thực sự coi trọng vấn đề khắc phục sự chậm trễ cả về mặt lý luận, với quan điểm thực tiễn và tinh thần dân chủ. Tôi nghĩ rằng, đây không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam mà cũng là một nhu cầu bức thiết đối với nhiều nước trên thế giới, một vấn đề lý luận của thời đại.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #87 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 07:59:00 pm »

Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình đất nước về cơ bản vẫn còn đang ở tình trạng chậm phát triển, khu vực nông nghiệp vẫn còn chiếm đến trên 70% lực lượng lao động. Rõ ràng, với chính sách đổi mới và mở cửa, Việt Nam đang đứng trước những vận hội mới, nhưng đồng thời cũng phải đương đàu với những thách thức mới.

Với sự tăng tốc của xu hướng toàn cầu hóa, sự xuất hiện của một nền văn minh được coi là “nền văn minh trí tuệ” ở một số nước tư bản, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển nhanh chưa từng thấy của một cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng, trong khi tỷ lệ lao động trực tiếp trong mỗi sản phẩm làm ra ngày càng giảm bớt. có khi đến mức độ cực kỳ nhỏ bé, như Các Mác đã tiên đoán: cơ cấu kinh tế xã hội ở các nước tư bản phát triển cũng đang trải qua những biến đổi sâu sắc: tỷ lệ lao động trực tiếp trong nông nghiệp và công nghiệp giảm rất mạnh, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực dịch vụ và thông tin đã chiếm trên 70% và còn tiếp tục tăng hơn nữa.

Chúng ta đang chứng kiến một nghịch lý: trong khi tổng số vốn của cải vật chất làm ra ngày càng có khả năng đáp ứng nhu cầu nhân loại thì hai phần ba dân số thế giới vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ và lạc hậu, khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn. Gần đây cuộc khủng hoảng trầm trọng về tài chính, tiền tệ và cơ cấu kinh tế ở châu Á lại làm cho tình hình thêm phực tạp.

Trước thực trạng ấy vấn đề đặt ra cho nước Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới là phải tìm ra những phương sách đúng và sáng tạo thích hợp cho một sự phát triển nhanh và bền vững.

Chúng tôi nghĩ rằng, phương sách ấy chính là sự phát triển nền văn hóa Việt Nam với văn học nghệ thuật là một bộ phận quan trọng, một nền văn hóa giữ vững truyền thống và cốt cách dân tộc đi đôi với tiếp thu nhanh chóng và thông minh tinh hoa của nền văn hóa nhân loại. Nền văn hóa ấy kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa nhân văn theo tư tưởng Hồ Chí Minh, coi con người là nội lực chủ yếu, thực hiện bằng được quốc sách về giáo dục, đào tạo nên những con người có đạo đức và trí tuệ, sống có nhân các và lý tưởng vì nước, vì dân, vì mình và vì mọi người. Nền văn hóa ấy là sự nghiệp giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của toàn dân với đội ngũ trí thức, đội ngũ nhân tài của đất nước làm nòng cốt.

Nền văn hóa ấy tạo ra động lực để xây dựng nên một nền kinh tế nhân dân với cơ cấu không ngừng đổi mới, mang lại năng suất lao động, hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng cao, một cộng đồng xã hội dân chủ và công bằng với cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc ngay khi mức sống chưa cao. Nền văn hóa ấy là một tiền đề quan trọng hàng đầu góp phân tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đưa dân tộc ta đến thắng lợi trong quá trình giữ vững độc lập chủ quyền đồng thời hội nhập với khu vực và thế giới.

Nền văn hóa ấy mang lại sức sống mãnh liệt cho nhân dân Việt Nam vững bước tiến lên trên con đường đổi mới, bước vào thiên niên kỷ mới với niềm tin tưởng và tự hào dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự hợp tác và giúp đỡ của bạn bè quốc tế.

Chúng tôi hoan nghênh những ý kiến của các nhà khoa học trong nước và quốc tế về những vấn đề đã đề ra.

Tại diễn đàn này, chúng ta khẳng định với một tinh thần trọng thị những đóng góp của giới Việt Nam học quốc tế. Đã từng có thời các công trình nghiên cứu Việt Nam có thể nhằm vào những mục đích từ bên ngoài (cai trị, xâm lược, truyền giáo, thăm dò thị trường…) nhưng giờ đây, chúng ta tin tưởng rằng những thành tựu nghiên cứu của giới Việt Nam học quốc tế ngày càng hướng vào mục tiêu tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường tình hữu nghị, sự hợp tác và cùng nhau phát triển. Và chính cuộc hội thảo hôm nay là một biểu tượng của sự hợp tác giữa các giới nghiên cứu Việt Nam và các học giả quốc tế.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #88 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 08:04:38 pm »

THƯ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP,
CHỦ TỊCH DANH DỰ HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ
GỬI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
LẦN THỨ IV
(1)

Tôi đã nhận được giấy mời đến dự Đại hội Hội Khoa học lịch sử. Rất tiếc không về dự được. Tôi xin gửi đến các vị khách quý, đến Đoàn chủ tịch và toàn thể các đại biểu lời chúc mừng nhiệt liệt nhất.

Tôi xin bày tỏ sự nhất trí với nội dung cơ bản của bản báo cáo Ban Chấp hành Trung ương trình ra Đại hội, với những nhiệm vụ và phương hướng hoạt động của Hội trong Nhiệm kỳ tới.

Đại hội Đại biể toàn quốc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam diễn ra vào một thời điểm đặc biệt - năm 2000 - năm giao thời giữa hai thế kỷ, giữa hai thiên niên kỷ, cũng là năm chúng ta kỷ niệm lần thứ 70 ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhiều ngày kỷ niệm trọng đại của dân tộc.

1. Đây là một dịp để chúng ta nhìn lại thế kỷ XX, một thế kỷ chiến tranh và cách mạng đầy thử thách và hy sinh khốc liệt, cũng là một nửa htế kỷ của những sáng tạo lớn về khoa học và công nghệ, một sự chuyển biến lớn về kinh tế và xã hội, đưa lại một trật tự thế giới mới vô cùng phức tạp.

Đối với nước ta, thể kỷ XX là một thể kỷ đầy thử thách quyết liệt nhất, với những thắng lợi vẻ vang nhất, những thắng lợi tưởng chừng như không thể có được, như “huyền thoại”, đặc biệt là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ thịch Hồ Chí Minh sáng lập, xây dựng và rèn luyện.

Đây là một dịp để chúng ta nhìn lại không những thế kỷ XX mà cả thiên niên kỷ thứ hai của thế giới và trong nước ta, để thấy rõ hơn những xu thế lớn của thời đại cũng như những truyền thống và kinh nghiệm lịch sử của dân tộc đã từng là động lực to lớn xuyên suốt đưa nhân dân ta, sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nước ta tiến lên.

Bước sang thế kỷ XXI và thiên niên kỷ thứ ba, thế giới sẽ có những thay đổi hết sức lớn lao. Trong khi một số nước đang tiến vào kỷ nguyên mới của “nền văn minh trí tuệ” thì chúng ta cũng như phần lớn các nước khác trên thế giới vẫn đang ở trong tình trạng kém phát triển. Chúng ta đang đứng trước những vận hội mới đồng thời với những thử thách lớn.

Vì vậy, trong năm 2009 và cả trong nhiệm kỳ thứ IV sắp tới, chúng ta cần tổ chức những cuộc Hội thảo khoa học để đánh giá một cách toàn diện và khách quan thực trạng của nền sử học nước ta, không những trong thế kỷ XX mà cả trong thiên niên kỷ thứ hai.

Từ đó, chúng ta có thể rút ra những bài học sâu sắc hơn về truyền thống và kinh nghiệm, như trên đã nói, đã từng là động lực to lớn, nguồn nghị lực và trí tuệ sáng tạo đưa nước ta tiến lên những chân trời mới, tiến lên mạnh, nhanh và vững. Đồng thời chúng ta cần và có thể có một tầm nhìn có tính logic lịch sử và biện chứng về những xu hướng của thế kỷ XXI và thiên niên kỷ thứ ba, trên cơ sở ấy đề ra định hướng cho công tác nghiên cứu khoa học lịch sử, cho sự phát triển của nền sử học nước ta trong tương lại.

Muốn làm được những nhiệm vụ trên, cần đặt thành vấn đề quan trọng là phải có một kế hoạch bồi dưỡng và đào tạo một đội ngũ các nhà sử học có bản lĩnh, đạo đức và tài năng một việc mà Hội ta phải chủ trì, với sự quan tâm và lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và liên hiệp của các Hội Khoa học và Kỹ thuật.

2. Tôi nhất trí cao với báo cáo Đại hội đề ra nhiệm vụ có thể coi là quan trọng hàng đầu là tập trung lực lượng các nhà khoa học có đức và có tài trong cả nước về để biên soạn bằng được một Bộ Lịch sử Việt Nam với quan điểm và phương pháp khoa học, với nội dung bảo đảm được tính chân thực lịch sử, xứng đáng với tầm vóc của dân tộc Việt Nam anh hùng và của thời đại Hồ Chí Minh vĩ đại.

Cần bổ sung, hoàn chỉnh hoặc biên soạn lại với chất lượng cao hơn bộ giáo trình lịch sử cho học sinh phổ thông các cấp và cho sinh viên đại học, đi đôi với việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn lịch sử trong nhà trường.

Đồng thời, cần coi trọng hơn việc biên soạn những bộ sách nhỏ nhưng dễ hiểu, những bộ tranh truyện hấp dẫn về lịch sử nước nhà cho đông đảo thiếu niên và nhi đồng.

3. Vấn đề phát hiện, bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử và văn hóa là một vấn đề quan trọng, cần đạt thành một yêu cầu bắt buộc trong các kế hoạch, quy hoạch xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối công nghiệp hóa, hiện địa hóa, đặc biệt là ở các đô thị lớn, các vùng căn cứ địa cách mạng, các địa danh lịch sử, các vùng lãnh thổ có danh lam thắng cảnh…

4. Về tổ chức, cần phấn đấu thực hiện ở mức cao hơn mục tiêu mà Đại hội lần thứ II đã đề ra làm cho “Hội Khoa học lịch sử thực sự trở thành tổ chức của giới sử học Việt Nam trên cả nước”, xứng dáng là một thành viên tích cực và quan trọng của Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.

5. Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, đặc biệt là cách mạng thông tin và viễn thông với mạng Internet đang diễn ra với nhịp độ siêu tốc, cần có kế hoạch xây dựng và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của Hội ta ở Trung ương, ở các địa phương, các cơ quan nghiên cứu, các trường học để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, công tác giảng dạy và học tập, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác truyền bá những tri thức lịch sử, nhất là quốc sử, cho đông đảo quần chúng nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ, thực hiện lời dạy của Bác Hồ.

         Dân ta phải biết sử ta,
         Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam..


Xem đó là một nhiệm vụ quan trọng để góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, giữ gìn và phát huy các giá trị lịch sử và tuyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.

Nhân dịp đầu năm mới, xin gửi lời chúc tết đốt đẹp nhất đến toàn thể đội ngũ làm công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử trong cả nước. Chúng ta gửi lời chúc đồng bào và chiến sĩ cá tỉnh miền Trung, hiện đang ra sức khắc phục hậu quả thiên tai, sẽ có một cái Tết đầy niềm tin trong tình thương yêu đùm bọc của đồng bào cả nước.

Một lần nữa, chúc Đại hội thành công tốt đẹp.


(1) Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 72, tháng 2 năm 2000, tr.12-13, 27.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #89 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2011, 08:06:36 pm »

THƯ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
GỬI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ V
HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
(1)

“… Sử học là một khoa học nền tảng của khoa học xã hội và nhân văn, giữ vai trò rất quan trọng nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân, trong giáo dục truyền thống, xây dựng bản lĩnh con người Việt Nam, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và cung cấp các căn cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong hoạch định đường lối, chính sách xây dựng và bảo vệ đắt nước, hội nhập kinh tế thế giới…”.

… Trước hết, tôi bày tỏ sự tán đồng đối với Báo cáo của Ban Cháp hành Trung ương Hội trình bày trước Đại hội lần thứ V. Tôi hoan nghênh và đánh giá cao những hoạt động của Hội trong 5 năm qua, nhất là việc thúc đẩy sự phát triển của nền sử học hiện đại Việt Nam về lý luận và phương pháp luận cũng như về nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ, việc phối hợp với cơ quan báo chí và tuyền thông phổ cập tri thức lịch sử kết hợp với giáo dục truyền thống trong nhân dân, đặc biệt là trong thế hệ trẻ, các hoạt động tư vấn, phản biện, góp phần tích cực bảo vệ di sản văn hóa dân tộc.

Nhiệm kỳ 5 năm 2005-2010 sắp tới sẽ có Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều ngày kỷ niệm quan trọng và tiến tới nghìn năm Thăng Long - Hà Nội. Tôi mong rằng Hội Khoa học lịch sử Việt Nam trên cơ sở đoàn kết, tập hợp với sử học cả nước và phối hợp với cơ quan nghiên cứu và đào tạo của nhà nước, sẽ thực hiện thành công những phương hướng và chương tình hoạt động do Đại hội đề ra.

Sử học là một khoa học nền tảng của khoa học xã hội và nhân văn, giữ vai trò rất quan trọng nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân, trong giáo dục truyền thống, xây dựng bản lĩnh con người Việt Nam, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và cung cấp các căn cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong hoạch định đường lối, chính sách xây dựng và bảo vệ đắt nước, hội nhập kinh tế thế giới. Tôi hy vọng Hội Khoa học Lịch sử và giới sử học Việt Nam nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình và có nhiều cống hiến góp phần khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu hiện nay của đất nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Tôi cũng mong rằng sau khi hoàn thành xong 4 bộ lịch sử Việt Nam cỡ trung bình hiện nay, Hội sẽ xây dựng kế hoạch biên soạn một bộ quốc sử lớn tương xứng với bề dày và nội dung phong phú của lịch sử dân tộc, tổng kết được toàn bộ kết quả nghiên cứu trong nước và trên thế giới, tập hợp được trí tuệ của giới sử học trong cả nước. Để thực hiện kế hoạch đó, Hội cần kiến nghị lên cấp trên thành lập một chương tình khoa học công nghệ cấp nhà nước.

Tôi chúc Đại hội thành công tốt đẹp và gửi lời chào thân ái đến các vị khác quý cùng toàn thể đại biểu.

Hà Nội, ngày 6 tháng 6 năm 2005
Đại tướng Võ Nguyên Giáp    


(1) Bài đăng trên Tại chí Xưa & Nay, số 238, tháng 6 năm 2005, tr.3.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM