Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:21:45 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 7  (Đọc 78483 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #10 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2011, 06:54:15 am »

Tây Nguyên, chiến trường do Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo về quân sự và tiếp tế hậu cần, được xác định là hướng tiến công chiến lược quan trọng tỏng cuộc tiến công chiến lược 1972. Mặt trận Tây Nguyên được giao nhiệm vụ: “Tiêu diệt địch, giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh, có điều kiện thì giải phóng Kon Tum. Hướng phát triển có thể là hướng Plâyku, có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng tây Plâyku, giải phóng thị xã Buôn Ma thuột, hình thành căn cứ địa hoàn chỉnh nối liền với căn cứ địa miền Đông Nam Bộ”(1). Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, từ cuối năm 1971, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã bắt tay vào chuẩn bị chiến dịch. Toàn bộ lực lượng công binh mặt trận và một bộ phận các đơn vị bộ binh được huy động làm hệ thống đường vận tải từ sông Sêsu vào Kon Tum và hệ thống đường chiến dịch, chiến đấu 60, 70, 50 nối từ đường 128 xuống phía đông bắc Kon Tum. Tháng giêng, tháng hai là mùa khô, nhưng riêng phía bắc Kon Tum thỉnh thoảng có những trận mưa lớn kéo dài nhiều ngày. Mưa làm cho đường trơn, lầy lội. con đường 50k từ ngã ba biên giới vòng qua phía bắc Tân Cảnh - đường cơ động của xe tăng, phần “đất mượn” bị lún, lở, xe tăng không đi được, buộc phải sửa chữa làm lại, nên chậm trễ so với kế hoạch. Toàn bộ hệ thống đường Tây Nguyên được lát những tấm phên đan bằng tre, nữa để chống trơn. Bộ đội phải luồn rừng đi xa 3-4km chặt tre luồng, nữa vác về đan phên lát đường, chống lầy. Tre, luồng phải rút hết ngọn để tránh máy bay trinh sát phát hiện. Những đoạn đường trống bộ đội phải dùng sức vít những ngọn tre, cành gỗ vắt qua trên mặt đường. Công việc trên mất biết bao công sức, mồ hôi của cán bộ, chiến sĩ công binh. Tính ra, mặt trận đã huy động 12 vạn ngày công mở 508 km đường mới, sửa trữa 480 km đường cũ. Riêng Đoàn 671 đã san núi, phá ngầm làm 300 km đường bộ, đường sông đưa hàng vào cánh Bắc, cánh Trung, cánh Nam Mặt trận Tây Nguyên.

Tháng 10-1971, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định động viên mọi lực lượng đẩy nhanh tốc độ chuẩn bị chiến trường và vận chuyển đạn, gạo lót sẵn. Một phong trào thi đua “Trường Sơn chuyển mình, Pô Cô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng Tây Nguyên” được phát động. Cả Tây Nguyên dấy lên phong trào thi đua sôi nổi với một khí thế cách mạng mới. Trong các buôn nlàng, tiếng chày giã gạo nuôi quân rộn vang thâu đêm. “Kho gạo cách mạng” được lập thêm. Các kho hàng phía trước như kho D27, D28, D51, D74, H35… được xây dựng và bắt đầu ra mặt đường đôn đốc việc mở đường thông xe và vận chuyển. Ngoài các đơn vị vận tải chuyên nghiệp, các đơn vị bộ binh, pháo binh, Trường Quân chính, Trường Quân y, Viện 211, các cơ quan Mặt trận Tây Nguyên được huy động đi vận chuyển cho chiến dịch. Các bác sĩ, y tá, hộ lý, dược sĩ đều ra mặt đường gùi gạo, thồ đạn đến các cụm kho trên các hướng chiến dịch. Ngày đổ súng đến gần, nhưng đường sá chưa xong, con đường 50k cho xe tăng tiến công bị lún, sẽ phải làm lại, địch lại đánh phá liên tục ngày đêm nên số lượng gạo, xăng dầu, đạn dự trữ cho chiến dịch chưa đủ. Đến ngày 15-3, gạo dự trữ chiến dịch do Đoàn 559 chuyển vào mới đạt 15% kế hoạch. Khó khăn chồng chất, tưởng chừng không vượt qua. Mặt trận Tây Nguyên phải tung người đi mở thêm các cửa khẩu thu mua, tập trung lực lượng phương tiện vận chuyển gạo nhanh từ các nơi về khu vực chiến dịch, đồng thời phối hợp với các cơ quan kinh tài các tỉnh huy động gạo dân đóng góp chuyển tới mặt trận. Nhờ nỗ lực của quân và dân Tây Nguyên và Đoàn 559, đến tháng 3-1972, vận chuyển cho chiến dịch mới đủ cho bộ đội hoạt động giai đoạn đầu, nhưng mọi việc chuẩn bị khá tốt.

Cùng với việc làm đường chiến dịch, chiến đấu vận chuyển đạn gạo, các đơn vị bộ binh và binh chủng được Bộ Tổng tư lệnh và Khu 5 bổ sung, tăng cường cho Tây Nguyên cũng lần lượt đến chiến trường. Vùng ba biên giới phía tây bắc Kon Tum lại nhộn nhịp như bừng lên một sức sống mới, nhiều khu rừng trú quân mới được chuẩn bị đón Sư đoàn 320A, Trung đoàn 24B, Tiểu đoàn đặc công 320B của Bộ bổ sung cho Tây Nguyên và Sư đoàn bộ binh 2 (thiếu 1e) của Quân khu 5 tăng cường, cùng nhiều đơn vị chuyên môn, kỹ thuật khác. Đêm đêm, từ hành lang chiến lược 559, những đơn vị xe tăng, thiết giáp, pháo xe kéo, vận tải cơ giới nối đuổi nhau tiến vào các khu rừng tạm dừng, chuẩn bị cho chiến dịch. Lần đầu tiên sau nhiều năm chiến tranh, khối chủ lực cơ động Tây Nguyên phát triển nhảy vọt cả về số lượng và chất lượng. Quân đông, trang bị tốt, có cả xe tăng, pháo tự hành 57 mm và súng B72 điều khiến trực tiếp bằng vô tuyến điện… Tất cả đang trong tư thế sẵn sàng nổ súng phối hợp cùng các chiến trường.


(1) Điện số 236/Đ, ngày 10-9-1971 của Bộ Quốc phòng gửi Mặt trận Tây Nguyên, quân khu 5 và Miền, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #11 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2011, 06:55:14 am »

Ở Trị - Thiên, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu cùng các tỉnh vận động được 3.200 đồng bào các dân tộc đi dân công phục Tư lệnh tiền tuyến, cùng các đơn vị công binh của Đoàn 559 và quân khu làm mạng đường Sa Trầm, Ba Lòng, Ly Tôn, Đa Đa, La Dụt, Tam Quang và hệ thống đường vòng tránh các trọng điểm đánh phá của địch ở đường 12, đường A Run, B Đa, A Lưới. Mở mạng đường phục vụ cho việc vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng, đảm bảo cho tác chiến lớn của quân chủ lực trong chiến dịch tiến công Quảng Trị là một kỳ công. Bộ đội, dân công, thanh niên xung phong phải chịu đựng những trận bom, pháo ác liệt của địch dội xuống; bí mật bạt núi, xẻ đồi, đắp ngầm, làm cầu suốt ngày đêm dưới những tán lá xanh của rừng đại ngàn và sự rình rập, đánh phá ngày đêm của địch. Các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên huy động 5.000 dân công hỏa tuyến phối hợp với lực lượng cả Đoàn 559, bằng các phương tiện xe đạp thồ, ôtô, gùi bộ, đã chuyển đến mặt trận hàng chục vạn tấn vật chất, bảo đảm yêu cầu bước đầu của bộ đội tác chiến.

Trong công tác mở đường, Bộ Tổng tư lệnh và Đoàn 559 đều xác định mạng đường chiến lược Bắc - Nam và hệ thống đường chiến dịch nối từ đường mòn Hồ Chí Minh xuống các hướng tác chiến của bộ đội là quan trọng nhất, vì từ đó chẳng những đảm bảo vận tải, mà còn là đường cơ động của các binh đoàn chủ lực hợp thành bao gồm cả pháo binh, xe tăng đánh lớn. Do tầm quan trọng đó, Đoàn 559 đã huy động 40.000 cán bộ, chiến sĩ công binh, bộ binh, vận tải cùng hàng vạn thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến từ giữa năm 1971 gấp rút mở các con “đường kín” 24A, 24B, 24C xen kẽ với những con đường chạy qua bãi trống, hình thành tuyến đường dài 2.899 km, trong đó có 1.200 km “đường kín” chạy dưới các cánh rừng miền núi Quảng Bình, vượt Trường Sơn qua Hạ Lào đến Binh trạm 370 ở Tây Nguyên. Đến tháng 1-1972, hệ thống đường vận tải chiến lược bao gồm cả hệ thống “đường kín” cơ bản hoàn thành. Những đoạn đường trống được ngụy trang cẩn thận. Các trận địa cao xạ, tên lửa được bố trí dọc đường, đánh địch có hiệu quả. Giờ đây, vận chuyển ban đêm chuyển thành vận chuyển ngày là chủ yếu, những tháng cao điểm vận chuyển cả ngày lẫn đêm. Tổng cục Hậu cần bổ sung 2.000 xe vận tải cho Đoàn 559 đưa tổng số đầu xe hoạt động phục vụ cuộc tiến công chiến lược lên 8.000 chiếc. Nhờ có “đường kín”, các trung đoàn vận tải ôtô dồn dập ra vào thuận lợi, tăng gấp hai lần khối lượng vận chuyển so với các đoàn trước đó, đáp ứng kịp nhu cầu chuẩn bị chiến dịch và chiến đấu. Hoàn thành “đường kín”, tăng dần xe vận tải chạy ban ngay đã hạn chế một phần thủ đoạn đánh phá của không quân địch - nhất là loại máy bay AC130, giảm được những thiệt hại do địch gây ra đến mức thấp nhất. Các đơn vị công binh Đoàn 559 còn mở mới 150 km đường cơ động ở vùng Đông Bắc Campuchia và mạng đường phía đông bắc đường 13 về đến Lộc Ninh, bảo đảm cho xe tăng và thiết giáp, xe kéo pháo 130mm vào đến Đông Nam Bộ kịp chiến dịch. Song song với mạng đường chiến lược, đường ống dẫn dầu từ Vinh cũng được lắp đặt tới phía bức sông Sê Sư và bắt đầu vận hành cung cấp xăng dầu cho các đơn vị.

Hậu phương thi đua với tiền phương. Trong lúc chiến trường miền Nam gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công chiến lược, thì Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng huy động lực lượng vận tải quân sự và lực lượng của Công ty 2, Công ty 6 của bộ Giao thông vận tải, Công ty 8 của tỉnh Quảng Bình và hàng chục đoàn tàu hòa, canô, thuyền nan mở đợt vận chuyển vật chất, kỹ thuật quy mô lớn tạo chân hàng cho Đoàn 559 và một bộ phận lực lượng chuyển thẳng vào chiến trường. Cuối năm 1971, lực lượng vận tải đường sông và biển sử dụng tùa “tăngkét”, xà lan tự hành, canô chở xe tăng, pháo binh và hàng quân sự khác vào Bến Thủy (Vinh), sau đó chuyển tiếp vào Xuân Bộ theo đường sông Gianh, Nhật Lệ (Quảng Bình) rồi đưa vào Nam. Miền Bắc đã huy động mọi phương tiện, mọi lực lượng có thể huy động được để dưa binh khí, kỹ thuật và vật chất vào các chân hàng cho Đoàn 559, đồng thời tiếp nhận hàng hóa, kỹ thuật quân sự các nước Liên Xô, Trung Quốc viện trợ, phân lô, phân loại rồi chuyển tiếp vào chiến trường. Đó là những nhiệm vụ rất phức tạp và nặng nề đòi hỏi đồng bào và chiến sĩ ở miền Bắc phải lao động cật lực suốt ngày đêm mới đáp ứng được yêu cầu.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ”, miền Bắc hậu phương lớn đã động viên 15 vạn thanh niên vào bộ đội, trong đó có 15.000 thuộc thành phần công nhân, viên chức ở các nhà máy, công trường, nông trường, cơ quan dân, chính, đảng từ Trung ương đến các tỉnh, thành. Bên cạnh lực lượng, miền Bắc còn tăng sức chi viện cho chiến trường. Hàng trăm ngàn tấn vật chất bao gồm lương thực, thực phẩm, thuốc điều trị và binh khí kỹ thuật quân sự vẫn ùn ùn đổ vào tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, để từ đó vận chuyển tiếp cho Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ. cùng với một khối lượng vật chất khổng lồ được chuyển vào miền Nam, 55.000 cán bộ, chiến sĩ biên chế thành từng sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và binh chủng, súng trên vai, ba lô nặng trĩu hăng hái vượt “dốc 1.100 bậc”, “cổng trời” trên dãy Trường Sơn hùng vĩ, đến kịp các mặt trận trước ngày nổ súng. Nam Bộ - chiến trường xa hậu phương miền Bắc, cuối tháng 2-1972 cũng nhận được 2 trung đoàn bộ binh 24 và 271; hai tiểu đoàn pháo 85mm; một tiểu đoàn pháo 122mm, hai tiểu đoàn cao xạ 37mm; Tiểu đoàn xe tăng 20 (36 chiếc); một đại đội tên lửa chống tăng B72. Hàng hóa, khí tài quân sự đưa đến các chiến trường bảo đạt tỷ lệ 97%, hao hụt dọc đường giảm thiểu. Đó là chiến công lớn trong việc vận chuyển, bảo quản, giữ gìn trang thiết bị quân sự và hàng háo suốt dọc đường những tháng hành quân của chiến sĩ, cán bộ Đoàn 559, của thanh niên xung phong và các đơn vị bộ đội tăng cường, bổ sung cho miền Nam. Vượt qua cuộc “chiến tranh khí tượng” gây mưa nhân tạo, mưa axít trên đường mòn Hồ Chí Minh của đế quốc Mỹ ngăn chặn ta tiếp tế, bộ đội, thanh niên xung phong đã đưa đến các chiến trường kịp thời số lượng lớn vật chất, trang thiết bị quân sự đúng chủng loại, góp phần quan trọng cho miền Nam củng cố và tăng cường lực lượng, giữ vững thế chủ động chiến trường. Có thêm lực lượng từ miền Bắc bổ sung, Quân khu Trị - Thiện, Khu 5, Khu 6, Tây Nguyên, Khu 7, Khu 8 và Khu 9 khẩn trương tổ chức, huấn luyện chiến, kỹ thật cho bộ đội theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #12 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2011, 09:14:54 am »

Lúc này, tình hình quân sự, chính trị trên bán đảo Đông Dương, đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam chuyển biến mau lẹ - nhất là sự sa sút của quân đội ngụy Sài Gòn và khí thế chiến thắng của quân, dân ta, làm cho cách mạng vừa có thuận lợi lớn, lại vừa có khó khăn phải khắc phục, vượt qua. Đầu năm 1972 Quân ủy Trung ương họp bàn Nhiệm vụ quân sự năm 1972 và cuộc tiến công chiến lược 1972. Trong cuộc họp này, Quân ủy Trung ương xác định: “Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tập trung chỉ đạo chiến tranh và tăng cường lực lượng mọi mặt cho chiến trường, chủ yếu là chiến trường miền Nam”(1). Mỹ đang thua to về quân sự ở chiến trường Việt Nam, Campuchia, Lào, bị lên án ở Hội nghị Pari là kẻ “miệng nói hòa bình, nhưng hành động chiến tranh”, cả nước Mỹ lại đang ở vào thời điểm chính trị nóng bỏng của cuộc vận động bầu cử tổng thống. Đây là thời cơ mới thuận lợi cho cách mạng. Quân ủy Trung ương chủ trương kiên quyết đánh bại địch bằng ba đòn chiến lược.

Một là, đẩy mạnh đòn tiến công chiến lược của bộ đội chủ lực trên những hướng và chiến trường có lợi, tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực ngụy miền Nam, phá vỡ từng bộ phận thế bố trí phòng ngự của địch mở rộng vùng giải phóng.

Hai là, đẩy mạnh đòn tiến công và nổi dậy ở các vùng nông thôn đồng bằng quan trọng. Kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh và phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân.

Ba là, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân các thành thị, kết hợp đấu tranh cách mạng của quần chúng với khoét sâu và lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch…, chuẩn bị khi có thời cơ cụ thể, đẩy mạnh cuộc đấu tranh thành cao trào cách mạng(2).

Quân ủy Trung ương yêu cầu các chiến trường chú ý kết hợp chặt chẽ giữa ba đòn chiến lược, kết hợp tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực với tác chiến du kích của bộ đội địa phương và dân quân, du kích; xây dựng hậu phương trực tiếp của từng hướng tiến công chiến lược; ra sức làm tốt công tác chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị tốt lực lượng cơ động chiến lược, bảo đảm cho lực lượng này phát huy được vai trò là quả đấm mạnh trên từng hướng tiến công.

Đối với miền Bắc, Quân ủy Trung ương chỉ rõ, phải ra sức tăng cường chi viện kịp thời cho miền Nam về người và vật chất, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi nếu địch gây lại chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Sư đoàn 308 được Quân ủy bố trí ở miền Bắc sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hậu phương và làm dự bị chiến lược của Bộ.

Đối với chiến trường Lào và Campuchia, Quân ủy Trung ương cho rằng, phải tăng cường đoàn kết giúp đỡ và phối hợp chiến đấu với bạn thật tố trong nhiệm vụ tác chiến và xây dựng, củng cố vùng giải phóng, tạo thời cơ mới giành thắng lợi lớn hơn.

Kể từ khi các chiến trường, các mặt trận triển khai thực hiện Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6-1971, đến những tháng đầu của năm 1972, công tác chuẩn bị đã diễn ra hơn nửa năm. Trong khoảng thời gian đó, công tác chuẩn bị tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng chưa đáp ứng đủ yêu cầu đánh lớn ở miền Đông Nam Bộ, việc tiếp tế rất khó khăn, vì xa miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, chiến trường miền Đông Nam Bộ, vùng biên giới Campuchia là chiến trường rất nhạy cảm đối với địch cũng như đối với ta, vì ở đó có đô thành Sài Gòn, địch dễ tăng cường lực lượng phản kích trong khi nguồn tiếp tế của ta không kịp thời, không đủ mạnh sẽ khó giành thắng lợi quyết định. Nhận thức tình hình chuẩn bị của ta còn khó khăn, tình hình địch ở chiến trường cũng thay đổi, ngày 11-3-1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp quyết định chính thức phương án tiến hành cuộc tiến công chiến lược 1972 như sau: Trị - Thiên hướng phối hợp quan trọng, nay chuyển thành hướng tiến công chiến lược chủ yếu. Chiến trường Đông Nam Bộ và Tây Nguyên hướng chủ yếu số 1 và số 2, nay cùng với Khu 5 đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn để thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam và sẵn sàng đưa một sư đoàn chủ lực xuống đồng bằng khi có thời cơ.

Chọn chiến trường Trị - Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong tình hình tương quan lực lượng địch, ta thời điểm năm 1972 là phù hợp. Tuy thời gian này, không quân, pháo binh, hải quân Mỹ vẫn tiếp tục yểm trợ cho quân đội Sài Gòn, nhưng Trị - Thiên là địa bàn gần hậu phương lớn, chẳng những tiếp tế kịp yêu cầu mà còn chủ động sử dụng lực lượng binh chủng hợp thành mạnh ở miền Bắc tham gia trực tiếp vào cuộc tiến công chiến lược thuận lợi. Thường vụ Quân ủy Trung ương nêu rõ: Chiến dịch Trị - Thiên là một chiến dịch quy mô lớn, là một trong những hướng chiến lược quan trọng, một chiến dịch hợp đồng binh chủng, một chiến dịch tổng hợp cả về quân sự và chính trị.


(1) Nghị quyết Quân ủy và Thường vụ Quân ủy Trung ương, tháng 3-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Nghị quyết Quân ủy và Thường vụ Quân ủy Trung ương, tháng 3-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #13 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2011, 09:16:26 am »

Thường vụ Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ cụ thể của chiến dịch là:

1 - Tiêu diệt thật nhiều lực lượng quân sự, thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, nhất là quân chủ lực của chúng, đập vỡ tuyến phòng thủ của chúng, phát triển tiến công thắng lợi.

2 - Phối hợp với phong trào tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang, bán vũ trang các địa phương và quần chúng nhân dân ở đồng bằng và đô thị, các vùng địch còn kiểm soát, hỗ trợ cho quần chúng tiến công và nổi dậy phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ, đánh bại kế hoạch bình định của địch, củng cố thế ba vùng vững mạnh của ta.

3 - Giải phóng những khu vực có điều kiện và khi có thời cơ thuận lợi ra sức mở rộng vùng giải phóng của ta.

4 - Thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng địch, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường khác.

5 - Rèn luyện và phát triển lực lượng quân sự và chính trị của ta về mọi mặt(1).

Trong năm nhiệm vụ trên, nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng quân sự địch, nhất là quân chủ lực và phương tiện chiến tranh được xác định là nhiệm vụ quan trọng nhất có tính chất quyết định, làm cho chúng bị tổn thất nặng về lực lượng, phương tiện, tinh thần chiến đấu suy sụp, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 23-3-1972, Bộ Chính trị họp nghe Thường vụ Quân ủy Trung ương báo cáo về tình hình địch - ta, công tác chuẩn bị và quyết định chính thức chọn hướng tiến công chủ yếu của cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Chính trị nhất trí với phương án mà Thường vụ Quân ủy Trung ương đã chọn.

Nghị quyết của Thường vụ Quân ủy Trung ương lần này thể hiện sự nhạy bén, nắm chắc thực tiễn, quyết định kịp thời, sáng suốt của lãnh đạo cấp chiến lược. Đây là văn kiện quan trọng chỉ đạo cuộc tiến công chiến lược năm 1972.

Sau khi có quyết định chính thức chọn Trị - Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 cấp tốc điều chỉnh thế trận vận tải, bảo đảm cho hướng chủ yếu. Trước tiên, Đoàn 559 tập trung lực lượng giải tỏa hai trọng điểm sông Gianh và Long Đại, khẩn trương đưa hàng vào mặt trận Quảng Trị. Hai trung đoàn công binh được điều tới làm nhiệm vụ mở đường vòng tránh trên hai trục quốc lộ 1 và đường 15 đảm bảo cho bộ đội, các đơn vị vận tải vượt sông Gianh và Long Đại. Binh trạm 12 lật cánh xuống phía đông nam thay cho Binh trạm 19, phục vụ chiến dịch tiến công giải phóng Quảng Trị. Ba tiểu đoàn cao xạ có nhiều kinh nghiệm chiến đấu đánh máy bay địch được điều ra bảo vệ hậu phương chiến dịch. Sư đoàn 571 (Đoàn 559) làm nhiệm vụ ở hậu cứ được chuyển sang nhiệm vụ chiến đấu và vận tải chiến dịch, tạo nguồn hàng cho vận tải chiến lược. Đoàn 559 cũng huy động mọi lực lượng, mọi phương tiện vân tải đường sông của nhân dân, tổ chức thành những tuyến tiếp chuyển dọc sông Kiến Giang, sông Gianh và Long Đại; tổ chức lực lượng tiếp nhận hàng từ phía bắc sông Gianh chuyển sang, đồng thời cử cán bộ huy động nhân dân đóng góp lúa gạo để chuyển ra tiền phương cho kịp ngày nổ súng. Từ tháng 12-1971, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 phát động đợt thi đua vận chuyển mang tên Chiến dịch Đồng Xoài nhằm động viên cao độ sức mạnh của lực lượng chiến đấu, công tác trên tuyến vận tải, hoàn thành kế hoạch tạo chân hàng cho các binh trạm ở nam sông Bến Hải và tạo nguồn dự trữ cho chiến dịch Trị - Thiên. Cùng với việc vận chuyển cho mặt trận Trị - Thiên, các sư đoàn khu vực 471, 470 thuộc Đoàn 59 mở đợt vận chuyển đột kích tiếp tế cho Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Tháng 3-1972, Đoàn 559 mở đợt vân tải Tổng công kích trên cả 6 tuyến đường vượt khẩu (đường 20, 12, 18, 16, 14, 10), trong đó, trọng điểm là đường 20 và ba trục 9, 70, 71 chay vào mặt trận Quảng Trị và Thừa Thiên. Nêu cao quyết tâm “vì thắng lợi của chiến dịch”, các chiến sĩ lái xe vận tải khắc phục muôn vàn gian khổ, hy sinh, dũng cảm, mưu trí vượt qua các tọa độ lửa đường 19 và các trọng điểm đánh phá của không quân, pháo binh địch, đưa hàng đến các cụm kho dự trữ ở khu vực Tà Cơn, Khe Sanh, Đầu Mầu… huyện Hướng Hóa. Lúc này, toàn bộ lực lượng pháo binh miền Bắc (trừ hai loại phòng thủ bở biển) gồm 7 trung đoàn và một số đơn vị cấp tiểu đoàn độc lập tương đương 8 trung đoàn với 200 khẩu từ 85mm đến 130mm dồn dập hành quân vào mặt trận đường 9 - Quảng Trị. Theo yêu cầu của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Bộ Tư lệnh 559 chỉ thị cho Binh trạm 17 tổ chức một đoàn xe 70 chiếc chuyển xăng, dầu gấp cho các đơn vị xe tăng, pháo binh tham gia chiến dịch. Các chiến sĩ lái xe Binh trạm 17 chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh đã anh dũng vượt qua những trọng điểm đánh phá của địch ở Bá Đỏ, cây số 34, Nguồn Rào trên đường 9, đưa xăng dầu tới đích an toàn, đùng quy định. Tiểu đoàn 3 và Đại đội 102 Đoàn Hồng Hà vận chuyển đạn pháo từ sông Gianh vào Đông Hà tiếp tế cho các đơn vị pháo binh kịp thời, đúng chủng loại, lô liều an toàn.


(1) Nghị quyết Quân ủy và Thường vụ Quân ủy Trung ương, tháng 3-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #14 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2011, 09:18:55 am »

Trong lúc ta khẩn trương dồn sức chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, địch vẫn chủ quan cho rằng: “Từ năm 1969 đến nay hầu hết các đơn vị chủ lực cộng sản đã rút ra ngoài biên giới không yểm trợ được cho hạ tầng cơ sở. Từ đó đến nay hạ tầng cơ sở của cộng sản vẫn chưa phục hồi. Cộng sản còn ở thế bị động về chiến lược chiến thuật và đang thiếu thốn trầm trọng, nhất là đạn dược, tinh thần cán binh giảm sút, tuyển mộ khó khăn, số hồi chánh tăng, mức độ hoạt động của cộng sản trong năm 1972 sẽ tương tự như 6 tháng cuối năm 1971. Có thể việc chống phá bình định được trăng cường hơn và đẩy mạnh hoạt động trong dịp bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11-1972”(1).

Những ngày cuối cùng của tháng 3 và ngày đầu tháng 4, quân ta trên các hướng Trị - Thiên, Tây Nguyên, Khu 5 và Đông Nam Bộ đồng loạt nổ súng khai triển chiến dịch tiến công chiến lược năm 1972. Theo dõi sát những động thái trên chiến trường và tại Hội nghị Pari cũng như ở nước Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta nhận thấy, Mỹ rút một phần bộ binh, lính thủy đánh bộ, dù về để lại một bộ phận lục quân và một bộ phận không quân, hải quân để cùng với lực lượng tay sai Nam Việt Nam, Campuchia, Lào tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược kiểu thực dân mới. Âm mưu của Mỹ là tăng cường viện trợ cho bọn tay sai, ráo riết tuyên truyền chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp. Mặt khác, chúng đẩy mạnh hoạt động chính trị và ngoại giao nhằm cô lập cách mạng Việt Nam, lừa bịp dư luận thế giới. Mục tiêu của Mỹ sắp tới là cố gắng giữ vững cục diện chiến trường như hiện nay - nhất là cục diện ở miền Nam Việt Nam, duy trì được chính quyền và quân đội Sài Gòn, tạo được thế mạnh về quân sự, chính trị để ép ta phải chấp nhận giải pháp chính trị tại Hội nghị Pari có lợi cho chúng, hoặc tiếp tục chiến tranh, nhưng Níchxơn vẫn trúng cử Tổng thống Mỹ, bám giữ được Nam Việt Nam, thực hiện được học thuyết mang tên y ở Đông Dương. Năm 1972 là năm rất quan trọng trong cuộc đấu tranh giữa ta và địch trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Trên cơ sở đánh giá tình hình và âm mưu địch, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 (4-4-1972) nêu quyết thâm đẩy mạnh tiến công quân sự, đấu tranh chính trị và ngoại giao, tập trung “đánh cho Mỹ cút” để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”. Trên tinh thần đó, Đảng ta chủ trương nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn này là: “Với tinh thần kiên trì kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, phải động viên toàn lực, cố gắng vượt bậc, kịp nắm vững thời cơ thuận lợi và tạo nên thời cơ mới:

- Đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và binh vận, phát triển thế tiến công chiến lược mới trên toàn chiến trường miền Nam là chiến trường chính; đồng thời đẩy mạnh tiến công ngoại giao.

- Đoàn kết, phối hợp chiến đấu chặt chẽ với quân và dân Lào, quân và dân Campuchia anh em, đẩy mạnh tiến công địch trên các chiến trường Đông Dương.

- Đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đánh bại Học thuyết Níchxơn, tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam Việt Nam và trên cả bán đảo Đông Dương, giành thắng lợi to lớn, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh trên thế thua bằng một giải pháp chính trị có lợi cho ta mà chúng phải và có thể chấp nhận được.

- Đồng thời sẵn sàng kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”
(2).

Để hoàn thành nhiệm vụ trên đây, đối với miền Nam, phải nắm vững đường lối, phương châm chiến lược và quy luật của cuộc chiến tranh cách mạng, phát triển mạnh mẽ thế tiến công địch trên cả ba vùng trong tình hình hiện nay, chúng ta phải kiên quyết đánh địch bằng ba đòn chiến lược. Phải phối hợp chặt chẽ ba đòn chiến lược và lợi dụng tác động ảnh hưởng qua lại của ba đòn đó để tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn đánh cho quân địch suy sụp về tinh thần, tan rã về tổ chức, ta thực hiện được mục tiêu: Quân Mỹ phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam. Miền Nam Việt Nam phải độc lập, tự do thật sự. Đối với miền Bắc, trong khi ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ miền Bắc phải thấu suốt nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu, phải động viên sức người sức của hết lòng chi viện cho miền Nam và giúp đỡ cuộc chiến đấu chính nghĩa của Campuchia, Lào.

Nhiệm vụ rất to lớn và nặng nề trên đây của quân và dân ta ở cả hai miền đất nước, muốn hoàn thành thắng lợi phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.


(1) Kế hoạch quân sự hỗn hợp AB-147 của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33 (1972), tr.144.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #15 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2011, 09:20:17 am »

Tháng 5-1972, khi cuộc tiến công chiến lược của ta trên các chiến trường miền Nam đang diễn ra quyết liệt và tại Hội nghị Pari cuộc đấu tranh đang trong giai đoạn gây go, bế tắc. Bộ Chính trị họp quyết định Về chuyển hướng và đẩy mạnh mọi mặt công tác ở miền Bắc để tiếp tục đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Bộ Chính trị nhận định tình hình chiến tranh được diễn ra trực tiếp trên cả hai miền Nam - Bắc nước ta. Ở miền Bắc, đế quốc Mỹ đánh phá hệ thống giao thông vận tải, các cơ sở công nghiệp, kho tàng, đê đập đi đôi với thả mìn, thủy lôi phong tỏa các cảng biển, cửa sông và luồng lạch hòng ngăn chặn các nước chở hàng tiếp tế cho ta và ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam, gây thương vong lớn cho dân thường để hòng gây sức ép về chính trị, buộc ta phải nhượng bộ tại cuộc đàm phán Pari. Rôi đây đế quốc Mỹ có thể liều lĩnh đánh phá Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Nam Định, v.v. Bộ Chính trị chủ trương:

- Kiên quyét chiến đấu đánh bại mọi cuộc chiến tranh phá hoại mới của đế quốc Mỹ, đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự mới của chúng, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

- Bảo đảm trong mọi tình huống chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam tiếp tục đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.

- Mở rộng thêm lực lượng phòng không và các lực lượng vũ trang nhân dân khác, đánh bại chiến tranh phá hoại của địch; xúc tiến công việc gỡ mìn, thủy lôi, chống địch phong tỏa.

- Giữ vững và phát triển sản xuất trong thời chiến đồng thời phải làm tốt phòng không sơ tán, tăng cường công tác phòng không nhân dân.

- Tập trung mọi cố gắng vận động nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ lên án đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi Mỹ phải chấm dứt ném bom, phong tỏa miền Bắc, phải họp Hội nghị Pari thương lượng nghiêm chỉnh và đáp ứng tích cực giải pháp 7 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

- Phối hợp chặt chẽ đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn(1).

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 và Nghị quyết Bộ Chính trị ra đời giữa lúc chiến trường miền Nam đang thắng lớn, Mỹ đang sử dụng một lực lượng không quân, hải quân đánh phá dữ dội hai miền Nam, Bắc Việt Nam và tại Pari, đàm phán đang bế tắc, một lần nữa khẳng định quyết tâm của Đảng là tiếp tục cuộc tiến công cho đến khi ta giành được thắng lợi quyết định. Thông qua các nghị quyết này, Đảng ta chỉ đạo quân, dân miền Nam không dừng lại ở những thắng lợi đã giành được mà phải tiếp tục phát triển cuộc tiến công mạnh mẽ hơn nữa, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ở Hội nghị Pari. Đối với miền Bắc phải tăng cường sức mạnh mọi mặt, đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu cao, không chủ quan lơ là mất cảnh giác luôn luôn củng cố quyết tâm đánh Mỹ, bất kể trong tình huống, hoàn cảnh nào cũng phải bảo đảm chi viện sức người, sức của cho miền Nam tiếp tục cuộc tiến công và nổi dậy.

*
*   *

Sau chiến thắng đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và “Trung - Hạ Lào năm 1971 của quân dân ta, tình hình diễn biến ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Theo dõi sát mọi chuyển động trên chiến trường trong nước, trong khu vực và trên thế giới có liên quan tới cuộc chiến Việt Nam; lường định đúng xu thế phát triển của tình hình âm mưu và thủ đoạn mới của địch; trên cơ sở phân tích đánh giá đúng lực lượng so sánh đôi bên, Đảng ta đã nhạy bén phát triển được thời cơ và nắm lấy thời cơ phát động cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam nhằm vào ba hướng chính Trị - Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Đây là ba hướng phòng ngự hiểm yếu của địch, trong đó Trị - Thiên là hướng tiến công chủ yếu. Đó là quyết định kịp thời và sáng suốt của Đảng ta, đảm bảo cho toàn dân, toàn quâ ta trên cả hai miền giữ vững quyết tâm, tăng cường đoàn kết, tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân địch trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mau đến thắng lợi cuối cùng.


(1) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.308-318.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #16 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2011, 09:22:24 am »

CHƯƠNG XXVIII

TIẾN CÔNG PHÁ VỠ
CÁC TUYẾN PHÒNG NGỰ MẠNH CỦA ĐỊCH
TRÊN CÁC CHIẾN TRƯỜNG TRỌNG YẾU

I - TIẾN CÔNG ĐỊCH TRÊN HƯỚNG CHIẾN LƯỢC CHỦ YẾU TRỊ - THIÊN

Chiến trường Trị - Thiên có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược ở miền Trung và Tây Nguyên của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Từ đầu năm 1970 đến giữa năm 1971, mặc dù liên tục bị đánh đau, binh lực hao hụt nặng, nhất là ở vùng đường 9 - bắc Quảng Trị, địch vẫn không rút bỏ bất cứ một cứ điểm nào trong hệ thống phòng thủ chiến lược trọng yếu Trị - Thiên. Cuối năm 1971, mặc dù phán đoán hướng tiến công chiến lược chính năm 1972 của Quân giải phóng không phải là Trị - Thiên, nhưng do tầm quan trọng của địa bàn chiến lược này nên Bộ Chỉ huy Vùng chiến thuật I vẫn ráo riết tăng cường lực lượng đẩy mạnh các cuộc “hành quân tảo thanh Việt cộng” trong địa phận đảm nhiệm, tung biệt kích, thám báo nhằm thăm dò, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của ta.

Cho đến giữa tháng 3-1972, lực lượng địch ở Trị - Thiên gồm có 2 sư đoàn bộ binh (1, 3), 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ (147, 258), 3 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép (11,20, 17), 17 tiểu đoàn pháo binh từ 105 mm đến 175 mm (258 khẩu), 4 tiểu đoàn, 94 đại đội bảo an, 302 trung đội dân vệ, 5.000 cảmh sát. Với lực lượng trên đây, địch tập trung bố phòng trên hai hướng Quảng Trị và Thừa Thiên. Đặc biệt ở Quảng Trị, địch liên tục duy trì Sư đoàn bộ binh 3, hai lữ đoàn 147 và 258, hai thiết đoàn 11 và 20 (chưa kể lực lượng bảo an dân vệ địa phương).

Lực lượng địch ở Quảng Trị được phân chia thành ba tuyến:

Tuyến ngoài cùng, tuyến giáp ranh giữa ta và địch, chúng bố trí tương đối liên hoàn, chặt chẽ, có không gian rất rộng, kéo dài từ biển Đông đến gần biên giới Việt - Lào, có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá hoại sự chuẩn bị của ta từ xa. Lực lượng bảo vệ tuyến này chủ yếu là không quân, pháo binh, biệt kích; trong trường hợp khẩn cấp, một bộ phận quân chủ lực sẽ được điều động làm nhiệm vụ nống lấn càn quét.

Tuyến giữa, tuyến phòng thủ quan trọng nhất gồm hệ thống các điểm cao, các căn cứ mà từ lâu Mỹ - Thiệu đã từng tuyên bố và vững tin là “bất khả xâm phạm”. Hệ thống đó gồm: động Ông Do, điểm cao 3654, 548, 597, 241, 544… kéo đến Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quáng Ngang, đồi 31. Nhiệm vụ của tuyến này là ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, bảo vệ các thị xã, thị trấn, các căn cứ, đường giao thông quan trọng và các vùng đã được bình định. Để thực hiện nhiệm vụ đó, chúng thường xuyên tổ chức thành từng khu vực phòng thủ cấp trung đoàn, tiểu đoàn hoặc tương đương vừa có thể liên kết phòng giữ vừa có thể độc lập tác chiến.

Tuyến trong cùng, còn gọi là tuyến phòng ngự dự phòng - kéo dài từ đường số 1 ra biển Đông, gồm các thị trấn, thị xã đông dân Đông Hà, Cửa Việt, Ái Tử, Quảng Trị. Các đơn vị chủ lực địch ở tuyến này có nhiệm vụ vừa sẵn sàng đánh trả các cuộc tiến công lớn của ta, vừa phối hợp chặt chẽ với bảo an, dân vệ, kịp kẹp, đánh phá các phong trào đấu tranh, hoặc nổi dậy của quần chúng.

Trên cơ sở phân chia tuyến, vùng hoạt động, Sư đoàn 3 và các lữ đoàn, thiết đoàn phối thuộc tổ chức phòng thủ ở Quảng Trị thành năm khu vực cấp trung đoàn: Trung đoàn 57 bố trí ở Quán Ngang, Dốc miếu xuống đồi 31; Trung đoàn 2 từ Bái Sơn đến Cồn Tiên; Trung đoàn 56 từ điểm cao 241 đến Tân Lâm; Lữ đoàn 147 từ Mai Lộc đến Động Toàn; Lữ đoàn 258 từ Tân Điền đến điểm cao 367; Thiết đoàn 17 có ba chi đoàn đóng ở Gia Lệ Thượng, Đông Lâm, Nhị Thượng. Sở chỉ huy Sư đoàn 3 do viên chuẩn tướng Võ Văn Giai chỉ huy, đóng tại Ái Tử…

Nhìn chung, chỗ mạnh của địch ở khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị là hệ thống phòng ngự kiên cố, vững chắc, được xây dựng và hoàn chỉnh từng bước trong hai năm 1970-1971. Đây là những cứ điểm lợi hại, có hệ thống hỏa lực mạnh, được tính toán phần tử bắn theo tọa độ lưới rất kỹ cho pháo binh, pháo hạm và không quân (kể cả máy bay chiến lược B.52). Do đó, hệ thống hỏa lực địch tại đây có thể khống chế được một vùng rộng lớn hai bên nam - bắc sông Bến Hải. Nhưng chỗ yếu cơ bản của hệ thống phòng ngự địch là bên ngoài mạnh, bên trong sơ hở, nhất là khu vực rừng núi phía tây từ Ba Lòng đến núi Cái Mương (Huế). Hơn nữa, từ khi bộ binh Mỹ rút, tinh thần binh sĩ Sài Gòn hoang mang, quân dự bị (kể cả dự bị chiến lược) thiếu, mỏng, dàn trải ở khắp nơi.

Trên cơ sở nắm bắt sát diễn biến thực tế, lường định xu thế phát triển của tình hình và quyết định thay đổi hướng tiến công chiến lược chủ yếu năm 1972 (từ chiến trường Đông Nam Bộ sang chiến trường Trị - Thiên) của Thường vụ Quân ủy Trung ương, ngày 23-3-1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp thảo luận, nhất trí phê duyệt kế hoạch tiến công cho 1972.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #17 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2011, 09:25:04 am »

Để trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy hướng tiến công chiến lược chủ yếu Trị - Thiên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy chiến dịch. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cường, Doãn Tuế, Phạm Hồng Sơn, Hoàng Minh Thi, Lương Nhân, Nguyễn Anh Đệ làm Phó Tư lệnh. Đồng chí Hồ Sỹ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị được chỉ định tham gia Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo hướng chiến lược quan trọng này.

Cũng trong hội nghị, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã xác định chiến dịch tiến công Trị - Thiên có những nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự địch ở Trị - Thiên (chủ yếu là Quảng Trị), trong đó tiêu diệt cho được hai sư đoàn và đánh thiệt hại nặng một sư đoàn khác.

- Phối hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế hoạch bình định của địch.

- Giải phóng nhân dân địa bàn Trị - Thiên, trước hết là giải phóng tỉnh Quảng Trị. Tiêu diệt, phân tán, giam chân thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường giành thắng lợi chung cho cuộc tiến công chiến lược 1972.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ rõ, hai nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch và hỗ trợ cho quần chúng trên ba vùng chiến lược nổi dậy chẳng những rất quan trọng, mà còn có quan hệ mật thiết với nhau. Bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương muốn tiêu diệt nhanh gọn sinh lực địch, mở rộng địa bàn hoạt động dứt khoát phải có sự đấu tranh hỗ trợ của nhân dân. Ngược lại, phong trào quần chúng muốn nổi dậy mạnh mẽ, rộng khắp, các lực lượng vũ trang phải có những đòn tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phá được thế kìm kẹp của chúng.

Căn cứ nhiệm vụ của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương giao, ngày 16-3-1972, tại Bãi Hà (phía tây huyện Vĩnh Linh), Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên họp bàn triển khai kế hoạch tác chiến. Sau khi nghiên cứu phân tích thêm về nhiệm vụ chiến lược năm 1972 của Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương trên chiến trường miền Nam, đặc biệt là tình hình địch, ta trên chiến trường Quảng Trị, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định phân chia chiến trường Quảng Trị thành bốn cánh tác chiến và sử dụng lực lượng chiến đấu trên từng cánh như sau:

- Cánh Bắc, cánh chủ yếu của chiến dịch, sử dụng Sư đoàn bộ binh (308 (thiếu một trung đoàn), hai trung đoàn bộ binh (48, 27), hai trung đoàn pháo mặt đất (164, 84), trung đoàn pháo cao xạ, hai tiểu đoàn xe tăng, xe bọc thép, hai tiểu đoàn công binh, Tiểu đoàn đặc công 33, ba trung đội hóa học, trinh sát, súng phun lửa… do đồng chí Phạm Hồng Sơn, Phó Tư lệnh chiến dịch và đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó Chính ủy chiến dịch trực tiếp chỉ huy, được các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp, có nhiệm vụ tiêu diệt Trung đoàn 57 và Trung đoàn 2 bộ binh (thuộc Sư đoàn bộ binh 3 ngụy) ở điểm cao 544, Đồi Tròn, Động Mã, Cồn Tiên; thừa thắng bao vây tiêu diệt miếu Bái Sơn, Quán Ngang; sẵn sàng diệt địch ở Hồ Khê, Đá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia Bình… Sau khi đã tiêu diệt được toàn bộ các mục tiêu nói trên, các đơn vị nhanh chóng chuyển sang bao vây tài chính cụm cứ điểm Đông Hà, kiên quyết không cho địch co cụm đối phó.

- Cánh Tây, sử dụng Sư đoàn bộ binh 304, bốn trung đoàn pháo cao xạ (230, 232, 241, 280), Trung đoàn 38 pháo binh, hai tiểu đoàn tên lửa, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh do Đại tá Hoàng Đan - Sư đoàn trưởng sư đoàn 304 chỉ huy, đảm nhận tiến công tuyến phòng ngự phía tây của địch ở Động Toàn, Ba Tum, Ba Hồ, nếu địch phản ứng có thể tổ chức tiêu diệt trước thời hạn quy định, nhằm thu hút địch tạo điều kiện cho các cánh khác chuẩn bị. Sau đó, toàn cánh phối hợp với cánh Bắc đánh chiếm Núi Kiếm, bao vây tiêu diệt các căn cứ 241, Mai Lộc, Đầu Mầu, sẵn sàng tiến công tiêu diệt Ái Tử.

- Cánh Nam, do Sư đoàn bộ binh 324 cùng các đơn vị thuộc Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị phối thuộc (tiểu đoàn thông tin, tiểu đoàn công binh) được sự hỗ trợ của hai tiểu đoàn địa phương tỉnh Quảng Trị, do đồng chí Giáp Văn Cương, Phó Tư lệnh và đồng chí Lê Tự Đồng, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở phía đông dãy Thượng Nguyên, chủ yếu từ khu vực động Ông Do xuống đoạn đường số 1 (nam thị xã Quảng Trị đến bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt chiến dịch, hỗ trợ cho nhân dân Triệu Plhong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác phá kìm giải quyền làm chủ.

- Cánh Đông, cánh thứ yếu của chiến dịch, kéo dài từ Hoàng Hà, Mai Xá, Cửa Việt lên ngã ba Gia Độ (bắc sông Hiếu). Ở vùng đồng bằng sông nước này, tuy có cơ sở cách mạng vững, bộ đội địa phương và du kích dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, nhưng nơi đây địa hình trống trải, đường cơ động của bộ đội chủ lực gặp khó khăn, nhất là việc triển khai binh khí kỹ thuật cơ giới. Mặt khác, quân địch ở đây từ lâu đã xây dựng, củng cố hệ thống phòng thủ vững chắc, có pháo hạm và giang thuyền nhiều. Tất thảy những điều đó gây cho ta không ít trở ngại trong quá trình thực hiện tiến công. Trong những điều kiện đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng Đoàn 126 đặc công hải quân, hai tiểu đoàn đặc công trên bộ (31, 25), Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh, một tiểu đoàn pháo mang vách, hai đại đội địa phương Quảng Trị, do đồng chí Bùi Thúc Dưỡng, Tham mưu phó chiến dịch chỉ huy, làm nhiệm vụ bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiến công quân cảng Cửa Việt, sau đó phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt và làm tan rã lực lượng kìm kẹp của địch, hỗ trợ nhân dân các xã ven biển Gio Linh, Triệu Phong nổi dậy giành quyền làm chủ.

Về phương châm chỉ đạo tác chiến, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương: tranh thủ đánh địch ngoài công sự để tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh, tạo thời cơ đánh những trận quyết định tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến phòng thủ, nhanh chóng đột phá tung thâm, không cho chúng đối phó, phát huy cao độ uy lực của mọi loại binh khí kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh vừa và nhỏ, đánh sâu và hiểm bằng những lực lượng tinh nhuệ, hỗ trợ cho nhân dân Quảng Trị, Thừa Thiên nổi dậy giành quyền làm chủ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #18 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2011, 09:27:35 am »

Tiếp sau Hội nghị Đảng ủy vầ Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên bốn ngày, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Tỉnh độ Quảng Trị đã hộp bàn và ra nghị quyết thực hiện nhiệm vụ. Nghị quyết nêu rõ: Quân và dân trong tỉnh tích cực chuẩn bị phối hợp với bộ đội chủ lực, tận dụng thời cơ thuận lợi, động viên mọi khả năng, nhanh chóng khắc phục khó khăn, vượt qua hy sinh, ác liệt, đánh bại kế hoạch bình định của địch, giành quyền làm chủ hầu hết nông thôn, đồng bằng, giải phóng 75% đến 95% dân số.

Theo kế hoạch và quyết tâm tác chiến đã xây dựng, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị lâm thời(1), thống nhất tổ chức lực lượng vũ trang địa phương thành hai bộ phận phụ trách hai khu vực:

- Khu vực phía Bắc, gồm hai huyện Gio Linh, Cam Lộ và thị trấn Đông Hà, do đồng chí Nguyễn Thư, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng quân sự tỉnh, phụ trách.

- Khu vực phía Nam, gồm hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng và thị xã Quảng Trị, do đồng chí Nguyễn Đức Dũng, Phó Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Nguyễn Văn Lương, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, đảm nhiệm.

Thời điểm mở màn chiến dịch càng đến gần, việc hoàn tất mọi  công tác chuẩn bị càng trở nên khẩn trương. Trung tuần tháng 3-192, bên cạnh việc tăng cường trinh sát kỹ thuật trên các mũi, các hướng, kể cả việc tung các tổ đội kỹ thuật luồn sâu bám nám địch báo cáo kịp thời cho chỉ huy các cấp xử lý tình huống, mở gấp và hoàn thành các mạng đường cơ động lực lượng, Bộ Tư lệnh chiến dịch bắt đầu ra lệnh cho các cánh quân hành quân vào vị trí đứng chân, nhanh chóng bổ sung đầy đủ vật chất, trang bị chiến đấu.

Để đảm bảo tốt kế hoạch nghi binh, Bộ Tư lệnh chiến dịch, một mặt, chỉ đạo Tỉnh đội Quảng Trị thực hiện một số trận đánh cài thế ở cánh nam và cánh Đông, mặt khác, cho các tổ đài nghi binh của mặt trận thường xuyên phát lên không trung những chỉ thị, mệnh lệnh giả.

Về công tác đảm bảo hậu cần chiến dịch, ngoài ba cụm kho hàng của mặt trận ở Nguồn Rào, Hướng Hóa, Sa Trầm, Bộ Chỉ huy chiến dịch còn trực tiếp hiệp đồng với Bộ Tư lệnh Đoàn 559 chuẩn bị tiếp lượng hàng dự trữ cho chiến dịch. Tính đến ngày 26-3-1972, Đoàn vận 559 và Đoàn vận tải Quân khu 4 cùng với 5.000 dân công hỏa tuyến phục vụ trên mặt trận phục vụ trên mặt trận đường 9 của các tỉnh đã tập kết được hơn 16.000 tấn hàng bằng các phương tiện ôtô, xe thồ và gùi vác.

Khi các binh đoàn chủ lực của ta đã ở tư thế sẵn sàng tiến công thì phía đối phương vẫn không hề đoán định được hướng chính của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của ta. Ngày 18-3-1972, viên trung tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Vùng I chiến thuật cùng viên chuẩn tướng Võ Văn Giai - Tư lệnh Sư đoàn 3 và viên đại tá Phan Bá Hòa - Tỉnh trưởng Quảng Trị, sau khi dùng máy bay trực thăng kiểm tra khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị, đã thống nhất nhận định: Sau tổn thất trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Quân giải phóng chưa thể mở chiến dịch lớn ở Quảng Trị. Vì vậy, theo kế hoạch quân sự hình thành từ trước, ngày 25-3, Bộ Chỉ huy Sư đoàn 3 quân đội Sài Gòn vẫn cho các đơn vị dóng chốt ở phía trước thay quân. Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 2) Từ Đong Hà ra Cồn Tiên; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 56) từ Cồn Tiên vào Tân Lâm; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 2) thay tiểu đoàn 1 ở điểm cao 541; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 57) ở Mai Xá Thị, Tân Hà thay Tiểu đoàn 2 ở Dốc Sỏi, Xuân Hải; Tiểu đoàn 1 (Lữ đoàn 147) thay Tiểu đoàn 4 ở Động Toàn..

Chính vào thời điểm ấy, lực lượng trinh sát Sư đoàn 3 Sài Gòn đột ngột phát hiện ra “mấy sư đoàn tinh nhuệ Bắc Việt” đã áp sát Phòng tuyến Mác Namara ở phía nam vĩ tuyến 17. Ngay lập tức, Bộ Chỉ huy tiền phương Vùng I chiến thuật của quân đội Sài Gòn đã có những biện pháp nhằm đối phó. Nhưng tất cả những nỗ lực của địch lúc này đều đã muộn.

Sáng ngày 30-3-1972, nhận được tin do lực lượng quân báo mặt trận báo cáo về việc Trung đoàn 56 quân Sài Gòn trên hướng chủ yếu của chiến dịch đang cho các tiểu đoàn vào thay quân ở điểm cao 541 và Đồi Tròn, Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên thống nhất đề nghị Bộ Tổng Tư lệnh cho bộ đội nổ súng vào 11 giờ 30 phút (thay vì 16 giờ của kế hoạch cũ). Đề nghị được chấp nhận.

Giữa lúc tiếng súng đánh địch của quân và dân miền Nam đang nổ giòn giã trên tất cả các hướng chiến lược, thì ngày 31-3-1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi: “Trước nhiệm vụ lịch sử trọng đại đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, Trung ương Đảng kêu gọi các cấp ủy đảng, các cấp chỉ huy, toàn thể đảng viên, đoan viên, cán bộ, chiến sĩ hãy ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính yêu, có quyết tâm cao nhất, đem hết sức mình, kiên quyết chiến đấu, cống hiến lớn nhất cho Tổ quốc.

Các đồng chí hãy:

Nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, tích cực, chủ động, kiên quyết, linh hoạt tiến công địch.

Giương cao ngọn cờ trăm trận trăm thắng của Đảng anh hùng, của quân đội anh hùng!

Toàn thể cán bộ. chiến sĩ trên khắp mặt trận hãy anh dũng tiến lên!”(2).


(1) Ban Chỉ huy tỉnh đội mở rộng (có cán bộ chủ chốt của tỉnh tham gia) để thực hiện nhiệm vụ phối hợp với bộ đội chủ lực tiến hành kế hoạch tiến công Trị - Thiên năm 1972.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.231.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #19 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2011, 09:32:42 am »

Mở màn chiến dịch, năm cụm pháo binh gồm hàng trăm khẩu bố trí trận địa từ Trung Hải, Lăng Cô (đông bắc) tới Sa Pa, Ba Hi (hướng nam), với phần tử xạ kích đã được tính toán kỹ, tới tấp nã đạn vào các mục tiêu Dốc Miếu, Dốc Sỏi, Cồn Tiên, miếu Bái Sơn, Đồi Tròn, Đầu Mầu, Tân Lâm, Động Toàn, Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử… Hỏa lực chế áp của pháo binh tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng ta nhanh chóng xông lên, ấp sát mục tiêu.

Cánh Bắc do trung đoàn 27 và trung đoàn 48 bộ binh (Sư đoàn 320B) đảm nhiệm, khi giờ G mới điểm, pháo binh chiến dịch đồng loạt dội đạn xuống căn cứ địch, đồng thời hai trung đoàn dâng cao đội hình, áp sát mục tiêu. Ở hướng tiến công của Trung đoàn 27, pháo vừa chuyển làn, tiểu đoàn 2 đã ào lên đánh chiếm điểm cao 544. Sau 20 phút chiến đấu dũng cảm, Tiểu đoàn 2 đã cắm được cờ Mặt trận Giải phóng lên căn cứ địch. Tiếp đó, Tiểu đoàn 2 tràn xuống bao vây công kích địch ở Đồi Tròn. Trong lúc hỏa lực súng cối, ĐKZ, 12,7 mm bắn phá mãnh liệt tiêu diệt các hỏa điểm lộ của địch, một bộ phận lực lượng các trung đoàn được lệnh sử dụng hai bộ vũ khí FR  đánh phá nhiều lớp rào kẽm gai mở cửa vào căn cứ địch. Khi khu vực đầu cầu bị ta đánh chiếm, địch núng thế, có biểu hiện tháo chạy. Chớp thời cơ, bộ đội ta đánh tràn lên. Đến 10 giờ 30 phút ngày 31-3, Trung đoàn 27 đã giải phóng Đồi Tròn. Tối hôm đó, một hãng tin phương Tây tại Huế đã phát đi tin tức việc tướng Giai đã để lọt vào tay Quân giải phóng hai căn cứ tiền tiêu cực kỳ quan trọng ở bắc đường số 9 một cách nhanh chóng.

Trên hướng Trung đoàn 48, sau khi tiêu diệt địch ở khu vực Quất Xá, cầu Đuồi, bộ đội ta nhanh chóng chuyển sang bao vây chi khu Cam Lộ, ngăn chặn địch rút chạy và tăng viện cho đường 9. Trưa ngày 31-3, để cứu nguy cho đồng bọn đang bị bao vây, địch cho hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 56 có xe thiết giáp yểm trợ lên giải tỏa và tăng cường giữ sở chỉ huy trung đoàn ở điểm cao 241. Tiểu đoàn 15 và các đơn vị có hỏa lực tăng cường của ta đã chặn đánh quyết liệt quân địch ở cầu Thiện Xuân, buộc chúng phải chống đỡ chờ quân tăng viện phía sau.

Cùng thời gian này, ở khu vực Cồn Tiên, Đoàn bộ binh 31 của ta nhanh chóng bao vây, chia cắt, tiêu diệt địch cơ động ở vòng ngoài; sau đó, cùng lực lượng vũ trang địa phương vây hãm căn cứ. Lo sợ những đòn tiến công sấm sét của ta, ngay chiều ngày 31-3, địch ở Cồn Tiên bỏ căn cứ tháo chạy về miếu Bái Sơn, mở đầu cuộc rút chạy trên tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.

Ở Cánh Tây - cánh trọng yếu của chiến dịch do Sư đoàn bộ binh 304 đảm nhiệm, sáng 30-3, một bộ phận trinh sát của Trung đoàn 66 phục kích diệt gọn một trung đội địch khi chúng nống ra lùng sục nhằm phát hiện bàn đạp tiến công của ta. 11 giờ 45 phút, pháo binh ta tới tấp và mãnh liệt dội đạn xuống hàng loạt các căn cứ địch rải dọc hai bên đường 9, dọc hàng rào điện tử Mắc Namara. Tại khu vực điểm cao 252, chớp thời cơ địch hoảng loạn do bị hỏa lực pháo binh ta chế áp, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 304 lệnh cho Trung đoàn 66 sử dụng Tiểu đoàn 2 dâng cao đội hình công kích điểm cao này. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt không quản hy sinh, Tiểu đoàn 2 và bộ phận tăng cường đã làm chủ điểm cao 252, diệt và bắt 150 tên địch.

Được chiến thắng cổ vũ, trưa ngày 31-3, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 66 Lê San lệnh cho Tiểu đoàn 2 và lực lượng phối thuộc tiếp tục tiến công cứ điểm Đầu Mầu, một vị trí quan trọng án ngữ trục đường 9 và khu vực tây bắc căn cứ Tân Lâm trong hệ thống phòng thủ của địch. Với sự chi viện bằng hỏa lực của pháo binh chiến thuật, sau hai giờ chiến đấu, quân ta đã làm chủ căn cứ, diệt gọn Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 56 quân đội Sài Gòn. Đầu Mầu bị đánh chiếm tạo điều kiện thuận lợi để ta đưa lực lượng Trung đoàn 24 và Trung đoàn 9 vào bao vây tiêu diệt địch ở khu vực Núi Kiếm và căn cứ Tân Lâm - sở chỉ huy Trung đoàn 56 quân Sài Gòn.

Khác với các hướng trên đây, ở hướng tác chiến Động Toàn do Trung đoàn 66 đảm nhận, tình hình diễn biến rất phức tạp. Dựa vào hệ thống trận địa, hầm hào kiên cố và lợi dụng địa hình nhiều vách đá và dốc đứng ở khu vực Động Toàn, Tiểu đoàn 4 Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 chống trả ta quyết liệt. Nhiều nơi đã xảy ra những trận cận chiến đẫm máu. Hai bên giành giật nhau từng mỏm đất, từng căn hầm, từng đoạn hào. Trận đánh kéo dài đên ngày thứ ba. Với sự yểm trợ đắc lực của hỏa lực pháo binh, cuối cùng các chiến sĩ thuộc Trung đoàn 66 cũng đánh chiếm được căn cứ Động Toàn. Ở Ba Hồ, Tiểu đoàn 19 đặc công, bằng lối đánh bao vây chặt, tiến công rất dũng mãnh, táo bạo, đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 Lữ đoàn 147 quân đội Sài Gòn, số sống sót tháo chạy thục mạng. Rạng sáng ngày 2-4, những lá cờ chiến thắng mang tên Chiến thắng Đầu Mầu, Chiến thắng Động Toàn, Chiến thắng Ba Hồ… của Sư đoàn 304 đã phấp phới tung bay trên các cao điểm phía tây bắc Quảng Trị.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM