Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 10:42:36 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chỉ một con đường  (Đọc 90113 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2010, 07:46:44 pm »

MÙA XUÂN 1965

Mở màn cho chiến công trong màu xuân 1965, Bộ tư lệnh chiến dịch Đông Xuân giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 409 đặc công, trong một thời gian ngắn phải nghiên cứu và tiêu diệt cùng một lúc 2 mục tiêu quan trọng của địch: sân bay ARIA Pleiku (sân bay Pleiku) và cứ điểm Gia Hựu thuộc huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Hai mục tiêu này phải hợp đồng nổ súng cùng một đêm, để phối hợp với trung đoàn 2 bộ binh tiêu diệt cứ điểm Dương Liễu, kéo địch từ Quy Nhơn ra để đánh tiêu diệt quân bộ của chúng trên đoạn đèo Nhông thuộc huyện Phú Mĩ.

Chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, Đảng ủy ban chỉ huy tiểu đoàn thống nhất phân công đồng chí Nguyễn Thành Tâm, tiểu đoàn trưởng, chỉ huy đại đội 30/409 lên chiến trường Tây Nguyên nghiên cứu sân bay Pleiku và doanh trại Hô-lô-uây, tiêu diệt bọn cố vấn vùng 2 chiến thuật đang ở đây. Còn 3 đại đội 40, 50, 60/409, tiếp tục huấn luyện và đưa đoàn cán bộ đi nghiên cứu cứ điểm Gia Hựu xã Hoài Châu huyện Hoài Nhơn. Tiểu đoàn 409 đặc công hình thành các mũi tiến công tỏa về hai hướng chiến trường.

Cứ điểm Gia Hựu nằm phía bắc thị trấn Tam Quang, ttrên hai ngọn đồi độc lập, có tên là đồi 9 và đồi 10 (dân làng ở đây gọi là đồn 9, đồn 10) giữa đồng bằng xã Hoài Châu. Hai đồi 9 và 1 nằm cách nhau, không xa và cách quốc lộ Một chừng 1.000m, do 2 đại đội bảo an gần 200 tên trấn giữ. Bọn này được trang bị mạnh, có kinh nghiệm phòng ngự, có đồng bọn ở gần và pháo binh từ chi khu Tam Quang tiếp ứng giải cứu khi bị tấn công. Đặc điểm bố phòng ở Gia Hựu cũng như nhiều cứ điểm khác, là rào kẽm gai 3 lớp quanh đồn, có bãi mìn, bãi chông, chướng ngại vật phản xung phong. Một đặc điểm nữa của Gia Hựu, là chung quanh được bảo vệ bởi hệ thống ấp chiến lược và bọn tay sai tề điệp, chỉ điểm. Suốt từ ngày đóng điểm đến đây, Gia Hựu chưa bị tấn công nên bọn chúng rất chủ quan.

Đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường nêu cao quyết tâm bám cứ điểm điều tra nhanh chóng chính xác. Ban đêm đột sâu vào Gia Hựu, cho trinh sát nghi trang nằm lại, ban ngày cử chiến sĩ lanh lợi giả dạng dân thường trà trộn vào quanh cứ điểm để nắm tình hình dân tình trong các ấp chiến lược. Thời gian điều tra ấp, chỉ có 6 ngày phải chuẩn bị xong chiến trường đưa bộ đội tiếp cận cứ điểm tấn công. Sau khi nắm chắc tình hình địch, xác định chiến thuật mật tấp và hướng đột kích, ban chỉ huy tiểu đoàn giao nhiệm vụ cho các tổ mũi xung kích. Mũi tấn công đồn 10 làm nhiệm vụ nổ bộc phá phát lệnh cả chiến trường. Giờ nổ súng là 1 giờ sáng ngày 30 Tết Ất Tị (1965). Các bộ phận được lệnh hành quân chiếm lĩnh và tổ chức tìm hành giữ bí mật chờ lệnh nổ súng. 12 giờ 30 phút, bộ đội nóng lòng chờ lệnh thì nhận được lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận: “rút quân, dừng trận đánh Gia Hựu”.

Tình huống diễn ra thật đột ngột. Cả ban chỉ huy tiểu đoàn 409 như ngồi trên lửa. Rút bộ đội ra được thì thời gian di quân về điểm xuất phát không con kịp. Chưa đánh mà đã thương vong là điều tối kị đối với người cầm quân. Trong một phút đồng hồ, bức mã điện đã được giải mã: “Hướng Dương Liễu chưa tấn công, địa đoạn phục kích đèo Nhông chưa hoàn chỉnh, đánh Gia Hựu trước, địch viện binh, bộ phận phục kích trung đoàn 2 gặp khó khăn”.

Đọc xong bức điện, tôi hạ lệnh cho bộ đội vừa nhanh chóng lui quân vừa xóa dấu vết đúng lúc trời rạng sáng. Tình hình nhân dân vùng quanh Gia Hựu được xác lập, ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định đưa bộ đội vào thôn Liễu An (Hoài Châu) trú quân. Nhân dân Liễu An từ lâu theo công giáo toàn tòng lại ở vùng địch kiểm soát, nhưng không vì thế mà thiếu hiểu biết về cách mạng. Bà con biết bộ đội cách mạng đang gặp khó khăn lại ở ngay sát đồn địch, liền chia nhau đón bộ đội về nhà chăm sóc, bảo vệ hết lòng. Ở trong nhà bà con phát cho anh em chai lọ, hủ sành để đại tiểu tiện, tránh đi lại lộ bí mật. trong ngày trú quân tại đây, nhân dân thôn Liễu An còn tiếp bộ đội bằng các món ngon sắm sửa trong ba ngày Tết cổ truyền Ất Tị. Sau một ngày được nhân dân Liễu An che chở bảo vệ an toàn. Nắng chiều vừa tắt, đêm về, bộ đội được lệnh chỉnh trang đôi ngũ, từ giã nhân dân lên đưởng trở lại đánh Gia Hựu. 23 giờ đêm các đơn vị đến đia điểm, các mũi theo phân công triển khai tim nhập. 23 giờ 30’ đại đội 40/409 tấn công đồn 9 đã qua hàng rào cuối cùng. Đại đội 50, do Nguyễn Ngọc Bình chỉ huy, tấn công đồn 10, được giao nhiệm vụ nổ súng lệnh, lúc này mới vào được hàng rào thứ hai. 0 giờ 5 phút, bọn địch đồn 10 bất thần bắn hai phát gărăng M1, đạn đi trúng trái sáng ngoài rào phát cháy. Đơn vị tấn công đồn 9 tưởng là đồn 10 nổ súng pháo lệnh, liền tiến công đánh chiếm khu trung tâm. Trong vòng 3 phút đã làm chủ trận địa. nghe súng, thủ pháo bên đồn 9 nổ rộ, bọn địch đồn 10 nhảy ra chiếm lĩnh giao thông hào, công sự, đúng lúc mũi tấn công đồn 10, bộ đội ta đang tìm cách qua rào, mở cửa từ hàng rào thứ 3. Cửa vừa mở, liện bị đại liên địch quét sát đất chặn cửa mở, và chúng ném xối xả lựu đạn ra đội hình ta bên ngoài rào. Trận đánh giằng co đến 4 giờ sáng. Nguyên Ngọc Bình vừa xốc lại đội hình quyết tâm tiêu diệt đồn 10. Từ Sở chỉ huy, tôi điện hỏi đại đội 50 về trận đánh và tin cho đại đội trưởng 50 biết sẽ tăng cường quân số để đại đội 50 dứt điểm. Đại đội trưởng 50 trả lời tôi: “Báo cáo thủ trưởng, tuy có thương vong nhưng đại đội đã xốc lại đội hình tấn công đợt hai. Các đồng chí không cần lên. Đường đi mìn chưa gỡ. Chúng tôi chiến đấu được. Người lính cuối cùng của trận đánh này là tôi! Các đồng chí cứ yên tâm!”. Đúng như lời Nguyễn Ngọc Bình đã nói, trận đánh đồn 10 được giải quyết lúc 5 giờ sáng. Đồn 10 bị san bằng, 80 tên địch bị diệt, 20 tên bị bắt sống. Nếu tính cả bọn địch bên đồn 9, ta đã diệt cả thảy 157 tên, 43 tên bị bắt sống, ta thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Trận đánh tuy ác liệt, nhưng cuối cùng chúng tôi đã có một trận thắng oanh liệt, đè bẹp được sức kháng cự của bọn địch.

7 giờ. Ta dùng pháo của đồn 10 tổ chức pháo kích vào Tam Quang hỗ trợ bộ đội địa phương tấn công thị trấn. 10 giờ, tiểu đoàn 409 tiếp ứng truy bắt bọn địch trong thị trấn Tam Quang. Đến 16 giờ, đồng bào Hoài Thanh, Hoài Hương… dùng xe hon đa chở quà bánh lên tận xã Hoài Sơn, tặng bộ đội mừng chiến thắng.

Từ chiến thắng Gia Hựu, tôi có thêm bài học về nhân dân. Suốt những tháng năm cùng đơn vị đánh giặc vì dân, cứ mỗi lần đơn vị gặp lâm nguy lại được nhân dân mở rộng vòng tay, tấm lòng nhân hậu ra che chở cho chúng tôi vượt qua. Nghĩa dân là nguồn nước, vô tận. Tình dân là lòng mẹ, mà lòng mẹ thì bao giờ cũng bao la? Chúng tôi là người lính từ nhân dân mà ra, không có nhân dân thì người lính khó bề làm nên một chiến thắng nào trọn vẹn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2010, 07:47:39 pm »

TẬP KÍCH SÂN BAY PLEIKHU
VÀ TRẠI CỐ VẤN MĨ

Sân bay Pleiku nằm về phía bắc đường 19, phía đông đường 14 và cách thị xã Pleiku 4km. Thị xã Pleiku là thủ phủ của tỉnh Gia Lai, một vị trí quan trọng của cả vùng Tây nguyên, nơi có Bộ Tư lệnh quân đoàn 2, vùng 2 chiến thuật, nơi địch cho là vùng an toàn nhất ở miền Nam.

Sân bay Pleiku là sân bay trực thăng từ thời Pháp được đế quốc Mĩ nâng cấp có đường bay cho máy bay vận tải. Ở đây thường xuyên có một đại đội máy bay lên thẳng 20 chiếc, 2 đến 4 chiếc máy bay trinh sát. Cơ sổ máy bay này ở tư thế luôn sẵn sàng cất cánh tham gia phục vụ cho hành quân càn quét của địch. Để phục vụ cho ý đồ mở rộng chiến tranh, đế quốc Mĩ xây thêm một sân bay mới hiện đại hơn, dự kiến khi hoàn thành sẽ thay thế sân bay cũ. Sân bay mới có đường băng cho máy bay vận tải 130 và máy bay ném bom Skraider (loại máy bay cánh quạt). Cả haí sân bay nối liền trên một diện rộng. Có thể xem là hai khu vực bay trên một sân bay. Ở sân bay mới và cũ, từ nhân viên phục vụ đến kĩ thuật, chỉ huy sân bay đều do người Mĩ đảm nhận. Do tính chất quan trọng đặc biệt của sân bay, gắn liền với sự sống còn của bọn địch trong thị xã Pleiku, nên quân địch xây dựng ở đây một hệ thống phòng ngự từ xa gồm các ấp chiến lược vây quanh thị xã Pleiku và sân bay Pleiku. Bên ngoài đường băng có 3 lớp rào thép gai đan mắt cao cao 3 mét, dưới đất có bãi mìn sát thương, mìn phát sáng. Đường tuần tra chạy vòng sân bay bên trong các hàng rào kẽm gai. ở 4 gốc lô cốt, pháo đài và hệ thống đèn pha chiếu sáng suốt đêm. Thường khi từ một đến hai giờ sáng, có 2 trực thăng bay tuần tra thả trái sáng, soi cho sân bay và khu vực cố vấn suốt mùa hạ cũng như mùa đông. Ngoài đại đội bảo an bảo vệ, ban đêm còn có từ 120 đến 150 tên Mĩ ngủ lại trong sân bay, có tốp ngủ gần nơi máy bay đậu.

Sau khi sân bay Biên Hòa bị quân ta tấn công, ở sân bay Pleiku địch tăng cường quân số canh phòng, nghiêm ngặt hơn. Ngoại vi sân bay có một tiểu đoàn biệt động quân, 5 đại đội bảo an, 1 chi đoàn xe bọc thép và các đơn vị quân cảnh án ngữ cửa ngõ từ huyện Lệ Chí đến Blây-cần. Lực lượng bên ngoài tăng cường tuần tra lùng sục, tung gián điệp nghe ngóng hoạt động của ta, ban đêm chúng ta chia nhau đi phục kích các ngã đường trọng yếu dẫn vào thị xã và sân bay Pleiku.

Trại cố vấn Mĩ, nơi ở của các sĩ quan cố vấn Mĩ thuộc vùng 2 chiến thuật có tên là trại Hô-lô-uây. Trại này nằm phía đông, sát quân đoàn bộ, quân đoàn 2 của ngụy, hệ thống kho tàng trong sân bay và cách tiểu đoàn biệt động quân không đầy một cây số. Quân số trong trại cố vấn thường xuyên có từ 120 đến 130 tên, chia nhau ở trong 55 căn nhà được làm theo kiểu tiền chế trong một khu vực an toàn. Bao bọc xung quanh trại Hô-lô-uây là 4 lớp rào kẽm gai đan mắt cáo. Hai lớp rào ngoài cách nhau 4 mét. Hai lớp rào trong cách nhau 25 mét đến 40 mét (Giữa khoảng cách này bọn chúng trồng hoa). Sát tường nhà còn có một lớp rào B40 cao 10 mét, có hệ thống đèn cao áp sáng suốt đêm. Bọn quân cảnh Mĩ (MP) súng lăm lăm trong tay thay phiên đi lại quanh các nhà. Cổng vào thường xuyên đóng kín. Chúng chỉ mở khi có lệnh từ phòng điều hành.

Trên thực địa thị xã Pleiku chia thành 2 khu vực (2 vùng), vùng đồn điền dân cư ở phia tây, khu vực quân sự nằm hết phía đông đường 14, kéo dài về phía bắc thị xã lên giáp với Biển Hồ (Pleiku). Dân tình các vùng đồn điền ở phía nam đường 19 là các ấp chiến lược (vùng này thuộc khu 6 Gia Lai). Phía tây đường 14 tình hình cũng giống như phía nam đường 19 (vùng nay thuộc khu nam Gia Lai). Phía bắc đường 14 thuộc khu 14 địa bàn trống trải. Từ xã Công Găng ra đến (suối) EaKrông địa hình bằng, có nhiều khoảng rưng che khuất, dễ bị lạc, nhất là địa hình từ (suối) EaKrông đến hàng rào sân bay rộng từ 6-8 km, hoàn toàn trống trải dễ bị mất hướng khi bộ đội đi điều tra. Ngoài ánh sáng đèn diện thì khó tìm ra vật chuẩn, đồng trống mắt nhìn mút tầm. Mùa đông ở cao nguyên đêm và buổi sáng sương phủ trắng trời, nhìn xa như một diềm vải trắng quấn quanh những khu đồi, còn ở gần rất khó quan sát. Điều kiện điều tra sân bay hoàn toàn bằng mắt và phán đoán qua bản đồ, sơ đồ.

Sau khi xác định đối tượng tấn công và điều tra địa hình địa vật, ban chỉ huy mặt trận phân công đại đội 30/409 đặc công chia thành hai mũi tấn công vào mục tiêu số 1 là sân bay và mục tiêu số 2 là trại Hô-lô-uây. Nơi ở của cố vấn Mĩ thuộc vùng 2 chiến thuật. Phối thuộc với đại đội 30/409 có hai trung đội 81, 4 khẩu và 70 viên đạn cối, một tiểu đội công binh, một tiểu đội đặc công của Gia Lai, một đại đội địa phương Gia Lai. Ban chỉ huy mặt trận gồm các đồng chí: Nguyễn Thành Tâm tiểu đoàn trưởng 409, làm chỉ huy trưởng, một đồng chí tỉnh ủy viên Gia Lai làm chính trị viên mặt trận, đồng chí Ngô Trọng Đãi làm chỉ huy phó trận đánh. Sau khi nhận nhiệm vụ tác chiến, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thành Tâm, tổ chức hai bộ phận trinh sát đi nghiên cứu chiến trường. Bộ phận số một do đồng chí chỉ huy trưởng trận đánh chỉ huy, bộ phận số hai do chính trị viên chỉ huy phó Ngô Trọng Đãi, chỉ huy. Các công tác bảo đảm vật chất, giải quyết chính sách, tổ chức đường hành lang chuyển quân đến địa điểm tấp kết cuối cùng được giao cho tỉnh đội Gia Lai chịu trách nhiệm.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2010, 07:49:06 pm »

Một điều khó khăn cho công tác điều tra là: Trước đó một tháng một tổ công tác của đặc công Gia Lai đột nhập vào hàng rào cuối cùng bị địch đi tuần dẫm phải, bắt đưa về an] ninh Pleiku tra tấn và chúng theo dấu đến (suối) EaKrông phát hiện thêm nhiều dấu vết của ta. Nghi ngờ ta tấn công, địch tăng cường canh gác cẩn mật. Nằm trong 10 hàng rào thép gai, có 7 cứ điểm, 8 lô cốt, 10 pháo đài cao từ 8-10 mét, giữa những lớp rào đó là bãi mìn, hệ thống đèn pha quét sáng uốt đêm soi rõ từng bụi cỏ, từng con chuột chạy qua, cộng với bọn bảo an quân cảnh, an ninh thường xuyên tuần tra không lúc nào vắng bóng. Nhờ kiên trì, các tổ bám hiện trường lợi dụng sương mù qua mặt bọn tuần tiễu, đột nhập vào sân bay, chiếm các điểm hỏa lực của địch bố phòng trên sơ đồ, bộ phận cối dùng phương thức đo cự li cho phần tử xạ kích. Trong khi đó bộ phận nghiên cứu khu vực cố vấn Mĩ đạt kết quả tốt,

Có kết quả nghiên cứu thực địa, ban chỉ huy trận đánh xác định dùng chiến thuật kì tập bí mật tìm hành vào khu vực sân bay và khu cố vấn Mĩ. Khi trận đanh nổ ra, bộ phận cối pháo kích mạnh vào khu nhà phi công ở cuối sân bay.

Bộ phận đánh sân bay gồm: một tiểu đội đặc công chia thành 3 tổ, chia tổ đánh diệt địch và phá hủy máy bay ở sân bay, một tổ đánh nhà tên đại tá chỉ huy, một tiểu đội B40 có nhiệm vụ đánh sập lô cốt, diệt trung đội địch phòng thủ, giữ cửa mở cho bộ phận đánh sân bay lui quân và tiểu đội công binh gài mìn đường tuần tra trong sân bay ngăn chặn chúng truy kích khi quân ta hoàn thành nhiệm vụ.

Mũ đánh khu cố vẫn Mĩ gồm có 9 đồng chí đặc công được chia thành 3 tổ, phân đội hỏa lực phối hợp cấp tập cối mãnh liệt vào nhà bọn phi công và nhân viên kĩ thuật của chung ở pía nam sân bay. Bộ phận này sau khi bắn hết cơ số đạn thì lui quân về địa điểm xuất phát.

Ở bên ngoài, đại đội địa phương Gia Lai cho một trung đội chặn địch hướng Plây-cần, một tiểu đội chặn địch hướng Lệ Chí hai tiểu đội đứng tại khu vực tập kết để đón và bảo vệ thương binh, cùng các bộ phận khác còn lại bịt đường, chiếm cao điểm, khống chế địch và hành quân đổ bộ bằng trực thăng và bộ binh địch truy kích theo, khi các mũi hoàn thành nhiệm vụ lui quân.

Với tinh thần quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của mặt trận giao, sau hai ngày hành quân, đêm đầu có mặt tại xã Công Găng, đêm thứ hai đến (suối) EaKrông đúng giờ hiệp đồng. Đúng 23 giờ đêm ngay 6/2/1965, các phân đội triển khai tìm cách khắc phục chướng ngại vật.

Mũi sân bay vừa qua hết lớp rào thứ ba, bộ phận công binh do sơ suất kĩ thuật làm nổ một kíp điện. Nhưng địch không phát hiện gì, vì ban đêm ở những đơn vị quanh sân bay thường có súng nổ lẻ tẻ. Các mũi tiếp tục vượt rào qua mặt bọn lính tuần tra đột nhập thẳng vào sân bay. Khi vào đến nơi, mũi trưởng và anh em chiến sĩ phát hiện thấy số máy bay địch đậu nhiều hơn dự kiến. Khi ở ngoài phân công mỗi người đánh hai chiếc, nay phải đánh đến ba chiếc. Nguyên nhân máy bay ở sân bay này nhiều hơn vì quân địch mới chuyển các máy bay đến khu vực sân bay mới. Kinh nghiệm đánh máy bay là phải đánh vào đầu nó, nơi có hệ thống máy móc, mới phá hủy được chiếc máy bay. Các mũi triển khai chiếm lĩnh mục tiêu. Thời gian vẫn chưa đến giờ hợp đồng. Mũi trưởng truyền lệnh; “Mũi ta thuận lợi, nhường các mũi đánh vào khu cố vấn nổ súng trước”.

Đúng 1 giờ 5 phút ngày 7/2/1965, một loạt súng AK nổ dòn dã phía khu cố vấy, tiếp theo là tiếng thủ pháo gầm lên. Mũi đánh sân bay, tổ đánh nhà tên đại tá Mĩ nhất loạt nổ súng. Tiếng bộc phá đánh vào đầu máy bay nổ rền vang, máy bay bốc cháy rần rật sáng rực cả góc trời Tây Nguyên. Ở trận địa cối, các pháo thủ bình tĩnh chỉnh tầm ngắm cho những quả cối rơi trúng khu vực phi công ở làm ngắt quãng tiếng còi báo động đang rú lên ghê rợn trong sân bay. Chỉ trong vòng 3 phút, mũi tấn công sân bay đã hoàn thành nhiệm vụ và phát tín hiệu lui quân theo đường hợp đồng giữa bộ phận hỏa lực B40.

Ở mũi tấn công vào khu cố vấn: Mũi trưởng Nguyễn Huấn vào cùng đồng đội qua khỏi hàng rào cuối cùng đang chờ tiếng nổ lệnh từ sân bay, lúc đó ba tên Mĩ đuầ đội mũ sắt có chữ MP trắng đi tới phát hiện. Chúng chưa kịp đối phó thì chiến sĩ Nguyễn Văn Sướng, đã nhấn một loạt AK nổ dòn ba tên Mĩ đổ sụp xuống. Lập tức các chiến sĩ ở mũi này lao lên. Bộc phá ném thẳng vào ô cửa những căn nhà có bọn cố vấn Mĩ đang ngủ bên trong. Bị đánh bất ngờ, bọn Mĩ ở đây la hét và gầm lên nổ súng bắn hoảng loạn không phương hướng. Chiến sĩ ta chủ động tấn công địch, ở đâu có mục tiêu xạ kích liền bị diệt ngay, những căn nhà tiền chế thi nhau đổ sập, buộc hỏa lực Mĩ câm họng.

Sau 5 phút mưu trí, dũng cảm, ba tổ đánh vào khu cố vấn hoàn thành nhiệm vụ. Mũi trưởng phát tín hiệu chuyển quân ra. Chiến sĩ Nguyễn Văn Sướng, mới 16 tuổi được đi đánh trận đầu, nhưng cậu rất bình tĩnh và lém lĩnh, tay vỗ vào báng súng AK vào nói: “Súng mình bắn sướng thật! Bọn Mĩ - ngụy phen này hết khoe khoang khu vực bất khả xâm phạm”.

Hai mũi tấn công sân bay và khu cố vấn, cùng các bộ phận cối, B40, công binh đã hoàn thành nhiệm vụ và lui quân về địa điểm xuất phát an toàn.

Bình luận về trận đánh tài tình này, Bản tin của hãng AFP ngày 7 tháng 2 năm 1965 viết: “Trong lúc ở Biên Hòa các đồn điền cao su quanh sân bay cho phép “Việt cộng”an toàn tiến sát mục tiêu, thì vùng quanh thị xã Pleiku là một vùng bằng phẳng trống trải, du kích không có một nơi ẩn nấp thiên nhiên nào. Vậy mà họ vẫn đến sát vị trí không bị lộ”.

Sáng ngày 7 tháng 2, Bânđi cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mĩ mới đến Sài Gòn, cùng Oét-mô-len, Tổng chỉ huy quân Mĩ ở miền Nam Việt Nam và Nguyễn Khánh, quốc trưởng bù nhìn hối hả kéo lên Pleiku. Trước cảnh sân bay hoang tàn còn đang bốc khói, Bânđi lặng người không nói, còn Oét-mô-len thì luôn mồm kêu: “Thật xấu quá!”.

Đầu năm, tiểu đoàn 409 đặc công ra quân đánh hai trận đều giành thắng lợi dòn. Trận Gai Hựu các đại đội 40, 50, 60/40i diệt 157 tên địch, bắt sống 43 tên, trận đánh vào sân bay Pleiku và trại cố vấy Mĩ, đại đội 30/409, phá hủy 42 máy bay các loại, có 37 máy bay trực thăng, 3 máy bay trinh sát và 2 máy bay vận tải. Giết và làm bị thương 357 tên Mĩ ngụy (tiêu diệt gọn 1 đại đội bảo an) và 1 đại tá chỉ huy sân bay. Trận đánh vào sân bay Pleiku và trại cố vấn Mĩ là lời cảnh cáo với bọn Mĩ xâm lược và tay sai của chúng rằng: Trên dải đất miền Nam thân yêu của chúng ta, không một nơi nào an toàn cho bọn chúng dung thân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 24 Tháng Mười Hai, 2010, 07:50:19 pm »

Sau một thời gian ngắn củng cố và sơ kết chiến đấu đợt một của chiến dịch, cấp trên lại giao cho cán bộ ch tiểu đoàn đặc công 409 tổ chức điều tra nghiên cứu tấn công cứ điểm Kannát. Đây là một cụm điểm mạnh của quân địch ở Gia Lai. Kannát do một tiểu đoàn biệt kích Mĩ đóng trên ba mỏm đồi, được trang bị hỏa lực mạnh như DKZ 57, trọng liên, súng cối 60 - 81 - 106,7mm. Công sự ở đây chúng làm bằng đất nhồi rơm nên rất kiên cố vững chắc, đạn bắn khó thủng. Đội hình địch bố trí liên hoàn và thường xuyên thay đổi cách bố trí hỏa lực nên việc theo dõi quy luật của địch rất khó khăn và phức tạp. Tiểu đoàn 409 đặc công được bộ chỉ huy mặt trận phân công làm đơn vị chủ công phối hợp cùng Trung đoàn 10 bộ binh đánh tiêu diệt căn cứ Kannát. 13 giờ ngày 7/3/1965, tiểu đoàn 409 đặc công đưa quân cắt rừng tiếp cận cứ điểm. 19 giờ tiểu đoàn chiếm lĩnh mục tiêu. Mũi chủ công phía bắc đưa bộ đội tìm nhập. hướng này bị vướng mìn, quân địch trong cứ điểm Kannát phát hiện, lập tức hỏa lực của chúng từ hai mỏm đồi dồn xuống mũi quân ta phía bắc. trong ba mỏm đồi, chỉ có mỏm đồi phía nam bị tiêu diệt. Còn hai mỏm đồi ở phái bắc bị địch khống chế ác liệt. Bộ đội phơi lưng giữa làn hỏa lực địch. Mất yếu tố bất ngờ, cứ điểm Kannát không dứt điểm được. 20 cán bộ chiến sĩ nòng cốt của tiểu đoàn 409 đặc công bị hi sinh, 15 chiến sĩ bị thương. Sau trận đánh, ban chỉ huy tiểu đoàn họp kiểm điểm rút ra nguyên nhân: Một là làm lộ dấu vết khi nghiên cứu, hai là mất yếu tố bất ngờ để địch chủ động đối phó, kế hoạch hợp đồng trong trận này giữa các mũi của trung đoàn 10 bộ binh thiếu chặt chẽ. Chưa nắm chắc chiến thuật đánh đặc công giữa kì tập và cường tập không dứt khoát, còn ỷ lại vào hỏa lực của trung đoàn 10. Có thể áp đảo được hỏa lực địch, nhưng trên thực tế không đạt được yêu cầu đặt ra, dẫn đến thương vong lớn cho đơn vị. Tiểu đoàn 409 đặc công và bộ binh trung đoàn 10 phải mất một thời gian để củng cố tư tưởng. Đây là một bài học xương máu cho lực lượng đặc công Quân khu. Tiểu đoàn 40 đặc công qua đó rút ra bài học kinh nghiệm hợp đồng và trong nghiên cứu điều tra cứ điểm địch trước khi đánh.

Trong cuộc đời binh ngũ của tôi, có lẽ nỗi day dứt, tiếc thương, đồng chí, đồng đội đã làm cho tôi luôn nghĩ đến những điều không may trong chiến tranh, nhưng đó là trách nhiệm của những người chỉ huy, người lãnh đạo, đã không lường hết được tình thế để có đối sách, có chiến thuật linh hoạt, tránh được tổn thất cho anh em. Trận đụng đầu với giặc Pháp tại Gò Rang, quê tôi năm 1947, rồi hai năm ở đơn vị đặc công 409 (1964-19650 tại chiến trường Tây Nguyên. Các chiến sĩ sống gian khổ, thiếu thốn, nhưng vẫn lạc quan yêu đời, tin yêu đồng đôi, chấp hành mệnh lệnh tuyệt đối, chiến đấu dũng cảm kiên cường, vượt qua lửa đạn, đạp lên đầu thù mà tiến, không tiếc xương máu hi sinh. Các đồng chí đã nằm lại trận địa, vĩnh viễn không về. mỗi khi nhớ lại, lòng tôi quặn thắt, khôn nguôi.

Bước vào chiến dịch hè năm 1965, tiểu đoàn 409 đặc công phối hợp với 3 trung đoàn bộ binh số 2, số 10 và 12, cơ động vào phái nam Tây Nguyên. Tiểu đoàn 409 đặc công tiêu diệt cứ điểm Woanh-chăm, trận đánh này tiểu đoàn giành thắng lợi hoàn toàn. Tiểu đoàn lập lại chiến công, giữ vững đội hình chiến đấu dày dạn của mình. Tiểu đoàn phân công ba đại đội 40, 50, 60/409 tổ chức tấn công cụm cứ điểm Buôn Rao ở tỉnh Đaklắk nơi địch xây dựng hang trăm ấp chiến lược, nhưng chỉ có ấp chiến lược Buôn Rao là kiên cố hất. Chúng dùng tre nguyên cây đào sâu chôn sít vào nhau, nhổ không lên, trong hàng rào tre cây là bãi mìn, dây thép gai rào mái nhà, có giao thông hào và công sự chiến đấu. Buôn Rao do một đại đội bảo an và ba trung đội dân vệ trấn giữ. Với các bố phòng như vậy, nên bọn địch ở đây lớn tiếng thách thức: ”Cộng sản đánh được Buôn Rao, quốc gia sẽ giao vũ khí và mở cửa các ấp chiến lược cho Cách Mạng vào” Lời thách thức đó của chúng, đã được cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 409 đặc công trả lời trong đêm 25/6/1965. Sau khi cho bộ đội bí mật tiếp cận, tiểu đoàn cho 3 khẩu 81mm bắn hết 100 quả đạn vào bọn bảo an trong ấp chiến lược băm nát cửa mở, các tổ xung kích của ta tiếp cận lập tức đánh bộc phá vào lô cốt, phát triển chiếm khu trung tâm, tiêu diệt quân địch. Quân địch không chống đỡ nỗi đòn sấm sét của tiểu đoàn 409 đặc công, số còn sống bị thương phải lũ lượt kéo ra hàng, xin cách mạng tha tội chết cho chúng. Bộ đội và nhân dân làm chủ ấp chiến lược Buôn Rao. Sau ba ngày tiểu đoàn đánh chiếm Buôn Rao, đại đội 30/409, do tham mưu trưởng Lê Sơn Hổ chỉ huy cơ động và chiến trường Khánh Hòa. Đêm 26/6/1965, đại đội 30/409 chia thành hai mũi, tập kích sân bay Nha Trang phá hủy 20 máy bay và tập kích trại huấn luyện Đồng Đế diệt và làm bị thương 100 học viên sĩ quan của chúng tại đây. Hai trận đánh diễn ra trong một đêm làm quân ngụy hoang mang, lo sợ.

Sau hơn một năm thành lập, được sự lãnh đạo và chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu 5, sự gắn kết với nhân dân và được nhân dân Kinh Thượng thương yêu đùm bọc và giúp đỡ, cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 409 đặc công phát huy tinh thần dũng cảm chiến đấu, lập nên nhiều chiến công lẫy lừng, đánh dấu được bước trưởng thành của tiểu đoàn, trong đó có chiến thắng An Lão, sân bay Pleiku, trại cố vấn Hô-lô-uây gây tiếng vang lớn trên chiến trường. Những chiến công đó ban đầu, đúng như lời Bác Hồ kính yêu đã dạy và là niềm tự hào của binh chủng:

Đặc biệt tinh nhuệ
Anh dũng tuyệt vời
Mưu trí, táo bạo
Đánh hiểm, thắng lớn


Kết thúc chiến dịch Xuân Hè 1965, ban chỉ huy tiểu đoàn 409 đặc công đưa quân về căn cứ Cây Múi - Nước Đang, phía tây huyện Đức Phổ - Quảng Ngãi để học tập, xây dựng đơn vị và sẵn sàng tư thế tiếp tục vào giai đoạn trực tiếp chiến đấu vứi quân đội Mĩ và chư hầu đang ngoan cố, tung quân, càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng, cố giữ các đồn bót, cứ điểm của chúng, và kèm kẹp đồng bào ta.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Mười Hai, 2010, 09:33:32 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2010, 09:34:43 pm »

CHƯƠNG V

HAI NĂM TRÊN CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NGÃI

Trước khi xuất quân vào chiến dịch Thu Đông năm 1965, Quân khu 5 tổ chức hội nghị quân chính kiểm điểm mọi mặt của chiến dịch Xuân Hè, nhằm đánh giá mức độ tổ chức các mặt trên chiến trường toàn Quân khu. Trên mặt trận quân sự, các lực lượng vũ trang Quân khu đã có một quyết tâm cao chính xác, mưu trí, táo bạo tiêu diệt quân địch có số lượng binh khí kĩ thuật nhiều hơn ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh, các lực lượng vũ trang trên toàn Quân khu đã chọn đúng đối tượng tác chiến, áp dụng chiến thuật cường tập, mật tập linh hoạt. Từ chiến trường An Lão, Gia Hựu, Pleiku, Dương Liễu, đèo Nhông trước đó đến chiến dịch Xuân Hè, trung đoàn 1 diệt cứ điểm Ba Gia, kéo quân địch ra cứu viện diệt gọn 1 chiến đoàn ngụy tại Sơn Tịnh, giải phóng đại bộ phận tỉnh Quảng Ngãi. Trung đoàn 1 từ đây nổi danh với cái tên đi vào lịch sử: “Trung đoàn Ba Gia”. Các trung đoàn 2 trung đoàn 10, tiểu đoàn đặc công 409, 407 và lực lượng vũ trang các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Đăklăc, Tây Nguyên tiêu diệt nhiêu đồn bót địch, giải phóng một vùng nông thôn rộng lớn ở các tỉnh phía nam của địa bàn Quân khu. Những chiến thắng trên đây, mở ra hình thái chiến trường có lợi cho ta. Trong các trận đánh địch càn quét lấn chiếm, các đơn vị chủ lực từ Quân khu đến các tỉnh, huyện, nghiên cứu địa hình chọn địa đoạn phục kích tạo nhiều khả năng tiêu diệt quân địch. Vai trò cán bộ từ tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn thể hiện rõ trách nhiệm và bản lính chỉ huy, tinh thần chiến đấu của bộ đội anh dũng lập công xuất sắc. Mặt nhược điểm của chúng ta trên chiến trường là còn kém về hiệp đồng binh chủng, hỏa lực chưa phát huy, hỏa lực và bộ binh phối hợp chưa khớp trong tấn công địch làm hạn chế thắng lợi tiêu diệt địch. Tuy nhiên, mặt nhược điểm thì ít, còn thắng lợi thì to lớn, ta đã đưa quân ngụy rơi vào thế bị động. Một mảng chính quyền và ấp chiến lược của địch ở nông thôn bị tan rã.

Để cứu vãn tình thế ở miền Nam và vực dậy chế độ Nguyễn Văn Thiệu, đế quốc Mĩ tiến hành đưa quân vào trực tiếp chiến đấu ở miền Nam. Hội nghị quân chính lần này có tầm quan trọng và được xem là hội nghị quyết tâm đánh Mĩ của toàn Quân khu. Sắp đến, đối tượng tác chiến của các lực lượng vũ trang ta trên địa bàn Quân khu, ngoài quân ngụy ra là quân Mĩ và bọn chư hầu, một đội quân nhà nghề được trang bị tận răng. Ngay sau khi quân Mĩ nhảy vào Đà Nẵng ngày 8/3/1965, Bộ Tư lệnh Quân khu đã chỉ thị cho các đơn vị vũ trang quyết tâm đánh Mĩ. Chỉ thị nêu rõ: “Việc tiêu diệt từng đơn vị quân Mĩ có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với chiến trường miền Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế, không chỉ có ý nghĩa chiến thuật mà còn có ý nghĩa chiến lược”. Đáp lời kêu gọi đó, tại Quảng Nam, với 63 cán bộ chiến sĩ đã đánh và tiêu diệt 1 đại đội thủy quân lục chiến Mĩ tại đồi Núi Thành đêm 26/5/1965. Trận đánh Mĩ và thắng Mĩ đầu tiên đã trả lời cho quân và dân ta câu hỏi: “Liệu ta có đánh được Mĩ không?” Vì lí tưởng giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, chúng ta quyết đánh và quyết thắng giặc Mĩ và bọn tay sai. Cả hội nghị sôi sục khí thế chiến đấu.

Ngay sau hội nghị quân chính toàn Quân khu, đồng chí Nguyễn Đôn, Tư lệnh Quân khu trực tiếp gặp tôi và nói: “Đợt này, Quân khu quyết định rút một số cán bộ của chủ lực tăng cường cho các tỉnh. Trong đó có đồng chí và đồng chí Hà Văn Trí về tỉnh Quảng Ngãi. Đồng chí làm chính trị viên tỉnh đội, Hà Văn Trí là tỉnh đội trưởng”. Nghe tin phải đi xa đơn vị lòng tôi chợt bồi hồi. Hai năm qua sống chết có nhau, anh em đêm dầm sương, ngya băng lửa đạn, hạt muối cắn đôi, củ khoai xẻ nửa, khi phải xa nhau lòng ai không bùi ngùi. Tôi đi dự hội nghị, nghĩ rằng chỉ một tuần sau sẽ về, thế mà đến nay…

Thấy tôi tư lự, đồng chí Tư lệnh Quân khu hỏi; “Đồng chí có gì thắc mắc thì trình bày với tổ chức trước khi nhận nhiệm vụ”. Tôi trả lời: “Thưa thủ trưởng, tôi không thắc mắc gì, vì trước khi đi dự hội nghị tôi chưa kịp từ giã anh em, lần chia tay này không biết bao giờ mới có điều kiện gặp lại nhau”. Đồng chí Tư lệnh nói: “Lo gì, mai kia 409 vẫn hoạt động trên địa bàn Quảng Ngãi mà”. Thấy tôi không có ý kiến gì thêm, đồng chí Tư lệnh Quân khu nói tiếp: “Quảng Ngãi là một tỉnh có lực lượng vũ trang đông và mạnh so với các tỉnh khác. Nhưng một nhược điểm đáng chú ý, là Quảng Ngãi chưa diệt gọn được đơn vị địch và đánh vào cứ điểm còn khó khăn. Yêu cầu của Quân khu giao cho đồng chí và đồng chí Trí, khi về Quảng Ngãi làm thế nào phải tổ chức đánh tiêu diệt gọn từng trung đội, đại đội, tiến lên đánh tiêu diệt tiểu đoàn địch, mà không chỉ đánh bọn bảo an, mà còn đánh cả lực lượng cộng hòa, biệt động quân, thủy quân lục chiến… Vân đề hết sức quan trọng, hiện nay tư tưởng của bộ đội, khi nghe tin bọn Mĩ đổ bộ vào Đà nẵng, có người tỏ ra gờm không dám đánh. Phải lấy bài học Núi Thành, xây dựng cho tuổi trẻ Quảng Ngãi thấy được trách nhiệm đánh Mĩ là trách nhiệm lịch sử đã giao cho họ. Địa hình Quảng Ngãi đồng chí đã từng công tác nên đã rõ. Nhưng không chỉ dừng lại ở sự hiểu biết đơn thuần, mà phải suy nghĩ, tính toán phương án, kế hoạch phòng thủ, xây dựng làng chiến đấu. Những bãi trống cần cắm cọc cao và trông che để chông quân địch đổ bộ đường không. Mĩ vào, bom đạn Mĩ trút xuống sẽ vô cùng ác liệt. Để tạo cho cán bộ, chiến sĩ trụ bám có thể đánh nhiều trận, quần lộn với địch ngày đêm thực hiện khẩu hiệu của Bộ tư lệnh miền: “Tìm Mĩ mà đánh, tìm ngụy mà diệt. Muốn thắng Mĩ thì công sự phải vững chắc, cho bộ đội và cho cả nhân dân, không để nhân dân chạy xà đùa khi các trận chiến đấu nổ ra, mới hạn chế được thương vong. Những dãi núi hiểm có thể đục thành công sự làm ở chỉ huy, làm hầm bệnh xá… Vừa qua đế quốc Mĩ đã dùng B52 rải thảm ở địa phận huyện 21, Nước Trắng, Phương Đông, Dương Yên (thuộc huyện Trà Mi, Tiên Phước) nhờ có công sự mà ta ít thương vong. Đây là bài học kinh nghiệm xương máu, đồng chí về địa phương công tác, môi trường có khác với khi ở bộ đội chủ lực, việc gì cũng phải tranh thủ ý kiến của lãnh đạo, ý tứ phải chặt chẽ, tôn trọng sự lãnh đạo tập thể để giữ gìn quan hệ ngày càng phát triển tốt hon”. Đồng chí Tư lệnh nói đến đó vỗ vai tôi và hỏi tiếp: “Tôi hỏi thật, đồng chí và đồng chí Trí về Quảng Ngãi hai anh em cộng tác với nhau, huấn luyện lực lượng vũ trang sẵn có, liệu mấy tháng thì đánh được?”.

Tôi trả lời đồng chí Tư lệnh: “Các ý kiến của đồng chí thủ trưởng tôi xin tiếp thu và quyết tâm thực hiện cho kì được. Theo tôi, thì về mặt tác chiến có anh Hà Văn Trí và còn có anh Nguyễn Ngọc Hiệp, anh Nguyễn Thuần, anh Nguyễn Chữ trong ban chỉ huy tỉnh đội, sẽ nghiên cứu toàn diện khả năng tác chiến tại Quảng Ngãi. Sớm nhất là 3 tuần đến 1 tháng, chúng tôi sẽ đánh được địch đi càn quét ngoài công sự và lực lượng đặc công có thể diệt từng cứ điểm từ 1 trung đội đến 1 đại đội”. Đồng chí Tư lệnh Quân khu lại vỗ vai tôi nói tiếp: “Nếu làm được như lời đồng chí hứa thì tốt quá. Tôi giao cho đồng chí từ 2 đến 3 tháng, phải diệt được một số điểm chốt ở hành lang, đánh tiêu diệt địch càn từ 1 đại đội đến 1 tiểu đoàn, đồng chí làm được điều đó sẽ tạo cơ sở cho Đảng bộ và nhân dân tin tưởng. Tôi mong đồng chí cố gắng”.

Tôi đứng nghiêm đưa tay lên ngang mày chào đồng chí Tư lệnh Quân khu với một quyết tâm chiến thắng!
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2010, 09:35:39 pm »

Tôi và đồng chí Hà Văn Trí cùng nhận quyết định và nhanh chóng về căn cứ tỉnh đội Quảng Ngãi. Trên đường đi, chúng tôi nhận được tin chiến thắng Vạn Tường ngày 18/8/1965. Đây là một trận đánh phủ đầu quân xâm lược Mĩ khi chúng mới đặt chân lên đất Quảng Ngãi. Xác xe tăng của chúng bị cháy ngổn ngang cùng với xác những tên lính Mĩ tạo niềm tin mãnh liệt, tạo thế và lực cho nhân dân và lực lượng vũ trang Quảng Ngãi phát triển. Một điều thuận lợi cho chúng tôi, là đồng chí Hà Văn Trí trước đây cùng ở trung đoàn 2 bộ binh quân giải phóng với tôi, nay lại được về Quảng Ngãi cùng công tác và chiến đấu bên nhau có thể nói là: “tâm đầu ý hợp” từ lâu. Đồng chí Hà Văn Trí, trẻ hơn tôi 3 tuổi, dũng cảm, nhiệt tình trong công tác, có năng lực chỉ huy, sáng tạo trong chiến đấu và nhất là đoàn kết nội bộ tốt. Được thuận lợi ấy, hai chúng tôi không phải mất thời gian tìm hiểu nhau mà lao ngay vào công việc.

Sau 2 ngay chúng tôi về đến căn cứ, tỉnh ủy Quảng Ngãi triệu tập cuộc họp ban cán sự tỉnh đội. Cuộc họp do anh Biền (Bí danh Xuân Thưởng), Bí thư tỉnh ủy chủ trì. Chúng tôi được các anh Thuần, anh Chữ, anh Hiệp trong ban cán sự tỉnh đội báo cáo tình hình địch, quân số, cứ điểm, lực lượng cơ động của địch đứng chân trên đồng bằng, miền núi, thị trấn, thị xã của Quảng Ngãi; cả tình hình an ninh và mạng lưới tề điệp hoạt động của đối tượng này. Ngày 24/8/1965, trên cương vị chức trách của Đảng giao, chúng tôi triệu tập cuộc họp quân chính toàn tỉnh, gồm ban chỉ huy tiểu đoàn 83 và tiểu đoàn 48 bộ binh tỉnh, các ban chỉ huy 2 đại đội đặc công, chỉ huy các bộ phận chuyện môn: công binh, trinh sát, thông tin, vận tải; 3 cơ quan tham mưu chính trị hậu cần, 2 bệnh xá cánh nam và cánh bắc, các ban chỉ huy huyện đội… để nghe báo tình hình của các đơn vị, tình hình địch trên địa bàn và đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của từng đơn vị tập trung của tỉnh, của huyện, tình hình vùng du kích, vùng căn cứ, vùng tranh chấp, vùng địch kiểm soát, để bổ sung và đề ra nhiệm vụ xây dựng các phương án tác chiến cho từng đơn vị. Đồng thời phổ biến âm mưu của địch, nhấn mạnh đến diễn biến của chiến tranh cục bộ do đế quốc Mĩ và bọn chư hầu, tay sai tiến hành, đề ra phương án chung cụ thể cho từng huyện, từng xã chuẩn bị cho chiến dịch Thu Đông. Nhìn chung lực lượng vũ trang của tỉnh Quảng Ngãi khá mạnh như đồng chí Tư lệnh Quân khu đã nói với tôi trước khi tôi đi nhận nhiệm vụ. Lực lượng vũ trang Quảng Ngãi hiện có 2 tiểu đoàn bộ binh cơ động, 2 đại đội đặc công, 7 đại đội trực thuộc. Trong 10 huyện của tỉnh, thì ở đồng bằng đã xây dựng được mỗi huyện 1 đại đội tập trung, ngoài ra còn có lực lượng dân quân du kích phân bố đều khắp ở các xã vùng du kích, vùng căn cứ và vùng tranh chấp. Khí thế của lực lượng vũ trang Quảng Ngãi đang ở tư thế sẵn sàng lập công.

Sau khi ổn định tổ chức, Ban chỉ huy tỉnh đội tổ chức một đoàn cán bộ đi khảo sát chiến trường và nghiên cứu thực địa ở cả 2 cánh nam và bắc Quảng Ngãi để xây dựng thế trận. Thời gian này quân Mĩ đã vào đóng ở căn cứ Chu Lai, Đường số 1, đoạn từ An Tân vào đến dốc Sởi xe nhà binh đậu kín mặt đường, ban đêm đèn pha bật sáng đến nhức mắt, ban ngày các loại máy bay quần đảo trinh sát ném bom vào vùng ven, vùng giải phóng để bảo vệ căn cứ của chúng. Quân ngụy ỷ lại có quân Mĩ vào chúng ít đi lùng sục. Vùng giải phóng Quảng Ngãi nhiều nơi liên hoàn, chúng tôi đi bộ, đi xe đạp, có đoạn đi ghe, xã nào có đồn bót địch thì cải trang hợp pháp tiếp cận tìm hiểu quan sát và xác lập các vị trí địa bàn. Cuối cùng chọn được 6 khu quyết chiến điểm.

Khu 1: Gò Sỏi, nằm ở phái nam xã Bình Trung, huyện Bình Sơn. Địa đoạn này tổ chức phục kích tốt. Khi địch vào, chúng có thể đóng quân tại đây tạo điều kiện cho bộ đội ta tập kích tiêu diệt từng bộ phận. Chúng tôi cho dân quân, bộ đội và vận động nhân dân đào sẵn hào giao thông, phát quang những nơi bộ đội có thể xuất kích thuận tiện, nhanh chóng.

Khu 2: Ở Thế Long, Thế Lợi, thuộc xã Sơn Kim, (ta gọi là Tịnh Thọ) thuộc huyện Sơn Tịnh, đây là hành lang từ phía tây xuống phía đông, vừa vận chuyển lương thực và vừa chuyển quân. Ban đêm đi cả tiểu đoàn vẫn an toàn. Khu vực này địch có thể hành quân bất ngờ từ Quảng Ngãi ra, ta xây dựng trận địa sẵn sàng đánh địch.

Khu 3: Nằm ở Quán Lát huyện Mộ Đức.

Khu 4: Ở tại núi Vom, thuộc huyện Nghĩa Hành có điạ hình tốt, có thể đánh lớn tiêu diệt nhiều địch.

Khu 5: Ở xã Đức Phong (huyện Mộ Đức) giáp với Phổ An, Phổ Quang (huyện Đức Phổ) cạnh đồi Ông Đọ, đây là một điểm cao đột xuất có địa đạo, hào giao thông nhân dân đào sẵn. có thể tổ chức đánh địch tránh bớt thương vong cho ta.

Khu 6: Từ Phổ Thuận đến Phổ Văn (huyện Đức Phổ) có khả năng phục kích diệt địch đi càn, quân số từ đại đội trở lên.

Trong 6 khu này, chúng tôi chụp ảnh, vẽ địa hình và tổ chức trận địa để sẵn sàng đánh địch khi chúng liều lĩnh đổ quân vào.

Về chuẩn bị các cứ điểm, chúng tôi nhất trí chọn 4 cứ điểm: Đồi Ông Râu, thuộc Bình Sơn, Núi Đất Long Phụng thuộc xã Đức Nhuận, huyện Đức Phổ; Đá Heo ở Sa Huỳnh, thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ; Núi Giàng thuộc xã Phổ Minh… Các mục tiêu trên đây được giao cho 2 đại đội đặc công 506a và 506b của tỉnh chịu trách nhiệm điều tra, nghiên cứu và tổ chức thực hành tấn công… Ngoài ra, chúng tôi còn tổ chức trận địa cho 2 tiểu đoàn 48 và 83 bộ binh tác chiến. Ban chỉ huy tinh đội giao cho mỗi huyện chọn 1 đến 2 cứ điểm và 1 đến 2 ấp chiến lược. Nhưng mục tiêu này có thể nổ súng trong tháng 9/1965.

Trong lúc khẩn trương củng cố và phát triển lực lượng, Quảng Ngãi hết sức chú trọng phát triển thế trận chiến tranh nhân dân, huy động tất cả các lực lượng vũ trang khẩn trương xây dựng làng chiến đấu, trận địa chiến đấu, vành đai quanh các khu căn cứ Mĩ, kiên quyết giữ thế chủ động liên tục tấn công địch giữ vị trí chiến đấu ở từng địa bàn, sẵn sàng diệt ác, phá kèm, mở rộng vùng giải phóng và đánh địch đi càn quét, lấn chiếm.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2010, 09:37:30 pm »

XÁC ĐỊNH QUYẾT TÂM
HỌC TẬP ĐIỂN HÌNH

Để chuẩn bị tư tưởng cho lực lượng vũ trang toàn tỉnh bước vào cuộc chiến đấu mới, tỉnh ủy, ban chỉ huy tỉnh đội Quảng Ngãi tổ chức Đại hội chiến sĩ thi đua của các lực lượng vũ trang từ ngày 11 đến 15 tháng 9 năm 1965. Đây là Đại hôi của “Tinh thần quyết đánh và quyết thắng giặc Mĩ xâm lược”.

Từ “Vành đai diệt Mĩ” Bình Sơn đến Đức Phổ, từ các huyện miền núi đến các huyện ven biển, từ vùng nông thôn đồng bằng, đến các thị trấn thị xã, từ các đơn vị vũ trang của tỉnh, huyện đến du kích xã, thôn đã cử những đại biểu ưu tú xuất sắc trong chiến đấu “3 mũi giáp công, 3 thứ quân” mang đến Đại hội những chiến công oanh liệt, những kinh nghiệm quý báu, tiêu biểu của tinh thần liên tục tấn công, quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mĩ xâm lược bất kì trong tình huống nào.

Trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, nhưng Đại hội đã họp đến 4 ngày. Ban ngày nghe báo cáo của điển hình, từ kinh nghiệm chiến đấu, đến tổng kết phong trào thi đua giết giặc lập công của lực lượng vũ trang trong tỉnh. Một ngày nghe nghị quyết của khu ủy và tỉnh ủy về chủ trương quyết tâm đánh Mĩ. Tôi còn nhớ những bông hoa chiến công tươi thắm được Đại hôi chào mừng và học tập như:

- Xã Phổi Hiệp, huyện Đức Phổ tiêu biểu cho phong trào đấu tranh 2 chân 3 mũi giáp công (Đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị. Đấu tranh vũ trang, chính trị, binh vận), linh hoạt và sáng tạo.

- Xã Tịnh Khê huyện Sơn Tịnh điển hình về tinh thần đóng góp sức người sức của xây dựng địa đạo chiến, xây dựng làng chiến đấu và liên tục tấn công địch.

- Xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, từ khi Mĩ vào tập trung đánh phá, bắn giết, uy hiếp tinh thần nhân dân địa phương. Để đối phó với hành động dã man của quân xâm lược Mĩ, nhân dân Bình Đông đã thành công xây dựng làng chiến đấu, vành đai diệt Mĩ, liên tục tấn công Mĩ, trụ bám và quyết giữ từng cột nhà, gốc cau, mảnh vườn, không để cho địch đốt phá lấn chiếm. Nhân dân cùng đồng lòng đánh Mĩ. Em Nguyễn Văn Hữu mới 11 tuổi, đã mưu trí lấy được 1 khẩu M79 của Mĩ đêm về cho các cô chú du kích xã. Và biết bao gương sáng khác ở Bình Đông, phát triển ra cả huyện Binh Sơn và trong tỉnh.

- Xã Sơn Thủy, huyện Sơn Hà tiêu biểu cho phong trào vừa chiến đấu vừa sản xuất, đồng thời là một xã có kinh nghiệm đấu tranh theo phương châm 2 chân 3 mũi giáp công ở vùng dân tộc thiểu số H’re.

Bên cạnh nhũng điển hình tiêu biểu của tập thể, nhiều cá nhấn xuất sắc thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm như em Thơ, 14 tuổi quê ở Đức Phổ. Khi đich tấn công vào làng, thế địch mạnh, lực lượng du kích được lệnh phân tán để bảo toàn chiến đấu lâu dài, không may một chiến sĩ du kích bị thương ở chân không đi được,phải nằm lại dưới giao thông hào. Nếu để bọn địch tràn đến phát hiện được người chiến sĩ du kích sẽ bị sát hại ngay. Em liền cải trang chạy ra đón toán quân địch và hô lớn: “Việt công nằm phục phía trước, súng ống to lắm, mấy ông chạy đến sẽ bị hốt xác đó”. Bọn địch hốt hoảng tháo chạy trở lui. Bằng hành động mưu trí đó của em Thơ, đã cứu được người chiến sĩ du kích bị thương khỏi rơi vào tay giặc.

Qua 3 ngày nghe báo cáo, nhiều gương điển hình tiên tiến đã nêu lên nhiều bài học thực tiễn, về tinh thần chiến đấu dũng cảm, liên tục đánh cả Mĩ, lẫn ngụy, giữ vững quyết tâm: Nhân dân bám chắc quê hương xây dựng làng chiến đấu, bộ đội tập trung tỉnh, huyện mưu trí, sáng tạo tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đã có sức hấp dẫn và cổ vũ quân dân trong tỉnh ra sức thi đua đánh thắng giặc Mĩ xâm lược. Suốt trong những ngày đại hội tôi được tiếp xúc với các đối tượng và địa phương có thành tích, càng thấy tin tưởng tự hào về tinh thần đánh giặc cứu nước của Quảng Ngãi anh hùng. Trong Đại hội này, đã giúp tôi hiểu biết thêm về con người, và vùng đất chiến trường mới, công tác mới, khẳng định niềm tin trong tôi về sự tất thắng sẽ đến, khi đối mặt với kẻ thù.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2010, 09:42:55 pm »

Ngày thứ tư ở Đại hội, tôi được phân công bao cáo 2 nghị quyết: 1 của khu ủy Khu 5 và 1 củ tinh ủy Quảng ngãi. Trong đại hội này, ngoài đại biểu là chiến sĩ thi đua, điển hình tiên tiến, còn có bí thư các huyện, thị xã, bí thư các tiểu đoàn tập trung và đơn vị trực thuộc, nên Tinh ủy cho phép báo cáo để đại hội quán triệt những tinh thần cơ bản, cốt lõi của nghị quyết.

Nội dung nghị quyết của khu ủy và Quân khu đề ra cho lực lượng vũ trang là: ”Ra sức tấn công và và phản công địch, kiên quyết tiêu diệt quân Mĩ, quân ngụy, đánh bại các chiến dịch phản công của chúng. Giữ vững, mở rộng, xây dựng và bảo vệ khu căn cư địa miền núi và vùng giải phóng đồng bằng, phát triển lực lượng cách mạng trên tinh thần tư tưởng chỉ đạo tác chiến: Chủ động tấn công địch, tích cực phản công địch càn quét, chú trọng kết hợp tác chiến và xây dựng lực lượng 3 thứ quân. Nhất là lực lượng bộ đội chủ lực”. Sau khi quán triệt nghị quyết cấp trên, đến lượt phổ biến nghị quyết của tỉnh ủy Quảng Ngãi, tôi phân tích tình hình của từng địa phương, nêu rõ âm mưu hoạt động của địch trong tương lai và khả năng mạnh, yếu của địch trên chiến trường.

Về phần phân tích tình hình của ta, nghị quyết nêu rõ: “Tình hình phát triển của nhân dân, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, vai trò của lực lượng vũ trang, đánh giá khả năng, sức chiến đấu, trình độ kĩ thuật, năng lực chỉ huy, công tác bảo đảm hậu cần, đi sâu về vấn đề trang bị vũ khí bảo đảm cho chiến đấu thắng lợi”. Từ đó nghị quyết đề ra những chủ trương như sau: ”Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân giữ vững quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược trong bất kì loại chiến tranh nào, phát huy cao độ tinh thần “Tìm Mĩ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”. Mọi cá nhân, tập thể thi đua đạt danh hiệu dũng sĩ diệt Mĩ, dũng sĩ diệt ngụy. Khẩn trương xây dựng lực lượng quân sự, lực lượng chính trị. Trong lực lượng quân sự phải chú ý toàn diện, xây dựng các tiểu đoàn tập trung, đại đội đặc công, bộ đội huyện và phải đánh tiêu diệt từ trung đội, đại đội trở lên. Xây dựng lực lượng du kích vững mạnh ở các xã, huấn luyện cho du kích đánh tốt, tiêu hao, tiêu diệt địch rộng rãi đều khắp trên các chiến trường trong tỉnh. Đẩy mạnh phương châm 2 chân 3 mũi giáp công giành thắng lợi trong mùa mưa và thắng lớn trong mùa khô”.

Sau khi truyền đại 2 nghị quyết cho đại hội, tôi thấy mọi người phổ biến quyết tâm và tin tưởng hoàn toàn vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó đã trả lời được những thắc mắc tồn tại lâu nay là: “Mĩ vào lực lượng vũ trang ta có đánh được Mĩ không? Đánh bằng cách nào? Mĩ vào đấu tranh chính trị được không? Đấu tranh như thế nào?”. Lần này những câu hỏi đó đã được nhân dân và các lực lượng cách mạng Bình Sơn giải đáp: Vành đai diệt Mĩ phía nam căn cứ Chu Lai của huyện Bình Sơn, là khu vực chiến sự diễn ra vô cụng ác liệt. ngay từ khi quân Mĩ đổ vào đây, bằng mọi thủ đoạn, chúng cố tiêu diệt cuộc chiến tranh nhân dân của ta để bảo vệ an toàn căn cứ quân sự của chúng cùng với vành đai diệt Mĩ phía bắc tỉnh Quảng Nam, vành đai diệt Mĩ phía nam Chu Lai của Bình Sơn đang vây chặt lấy căn cứ Chu Lai. Các chi bộ Đảng, các cán bộ, đảng viên ở đây được rèn luyện trong ác liệt bằng thực tế chiến trường luôn sáng tạo, biến hóa nhiều hình thức tấn công quân sự, kết hợp tấn công chính trị, bằng phương châm 2 hân 3 mũi giáp công, vô hiệu hóa được các âm mưu đối phó của quân Mĩ. Xã Bình Đông huyện Bình Sơn, là một xã ven biển nằm sát căn cứ Chu Lai, nhân dân sinh sống bằng nghề đánh bắt hải sản. Quân Mĩ đến, một mặt chúng dùng chính sách kinh tế để mua chuộc lòng dân, một mặt tiến hành tấn công vào đời sống của nhân dân, buộc dân kê khai tàu thuyền để chúng quản lí, mỗi chuyến đi biển của dân đều bị chúng kiểm soát găt gao. Vì vậy đời sống chủa nhân dân khó khăn cơ cực. Đến Bình Đông có nhiêu toán lính Mĩ ở lại trong làng, tập trung dân lâp tề. Có một chuyện khôi hài kiểu Mĩ bị dân tẩy chay, bọn chúng đưa đến một tên thượng sĩ Mĩ, đầu đội khăn đóng, mình mặc áo dài đen. Hắn chắp tay cúi chào trước dân Bình Đông, xin cho hắn làm thôn trưởng để đại diên cho nhân dân. Nghe giọng nói lơ lơ với cách phát âm tiếng Việt không dấu, cùng với cử chỉ lố bịch của nó, nhân dân không nhịn được cười! Bà con vỗ tay cười, ban đầu tên thượng sĩ Mĩ tưởng dân ta vui vẻ nghe nó nói, nhưng không ngờ tiếng vỗ tay càng lúc càng rộn và tiếng cười càng to hơn, kéo dài đến nỗi tên thượng sĩ Mĩ xấu hổ phải chuồn khỏi Bình Đông. Bọn chỉ huy nhận thấy chính sách thực dân mới của chúng không thắng nỗi dân ta, chúng quay ra tập trung đánh phá dữ dội vào nhân dân, đốt nhà, đốt ghe mành, xé lươi không cho bà con ra khơi. Nhưng chúng làm sao ngăn cản được lòng dân khi lòng căm thù giặc và ý chí đánh Mĩ đã được thử thách. Là một xã có truyền thống kháng chiến chống Pháp, ngày nay trong đánh Mĩ, Bình Đông càng ra sức phát huy thành quả tấn công địch. Nhân dân Bình Đông rất xứng đáng với lời ca ngời:

“Bình Đông có tiếng đánh Tây,
Có gan diệt Mĩ bao vây mấy lần.
Giặc phá nhà ngói ta làm nhà tranh.
Giặc đốt ghe mành ta đan thúng đi câu”.


Bằng mọi cách để tồn tại, thích nghi và chiến đấu, các chi bộ Đảng Bình Đông vẫn duy trì hoạt động trong lòng địch, liên tục tấn công quân Mĩ trên địa bàn và chia lửa cùng quân dân Đức Phổ và Quảng Ngãi anh hùng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2010, 09:43:54 pm »

CHIẾN CÔNG ĐẦU TRÊN
CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NGÃI

Cùng thời gian triển khai huấn luyện cho các đơn vị bộ đội từ tỉnh đến huyện, và lực lượng dân quân du kích trong tỉnh, ban chỉ huy tỉnh đội Quảng Ngãi tập trung xây dựng quyết tâm và huấn luyện kĩ thuật chiến đấu cho tiểu đoàn 48 (mới thành lập ngay 01/8/1965) cùng các tiểu đoàn 83, 2 đại đội đặc công 506a và 506b để ra quân đánh tiêu diệt gọn từng đơn vị trong tháng 9/1965, tạo khí thế phối hợp với bộ đội chủ lực của Quân khu để lập công lớn hơn. Với quyết tâm như vậy, ban chỉ huy tỉnh đội Quảng Ngãi cho trinh sát điều tra cứ điểm địch ở Phong Niên Thượng, và cuộc điều tra hoàn tất. Đêm 29/9/1965, tiểu đoàn 48 tập kích vị trí quân địch diệt 2 tiểu đội biệt kích và 1 trung đội dân vệ, bắn chết 28 tên, bắt sống 14 tên, thu 12 súng trường, 1 trung liên, 2 radio và toàn bộ quân trang quân dụng. Đây là trận đánh đầu tiên của tiểu đoàn 48 sau 2 tháng thành lập, đã diệt gọn 1 đơn vị địch. Khí thế của tiểu đoàn 48 phấn khởi trước trận ra quân thắng lợi. Tiếp đó không lâu đêm 26/10/1965, tiểu đoàn 48 tập kích đại đội bảo an 40 và đoàn bình địch, chiến dịch về làng của địch, diệt 122 tên, bắt sống 18 tên, thu toàn bộ vũ khí và quân trang quân dụng, mở thông đường hành lang từ phía tây đến phía đông Sơn Tịnh. Trong trận này, tiểu đoàn 48 có 8 chiến sĩ bị thương, 3 chiến sĩ hi sinh. Thắng tiếp trận thứ 2 này, cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 48, càng tin tưởng khả năng chiến đấu và sự linh hoạt sáng tạo của đơn vị. Tiểu đoàn trụ lại đông Sơn Tịnh để huấn luyện bổ sung quân số và chuẩn bị chiến trường đánh bọn bảo an ở Sơn Hội.

Được ban chỉ huy tỉnh đội chuẩn y và trực tiếp chỉ huy. Đêm 01/11/1965, tiểu đoàn 48 bí mật tập kích đại đội bảo an số 713 ở Sơn Hội, diệt tại chỗ 75 tên, bắt sống 20 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang quân, quân dụng. Phía tiểu đoàn 48 có 5 chiến sĩ bị thương, không có người nào hi sinh. Như vậy là 3 trận đánh diệt địch trong công sự, do bay chỉ huy tỉnh đội chúng tôi tực tiếp chỉ huy đã thắng liền 3 trận. Chiến thắng đã tạo niềm tin và khí thế phấn khởi trong toàn tiểu đoàn. Phát huy thắng lợi dòn dã, tiểu đoàn 48 tiếp tục ra quân đánh vào đại đội bảo an ngụy phá banh đồn Thế Long thuộc xã Tịnh Thọ, xóa sổ đại đội bảo an 248, trung đội biệt kích và 1 tiểu đội dân vệ ở Tịnh Thọ, diệt tại chỗ 90 tên địch, bắt sống 3 tên, thu 48 súng, có 1 đại liên, 1 trung liên.

Trải qua 4 tháng thành lập, xây dựng và chiến đấu, tiểu đoàn 48 đã đánh 4 trận giành thắng lợi ở thế áp đảo, đẩy bọn ngụy quân, ngụy quyền vào thế lúng túng đối phó, tan rã và sợ hãi. Chiến thắng làm nức lòng nhân dân Sơn Tịnh; đáp lại sự mong đợi của đồng chí, Tư lệnh Quân khu 5 giao cho tỉnh đội Quảng Ngãi, vì vậy cũng là niềm phấn khích của tập thể Ban chấp hành Tỉnh ủy Quảng Ngãi.

Tiểu đoàn 83 được lệnh phối hợp với sư đoàn 3 quân giải phóng đang chiến đấu ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi, liên tục đánh địch quanh huyện Đức Phổ, Nghĩa Hành. Đại đội đặc công 506a đột nhập tiến công một số mục tiêu trong thị xã, tập kích sân bay Quảng Ngãi. Lực lượng công binh đánh các giao thông trên đoạn đường quốc lộ số 1, cô lập địch về để sư đoàn 3 tiêu diệt cứ điểm Thạch Trụ và đánh chi khu quận lị Mộ Đức, giải phóng các xã nằm trên trục đường số 1 từ Mộ Đức đi Đức Phổ.

Do trời lụt nước dâng cao, sư đoàn 3 không thực hiện được trận đánh Thạch trụ. Ngày 25/12/1965, sư đoàn chuyển hướng tấn công quận lị Minh Long, hỏa lực của sư đoàn băm nát cứ điểm Cầu Cộng Hòa thuộc huyện Nghĩa Hành. Quân địch chống trả yếu ớt, bị ta tiêu diệt tại chỗ 200 tên, bắt sống 150 tên. Sư đoàn 3 giải phóng hoàn toàn huyện Minh Long. Một vùng đất từ Cầu Cộng Hòa đến huyện Nghĩa Hành rộng dài hơn 10km2 được giải phóng. Hơn 10 ngàn dân vùng lên phá kèm, phá ấp chiến lược giành quyền làm chủ, xây dựng lực lượng, tổ chức đoàn thể cách mạng trong vùng giải phóng. Nhân thắng lợi lớn của sư đoàn 3 quân giải phóng, tiểu đoàn 83 của tỉnh Quảng Ngãi liên tục tấn công địch quanh các quận lị Mộ Đức, Đức Phổ, Nghĩa Hành và tập kích đồn núi Đất - Long Phụng. Lực lượng công binh của tỉnh đánh sập cầu sông Vệ, cắt đứt giao thông từ Đức Phổ đi thị xã Quảng Ngãi để tạo điều kiện cho tiểu đoàn 83, tiểu đoàn 48 đánh tiêu diệt địch. Ban chỉ huy cho trinh sát chuẩn bị điều ta cứ điểm Trà Hòa thuộc huyện Trà Bồng. Địch ở đây có một đại đội bảo an, quanh cứ điểm có 4 lô cốt, 3 hàng rào kẽm gai, 2 lớp giao thông hào và công sự kiên cố.từ ngày đóng đồn Trà Hòa, bọn địch ở đây chưa bị tấn công lần nào nên rất chủ quan. Đêm 27/01/1966, tiểu đoàn 83 đồng loạt nổ súng tấn công đồn Trà Hòa, diệt 85 tên, bắt sống 15 tên, thu 1 đại liên, 1 cối 81 và 56 súng bộ binh, xóa sổ đại đội bảo an 468. Trận này ta bị thương 7 đồng chí, 2 chiến sĩ hi sinh được đơn vị và nhân dân an táng, chăm sóc chu đáo.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Mười Hai, 2010, 09:48:48 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2010, 09:45:59 pm »

ĐỨC PHỔ BẺ CÁNH “DIỀU HÂU ĐÔI”

Thua đau trên khắp các chiến trường, nhưng đế quốc Mĩ vẫn ngoan cố tăng cường quân số, ra sức đẩy mạnh những cuộc tấn công, củng cố hoặc chiếm đóng nhiêu vị trí chiến lược quan trọng, đẩy mạnh bình định có trọng điểm, đánh phá vùng giải phóng, khống chế và kèm kẹp quần chúng, ngăn chặn hành lang, bao vây chia cắt các chiến trường. Để thực hiện tham vọng này, đầu năm 1966, đế quốc Mĩ đã đưa vào miền Nam Việt Nam 72 ngàn quân, với 2 ngàn máy bay và hàng trăm xe tăng để tiến hành mở đợt phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất. mục tiêu chủ yếu của cuộc phản công này là nhằm tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, giành thắng lợi quyết định về chiến lược, chuyển bại thành thắng. Điểm then chốt của cuộc phản công là “Tìm diệt và bẻ gãy xương sống Việt cộng”. Chúng nhằm vò 2 chiến trường lớn là miền đông Nam bộ và chiến trường Khu 5.

Cuộc phản công của địch trên chiến trường Khu 5 bắt đầu trên 3 hướng: bắc Bình Định, nam Quảng Ngãi và Phú Yên. Chúng huy động một lực lượng lớn gồm 43 tiểu đoàn, (17 tiểu đoàn Mĩ, 6 tiểu đoàn Nam Triều Tiên, trên 20 tiểu đoàn ngụy).

Trên chiến trường nam Quảng Ngãi, địch mở rộng cuộc hành quân “Diêu hâu đôi”, sử dụng 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mĩ, 5 tiểu đoàn Mĩ, hàng trăm máy bay, xe bọc thép, và nhiều trận địa pháo. Kết hợp giữa đổ bộ đường không và tiến quân đường bộ, càn quét 2 huyện Đức Phổ và Ba Tơ.

Thế trận đánh Mĩ của nhân dân Quảng Ngãi đã được xác định và chuẩn bị sẵn sàng với 3 mũi giáp công: Lực lượng vũ trang với 3 thứ quân thực hiên quyết tâm “Tìm Mĩ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”. Các đơn vị thông tin, hậu cần sẵn sàng phương tiện phục vụ, chôn dấu lương thực, chuẩn bị lương khô, dụng cụ phòng độc để đánh địch dài ngày. Các đoàn thể tri hình thành lực lượng đấu tranh chính trị trực diện với địch ngăn chặn xe tăng, ngăn địch lùng sục đốt phá, kêu gọi binh linh Mĩ, chư hầu phản chiến, binh lính ngụy quay súng bắn vào quân xâm lược Mĩ trở về với nhân dân, với gia đình lập công cứu nước, cứu nhà…

Phong trào thi đua chiến đấu, tập thể trở thành đơn vị diệt Mĩ, cá nhân tở thành dũng sĩ diệt Mĩ, diệt ngụy, diệt cơ giới, diệt máy bay được phát động sôi nổi trong lực lượng 3 thứ quân.

Ngay từ đầu quân Mĩ vừa đặt chân lên Đức Phổ, du kích Phổ Quang đã bám thắt lưng Mĩ nổ súng diệt 12 tên, du kích Phổ An diệt 9 tên, du kích Phổ Nhơn diệt 18 tên… Ngày 22/02/1945, 11 chiến sĩ của đại đội 219 Đức Phổ, do đại đội trưởng Nguyễn Đức Quang chỉ huy cùng với 20 du kích của xã Phổ An, dựa vào làng chiến đấu quần lộn với địch, suốt cả ngày, diệt 106 tên Mĩ, bắn rơi 5 máy bay. Sau một ngày chiến đấu cả 31 chiến sĩ tham dự trận đánh đều vinh dự được ban chỉ huy tỉnh đội Quảng Ngãi tặng 31 danh hiệu dũng sĩ diệt Mĩ - Trận đánh lừng danh một thời ở Đức Phổ.

Ngày 03/02/1966, quân Mĩ cho trực thăng đổ bộ xuống dốc Bà Trưởng phia tây xã Phổ Cường, một tiểu đoàn đóng chốt tại đây. Chúng có nhiệm vụ khống chế hành lang và chặn đánh quân ta từ Hoài Nhơn ra. Lúc này du kích Phổ Cường do đồng chí Duyệt xã đội trưởng chỉ huy, đã triển khai trận địa sẵn sàng đánh Mĩ. Một mình xã đội trưởng Duyệt bí mật tiếp cận vào khu vực đổ quân của tiểu đoàn Mĩ, nắm chắc các ổ hỏa lực và các vị trí canh phòng của chúng. Đồng chí trở về vị trí chọn 8 du kích lanh lợi và dũng cảm đi cùng. Anh nói với đồng đội trước khi xuất kích: “Bọn Mĩ đổ quân xuống đây, ngày mai chúng sẽ kéo đi đốt nhà giết dân mình. Chúng ta phải chặn ngay bàn tay tội ác của quân xâm lược. Đó là mệnh lệnh của nhân dân đã giao cho chúng ta. Muốn tiêu diệt chúng nó phải tiêu diệt bọn chỉ huy đầu sỏ của chúng”. Cả 8 chiến sĩ du kích Phổ Cường cùng một quyết tâm chiến thắng! Tám chiến sĩ chia làm 3 tổ, 23 giờ đêm áp sát cụm chỉ huy của bọn mĩ. Bất ngờ 8 trái lựu đạn M26 đồng loạt gầm lên trong lều bọn chỉ huy và nhiều hướng khác, diệt ngay khẩu đại liên. Lợi dụng địa hình quen thuộc, 8 chiến sĩ du kích tung hoành và quần lộn với bọn Mĩ trong đêm. Bọn Mĩ không biết đâu mà nổ súng, chúng tranh nhau chạy tán loạn, bỏ lại 57 xác chết và nhiều tên bị thương kêu khóc trong đêm. Bị đánh bất ngờ và quân số bị thiệt hại nặng, bọn Mĩ phải rút bỏ mũi quân đóng chốt phía tây nam Đức Phổ.

Học tập tinh thần chiến đấu mưu trí của du kích Phổ Cường, du kích 14 xã trong huyện tích cực vây hãm quân Mĩ. Phong trào bắn tỉa quan Mĩ, bắn máy bay, bắn xe tăng phát triển sôi nổi ở Đức Phổ. Nữ cứu thương xã Phổ Quang Nguyễn Thị Nga, mượn súng của du kích cũng diệt được 6 tên Mĩ, cô trở thành “dũng sĩ diệt Mĩ”. Đồng chí Mai Tạo, bằng 7 viên đạn Garan M1 đã bắn gục 7 tên Mĩ. Thực hiện khẩu hiệu mỗi viên đạn là một quân thù, một cụ già bám địch suốt 13 ngày bằng 1 trái lựu đạn đã diệt được 5 tên Mĩ, thể hiện toàn dân đánh giặc.

Thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn Đức Phổ đã bày sẵn, Tất cả mọi lực lượng, mọi người dân đều lao vào cuộc chiến đấu với quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM