Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 05:23:02 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với sử học Việt Nam  (Đọc 70037 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 09:32:15 am »

*
*   *

Hiệu lệnh nổ súng ở Hà Nội là đèn điện tắt, đại bác của pháo đài Láng bắn những phát đầu tiên. Chúng ta cần bóng tối trở lực khi khởi sự. Làm được việc này không dễ. Trung tâm phát điện là nhà máy điện Yên Phụ do lực lượng hỗn hợp Việt, Pháp cùng canh gác. Cần bí mật đưa vào nhà máy một lượng thuốc nổ đặt vào nơi cần thiết sát giờ nổ súng. Nếu địch phát hiện, quân Pháp có cớ chiếm ngay nhà máy và tiến công trước vào bộ đội trên toàn thành phố.

Từ làng Tây Mỗ, cách Hà Nội 10km, tôi chờ đợi giờ phút này. Anh Hoàng Văn Thái túc trực tại tổng đài điện thoại của Bộ đặt ở thị xã Hà Đông, nắm tình hình tác chiến, theo quy định cứ hai giờ báo cáo với tôi một lần.

20 giờ...

20 giờ 03 phút. Đèn điện Hà Nội phụt tắt. Đại bác từ pháo đài Láng gầm lên. Công nhân nhà máy điện Yên Phụ do đồng chí Giang phụ trách đã hoàn thành nhiệm vụ một cách tuyệt vời! Ngay sau đó cả Hà Nội rền vang tiếng súng. Chớp lửa đại bác. Hỏa châu. Luồng sáng của đạ. Chân mây dần đỏ rực màu hồng của những đám cháy. Những người có mặt ở Hà Nội đêm Nhật đảo chính nói đêm nay mới thực sự là chiến tranh.

Có thể thấy địch lập tức đối phó. Phần lớn những tiếng súng lúc này là của địch. Các chiến sĩ ta được lệnh tiết kiệm đạn ngay từ khi khởi đầu tiến công.

Nhìn chung, ta đã giành được lợi thế trong những giờ giao chiến đầu tiên.

Tiêu biểu cho trận tổng giao chiến đầu tiên phải nói đến Thủ đô Hà Nội.

Hà Nội chia thành ba liên khu. Theo đúng kế hoạch, sau ba ngày giao chiến trên khắp thành phố và tổ chức cho đồng bào tản cư khỏi nội thành, lực lượng vũ trang các liên khu 2, 3, bắt đầu giãn dần ra cửa ô, nơi đã được xây dựng chiến lũy để ngăn chặn quân địch. Bộ đội và tự vệ Liên khu 1 cũng thu hẹp phạm vi chiến đấu, rút vào khu vực cố thủ nằm tiếp giáp với Thành Hà Nội.

Từ ngày 30-12, địch mở liên tiếp nhiều cuộc tiến công ra các cửa ô. Mỗi cuộc đều có xe tăng, xe bọc thép đi kèm và máy bay, pháo binh phối hợp.

Vệ quốc đoàn và tự vệ với súng trường, lựu đạn, dao kiếm, dáo mác, chai xăng krếp, bom ba càng, dựa vào chiến lũy, chướng ngại vật, công sự, hầm hố, lợi dụng nhà gác, mái nhà đã đánh chặn, giành giật từng quãng đường, từng ngôi nhà.

Ở Khâm Thiên, Hàng Bột, Đội Cấn, địch bị thiệt hại nhiều mà vẫn không vượt qua được chiến lũy. Quân Pháp cuối cùng phải bỏ ý định đánh thẳng vào chiến lũy mà đi vòng theo đường khác. Thiếu sót của ta ở một số nơi chưa tính tới trường hợp địch đi theo đường vòng.

Trận đánh ở nhà thương Vọng(1) ác liệt nhất. Lực lượng vũ trang ta dùng bom ba càng phá xe tăng, rồi rút lên gác đánh lui nhiều đợt xung phong của địch. Địch bị loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên và bị phá hủy một số xe tăng, xe cơ giới. Phía ta, hai trung đội Vệ quốc đoàn và năm mươi tự vệ hi sinh.

Một số trận phục kích diễn ra ở Đống Đa, Hòa Mục, đường Nguyễn Công Trứ, diệt từng trung đội địch. Kinh nghiệm mặt trận ngã ba Hồng Phúc đã được vận dụng.

Cho đến ngày 25 tháng 1 năm 1947, địch mới đẩy lùi lực lượng Liên khu 2 và Liên khu 3 ra tới cửa ô. Từ trung tâm thành phố ra tới đây chỉ 5 kilômét nhưng quân Pháp đã đi mất 27 ngày, với tốc độ bình quân 200 mét một ngày theo cách tính của một nhà báo Pháp.

Khi bàn về trận đánh Hà Nội, nhiều người đã quên hoặc ít nói về Liên khu II và Liên khu III. Ở hai liên khu này, cuộc chiến đấu đã diễn ra 38 ngày đêm, trong đó có 27 ngày đánh địch trên khắp các trục đường ra ngoại ô kết hợp với những tổ luồn vào khu vực địch đã kiểm soát thường xuyên tập kích địch. Nếu không có sự phối hợp này, chiến sĩ Liên khu I khó trụ sát nách địch một thời gian dài như vậy.


(1) Bệnh viện Bạch Mai.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 09:33:56 am »

Tuy nhiên, Liên khu I vẫn là tiêu biểu nhất cho cuôc chiến đấu ở Thủ đô.

Liên khu I nằm kề đại bản doanh của Bộ chỉ huy Pháp giữa lòng Hà Nội giống như một cái “chốt chặn” hay một cái “nhọt tụ độc” ta thường gặp trong chiến tranh. Đây là một lực lượng những chiến sĩ quyết tử có nhiệm vụ thu hút, ngăn chặn địch, sẵn sàng hi sinh tính mệnh cho lợi ích toàn cục trong một trận đánh quan trọng.

Theo kế hoạch, sẽ có một tiểu đoàn vệ quốc quân cùng ở lại với tự vệ tại liên khu. Nhưng ngay từ những phút đầu chiến đấu, tiểu đoàn này đã bị cắt làm đôi. Một đại đội ở khu vực phố Yên Phụ, không rút vào được khu vực cố thủ. Như vậy, trong Liên khu chỉ có hai đại đội vệ quốc đoàn cùng với một bộ phận tự vệ chiến đấu, lực lượng vũ trang trung kiên được Thành ủy Hà Nội tổ chức sau ngày Tổng khởi nghĩa. Họ là nòng cốt cho cuôc chiến đấu của hàng nghìn tự vệ gồm những người dân thuộc mọi thành phần, lứa tuổi, phần lớn là thanh niên, lần đầu làm quen với chiến trận. Hạt nhân lãnh đạo của liên khu, với hàng vạn dân chưa kịp tản cư, là ba chục đảng viên cộng sản, cả nam lẫn nữ, được chỉ định ở lại. Điều đáng ngạc nhiên là các chiến sĩ Liên khu I, từ em nhỏ, cô gái đến anh Vệ quốc quân, ngay giờ phút đầu tiên đã hiên ngang tiến hành trận đánh “mặt đối mặt với kẻ thù mạnh hơn mình gấp nghìn lần.

Ngày 23 tháng 12 năm 1946, anh Trần Quốc Hoàn và anh Lê Quang Đạo được Trung ương cử vào Liên khu 1 để xem xét tình hình tại chỗ. Khi trở về, các anh báo cáo với Bác và Thường vụ: Nếu được tiếp tế đều đặn về lương thực, đạn dược, trung đoàn vẫn có thể trụ lại vượt thời gian dự định.

Tinh thần căm thù quân cướp nước, sẵn sàng hi sinh tính mệnh cho Tổ quốc đã mang lại cho các chiến sĩ sự lạc quan, bình tĩnh, sáng tạo, sớm tìm ra cách bảo vệ mình và tiêu diệt địch. Họ rút kinh nghiệm qua mỗi trận đánh. Từ chia quân khắp nơi ngăn chặn địch với công sự chiến đấu giản đơn, nhanh chóng chuyển sang chiến đấu cơ động dựa vào chiến hào, đánh địch cả trước mặt, bên sườn và phía sau. Họ biết nghi binh, nhử địch, biết tổ chức và sử dụng lực lượng dự bị. Một chiến thuật mới cùng với hình thức tổ chức thích hợp đã hình thành. Bộ đội chia thành những tổ nhỏ, dựa vào những đường hào, đường luồn trong nhà, thường xuyên di động. Họ không khi nào lộ mặt trước quân địch và luôn luôn reo rắc những tai họa bất ngờ.

Tuy vậy, không phải không có những khó khăn mới đã nảy sinh. Khi lực lượng vũ trang ta thu hẹp phạm vi chiến đấu vào khu vực cố thủ thì dân chúng ở vùng chung quanh cũng ùa vào theo, đưa số dân tại đây lên tới hàng vạn người. Số nhân khẩu đông đảo này đã nhanh chóng làm cạn nguồn lương thực dự trữ trù liệu cho năm nghìn người trong vòng ba tháng. Con đường bí mật nằm ở ven sông Hồng, nối liên khu với hậu phương trong những đêm tối trời, đã bị địch chú ý. Không thể để tình hình này kéo dài. Chúng ta thống nhất với lãnh sự Trung Hoa, Anh và Mỹ, thỏa thuận cùng phía Pháp một thời gian ngừng bắn 24 giờ, đưa Hoa kiều, Ấn kiều và thường dân ra khỏi khu vực chiến sự. Bộ Tổng chỉ huy quyết định chỉ để lại Liên khu I một bộ phận nhỏ của Trung đoàn Thủ đô là 500 người, gồm những chiến sĩ chọn lọc, đại bộ phận sẽ rút ra cùng với dân trong ngày ngừng bắn. Nhưng qua ngày đó trung đoàn báo cáo ra, vẫn còn lại 1.200 người, trong số này có cả 200 phụ nữ và 175 em nhỏ. Điều ta không dự kiến được là có những người đã trốn ở lại để được tiếp tục chiến đấu.

Vòng vây các vị trí địch quanh liên khu ngày càng dày thêm. Sau khi ngoại kiều đã rời khỏi đây, máy bay, trọng pháo không dè dặt trong những trận oanh tạc. Valluy ra lệnh: “Đừng ngần ngại gì mà không đánh mạnh bằng bom và đại bác! Phải kết thúc sớm đi! Phải làm cho kẻ thù hiểu rõ ưu thế áp đảo của chúng ta”. Ngày 16 tháng 1 năm 1947, tại khu Đông Thanh, một tổ súng trường do đồng chí Bạch Ngọc Liễn chỉ huy đã bắn rơi một máy bay Spitfire đang lao xuống bắn phá. Đây là chiếc máy bay đầu tiên bị hạ bằng súng bộ binh tại Hà Nội. Bộ Tổng chỉ huy đã tặng Huân chương Chiến sĩ hạng ba cho chiến công này.

Tết Đinh Hợi (năm 1947) mở đầu cho nhiều cái Tết tiếp theo trong chiến tranh trrên cả nước. Các chiến sĩ Liên khu I nhận được cả một cành đào Tết Nhật Tân và những bó hoa tươi. Đêm 30 Tết, họ mở một đợt tiến công ở nhiều nơi trong thành phố và cắm cờ đỏ sao vàng trên Tháp Rùa để khẳng định sự có mặt của mình tại Thủ đô.

Sau Tết Nguyên Đán, ngày 29 tháng 1 năm 1947, tôi tới gặp Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội ở Tây Mỗ, nêu vấn đề phải tính ngay tới việc đưa bộ phận còn lại của trung đoàn Thủ đô ra ngoài. Tôi nhắc anh Vũ đặc biệt chú ý hai vị trí ở phía đông Liên khu là nhà Xôva và Trường Ke, nằm trên đường bộ đội sẽ rút qua. Tôi biết việc rút khỏi liên khu sẽ tác động lớn tới tư tưởng, tình cảm của chiến sĩ. Chừng nào còn một lực lượng chiến đấu dù nhỏ tại Liên khu thì Hà Nội vẫn chưa phải là rơi vào tay quân địch.

(Trích Chiến đấu trong vòng vây,
Nxb Quân đội nhân dân -        
Nxb. Thanh niên, 1994).      
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Hai, 2011, 08:51:32 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 09:36:30 am »

ATK ĐỊNH HÓA, TRUNG TÂM CỦA THỦ ĐÔ
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1)

Hôm nay tôi rất vui mừng đến dự Hội thảo khoa học thực tiễn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK Định Hóa trong căn cứ địa Việt Bắc (1947-1997)” do Tỉnh ủy Thái Nguyên và Viện Lịch sử Đảng tổ chức. Đây là một hoạt động rất có ý nghĩa để kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ về sống và làm việc tại Định Hóa, tuyên truyền và giới thiệu ATK Định Hóa với đồng bào, chiến sĩ cả nước, giáo dục truyền thống cách mạng cho nhân dân các dân tộc Thái Nguyên trong công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khu an toàn là một trong những yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng.

Nói đến ATK, chúng ta không thể không nhắc đến Pác Bó (Cao Bằng), Định Hóa, Đại Từ (Thái Nguyên), Tân Trào, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang), tập trung vào ba tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Cạn. Như vậy, ATK bao gồm bao nhiêu tỉnh, bao nhiêu huyện, bao nhiêu xã, chúng ta cũng phải làm rõ trong hội thảo này. Thời kỳ tiền khởi nghĩa khi Bác về Pác Bó đã có ý định phát triển cơ sở xuống Thái Nguyên, vì Thái Nguyên là một địa bàn quan trọng “tiến có thể đánh, lui có thể giữ” và nhân dân ở đây có truyền thống cách mạng, về sau này có thẻ di chuyển cơ quan của Bác gần Trung ương Đảng hơn, do đó Bác đã chỉ thị cho tổ chức con đường Nam tiến “con đường trong lòng dân”! Đến cuối năm 1943, con đường đã thông. Sau ngày Nhật đảo chính (9-3-1945), tôi đã cùng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân về Chợ Chu (Định Hóa - Thái Nguyên) và thống nhất hai đội quân Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với đội quân Cứu quốc thành Việt Nam Quân giải phóng tại Định Biên Thượng (Định Hóa). Tiếp đó, tôi nhận được chỉ thị của Bác Hồ bố trí cho Bác về làm việc ở Chợ Chu. Tôi đã bàn với hai anh Tấn và Song Hào đề nghị Bác chọn Tân Trào vì Chợ Chu tuy cơ sở chính trị, kinh tế đều tốt nhưng có đường thông với Thái Nguyên dễ bị uy hiếp, còn Tân Trào dân cư thưa thớt, kinh tế khó khăn nhưng địa thế hiểm trở hơn. Châu Sơn Dương còn cách tỉnh lỵ Tuyên Quang bởi con sông Lô, tiện bảo vệ. Bác quyết định thành lập Khu giải phóng gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Tân Trào được coi như là thủ đô Khu giải phóng để chỉ đạo tổng khởi nghĩa tháng 8-1945. Sơn Dương (Tuyên Quang), Định Hóa, Đại Từ (Thái Nguyên) là ATK. Sau ngày tuyên bố độc lập một thời gian, Bác và Thường vụ Trung ương đã chủ trương tích cực củng cố căn cứ địa Việt Bắc để nếu bắt buộc chúng ta phải kháng chiến, các cơ quan lãnh đạo Trung ương có thể di chuyển trở lại Việt Bắc.

Vì vậy, các anh Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh đã được Bác giao nhiệm vụ bí mật đi xây dựng căn cứ địa Việt Bắc, lấy các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên), Chợ Mới, Chợ Đồn (Bắc Cạn), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) làm địa bàn chính. Quá trình kháng chiến, cơ quan Trung ương, cơ quan của Bác, cơ quan Chính phủ, cơ quan Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Quốc phòng di chuyển nơi này nơi khác một thời gian ngắn, nhưng trọng tâm vẫn dựa vào các huyện nói trên, đặc biệt là huyện Định Hóa không có một nhà dân nào không có cơ quan ở. Trong kháng chiến chống Pháp, cơ quan của Bác, cơ quan của Trung ương, các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đều tập trung đóng ở Định Hóa, tuy cũng có thời gian chuyển sang Sơn Dương hay Bắc Cạn nhưng với thời gian ngắn rồi lại trở về Định Hóa, có khi đôi ba lần. Ví dụ: Bác ở Tỉn Keo, Khuôn Tát tới bốn năm lần. Cơ quan Chính phủ ở cả đất của hai tỉnh, thường trực Chính phủ, anh Lê Văn Hiến ở bên Sơn Dương là chủ yếu, nhưng Hội đồng Chính phủ khi họp ở Định Hóa, khi hợp ở Đại Từ, khi thì ở Sơn Dương (Tuyên Quang). Cơ quan Trung ương Đảng, cơ quan đồng chí Trường Chinh thường ở gần cơ quan của Bác và Tổng quân ủy, bộ Tổng tư lệnh, chủ yếu là ở Lục Rã (Phú Đình), cũng có lúc cơ quan chuyển sang Tân Trào nhưng ít lâu sau lại trở về chỗ cũ.

Trường Nguyễn Ái Quốc cũng có thời gian ở Quảng Nạp… Anh Phạm Văn Đồng lúc ở Khu V ra ở thôn Lập Bình (khu núi đá gần sông Phó Đáy) sau chuyển về Phú Đình (Định Hóa) gần chỗ các đồng chí Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, cơ quan Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp đều ở Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên). Tôi cũng muốn lưu ý Định Hóa là ATK tuyệt mật nhằm bảo đảm an toàn và ổn định để các đồng chí lãnh đạo chủ chốt lúc bấy giờ làm việc ít nhất phải di chuyển.

Vừa qua, tôi được tin Định Hóa được đề nghị lên Trung ương Đảng và Chính phủ tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tôi rất đồng tình triệt để ủng hộ. Theo tôi không những Thái Nguyên anh hùng mà cả 6 tỉnh Khu giải phóng cũ cũng thật xứng đáng Anh hùng.

Các quyết sách lớn của Đảng và Chính phủ phân lớn đều quyết định trên đất Định Hóa, như hạ quyết tâm tiêu diệt địch tiến công lên Việt Bắc, quyết định triển khai đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung trên toàn quốc; quyết định chiến lược biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta (1948-1949); quyết định mở các chiến dịch nhỏ ở Đông Bắc và Tây Bắc, hạ quyết tâm mở chiến dịch giải phóng biên gới, các chiến dịch Trung Du, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh, chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, Sầm Nưa, chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đồng chí Phạm Văn Đồng từ đây đi họp Hội nghị Giơnevơ và sau khi ký Hiệp nghị cũng trở lại đây.

Các hoạt động ngoại giao cũng diễn ra chủ yếu trên đất Thái Nguyên. Bác gặp Paul Mus, đại diện cho Cao ủy Pháp tại thị xã Thái Nguyên. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp do Léo Figuères dẫn đầu, các đoàn cố vấn Trung Quốc, đoàn điện ảnh Liên Xô (trước đây) và nhà đạo diễn nổi tiếng Cácmen, nhiều nhà ngoại giao, nhà báo quốc tế… được Bác Hồ tiếp tại Định Hóa. Các đồng chí lãnh đạo đảng bạn như Chủ tịch Xuvanuvông, đồng chí Cay Xỏn, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đồng chí Sơn Ngọc Minh, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia… trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã ở và làm việc nhiều ngày trên đất Đại Từ…

Rõ ràng Thái Nguyên là thủ đô của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta chống thực dân xâm lược Pháp. Nhiều chủ trương, đường lối kháng chiến, kiến quốc được quyết định ở đây và từ đây Trung ương Đảng, Bác Hồ, Chính phủ lãnh đạo toàn quốc thực hiện.

Tình nghĩa của đồng bào Việt Bắc nói chung, Định Hóa, Thái Nguyên nói riêng đối với cách mạng, với kháng chiến hết sức sâu đậm. Tôi cũng nhiều lần trở lại thăm đồng bào, gặp gỡ ôn lại những kỷ niệm xưa rất xúc động, thấy đời sống của nhân dân địa phương ATK còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Tôi đề nghị chúng ta phải góp sức quan tâm, đầu tư nhiều hơn để cuộc sống của đồng bào được nâng cao hơn nữa.

Cuối cùng tôi xin chúc Hội thảo của chúng ta ngày hôm nay thành công tốt đẹp, chúc sức khỏe các đồng chí và các bạn.


(1) Phát biểu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội thảo “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK Định Hóa trong căn cứ địa Việt Bắc” tổ chức tại Thái Nguyên ngày 12-5-1997. Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 105, tháng 12 năm 2001.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 09:39:34 am »

THƯ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
VỀ CHỦ TRƯƠNG TÁC CHIẾN MỚI
Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ
(1)

Kính gửi Hồ Chủ tịch,

Đồng chí Trường Chinh và Chính trị Bộ.

Chúng tôi đã nghiên cứu chủ trương tác chiến mới của ta ở Điện Biên Phủ và chủ trương quân sự của ta trên các chiến trường toàn quốc với đồng chí Quốc, nay xin phân bốn điểm báo cáo như sau:

I - Chủ trương tác chiến mới ở Điện Biên Phủ. Ngày 25, bộ đội ta đã đến đủ ở vị trí tập kết, phần lớn pháo binh cũng đã vào trận địa. Chúng tôi đã nghiên cứu lại lần cuối cùng tình hình địch ta để ra lệnh nổ súng thì nhận thấy:

a) Địch tăng đến 15 tiểu đoàn, một số pháo; sự bố trí ở phía Bắc và Tây đã mạnh hơn trước; vị trí Hang Cang ở phía Nam trước chỉ có 2 tiểu đoàn thì nay đã có 4 tiểu đoàn, thêm 12 khẩu lựu pháo, có trường bay mới làm, biến thành một tập đoàn cứ điểm thứ hai để yểm hộ cho Mường Thanh.

b) Lựu pháo và cao pháo của ta bố trí ở Bắc và Tây Bắc chỉ hợp với kế hoạch đánh nhanh, không hợp với kế hoạch đánh từng bước vì từ đường ôtô kéo vào phải dùng trên một đại đoàn bộ binh kéo trong 8 đêm, trước báo cáo là chỉ cần hai đêm, nếu chiến sự phát triển không thuận lợi thì tiến lui đều khó.

c) Việc chuẩn bị về mọi mặt phải tăng cường mới bảo đảm lâu được.

Chúng tôi nhận thấy đối với một kẻ địch đã tăng cường như ở Điện Biên Phủ thì phải dùng cách đánh tiêu diệt từng bước, trong giai đoạn đầu tiêu diệt sinh lực chúng ở ngoại vi, đồng thời tìm cách tiêu hao chúng, khống chế sân bay để hạn chế hoặc triệt đường tiếp tế của chúng trong một thời gian khá dài. Vì vậy chúng tôi quyết định:

a) Tạm định ngày nổ súng, điều chỉnh lại bộ đội cho hượp với kế hoạch mới. Vận chuyển các cao pháo và trọng pháo trở lại phía Đông để có thể sử dụng cơ động và đợi khi hệ thống đường kéo pháo phía Đông Điện Biên Phủ làm xong sẽ sử dụng. Lệnh chuyển pháo đã được thi hành trong đêm 26, cần phải bảy hôm mới hoàn thành.

b) Nghiên cứu kế hoạch tiếp tục chuẩn bị về các mặt tân binh, đạn dược, lương thực, đủ đánh cho đến cuối tháng 4. Đường sá từ Yên Bái đến Điện Biên Phủ phải bảo đảm cho xe chạy được trong cả thời gian đó. Làm thêm nhiều con đường cho xe kéo pháo chạy đến gần Điện Biên Phủ để có thể điều động pháo theo nhu cầu chiến đấu. Kế hoạch này chia từng bước để tiến hành, định đến 10-2 thì hoàn thành bước thứ nhất.

c) Trong lúc ở đây tích cực chuẩn bị thì nhanh chóng và bí mật điêu động toàn Đại đoàn 308 sang phía lưu vực sông Nậm hu, bao vây và tiêu diệt từ 4 đến 5 tiểu đoàn địch hiện đóng từ Mường Khoa đến Mường Ngòi. Chiều 26, trung đoàn đầu tiên của Đại đoàn 308 đã lập tức xuất phát, 27 toàn bộ xuất phát, dự liều vào khoảng 30 hay 31 thì hoàn thành bao vây địch. Nếu địch bỏ chạy thì truy kích. Nếu ta thắng ở mạn đó thì tình hình ở Điện Biên Phủ và ở Luông Phabăng có thể thay đổi ít nhiều.

Trên đây là chủ trương tác chiến mới hướng này. Chúng tôi sẽ điện những nhu cầu cụ thể về nhân lực, vật lực để phục vụ một trận chiến đấu rất lớn trong thời gian khá dài như trên đã nói, mong Trung ương phê chuẩn và cho chỉ thị.

II - Chủ trương quân sự của ta trên các chiến trường toàn quốc và Lào - Miên. Cuộc chiến đấu lớn của ta ở Điện Biên Phủ và Thượng Lào có liên quan rất mật thiết với tình hình toàn quốc. Ta tiêu diệt được nhanh chóng quân dịch ở Điện Biên Phủ hay chưa tiêu diệt được mà vẫn bao vây kiềm giữ chủ lực địch ở đây được thì đối với các chiến trường toàn quốc đều có một tác dụng rất lớn. Chúng tôi xin phân tích tình hình quân sự trước mắt và đề nghị chủ trương quân sự trong toàn quốc như sau:

1. Tình hình quân sự hiện nay có hai điểm đáng chú ý:

a) Từ khi ta bắt đầu kế hoạch Đông Xuân thì khắp các chiến trường đều thu được thắng lợi lớn: Lai Châu, Trung Lào, đồng bằng Bắc Bộ, Liên khu V, Nam Bộ.

b) Chủ lực địch trước tập trung phần lớn ở địch hậu Bắc Bộ thì nay đã phân tán đến Điện Biên Phủ và Xavanakhẹt. Không những thế, bộ phận chủ lực còn lại ở địch hậu Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ và Miên, nay cũng bị thu hút một phần lớn lên trung Lào và sa lầy vào cuộc tấn công không đúng lúc của Nava ra Tuy Hòa. Địch đã phải bị động đối phó với ta, khiến chủ lực phải phân tán vào những chiến trường không lợi cho chúng như Điện Biên Phủ, khiến các chiến trường địch hậu sơ hở hơn trước nhiều.

2. Căn cứ vào tình hình địch, ta nói trên, chủ trương quân sự của ta là tiếp tục hoạt động Đông Xuân theo những phương châm sau đây:

a) Sự hoạt động ở chiến trường chính diện và sự hoạt động ở chiến trường địch hậu toàn quốc phải kết hợp chặt chẽ với nhau: chiến trường chính diện ra sức kiềm chế, giam giữ địch để tất cả các chiến trường địch hâu đẩy mạnh chiến tranh du kích và tiêu diệt sinh lực dịch. Sự phối hợp chính diện và địch hậu trước đây đã được thực hiện chặt chẽ ở Bắc Bộ trong chiến dịch Hòa Bình, nay phải được thực hiện trên chiến trường toàn quốc. Sự phối hợp toàn quốc và giữa các chiến trường Việt - Miên - Lào bắt đầu thực hiện trong một tháng nay, nay phải đẩy mạnh lên nữa. Đặc điểm của hoạt động Đông Xuân là bao gồm chiến trường toàn quốc và Việt - Miên - Lào, chứ không phải hạn chế trong một chiến trường nào.

b) hoạt động Đông Xuân của ta cần phải liên tục từ nay cho đến mùa hè, chứ không phải hạn chế trong một thời gian ngắn; càng kéo dài thì càng khơi sâu nhược điểm của địch, càng tiêu diệt được nhiều địch và buộc địch càng phải phân tâm lúng túng. Ngay đến trong mùa hè cũng cần phải nghiên cứu tiếp tục hoạt động một phần nào, thay đổi quy luât mới nắm. Đặc biệt ở Điện Biên Phủ nếu trước Hè chưa tiêu diệt toàn bộ quân địch thì phải kiên trì chiến đấu ngay trong mùa Hè.

c) Trong kế hoạch hoạt động Đông Xuân, vì ta sẽ giải phóng được nhiều địa phương mới, vì tác chiến kéo dài, nên cần kết hợp nhiệm vụ tác chiến với nhiệm vụ củng cố vùng giải phóng, kết hợp nhiệm vụ tác chiến với nhiệm vụ chấn chỉnh xây dựng bộ đội. Nếu đợi tác chiến xong rồi mới xây dựng bộ đội, mới củng cố địa phương, thì sẽ không duy trì được sự hoạt động bền bỉ và không củng cố được thắng lợi.


(1) Đây là một tư liệu còn giữ ở Kho lưu trữ Trung ương Đảng (phồng số 11, mục lục số 2, đơn vị bảo quản số 742) được xác định là của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc đó lấy bí danh là “Hưng”. Thư được gửi hỏa tốc ngày 30-1`-1954 từ tiền tuyến Điện Biên Phủ đến các đồng chí lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ là Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Bộ Chính trị. Đây là một minh chứng cho thấy quyết định sáng suốt của Đại tướng, chuyển từ phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 209, tháng 4 năm 2004, tr.18-20.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2011, 09:41:25 am »

III - Phương châm hoạt động trên từng chiến trường. Trên cơ sở những phương châm chung cho toàn quốc, phương pháp tác chiến cụ thể cho mỗi chiến trường thì tùy điều kiện mỗi chiến trường mà định.

a) Ở Điện Biên Phủ thì bao vây kiềm giữ địch, tiêu diệt từng bộ phận, tạo điều kiện tiêu diệt toàn bộ. Trường hợp địch tình biến hóa có lợi thì có thể dùng cách đánh nhanh để tiêu diệt địch. Trường hợp địch tăng cường thì có thể dùng một bộ phận chủ lực tiến về phía Luông Phabăng, Phongxalỳ tiêu diệt địch và giải phóng địa phương, cô lập địch ở Điện Biên Phủ.

b) Ở Trung và Hạ Lào: hiện đã giải phóng phần lớn tỉnh Thà Khẹt, cần nắm vững phương châm đánh nhỏ ăn chắc, đẩy mạnh hoạt động ở Hà Lào, mở rộng vùng giải phóng ở đó, liên lạc với Liên khu V, buộc địch từ chỗ chiếm đóng thành điểm đi vào chỗ bố trí tuyến trên đường số 13 và đường số 9. Đẩy mạnh công tác vùng giải phóng và tiến hành gấp rút tổ chức con đường từ Banafao đi đến đường số 9.

c) Liên Khu V: hiện chiến dịch miền Tây đã thắng lợi bước đầu, cần hoàn thành chiến dịch, giải phóng cả miền Bắc Kon Tum, liên lạc với Hạ Lào và bắt đầu công tác củng cố vùng mới giải phóng. Sau đó sẽ dùng một bộ phận chủ lực mà phát triển về hướng địch yếu giữa Kon Tum và Pleiku hoặc giữa Pleiku và An Khê. Ở vùng địch đánh ra thì phát triển chiến tranh du kích. Ở toàn địch hậu liên khu cũng vậy.

d) Ở đồng bằng Bắc Bộ, cần tiếp tục thực hiện kế hoạch Xuân - Hè nhằm đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu diệt sinh lực địch, phá kế hoạch khinh quân, mở rộng căn cứ du kích, phát triển vào vùng tạm chiếm, nhất là Sơn Tây, cần đẩy hoạt động các chiến trường lên cho đều. Cần tích cực hoạt động, nhưng đề phòng khắc phục tư tưởng ham ăn to đánh lớn, bỏ mất cơ hội diệt địch, cần chú trong việc xây dựng lực lượng.

e) Nam Bộ: đẩy mạnh chiến tranh du kích có trọng điểm, mở lại những căn cứ du kích ở vùng địch hậu một cách có trọng điểm, tranh thủ xây dựng bộ đội địa phương vầ dân quân du kích, kiện toàn các tiểu đoàn chủ lực trong tác chiến.

f) Cao Miên: cần đẩy mạnh hoạt động có trọng điểm chú trọng gây cơ sở ở Đông Miên và Đông Bắc Miên (Stungtreng và Kompongthom) để liên lạc với Hạ Lào. Tranh thủ khuếch trương lực lượng vũ trang.

IV. Triển vọng: Nếu chúng ta thực hiện được kế hoạch trên thì không những trên chiến trường chính diện sẽ tiêu diệt được sinh lực địch, không những ở địch hậu Bắc Bộ sẽ thu được nhiều thắng lợi mà khắp chiến trường miền Nam và Lào - Miên ta sẽ thu được nhiều thắng lợi mới. Chúng ta có thể giải phóng được toàn Tây Bắc và một phần quan trọng của Thượng Lào, mở được con đường vào Nam đi qua Trung và Hạ Lào, giải phóng miền Bắc Kon Tum, uy hiếp Tây Nguyên, mở những căn cứ du kích mới ở Miên, ở Nam Bộ, tạo được điều kiện để thực hiện việc tiến quân vào Nam. Địch sẽ bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng, khó thực hiện âm mưu khuếch trương ngụy quân, buộc phải phân tán chủ lực và ngày càng đi vào bị động. Chúng cũng ít có khả năng đánh ra vùng tự do của ta, do đó cuộc cải cách ruộng đất của ta được bảo đảm. Đứng về mặt quốc tế thì lại càng có lợi cho ta. Nói tóm lại, chúng ta sẽ phá được kế hoạch Nava.

Chúng ta cần thấy trước bọn Pháp - Mỹ còn ra sức cố gắng mang thêm viện binh, tăng thêm vũ khí; hoặc điều chỉnh lực lượng thay đổi bố trí để mưu củng cố địch hậu, củng cố và đánh rộng ra ở miền Nam, nhưng chúng khó cứu vãn được cục diện khắp toàn quốc và cả ở Lào - Miên.

Nhưng, muốn tranh thủ được những thắng lợi trên thì toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải có một cố gắng rất lớn, rất tích cực và bền bỉ:

a) Các cấp chỉ đạo trong quân đội và cấp ủy của Đảng cần nhận rõ tình hình và thấu triệt chủ trương quân sự của Trung ương.

b) Các cấp ủy cần nắm vững nhiệm vụ đánh giặc là công tác trung tâm thứ nhất, là có quyết tâm huy động nhân vật lực đầy đủ để phục vụ tiền tuyến, đồng thời chú trọng đúng mức đến công tác củng cố vùng giải phóng về mọi mặt (cán bộ, lực lượng võ trang, đường sá, dân sinh).

V. Đề nghị Hội Chủ tịch và Chính trị Bộ cho chỉ thị về sự nhận định tình hình và chủ trương quân sự nói trên.

30-1-1954
Hưng    
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Hai, 2011, 04:58:29 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2011, 03:10:43 pm »

ĐIỆN BIÊN PHỦ,
BIỂU TƯỢNG CỦA SỨC MẠNH VIỆT NAM
(1)

Trong buổi bình minh của thiên niên kỷ mới, tên Tổ quốc Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, công cuộc đổi mới xây dựng phát triển dất nước đang từng ngày khởi sắc, nhân dân ta kỷ niệm trọng thể 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chúng ta còn nhớ: Thu - Đông 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân xâm lược Pháp bước sang năm thứ tám. Sau 5 năm tự lực chiến đấu trong vòng vây, từ năm 1950 trở đi, chủ lực ta liên tiếp mở nhiều chiến dịch lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở biên giới Việt - Trung, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào. Chiến tranh du kích phát triển mạnh, làm “ruỗng nát” vùng tạm chiếm của đối phương.

Trước tình hình nguy khốn ở Đông Dương, Chính phủ Pháp cử tướng bốn sao Hăngri Nava sang làm Tổng chỉ huy thứ bảy của đội quân viễn chinh xâm lược. Ta được biết nội dung kế hoạch Nava do bạn Trung Quốc cung cấp. Theo kế hoạch này, Nava đề ra mục tiêu trong vòng mười tám tháng, tập trung lực lượng cơ động chiến lược để tiến công tiêu diệt phần lớn chủ lực của ta, buộc Chính phủ ta phải chấp nhận tìm “lối thoát danh dự” cho cuộc chiến tranh xâm lược.

Trong Đông - Xuân 1953-1954, Nava tập trung các binh đoàn cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ nhằm đối phó với cuộc tiến công có thể xảy ra của chủ lực ta, càn quét bình định vùng sau lưng chúng, cho quân nhảy dù xuống Lạng Sơn, đánh ra Ninh Bình, uy hiếp các căn cứ kháng chiến của ta ở Việt Bắc và Thanh Nghệ Tĩnh.

Để phá tan kế hoạch buộc chúng phải phân tán lực lượng, bị động đối phó, Bộ thống soái tối cao của ta chủ trương dùng một bộ phận quân chủ lực, phối hợp với các lực lượng địa phương, chủ động mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, lấy Tây Bắc làm hướng chính. Đó là những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối yếu, ta có thể tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, tiếp tục khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch, tạo nên thế trận mới, thời cơ mới. Tình hình có thể phức tạp, ta cần theo dõi diễn biến, khi thời cơ xuất hiện thì nhanh chóng tập trung lực lượng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta.

Tháng 11-1953, khi phát hiện chủ lực ta tiến lên Tây Bắc, Nava cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ để yểm trợ cho các đơn vị ở Lai Châu rút chạy, đồng thời bảo vệ Thượng Lào. Sau khi biết chắc phẩn lớn chủ lực ta đã tiến lên Tây Bắc, Nava chủ trương tăng cường lực lượng, gấp rút xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương nhàm thu hút và đánh bại chủ lực ta.

Đầu tháng 12 nam 1953, quân ta mở cuộc tiến công tiêu diệt phần lớn quân địch ở Lai Châu rút chạy, bao vây Điện Biên Phủ. Hạ tuần tháng 12, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân giải phóng Pathét Lào mở cuộc tiến công vào Trung Lào, giải phóng Thà Khẹt và phát triển xuống Hạ Lào, giải phóng cao nguyên Bôlôven. Tháng 1 năm 1954, tuy có tin địch sẽ tiến công vào vùng tự do ven biển Liên khu V, nhưng chủ lực ta vẫn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, kiên quyết mở cuộc tiến công lên Bắc Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum và một vùng rộng lớn, nối liền với khu giải phóng Hạ Lào. Hạ tuần tháng 1 năm 1954, trong khi tạm đình cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ, một đơn vị chủ lực ta đã bất ngờ mở cuộc tiến công sang Thượng Lào. Đòn tiến công này đã giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, uy hiếp thủ đô Luông Phabăng.

Bằng năm đòn tiến công chiến lược nói trên, ta đã điều động được lực lượng địch, thu hút chúng đến những chiến trường có lợi cho ta, buộc khối cơ động chủ lực của Nava phải chia năm xẻ bảy để tiêu diệt chúng.

Phối hợp với các đòn tiến công của bộ đội chủ lực, chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ ở các vùng địch hậu, đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Hàng chục đoàn tàu bị lật đổ, hàng chục máy bay bị phá hủy trên các sân bay, hàng trăm đồn bốt bị san bằng, nhiều vùng căn cứ du kích được mở rộng.


(1) Bài viết gửi Hội thảo “Kỷ niệm 50 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và công cuộc đổi mới, phát triển đất nước” do Viện Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên tổ chức ngày 7-3-2004. Bài đăng trên Tại chí Xưa & Nay, số 209, tháng 4 năm 2004, tr.4-7, 39-40.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2011, 03:11:32 pm »

Thắng lợi to lớn của các chiến trường phối hợp trong giai đoạn đầu của chiến cuộc Đông Xuân 53-54 đã làm cho kế hoạch Nava bị đảo lộn và bắt đầu phá sản. Ở chiến trường chính, Điện Biên Phủ, lúc đầu chưa có trong kế hoạch Nava và cũng chưa có trong kế hoạch tác chiến của ta, đã trở thành nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược, cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch. Thực hiện quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, bộ phận tham mưu của ta và của đoàn cố vấn đi trước để chuẩn bị chiến trường, đã đề nghị phương án tranh thủ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” khi địch còn đứng chân chưa vững, dốc toàn lực đánh trong ba đêm, hai ngày, tiêu diệt toàn bộ quân địch giành thắng lợi. Tôi và đồng chí trưởng đoàn cố vấn đi sau, lên đến mặt trận đã nghe báo cáo phương án đánh nhanh.

Tại cuộc họp đầu tiên của đảng ủy chiến dịch, tôi đã nêu những khó khăn lớn mà bộ đội ta chưa thể vượt qua nếu đánh theo phương án đó. Nhưng ý kiến chung đều cho rằng bộ đội ta đã được huấn luyện về cách đánh tập đoàn cứ điểm, hiện nay sung sức, quyết tâm chiến đấu rất cao, lại có lựu pháo và cao xạ pháo lần đầu xuất trận, với sức mạnh mới, có thể gây bất ngờ và sẽ chiến thắng. nếu không đánh sớm, để địch tăng thêm quân và củng cố công sự, khiến tập đoàn cứ điểm trở nên rất mạnh, ta sẽ bỏ lỡ cơ hội đánh tiêu diệt lớn trong Đông - Xuân này.

Chiến dịch kéo dài sẽ không giải quyết được khó khăn về hậu cần. Đồng chí trưởng đoàn cố vẫn cũng tán thành phương án này. Tuy không tin vào thắng lợi của phương án đánh nhanh thắng nhanh nhưng tôi tự thấy mình vừa mới đến chiến trường, chưa có đủ cơ sở thực tế để bác bỏ ý kiến của đa số, nên đã đồng ý triệu tập Hội nghị cán bộ để phổ biến kế hoạch tác chiến theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Đồng thời tôi chỉ thị cơ quan tham mưu theo dõi chặt chẽ tình hình địch từng ngày, từng giờ, kịp thời báo cáo; nếu tình hình thay đổi ta có thể thay đổi kế hoạch.

Suốt 11 ngày đêm theo dõi tình hình, tôi thấy địch ngày càng tăng cường lực lượng, ra sức củng cố trạn địa, và những khó khăn của ta chưa có cách khắc phục.

Nhiều đêm trăn trở, cân nhắc, đêm cuối cùng thức trắng, tôi đi đến kết luận; đánh theo cách này nhất định thất bại. Sáng ngày 26 tháng 1, tô đã trao đổi ý kiến thống nhất với đồng chí trưởng đoàn cố vấn, tiếp đó dưa ra Đảng ủy mặt trận bàn thay đổi cách đánh. Cuộc thảo luận trong Đảng ủy đã diễn ra gay go sôi nổi, tất cả đều cho rằng bộ đội quyết tâm cao, mọi mặt đã chuẩn bị, phải đánh nhanh, nếu không sẽ khó khăn, mất thời cơ. Nhưng khi đặt ra câu hỏi: vậy đánh nhanh có bảo đảm chắc thắng 100% như Bác Hồ căn cặn không? thì không ai dám khẳng định. Cuối cùng Đảng ủy đã đi đến nhất trí phải chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc” - một phương án đã từng dự kiến trước đây. Mặc dầu mấy vạn quân ta đã dàn trận, đạn đã lên nòng sẵn sàng nổ súng vào đêm 26 tháng 1, nhưng chúng ta đã kiên quyết dừng lại, cho lui quân về vị trí tập kết, kéo pháo ra để chuẩn bị trận địa đánh theo phương án mới. Quyết định thay đổi phương châm đã được triển khai, sau đó báo cáo về Trung ương bằng thư hỏa tốc, được Bác Hồ và Bộ Chính trị nhất trí và cho biết sẽ động viên hậu phương đem toàn lực chi viện cho tiền tuyến đánh thắng.

Thay đổi cách đánh trong tình thế toàn mặt trận từ trên xuống dưới quyết tâm chiến đấu theo phương án đánh nhanh giải quyết nhanh, các đơn vị đã lâm vào vị trí chiến đấu, chờ giờ nổ súng là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi.

Chúng ta chuyển sang cách đánh chắc tiến chắc, tức là bao vây đánh dần từng bước, tiêu diệt từng bộ phận, từ ngoại vi vào trung tâm. Đánh theo cách này, ta có điều kiện tập trung binh hỏa lực ưu thế tuyệt đối trong từng trận, tạo nên sức mạnh áp đảo đánh thắng địch.

Để bảo đảm bao vây, tiêu diệt địch từng bước, theo kinh nghiệm chiến đấu của giải phóng quân Trung Quốc mà đoàn cố vấn giới thiệu, chúng ta đã xây dựng một hệ thống đường kéo pháo bằng cơ giới và các trận địa pháo có hầm đào sâu vào vách núi; xây dựng một hệ thống trận địa bao vây và tiến công quy mô chiến dịch, với hàng trăm kilômét hào giao thông để cơ động tiếp cận địch, với hàng vạn công sự chiến đấu, công sự ẩn nấp cho người và vũ khí, có hầm nghỉ ngơi, sinh hoạt, cấp cứu thương binh trong lòng đất, bảo đảm cho bộ đội chiến đấu liên tục ngày đêm trên cánh đồng Mường Thanh, dưới sự đánh phá ác liệt của không quân và pháo binh địch.

Trải qua một quá trình chiến đấu dài ngay, chúng ta đã lần lượt tiêu diệt từng cụm cứ điểm của địch, xiết chặt vòng vây, vận dụng chiến thuật đánh lấn, bắn tỉa, chia cắt sân bay, triệt đường tiếp tế… làm cho tập đoàn cứ điểm ngày càng bị bóp nghẹt, không phận ngày càng bị thu hẹp, khó khăn ngày càng chồng chất, tinh thần chiến đấu của địch ngày càng sa sút. Cuối cùng ta mở đợt tiến công quyết định vào sở chỉ huy đầu não, bắt sống tướng Đờ Cát và bộ chỉ huy, buộc toàn bộ quân địch đầu hàng, giành toàn thắng cho chiến dịch.

Như vậy, quân đội ta từ chỗ mới tiêu diệt được từng tiểu đoàn địch phòng ngự trong công sự vững chắc và thường chỉ đánh trong đêm, đã tiến lên tiêu diệt 21 tiểu đoàn phòng ngự trong một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với 8 trung tâm đề kháng, 49 cứ điểm và đánh liên tục trong 56 ngày đêm, đã tiêu diệt, bắt sống hơn 1 vạn 6 nghìn quân địch, đại bộ phận là lính Âu - Phi tinh nhuệ.

Đây là trận tiêu diệt chiến lớn nhất, tiêu biểu nhất, một bước trưởng thành vượt bậc về trình độ tác chiến của quân đội ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2011, 03:17:15 pm »

Kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác Hồ viết: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng trong lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”(1). “Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”(2).

Năm nay, kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, nhìn lại tiến tình lịch sử của dân tộc ta và của nhân loại qua nửa thế kỷ, chúng ta càng thấy ý nghĩa to lớn và sâu sắc của chiến thắng ví đại Điện Biên Phủ.

Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt và bắt sống quân viễn chinh xâm lược lớn nhất, gọn nhất của quân đội ta, dân tộc ta và của phong trào giải phóng dân tộc trong thế ỷ XX.

Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân xâm lược.

Ông cha ta trước đây từng tiêu diệt quân xâm lược ở Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… để giải phóng Thăng Long. Đến thời đại Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã đánh một trận tiêu diệt lớn quân xâm lược ở Điện Biên Phủ, buộc đối phương phải đi đến ký Hiệp nghị Giơnevơ, giải phóng nửa nước, giải phóng Thủ đô Hà Nội. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, được xây dựng ngày càng vững mạnh trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước, trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đó là “nhân tố quyết định nhất” trong khi phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam thành đồng Tổ quốc là “nhân tố quyết định trực tiếp” của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.Như chúng ta đã biết, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với sức mạnh mới của một nửa nước được hoàn toàn giải phóng, xây dựng chế độ xã hội mới, với sự giúp đỡ của các nước anh em cả về kinh tế và quốc phòng. Ta có một quân đội nhân dân được xây dựng theo phương hướng chinh quy và hiện đại, gồm nhiều binh chủng và quân chủng, với một đội ngũ cán bộ dạn dày kinh nghiệm, đã được bồi dưỡng, đào tạo trưởng thành. Trong quá trình kháng chiến chống Mỹ, hàng triệu thanh niên lên đường vào Nam chiến đấu, trong đó hàng vạn “chiến sĩ Điện Biên Phủ” đã lập công xuất sắc. Hàng ngàn “chiến sĩ Điện Biên Phủ” đã tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đại thắng Mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trong đó có ba trong bốn tư lệnh quân đoàn từng là trung đoàn trưởng chiến đấu ở Điện Biên Phủ.

Như vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ đã tạo nên chỗ dựa vững chắc, tạo nên lực lượng, ý chí, niềm tin và kinh nghiệm để quân và dân ta tiến lên, đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, thống nhất hoàn toàn, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, qua 9 năm kháng chiến, nhân dân ta đã làm nên trận địa thắng Điện Biên Phủ, giải phóng nửa nước, tạo điều kiện để 21 năm kháng chiến tiếp theo, làm nên trận toàn tháng Mùa Xuân 1975, giải phóng nửa nước còn lại, đưa giang sơn về một mối. Điều trùng lặp kỳ lạ là về thời gian, hai trận quyết chiến chiến lược ấy đều diễn ra trong 56 ngày đêm chiến đấu liên tục và chiến thắng vẻ vang. Cũng một điều trùng lập nữa là khi tình thế thay đổi thì cả hai trận đã kịp thời thay đổi quyết định. Trận trước dự định đánh trong hai ngày ba đêm đã chuyển sang đánh gần hai tháng; trận sau dự định đánh trong hai năm nhưng khi thời cơ đến đã tiến công thần tốc chỉ đánh trong gần hai tháng.

Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong thời đại mới.

Ý nghĩa to lớn của chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đối với dân tộc ta là như vậy.

Trên phạm vi thế giới, với chiến thắng Điện Biên Phủ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: một đất nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đất không rộng, người không đông, kinh tế còn lạc hậu, vũ khí kém cỏi đã đánh thắng quân đội xâm lược của một cường quốc phương Tây có tiềm lực kinh tế va quân sự lớn, trang bị vũ khí hiện đại.

Trong lần đến Việt Nam gần đây, Chủ tịch Phiđen Caxtrô đã nói: “Tôi đã đọc lịch sử chiến tranh. Từ trước đến nay chưa từng có một cuộc chiến tranh nào mà một nước nhỏ, kinh tế lạc hâu như Việt Nam mà vẫn đánh thắng Pháp và Mỹ. Đó là điều vô song. Trên thế giới chưa từng có. Trong lịch sử chưa từng thấy”.

“Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm cho các dân tộc thuộc địa ngửng cao đầu”(3). Tiếng sấm Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, vang tới những vùng xa xôi còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ, thức tỉnh và tạo niềm tin cho các dân tộc bị áp bức vùng lên. Gần hai thập kỷ sau Điện Biên Phủ, hàng loạt nước thuộc địa ở châu Á, châu Phí, Mỹ latinh đã lân lượt giành độc lập, với hình thức và mức độ khác nhau. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội phát triển sâu rộng.

Với Điện Biên Phủ, Việt Nam trở thành nước đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ - một vết nhơ trong lịch sử nhân loại.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần làm thay đổi cục diện thế giới. Ý nghĩa quốc tế lớn lao của Điện Biên Phủ là như vậy.

Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, va Bác Hồ kính yêu, từ tinh thần chiến đấu đầy dũng cảm và mưu trí sáng tạo của quân và dân ta; từ sự phối hợp chiến đấu của nhân dân hai nước Lào, Campuchia anh em, sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, kể cả nhân dân Pháp.

Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn sâu xa từ truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí quật cường, bất khuất, trí thông minh sáng tạo; tình đoàn kết nhân ái là những nhân tố chủ yếu tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc ta được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử. Trong thời đại mới, sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt Nam đã được khơi dậy mạnh mẽ, được nâng lên tầm cao mới, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin va tư tưởng Hồ Chí Minh để tạo nên sức mạnh phi thường, lần lượt đánh thắng hai đế quốc to, giành thắng lợi trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11, tr.261, 220.
(3 Ôman Uxêđích, Trưởng đoàn đại biểu Quân đội Angiêri nói trong dịp sang thăm Việt Nam năm 1960.)
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2011, 03:18:28 pm »

*
*   *

Ngày nay sau 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, cục diện thế giới và đất nước đã và đang có những biến đổi lớn lao, sâu sắc.

Đất nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội mới, đồng thời phải đương đầu với những nguy cơ và thác thức mới. Trong khi kinh tế và khoa học trên thế giới đang có những bước phát triển vượt bậc thì nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo, GDP bình quân đầu người mới bằng 1/3 của Thái Lan, 1/50 Xingapo, 1/70 của Mỹ.

Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, điều thiết thực nhất là chúng ta hãy phát huy tinh thần Điện Biên Phủ trong cuộc chiến đấu mới - cuộc chiến đấu chống nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân ta.

Tinh thần Điện Biên Phủ trước hết là tinh thần yêu nước, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, không cách mạng chịu làm nô lệ, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, quyết chiến, quyết thắng, kết hợp tinh thần dũng cảm kiên cường với trí thông mình sang tạo, nỗ lực phi thường để khắc phục những việc tưởng chừng không thể làm nổi, tạo nên bước tiến vượt bậc về khả năng và sức mạnh chiến đấu để đánh bại kẻ thù lúc chúng có những cố gắng chiến tranh cao nhất.

Ngày nay, phát huy tinh thần Điện Biên Phủ chúng ta hãy nêu cao lòng yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, tự tôn dân tộc, tự lực tự cường, không cam chịu nghèo nàn và lạc hậu, quyết tâm vượt qua thách thức, phát huy trí thông minh sáng tạo, dám nghĩ dám làm, làm nên một “Điện Biên Phủ” mới trong sự nghiệp đổi mới. Mỗi người, mỗi tổ chức có những nỗ lực vượt bậc, làm nên những đỉnh cao thành tích mới, những “Điện Biên Phủ” lớn, nhỏ trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, giáo dục, văn hóa, xã hội. Như chúng ta đã từng thực hiện được bước tiến vượt bậc trong sản xuất, xuất khẩu lương thực, biến những vùng, những hộ nghèo đói trở thành giàu có, đạt đỉnh cao trong thi tài văn hóa, khoa học trên thế giới, đạt được một bước tiến vượt bậc về thành tích thi đấu của tuổi trẻ Việt Nam trong SEA Games 22. Điều cực kỳ quan trọng là chúng ta phải thực hiện cho được chủ trương coi khoa học và giáo dục là quốc sách hàng đầu, làm cho con người Việt Nam tiến lên chiếm những đỉnh cao của khoa học, làm cho khoa học - giáo dục thật sự trở thành động lực, nhất định chúng ta sẽ tạo nên những bước phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 9 vừa qua của Đảng, góp phần sớm khắc phục sự tụt hậu, từng bước đưa nước ta tiến lên nhanh và vững, sánh vai cùng các nước trung bình rồi các nước tiên tiến trên thế giới.

Trong lúc tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, phải thường xuyên coi trọng nhiệm vụ tăng cường an ninh, củng cố quốc phòng. Có kế hoạch chống lại các mâm ưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, nghiên cứu những phát triển của khoa học quân sự hiện đại thế giới, các hình thức chiến tranh kiểu mới, vận dụng và phát triển sáng tạo kinh nghiệm quý báu của hai cuộc kháng chiến, hoàn thiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chuẩn bị cho các lực lượng vũ trang, cho đất nước sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược mà kẻ địch có thể gây ra với nước ta, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.

Tinh thần Điện Biên Phủ là tinh thần tôn trọng thực tế, nắm vững quan điểm thực tiễn, không chủ quan duy ý chí, luôn bám sát sự phát triển của thực tiễn, khi thấy tình hình thay đổi thì mục tiêu tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ vẫn giữ vững, nhưng kiên quyết thay đổi cách đánh, dù cách đánh ấy đã thành Nghị quyết đang triển khai, tìm ra cách đánh phù hợp để giành thắng lợi. Đây là bài học sâu sắc nhất về lãnh đạo và chỉ huy trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ngày nay, bài học ấy đang hết sức có ý nghĩa đối với chúng ta, Đảng ta từ Đại hội VI đến Đại hội IX đã xuất phát từ tình hình thực tiễn, từng bước phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành được thắng lợi to lớn, quan trọng. Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế chậm phát triển như nước ta là chưa có tiền lệ. Tình hình thực tiễn của thế giới và nước ta đã và đang cón hững biến đổi sâu sắc và những phát triển mới chưa từng có. Quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội còn nhiều vấn đề đặt ra.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2011, 03:21:11 pm »

Chúng ta hãy phát huy tinh thần thực tiễn và sáng tạo của Điện Biên Phủ vào công cuộc đổi mới. Luôn gắn lý luận với thực tiễn, thấm nhuần quan điểm coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, luôn bám sát thực tiễn, phân tích và phát hiện, nhận thức đúng đắn những phát triển mới của tình hình thế giới và trong nước. Nghiên cứu tổng kết thức tiễn, phát triển sáng tạo lý luận. Khi thực tiễn thay đổi thì mục tiêu xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh vẫn giữ vững, nhưng kiên quyết thay đổi, bổ sung những chủ trương, chính sách, biện pháp, dù có những vấn đề đã thành quyết định, nghị quyết nhưng không còn phù hợp, không có hiệu quả. Không chủ quan, duy ý chí, không bảo thủ giáo điều, dừng lại ở nhận thức và quan điểm cũ đã lỗi thời. Có như vậy, mới đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi.

Sức mạnh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức manh của toàn dân, của cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, chúng ta đã động viên được toàn quân toàn dân, từ tiền tuyến đến hậu phương vào trận quyết chiến Điện Biên Phủ. Lần đầu tiên chúng ta đã tập trung gần 5 sư đoàn chủ lực mạnh vào một trận đánh, động viên các chiến trường trong cả nước và hai nước bạn Lào, Campuchia chiến đấu phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ. Chúng ta đã huy động sức người sức của từ vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh, Tây Bắc, Việt Bắc đến nhiều tỉnh vùng địch tạm chiếm ở Bắc Bộ chi viện cho Điện Biên Phủ. Hàng chục vạn đồng bào đã hăng hái đi dân công, thanh niên xung phong tham gia làm đường, vận tải tiếp tế, phục vụ chiến dịch, bảo đảm hậu cần cho một mặt trận xa hậu phương hàng năm, bảy trăm cây số, trong điều kiện đường sá khó khăn, phương tiện vận tải thô sơ thiếu thốn, địch đánh phá ác liệt; làm được một việc mà kẻ thù không thể ngờ tới ta có thể làm được.

Ngày nay, sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vẫn là một sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của toàn dân.

Chúng ta phải luôn luôn coi trọng nêu cao tinh thần dân tộc, quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đại hội IX về phát huy sức mạnh khối đoàn kết dân tộc. Đoàn kết 54 dân tộc anh em, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết đồng bào trong nước và đồng bào định cư ở nước ngoài, làm thất bại âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch, phải thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các vùng đồng bào dân tộc, trong đó có Điện Biên Phủ và Tây Bắc, vùng căn cứ kháng chiến, vùng sâu, vùng xa, giúp đồng bào phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, khắc phục tình trạng quá chậm trễ như hiện nay, làm cho miền núi sớm tiến kịp miền xuôi như Bác Hồ mong muốn.

Thưc hiện các Nghị quyết của Trung ương về phát huy thế mạnh của các vùng kinh tế - phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, động viên toàn dân ra sức làm kinh tế để thực hiện dân giàu, nước mạnh, với một khí thế thi đua sôi nổi như toàn dân đã hăng hái tham gia hai cuộc kháng chiến trước đây. Phải luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ trong Di chúc đối với công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khống lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(1).

Thực sự mở rộng dân chủ, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tránh dân chủ hình thức, tạo nên sự nhất trí giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, sự gắn bó của người dân với chế độ xã hội, với lãnh đạo, như dân đã từng gắn bó với cách mạng trong thời kỳ kháng chiến. Thực hiện dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương phép nước.

Chỉ trên cơ sở sự đồng tình ủng hộ và tham gia tự nguyện của nhân dân, giữ vững được lòng dân, ta mới giữ vững được ổn định chính trị, tạo nên sức mạnh đưa công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đến thành công.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.505.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM