Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 05:02:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chỉ một con đường  (Đọc 90128 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #110 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2011, 03:39:48 pm »

CHẮC TAY SÚNG BẢO VỆ
VÙNG GIẢI PHÓNG

Chiến dịch Hè Thu kết thúc. Sư đoàn 711 hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Cấm Dơi, phát triển đánh chiếm chi khu quận lị, giải phóng thung lũng Quế Sơn - chặt đứt mắc xích phòng ngự của quân địch ở phía nam thành phố Đà Nẵng, phía bắc thị xã Tam Kì. Căn cứ Nông Sơn - Trung Phước nằm chơi vơi giữa bốn bề núi non trùng điệp. Quân địch không cam chịu thất bại, chúng điên cuồng phản ứng. Pháo từ hạm đội 7 ngoài khơi vịnh Đà Nẵng bắn phá ác liệt vào khu chiến, B52 một ngày 3 lần rải bom dải Hòn Tàu - Mật Rạng, thung lũng Quế Sơn và đỉnh đèo Le… Sư đoàn 3 ngụy ở núi Quế tung quân phản kích. Tình hình chiến sự trên địa bàn Quế Sơn trong tháng 9/1972 vô cùng sôi động.

Buổi sáng tôi đang ở hầm chỉ huy chờ Bộ Tư lệnh sư đoàn đến họp, thì sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn bước vào, anh nói: “Anh Chương có quà gì không đem ra đây tôi đổi bức điện này cho”. Tình hình quân địch phản kích đang căng thẳng, tôi trả lời sư đoàn trưởng: “Giặc đang đánh khắp nơi, còn đâu tư01] tưởng mà quà với cáp, anh”. Tuy nghe tôi trả lời như vậy, nhưng sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn không tỏ vẻ gì trách móc. Anh ngồi ngay xuống dãy bàn giao ban, mở bức điện ra đọc to giữa anh em cán bộ sư đoàn:

“Gửi anh Nguyễn Huy Chương,

Chính ủy sư đoàn 711

Chị đã sinh được một cháu gái hôm 2/9, mẹ tròn, con vuông. Báo để anh mừng.


Người điện
Nguyễn Văn Số

Tôi như muốn chồm tới giật bức điện trên tay của sư đoàn trrưởng Nguyễn Chơn, để tận mắt nhìn được những dòng chữ mang đầy niềm vui đột ngột trong đời người chiến sĩ giữa chiến trường lửa đạn, như trường hợp của tôi lúc này. Anh em trong Bộ Tư lệnh sư đoàn đã nhìn thấy nỗi xúc động hiện lên trên khuôn mặt tôi, sau buổi giao ban kết thúc. Trong khi bước ra khỏi hầm, anh em đến nắm tay tôi, đặt tay lên vai tôi như đang chia sẽ niềm vui của vợ chồng tôi. Còn tôi lúc đó, không thể nói gì hơn, lòng cứ rộn lên niềm yêu thương vô bờ bến. Vợ tôi đã sinh con! Chúng tôi đã có đứa con đầu lòng như mơ ước! Tôi nhớ lần gặp nhau đó đến nay đã hơn 9 tháng. Chúng tôi chưa có tin tức về nhau, Bắc Nam cách xa vời vợi. Nhưng tôi đã có những ngày thật hạnh phúc, tôi thầm cám ơn chuyến công tác đó, cám ơn các thủ trưởng. Khi đọc mấy dòng của đồng chí Số, Cục phó cục cán bộ điện vào, tôi lại nhớ như in lời anh Lê Quang Đạo động viên tôi, lúc tôi vào bệnh viện: “Cậu yên tâm ở lại điều trị khỏi bệnh, rồi vợ chồng gặp nhau, may ra có một đứa con, đó cũng là niềm vui…”. Và thế là ở tuổi 47, tôi đã có đứa con gái đầu lòng. Tôi vui mừng điện ra Hà Nội thăm vợ tội và nói với vợ đặt tên cho con là Nguyễn Khánh Nga, để nhớ ngày Quốc Khánh lần thứ 27 của đất nước, ngày con chào đời vào đúng Tết Độc Lập 2-9. Kỉ niệm ấy như còn xao xuyến trong tôi đến bây giờ.

Với bản chất của một tên sen đầm đầu sỏ, không từ bỏ dã tâm xâm lược và hiếu chiến, đế quốc Mĩ đã tráo trở lật lọng sau những thỏa thuận ở Hội nghị Pari. Đêm 18/12/1972, Nixơn trắng trợn hạ lệnh cho không quân chiến lược mở đợt tập kích với quy mô lớn vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền bắc nước ta trong chiến dịch “Linebacker II” kéo dài suốt 12 ngày đêm (Trận ném bom tội ác này, tôi tin rằng trong tương lại, nhân loại tiến bộ sẽ còn tiếp tục lên án hành động dã man của đế quốc Mĩ đánh vào thành phố và thị xã đông dân ở miền Bắc Việt Nam).

Trên chiến trường miền Nam, quân ngụy tung quân càn quét bình định, lấn chiếm khắp 4 vùng chiến thuật. Ở ven biển miền Trung, sư đoàn 2, 3 cùng các liên đoàn biệt động quân số 11 và 12 ngụy quân, không ngừng phản kích vào các khu vực, căn cứ, vùng giải phóng của ta như ở Ba Tơ (Quảng Ngãi), Hoài Ân (Bình Định), Hiệp Đức (Quảng Nam). Thế nhưng cuộc tập kích bằng không quân chiến lược của đế quốc Mĩ trên miền Bắc, và cuộc phục kích của quân ngụy ở miền Nam không cứu vãn được thất bại thảm hại của bọn chúng. Hàng chục ngàn tên địch bị tiêu diệt. Ở miền Bắc 81 máy bay bị bắn rơi, có 34 pháo đài bay B52, 5 máy bay F111 loại hiện đại cánh cụp cánh xòe. Thất bại trên cả hai chiến trường, lại bị nhân dân thế giới lên án, đế quốc Mĩ buộc phải trở lại bàn hội nghị Pari trên thế yếu và bị cô lập. Nhưng trước khi đặt bút kí vào Hiệp định Pari, chúng còn ngoan cố xúi bẫy bọn Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam, hô hào tràn ngập lãnh thổ trước khi Hiệp định Pari có hiệu lực. Ngày 27/01/1973, Mĩ cho B52 đánh bom suốt một ngày xuống khu vực Cấm Dơi - Quế Sơn và nhiều nơi trên đất Quảng Nam. Ngày 29/01, sư đoàn 3 ngụy, tung 3 tiểu đoàn, chia thành 3 mũi. Mũi 1 theo đường 16 qua sông Trầu lên sông Khan, ý định của địch là bất ngờ đánh chiếm lại khu vực Hiệp Đức. Ý thức của việc bảo vệ trọn vẹn một huyện được hoàn toàn giải phóng ở Khu 5, sư đoàn 711 đã kịp thời cho trung đoàn 31 chặn đánh quân địch ở hướng này, diệt 2 đại đội địch, bắt sống 50 tên, thù 100 súng, số còn lại vội vã tháo chạy về Việt An. Trong khi đó, mũi 2 của quân địch đột kích vùng giải phóng Quế Sơn, 1 đại đội của chúng đánh chiếm lại Hòn Chiêng và 2 đại đội khác tăng cường quân cho căn cứ Cấm Dơi. Mũi 3 của quân địch, gồm 1 tiểu đoàn, do tên trung tá Hếu, chỉ huy (Tên này bị ta bắt sống trên đường 9 - Nam Lào năm 1971), luồng binh bí mật bao vây và gọi pháo bắn cấp tập vào Châu Sa, trận địa do đại đội công binh của sư đoàn 711 chốt giữ và chiếm lại Châu Sơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #111 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2011, 03:41:26 pm »

Giao ban sư đoàn sáng ngày 29/01/1973, trưởng ban trinh sát sư đoàn báo cáo việc tên Huế xin đổi đất và đọc nguyên bức điện của tên Huế mà quân báo ta đã thu được trên tần số đài PRC 25: “Châu Sơn gọi Đại Bàng, Châu Sơn gọi Đại Bàng. Chúng tôi đã chiếm được Hòn Chiêng và Châu Sơn, hiện bị Việt cộng bao vây 4 phía. Đường xuống Việt An bị cắt, đường 16 cụt, qua Cấm Dơi đi không được. Khi đánh chiếm Châu Sơn có 20 con đi xa, 80 con đi gần phải ẵm theo nặng lắm. Tình thế khó khăn, tiến lui bất tiện. Đại Bàng cho tôi liên hệ đổi đất với Việt cộng - Trung tá Huế”.

Nghe xong, sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn hạ lệnh cho trưởng ban quân báo nói chuyện trực tiếp với trung tá Huế trên PRC 25, và tự tay anh bật công tắc để cho trưởng ban quân báo phát điện. Trưởng ban quân báo sư đoàn nói: “Trung tá Hếu nghe đây, chúng tôi biết các ông đang cõng trên mình 80 lính bị thương và 20 tử binh, nặng lắm phải không? Hiệp định Pari đã có hiệu lực, các ông chiếm đất của giải phóng thì phải trả lại. Tôi cho thơi hạn đến 12 giờ trưa nay, các ông không trả lời, tôi sẽ cho cối 120mm bắn vào vị trí Châu Sơn. Nếu máy bay các ông đến, chúng tôi sẽ triển khai cao xạ 37mm bắn rụng hết”. Trưởng ban quân báo sư đoàn vừa dứt lời, lập tức tên trung tá Huế lên giọng: “Các ngài đánh là vi phạm Hiệp định”.

Tiếng của Trưởng ban quân báo trả lời tên trung tá Huế: “Các ông lấn chiếm vùng giải phóng là vi phạm Hiệp định. Chúng tôi có quyền đánh trả”.

Lời nói đanh thép của Trưởng ban quân báo sư đoàn đã tác động lên tinh thần hoang mang của tên trung tá ngụy. Hắn nói: “Các ngài cho tôi xin phép cấp trên của tôi và tôi trả lời ngay”.

Thời hạn 12 giờ trưa đã đến. Sư đoàn hạ lệnh cho cối 120mm bắn vào Châu Sơn 3 quả đạn, tiếp theo là hàng loạt cối 82mm đồng loạt nổ xuống cứ điểm Châu Sơn. Tên trung tá Huế lập tức phát điện xin được rút quân ra khỏi Châu Sơn ngay.

Trưởng ban quân báo sư đoàn lại phát lệnh trên máy PRC 25: “Trung tá Huế nghe đây, ông cho lính đi hàng dọc, đầu súng chúc xuống đất, người đi trước cầm cờ trắng, tôi sẽ cho du kích gỡ mìn trên đường 16 để các ông đi về Việt An. Trái lệnh, tôi sẽ cho du kích đánh vào đội hình của ông nghe rõ chưa?”. Trung tá Huế “Thưa quý ngài, chúng tôi biết lỗi, chúng tôi xin rút quân chứ chúng tôi đâu có đầu hàng mà các ông bảo cầm cờ trắng, cấp trên của tôi không chịu đâu”. Tên Huế trả lời thế. Trưởng ban quân báo sư đoàn lại phát điện. “Đồng ý cho các ông không cầm cờ trắng, nhưng hành quân phải thực hiện quy định của chúng tôi đi hàng dọc, súng chúc đầu xuống đất. Trái lệnh chớ trách!”. Và bọn địch làm theo quy định của ta. Đến 16 giờ chiều,tiểu đoàn ngụy do tên trung tá Huế chỉ huy, đùm túm nhau rút khỏi cứ điểm Châu Sơn. Lập tức sư đoàn 711 của ta cho lực lượng lên chốt lại Châu Sơn. Như vậy, từ tháng 1/1973, sư đoàn 711 đã trực tiếp đánh bại hành động “tràn ngập lãnh thổ” của Nguyễn Văn Thiệu, giữ vững vùng giải phóng của ta ở Quế Sơn, Tiên Phước.

Để phù hợp với tình hình phát triển của chiến trường trong giai đoạn mới, cuối tháng 6/1973, Bộ Tư lệnh Quân khu có chủ trương tổ chức biên chế điều chỉnh lực lượng giải thể sư đoàn 711 để thành lập lữ đoàn 52, đồng thời biên chế lại sư đoàn 2. trung đoàn 1 (trung đoàn Ba Gia) cùng các đơn vị trực thuộc và cơ quan sư đoàn bộ, sư đoàn 2 từ chiến trường Quảng Ngãi được lệnh hành quân ra chiến trường Quảng Nam tiếp nhận trung đoàn 38 và trung đoàn 31 về trong đội hình sư đoàn 2. Tôi trở về làm chính ủy sư đoàn 2, đồng chí Nguyễn Chơn vẫn làm sư đoàn trưởng. Nhưng sau đó, đồng chí được đi học tại Hà Nội, đồng chí Phạm Đượu, quê ở Quảng Bình về nhận công tác quyền sư đoàn trưởng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #112 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2011, 03:42:44 pm »

Sư đoàn 2 được Quân khu giao nhiệm vụ phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện Thăng Bình, Quế Sơn, Tiên Phước… đánh địch càn quét, làm thất bại kế hoạch tràn ngập lãnh thổ của địch, giữ dân, giữ đất, tổ chức thiết bị công trình phòng thủ vị trí then chốt trên tuyến tranh chấp giữa địch và ta giữ vững vùng giải phóng, củng cố bàn đạp, chuẩn bị cho những cuộc tấn công sau này. Còn đại bộ phận lực lượng của sư đoàn tập trung học tập, huấn luyện, thực hiện 3 nhiệm vụ của Quân khu giao: Dùng trung đoàn 31, trung đoàn 38, tiểu đoàn 15 công binh, tổ chức từng cụm điểm tựa, phòng ngự theo thế trận liên hoàn từ Châu Sơn, Liệt Kiểm, Lạc Sơn đến núi Ông Giai, đơn vị xây dựng hơn 1.021 hầm chiến đấu, hầm hỏa khí, hầm nghỉ ngơi, 42 trận địa pháo, 200m địa đạo, 10km hào giao thông. Bộ phận thông tin phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật, dùng cọc rào ấp chiến lược và dây thép gai tháo mắt thay cho dây điện thoại, xây dựng hệ thống thông tin hữu tuyến dài gần 100km, từ sở chỉ huy sư đoàn, đến các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội và trận địa pháo, hoàn thành 18km đường ô tô, bảo đảm cho vận chuyển lương thực và cơ động tác chiến. Trong năm 1973, sư đoàn vừa đánh địch lấn chiếm, vừa tổ chức các điểm tiếp xúc giữa quân giải phóng và quân ngụy Sài Gòn, buộc chúng phải thi hành hiệp định Pari. Phối hợp với địa phương nơi đóng quân, sư đoàn tổ chức 118 lần tiếp xúc với 737 binh lính và 85 tên sĩ quan ngụy. Trước thái độ đứng đắn và chính nghĩa của bộ đội ta, đã cảm hóa và hạn chế một được một phần hành động vi phạm cướp phá của binh lính ngụy.

Chuẩn bị chương trình công tác cho năm 1974, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo sư đoàn học tập nghị quyết Trung ương lần thứ 21. Nghị quyết khẳng định: “Thắng lợi bước đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là thắng lợi của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở 2 miền Nam Bắc đã không tiếc máu xương để làm nên”. Mĩ đã cút, nhưng ngụy chưa nhào. Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng”.

Tháng 2/19743, đồng chí Võ Chí Công, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy 5 trực tiếp xuống sư đoàn triệu tập hội nghị bàn mở mặt trận trên địa bàn Tam Kì, Tiên Phước, nhằm diệt cứ điểm Dương Đế, Đức Phú, giải phóng khu đồn Đức Phú, đồng thời kéo địch ứng cứu để tiêu diệt, thu hồi toàn bộ vùng giải phóng bị chúng lấn chiếm sau Hiệp định Pari. Cuộc họp có các Bí thư tỉnh ủy Quảng Nam, Quảng Đà, tỉnh đội và Mặt trận 4, Bộ Tư lệnh sư đoàn 2. Chủ trương của Quân khu lúc này là đánh nhỏ trong mùa hè, sư đoàn sử dụng trung đoàn 1 (Trung đoàn Ba Gia), trung đoàn 31 (thiếu tiểu đoàn 8) mở chiến dịch Hè.

Lúc sư đoàn xuất quân, đồng chí Lê Trọng Tấn. Tổng tham mưu phó Quân đội Nhân dân Việt Nam vào giao nhiệm vụ cho Quân khu, đồng thời gọi tôi lên, đồng chí nói: “Sư đoàn 2 ra quân trong chiến dịch này có nhiệm vụ diệt một số cứ điểm, diệt quân địch lấn chiếm, xem sức quân đội ngụy chịu đứng đến đâu, để chuẩn bị cho chiến dịch Thu đánh lớn hơn”.

Ngay 24/4, sư đoàn mở màn trận đánh cứ điểm Dương Đế. Trận đánh diễn ra nhanh gọn, ta làm chủ chiến trường, bắt tù binh, thu vũ khí. Quân địch còn đang lúng túng thì ngày 25/4, sư đoàn tiếp tục tấn công bọn địch đồn trú ở Đức Phú, bao vây uy hiếp khu đồn, buộc địch lẫn lộn trong dân thoát chạy về Tam Kì, liên bị lực lượng đón sắn của ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ 1 đại đội bảo an và tổng đoàn dân vệ. Mất Đức Phú, địch điều 2 tiểu đoàn Bảo An 102 và 116 đến giải tỏa, liền bị trung đoàn 1 chặn đánh diệt một số tên. 2 tiểu đoàn địch án binh bất động chống lệnh hành quân, tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn bảo an 116 bị tỉnh trưởng Quảng Tín, Đào Mộng Xuân bắt giam.

Quân địa phương của chúng phản chiến, buộc Ngô Quang Trưởng Tư lệnh quân đoàn 1 ngụy phải điều quân chủ lực ứng cứu. Khi tiểu đoàn chủ lực ngụy vừa đến khu vực Dương Bà Thi, cách Đức Phú 2km, liền bị trung đoàn 1, diệt 1 đại đội đi đầu, bắt sống tên tiểu đoàn phó. Trung đoàn 1 đã sử dụng ngay tên tiểu đoàn phó của địch bắt nó, gọi quân của chúng ngưng bắn pháo, và tiếp tục cho các đơn vị khác tiến lên. Nhờ vậy, ta tiêu diệt sạch đại đội thứ 2 của địch, đại đội thứ 3 của chúng hoảng loạn bỏ chạy tháo thân.

Trong chiến dịch Hè, tỉnh đội Quảng Nam đã cho tiểu đoàn 11 bộ đội địa phương tham gia diệt cứ điểm Dương Đế, diệt đại đội địch ở Nổng Cốc (Kì Lâm), diệt chốt Dương Cháy…

Trong 37 ngày của chiến dịch Hè trên dãy tiến công, Sư đoàn 2 và bộ đội tỉnh Quảng Nam đã diệt 2.700 tên địch, bắt sống 116 tên. Diệt 12 đại đội, 3 sở chỉ huy tiểu đoàn địch và tiêu diệt 12 cứ điểm, phá hủy 25 đại bác 105mm đến 155mm. Cùng lúc lực lượng địa phương, giải phóng hoàn toàn khu vực Đức Phú và mở rộng vùng làm chủ của nhân dân trong phạm vi 5 xã từ Kì Quế, Kì Long, Kì Sơn, Kì Trà đến Kì Thạnh… Quân địch co lại không dám lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Sư đoàn và tỉnh đội Quảng Nam đã gởi thư cho tỉnh trưởng Quảng Tín và rải truyền đơn cảnh cáo bọn địch. Lúc này, bọn địch cũng đã núng thế không dám hung hăng càn quét lấn chiếm như trước và pháo binh cũng không dám bắn phá bừa bãi vào vùng giải phóng của ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #113 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2011, 03:43:54 pm »

TIÊU DIỆT CĂN CỨ NÔNG SƠN - TRUNG PHƯỚC,
ĐẬP TAN TUYẾN PHÒNG THỦ TÂY NAM ĐẦ NẴNG

Trang sử cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta đã chuyển sang giai đoạn mới. Vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, quân ngụy trên khắp các chiến trường co lại. Đường xe cơ giới từ tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn đã thông xuống đồng bằng. Kho dự trữ của sư đoàn đầy quân trang quân dụng, vũ khí, lương thực, thuốc men… Không còn cảnh thiếu đói như những năm trước đây. Bộ đội yên tâm học tập và rèn luyện.

Tháng 6/1974, sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn sau thời gian đi học ở miền Bắc đã trở lại chiến trường. Chiến dịch Hè kết thúc. Sư đoàn tiếp tục nhận lệnh củng cố huấn luyện để thực hiện kế hoạch tiến công địch trong chiến dịch Thu.

Nhiệm vụ chủ yếu của sư đoàn 2 trong chiến dịch Thu là tập trung tiêu diệt địch trong cứ điểm Nông Sơn - Trung Phước, đánh và tiêu diệt quân địch phản kích, mở rộng và củng cố vùng giải phóng phía tây huyện Quế Sơn, góp phần tạo điều kiện thuận lợi phát triển tiến công giải phóng chi khu An Hòa - Đức Dục.

Chiến dịch Thu của Quân khu chia làm 3 khu chiến ở trên và 2 chiến trường của tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Đà.

Khu chiến 1: Nông Sơn - Trung Phước có sư đoàn 2, trung đoàn pháo binh 572, trung đoàn cao xạ 573.

Khu chiến 2: Chi khu quận lị Thượng Đức, có sư đoàn 304 mang phiên hiệu sư đoàn 711.

Khu chiến 3: Tây huyện Quế Sơn, có trung đoàn 38 của sư đoàn 2, lực lượng pháo binh của Quân khu tăng cường và lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam. Trọng điểm hoạt động của lực lượng tỉnh là ở vùng trung và vùng đông huyện Quế Sơn. Hướng trọng điểm hoạt động của lực lượng vũ trang Quảng Đà là vùng A, B huyện Điện Bàn.

Nông Sơn (tức khu mỏ than Nông Sơn), nằm trên độ cao 298 mét, xưa thuộc xã Sơn Ninh, nay thuộc xã Quế Trung huyện Quế Sơn. Nông Sơn nằm cách khu công nghiệp An Hòa, Đức Dục 11km về phía tây, cách núi Cà Tang cao 452 mét và ấp chiến lược Khánh Bình 2 cây số.

Trung Phước là thị tứ sầm uất, xưa thuộc xã Sơn Viên, nay thuộc xã Quế Trung - Nằm trên đường 104 từ Nam Phước lên Phường Rạnh đến bến phà Nông Sơn gặp đường 105 từ ngã ba Hương An lên tạo thành ngã 3 Nông Sơn - Trung Phước. Nông Sơn nằm trên bờ nam sông Thu Bồn. Trung Phước nằm bên bờ bắc sông Thu Bồn.

Do địa điểm liên đới và điều kiện kinh tế hình thành từ lâu đời trên vùng đất trung du này nên người ta nói đến Nông Sơn là phải ghép Trung Phước và ngược lại. Ở ngay Nông Sơn - Trung Phước còn có một địa danh mà nhiều người đều biết đến đó là Đại Bình (Dân địa phương gọi là Đại Bường). Làng Đại Bình được thiên nhiên ưu đãi, bốn mùa đều có cây trái như Nam bộ.

Trong 9 năm kháng chiến, Nông Sơn - Trung Phước là vùng tự do của cách mạng có chợ búa, bệnh viện, trên bến dưới thuyền tấp nập và cũng là nơi nghỉ ngơi lí tưởng cho cán bộ và bộ đội.

Từ sau 1954, Nông Sơn - Trung Phước trở thành khu căn cứ phòng thủ của địch, nơi xuất phát những cuộc càn quét đánh phá gây nợ máu với nhân dân. Trong 20 năm qua Nông Sơn - Trung Phước trở thành tuyến phòng thủ có tầm quan trọng phía tây của địch. Nông Sơn - Trung Phước trước đây chỉ bị quân giải phóng tấn công 1 lần vào năm 1967, nhưng không dứt điểm được. Vì vậy từ đó đến nay, Nông Sơn - Trung Phước được quân địch tổ chức thành khu căn cứ mạnh và chúng luôn huênh hoang: “Khi nào nước sông Thu Bồn chảy ngược thì Việt cộng mới tấn công nổi Trung Sơn”. Nếu như cứ điểm Cấm Dơi có 14 hàng rào, công sự 3 tàng thì Nông Sơn có 9 lớp rào và 41 lo cốt, nhiều hầm ngầm, 1 trận địa pháo 105mm, 1 tiểu đoàn biệt động biên phòng đảm nhận các điểm cao 452 Cà Tang, 298 Nông Sơn, kiểm soát toàn bộ vùng mỏ Nông Sơn. Ngoài khu phòng thủ căn cứ Nông Sơn còn có 11 cứ điểm ngoại vi, mỗi cứ điểm có từ 1 đến 2 trung đội lính Bảo An, Dân vệ chiếm giữ các điểm cao từ Khương Quế, Phường Rạnh đến Khương Bình, Ninh Hòa - Trung Phước.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #114 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2011, 03:45:57 pm »

Sau chiến dịch Hè, tình hình quân địch trên 2 chiến trường Quảng Nam và Quảng Đà không có gì thay đổi. Quân ngụy còn 2 sư đoàn, đó là sư đoàn 2 và sư đoàn 3, và liên đoàn biệt động số 12, còn các liên đoàn biệt động 14, trung đoàn 51 bị quân ta đánh tiêu hao, chúng chưa đủ sức tập trung phải nằm ở hậu cứ trốn lánh. Khi tấn công Nông Sơn - Trung Phước, ta dự kiến quân địch sẽ huy động tư 4 đến 6 trung đoàn đến phản kích giải tỏa. Như vậy về lực lượng và hỏa lực thì quân địch vẫn có ưu thế hơn ta.

Từ cách đánh giá tình hình quân địch để quán triệt nhiệm vụ cấp trên giao, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh sư đoàn hạ quyết tâm tấn công dứt điểm quân địch trên một cụm chốt điểm lớn, có hệ thống phòng ngự vững chắc và cũng thấy rõ địa hình di trú quân của sư đoàn có những phức tạp, vì vậy sư đoàn cần phải tiến hành từng bước.

Bước 1: Sư đoàn dùng một lực lượng nhỏ bí mật tập kích đồng loạt tiêu diệt các chốt điểm do bọn Bảo An chốt giữ vòng ngoài, giải phóng khu vực Trung Phước trước, hình thành thế bao vây không cho tiểu đoàn biệt động biên phòng ở Nông Sơn tháo chạy và ngăn chặn địch từ An Hòa lên ứng cứu. Bước 2: Vây lấn căn cứ Nông Sơn tiêu diệt tiểu đoàn 78 biệt động quân biên phòng bằng hợp đồng binh chủng.

Theo phương án tính chất và để tạo cho sư đoàn 2 có đủ quân thực hành chiến dịch đánh địch bước 2, Bộ Tư lệnh Quân khu tăng cường cho sư đoàn 2 trung đoàn 36, 2 đại đội pháo 85mm nòng dài, 1 đại đội lựu pháo 122mm, 1 đại đội cối 160mm, 1 đại đội tên lửa B72 có điều khiển, 1 lựu pháo 105mm, 1 tiểu đoàn cao xạ 37mm, 3 xe tăng PT 85 có nhiệm vụ đánh địch trên 2 hướng: Tiêu diệt cụm cứ điểm Nông Sơn - Trung Phước, đánh tiêu diệt một bộ phận quân địch phản kích mở rộng và củng cố vùng giải phóng tây Quế Sơn. Và từ thế trận vây lấn, tấn công dứt điểm khu căn cứ Nông Sơn, trung đoàn 38 có nhiệm vụ lật má chuyển sang tấn công tiêu diệt các cứ điểm Hòn Chiêng, Lạc Sơn, Núi Giai, Đồng Mông Đá Hàm, Cấm Dơi… Mở rộng thế trận tấn công của sư đoàn trên khu vực này, giải phóng hoàn toàn 6 xã phía tây Quế Sơn.

Cùng phối hợp tác chiến với sư đoàn 2 trên dãi tiến công phía tây nam thành phố Đà Nẵng, có sư đoàn 304 mang mật danh sư đoàn 711 của Bộ Tổng tư lệnh tăng cường cho Quân khu 5, có nhiệm vụ tiêu diệt cụm cứ điểm chi khu quận lị Thượng Đức.

Thượng Đức - An Hòa - Đức Dục, Nông Sơn - Trung Phước là tập đoàn cứ điểm nằm trong tuyến phòng thủ của địch ở phía tây - nam thành phố Đà Nẵng. Đây còn gọi là cánh cửa thép bảo vệ Đà Nẵng, khu liên hợp quân sự lớn nhất ở miền Trung.

Các đơn vị sau khi được giao nhiệm vụ, đêm 16/7/1974, trung đoàn 1, trung đoàn 31, trung đoàn 36 và các đơn vị trực thuộc của sư đoàn 2 bí mật hành quân vào địa điểm tập kết. Các trận địa pháo từ 85mm nòng dài được đưa lên chiếm lĩnh các điểm cao. Chờ lệnh sư đoàn.

Nhưng một tình huống bất ngờ ngoài dự kiến đã xảy ra. 14h ngày 17/7, đài trinh sát quân báo báo cáo về sư đoàn 2: “12 chiếc trực thăng đổ 100 lính xuống Nông Sơn”. Bọn địch nói tiếng lóng trên đài PRC 25: “Cha mẹ họ đã đến nơi đầy đủ an toàn”. Sau hơn 30 phút, lại có 4 đợt máy bay hạ cánh đổ quân xuống Nông Sơn. Cùng giọng nói lóng lúc nãy trên đài PRC 25 vang lên: “Cha mẹ con cái họ đã đến nơi đầy đủ an toàn”. Sau hơn 30 phút lại có 4 đợt máy bay hạ cánh đổ 400 quân xuống Nông Sơn. Tình hình diễn biến phức tạp, cả phía trước bám chặt, theo dõi từng hành động cụ thể của chúng để có đối sách. Tại chỉ huy sở sư đoàn, có mặt các đồng chí Thường vụ Đảng ủy, cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, trưởng ban tác chiến, trưởng ban trinh sát tập trung thảo luận sôi nổi, phân tích đánh giá, xem xét tình hình sẽ diễn ra trên những khả năng nào. Chúng tôi trao đổi và đi đến nhận định: Khả năng thứ nhất, do quá trình chuẩn bị chiến trường, các đơn vị của ta tiếp cận ngoại vi, có thể bị lộ, nên địch tăng quân để đối phó. Khả năng thứ hai, là địch đưa quân cộng hòa lên thay cho tiểu đoàn biệt động để giữ căn cứ này.

Trong lúc tại chỉ huy sở sư đoàn đang khẩn trương thảo luận, thì cùng lúc đồng chí Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu điện hỏi và đồng chí Bí thư Khu ủy cũng điện hỏi: Địch tăng một tiểu đoàn cho Nông Sơn, như vậy, tại căn cứ Nông Sơn quân số địch gấp đôi, Bộ Tư lệnh sư đoàn xử trí thế nào. Báo cáo ngay về Tư lệnh Quân khu để có ý kiến.

Qua phân tích cụ thể hai khả năng như trên, chúng tôi trao đổi: Nếu địch tăng quân đối phó, tại sao khi đổ xuống quân không đi lùng sục ra ngoài, phi pháo địch không thấy hoạt động, mà chỉ nằm im trong căn cứ. Như vậy việc bị lộ, địch đối phó là không có, mà đây chỉ là cuộc thay quân, tăng quân để giữ căn cứ, cho nên sư đoàn hạ quyết tâm đánh. Đồng chí sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn, có ý kiến tiếp: Khả năng địch thay quân thì rõ. Trong đêm nay đã có trên 1.000 tên trong căn cứ. Nhà ở chưa làm thêm, công sự chưa đào kịp, bọn lính mới đến mệt mỏi, nghỉ ngơi, chưa nhận vị trí chiến đấu. Tiểu đoàn 78 biệt động quân ở tại chỗ lâu nay, ỷ lại bọn mới đến, đêm nay thế nào cũng vào ấp lùng sục bắt heo, gà ăn thịt, kiếm gái. Ta tấn công bất ngờ, bọn đồn trú bên trong lúng túng, bọn địch bên ngoài làng chạy về sẽ tranh nhau giành công sự, nơi ẩn nấp, tìm cái sống sẽ rối loạn. Vì thế đây là cơ hội tốt, ta hạ quyết tâm tấn công tiêu diệt địch.

Cả cuộc họp trong hầm chỉ huy hoàn toàn nhất trí sự phân tích của sư đoàn trưởng, đề nghị trên cho sư đoàn đánh. Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn cầm điện thoại báo cáo quyết tâm với Tư lệnh Quân khu. Tôi cầm điện thoại báo cáo với Đồng chí Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy và quyết tâm của sư đoàn. Đồng chí Bí thư Khu ủy nhất trí và hoan nghênh quyết tâm của sư đoàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #115 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2011, 03:47:10 pm »

Theo phương án đánh địch đã vạch, cuộc tiến công bắt đầu lúc 0 giờ 15’ ngay 18/7. Đại đội 2 của tiểu đoàn công binh sư đoàn 2 nổ súng đánh địch trên chốt Cà Tang làm lệnh cho cả chiến trường. Trong lúc đó, đại đội 15 công binh trung đoàn Ba Gia cho một mũi đột sâu tháo cầu phao rồi dùng dây cáp bện bằng thép gai băng qua sông phục kích chờ địch thất trận dùng canô tháo chạy, dây cáp giăng qua sông sẽ vướng vào chân vịt canô. Lập tức đại liên bố trí sẵn bên bờ nam sông nhả đạn nhấn chìm chúng xuống sông. Bằng cách đánh mưu trí, đại đội công binh 15 của trung đoàn Ba Gia đã diệt và bắt sống hơn 100 tên địch. Đây là một cách đánh giặc tuyệt đẹp, một chác đánh khôn ngoan của bộ đội sư đoàn đã làm cho kẻ địch kinh hoàng. Các chiến sĩ công binh bình luận ví von với nhau: Chúng ta con cháu của Ngô Quyền xưa kia cắm cọc trên sông Bạch Đằng giết quân Nam Hán, nay bộ đội công binh sư đoàn 2 Quân khu 5 chăng dây qua sông Thu Bồn để đánh địch. Thật là một cách đánh vừa truyền thống vừa hiện đại.

Hợp đồng với các mũi, tiểu đoàn 60 trung đoàn 3 nổ súng đánh chiếm 3 vị trí của địch ở Khương Quế thực hiện việc cài then chiến dịch. Trung đoàn 36 và đại đội 11 của tiểu đoàn 90 đồng loạt tiến công địch ở ngã 3 Nông Sơn - Trung Phước, tiểu đoàn 9 nổ súng đánh bọn Dân vệ, Bảo an ở các ấp chiến lược Khương Nam 1 và Khương Nam 2, đồng thời tổ chức một bộ phận đón lõng quân địch từ căn cứ Nông Sơn chạy ra. Đồng chí Phạm Xưởng trung đoàn trưởng, Lê Lung chính ủy trung đoàn 1, trực tiếp chỉ huy tiêu diệt cứ điểm địch ở thôn 4 đồi tranh Sơn Phúc, tiêu diệt mâm tề Sơn Thọ. Phối hợp các mũi tiến công của bộ binh, pháo binh sư đoàn áp chế các trận địa pháo địch từ An Hòa, Đức Dục, Nam Phước, Mậu Thành không cho chúng ngóc đầu phản pháo. Tiếng súng tấn công của quân ta nổ rền vang như sấm, rung chuyển suốt dọc một hành lang rộng và dài hàng trăm cây số vuông.

Đến 6 giờ ngay 18/7, quân ta đã quét sạch các chốt ngoại vi, tiêu diệt và bắt sống 35 trung đội Bảo an, Dân vệ, 3 phân cuộc cảnh sát, 6 mâm tề ngụy, giải phóng hoàn toàn 6 xã phía tây Quế Sơn.

Đòn tấn công bất ngờ áp đảo của quân ta làm kinh động bọn chỉ huy quân đoàn ngụy. Trời vừa mờ sáng, máy bay lên thẳng của chúng ùa lên đảo vòng, thám sát uy hiếp. Nhưng bọn chúng vừa mon men đến trận địa đã bị đại đội súng máy 12,7mm của trung đoàn Ba Gia chốt giữ ở núi Khương Quế bắn rơi tại chỗ buộc chúng phải tháo chạy. Trong lúc các đơn vị bạn nổ súng vòng ngoài, thì tiểu đoàn 8 của trung đoàn 31 đưa đội hình áp sát vào cứ điểm Nông Sơn. 8 giờ sáng, mặt trời tháng 7 lên cao xua tan sương mờ và khói núi, các mục tiêu ở Nông Sơn hiện rõ trong ống nhòm của trinh sát. Những tràng đạn pháo của quân ta từ trên những mỏm núi cao dội xuống. Sau một tiếng đồng hồ bắn chế áp, các trận địa pháo trên điểm cao hạ nòng bắn thẳng vào từng lô cốt, ụ súng, công sự theo hướng dẫn của trinh sát. Bọn biệt động quân trong căn cứ Nông Sơn không chịu nổi sức ép của pháo binh ta bức phá, chúng lấp ngóp bò ra khỏi miệng hầm, tinh thần hoang mang cực độ.

Đến lúc đó, Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh quân đoàn 1 ngụy nhận thấy nguy cơ tuyến phòng thủ tây nam bị phá vỡ, hằn liền hạ lệnh cho sư đoàn 3 ở Sũng Mây (Hòa Cầm, Đà Nẵng) gấp rút đưa lực lượng lên An Hòa chuẩn bị phản kích. Trên bẩu trời khu chiến Nông Sơn xuất hiện từng tốp máy bay phản lực, trinh sát, HU 1A vũ trang quần lộn ném bom, bắn rốc két, tung hỏa điểm vào những nơi chúng nghi có quân ta. Nắng tháng 7 là nắng nóng nhất ở Quảng Nam, những đám cỏ tranh quanh sườn núi Nông Sơn bốc cháy dữ dội. Khu chiến Nông Sơn bên ngoài nhìn vào là một chảo lửa. Kiên quyết không để cho bọn giặc trời hoành hành, các khẩu đội 37mm phóng lên những quả đạn căm thù, quật rơi ngay một phản lực, 3 máy bay lên thẳng. Bọn chúng phải dạt ra. Tình huống chiến trường được cải thiện, các mũi tấn công của trung đoàn 31 rê đội hình bám sát hàng rào cuối cùng, bám chắc công sự đánh bại các đợt phản kích của địch.

16 giờ, ở sở chỉ huy sư đoàn, qua ống nhóm, tôi nhìn thấy quang cảnh cứ điểm Nông Sơn tan tành dưới hỏa lực của ta. 36/41 lô cốt của địch đã bị phá vỡ, xác địch nằm ngổn ngang. Nhân thấy thời cơ dứt điểm đã đế, Bộ Tư lệnh sư đoàn hội ý chớp nhoáng, và sư đoàn trưởng hạ lệnh tấn công dứt điểm Nông Sơn.

16 giờ 30’, nhận lệnh của sư đoàn trưởng, các mũi xung kích bật dậy, hỏa lực B40, B41 dồn dập bắn vào các công sự còn lại và xung phong. Trên hướng chủ yếu, đại đội 7 đã chiếm xong tuyến chiến hào thứ nhất, đang tiến vào tuyến chiến hào thứ 2, rồi thứ 3, thì bị hỏa điểm đại liên của địch từ hầm ngầm bắn ra. Khẩu đội 81 bị thương, pháo thủ hi sinh. Thấy hỏa điểm địch, nhưng sườn núi dốc đứng ngăn trở, B40, B41 không phát huy được tác dụng, nếu bằn thì lửa phía sau nòng súng sẽ thiêu cháy ngay xạ thủ. Quân địch lại tập trung bắn xối xả ra hướng cửa mở, đạn cày đất đá tung tóe, khói bụi mù mit. Chiến sĩ Lê Văn Cường trèo lên vách đá đứng thẳng bóp cò, 1 quả B41 bắt mục tiêu dập tắt nay hỏa điểm đại liên của địch. Nhưng cũng liền sau quả B41 nổ, 1 quả M79 bắn trúng Cường. Cường đã hi sinh trong tư thế của một người lính đang lao tới. Ở hướng đại đội 5, mặc dù cửa tấn công chưa mở xong, nhưng toàn thể đại đội đã dũng mãnh xung phong đạp bằng rào kẽm gai đánh chiếm mục tiêu phía trước. Trung đội trưởng Nguyễn Văn Hường ghìm súng đi trên chiến hào lùa bọn địch từ hầm ngầm láp ngáp bò ra. Bất ngờ một tên biệt động quân nấp trong một vách đá nhảy bổ ra chộp lấy trung đội trưởng Hường. Cả hai mất đà lăn xuống vực chiến hào. Hưởng bắt chỏ đè lên yết hầu tên địch, tay kia rút quả lựu đạn chạy đập vào mặt nó. Tên giặc mất phương hướng không chống đỡ được. Một nhát đập tiếp theo của Hường kết liễu tên giặc. Cùng lúc đó, trung đội trưởng Nguyễn Văn Chiến dẫn đầu mũi thọc sâu, đánh thẳng vào sở chỉ huy cứ điểm Nông Sơn. Lá cờ quyết chiến quyết thắng của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu mang dòng chữ: “Đoàn dũng cảm đánh hăng, vây lấn điểm cao, tiêu diệt gọn, dứt điểm nhanh, tấn công liên tục”, do đồng chí Đoàn Khuê, Phó chính ủy Quân khu 5 trực tiếp trao cho trung đoàn 31, đã được phân đội thọc sâu do trung đội trưởng Nguyễn Văn Chiến chỉ huy cắm trên Sở chỉ huy cứ điểm Nông Sơn Đồng chí Đoàn Khuê sau này là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã qua đời năm 1999).
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Giêng, 2011, 08:51:52 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #116 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2011, 08:39:21 pm »

CÀI THEN CHIẾN DỊCH,
NHẬN CHÌM “SÓNG THẦN”

Nông Sơn - Trung Phước được giải phóng, cánh cửa thép tuyến phòng thủ phía tây nam Đà Nẵng bị đập tan, 1 tiểu đoàn biệt động quân, 1 tiểu đoàn cộng hòa, 35 trung đội Bảo an, Dân vệ, 3 phân cuộc cảnh sát, 6 mâm tề bị xóa sổ.

Nguồn tin quân ngụy bại trận ở Nông Sơn - Trung Phước dội về làm xôn xao dư luận thành phố Đà Nẵng. Bị đòn đau, nhưng thấy các chiến trường khác vẫn yên lặng. Từ lâu quân địch đã biết trên hướng này chỉ có sư đoàn 2 quân giải phóng nên chúng không lo lắng mấy. Bộ tham mưu của Ngô Quang Trưởng cho rằng: “Đó là đòn đánh thăm dò, sau hàng loạt cuộc tấn công tràn ngập lãnh thổ của quân đội quốc gia”. Từ nhận định chủ quan đó, Ngô Quang Trưởng tập trung trung đoàn 2 của sư đoàn 3 ngụy mở chiến dịch “Sóng thần” phản kích chiếm lại Nông Sơn - Trung Phước. 16 giờ ngày 20/8/1974, trung đoàn 2 ngụy triển khai đội hình trên khu vực đập Thạch Bàn, cách An Hòa 2km.

Dự kiến trước tình huống này, Bộ Tư lệnh sư đoàn đưa tiểu đoàn 60, và đại đội công binh 15 của trung đoàn 1 (trung đoàn Ba Gia) cài then chiến dịch, kèm giữ chân quân địch trên tuyến Khương Quế - Phượng Rạnh, kéo địch vào thế trận bày sẵn của sư đoàn. Trong hai ngày 20 và 21 các đơn vị được phân công đã đánh tiêu diệt 250 tên địch của trung đoàn 2 ngụy. Tiểu đoàn 1 trung đoàn 2 ngụy mới ra quân phản kích 2 ngày đã bị mất sức chiến đấu, phải đưa nhau về An Hòa củng cố.

Ngày 23/7, tiểu đoàn 60 và đại đội công binh “tương kế” rút khỏi điểm cao Sóng Sử - Khương Quế, điểm cao 238. Thấy lực lượng ta rút, tên trung đoàn trưởng trung đoàn 2 ngụy lầm trưởng quân ta núng thế trước sức tấn công và bom đạn của chúng dội xuống khu chiến, liền xua tiểu đoàn 1 theo trục Sống Sử - Khương Quế, điểm cao 238 và tiểu đoàn 3 của trung đoàn 2 tiến chiếm khu vực Dương Côi, Văn Chỉ, núi Kì vĩ, điểm cao 136… Sau 3 ngày lò dò, mò mẫm, quân địch đã chui vào trận địa mai phục của trung đoàn 1 quân giải phóng. Đêm về, trời nóng, bọn lính cởi trần ghìm súng quay ra, bảo vệ cho bọn sĩ quanh trong những dãy nhà tăng, nghỉ đêm. Trinh sát mặt trận bám địch báo về chỉ huy sở: “Đội hình quân địch trong các cụm cách quân ta không đầy 100m”. Không gian im lặng, đồi núi khu vực Dương Côi - Sóng Sử, Khương Quế, Văn Chỉ, Mỏ Cày, Lôi Giáng… bạc trắng sương thu. Khói núi từ dãy Dương Thông, Hòn Ngang, Hòn Châu, Mật Mã… là là đong đầy thung sâu. Nếu như sông Thu Bồn phía trước là một dòng sông nước, thì trên cao còn là một dòng sông nữa đó là sông mây. Đêm dần trôi qua, bộ đội ta trong tư thế sẵn sàng. Đồng chí Phạm Xưởng, trung đoàn trưởng trung đoàn 1 truyền đạt cho chiến sĩ thông tin “Xin lệnh sư đoàn chi viện hỏa lực tối đa”. Chiến sĩ thông tin trở lại trung đoàn cùng lúc pháo binh sư đoàn lên tiếng. Các cỡ pháo 85, 105, 122, 160mm… nổ liên hồi, phá vỡ buổi sáng ở vùng trung du. Tiếng pháo vừa ngưng, ngay lập tức tiểu đoàn 60 của trung đoàn 1 từ phía sau đội hình quân địch “thọc thẳng lưỡi lê” vào sau lưng của tiểu đoàn 2 quân ngụy. Trung đoàn bộ binh 31 cho tiểu đoàn 8 vận động xuyên tấu, chia cắt tiểu đoàn 3 ngụy tiêu diệt ngay 1 đại đội. Đòn đánh hiểm của tiểu đoàn 60 trung đoàn 1, tiểu đoàn 8 trung đoàn 31 làm cho quân địch trở tay không kịp. Đại bộ phận 2 tiểu đoàn 2 và 3, trung đoàn 2 ngụy trên tuyến từ điểm cao 284 Khương Quế và tiểu đoàn 3 ngụy trên tuyến bắc Dương Côi, đông Kì Vĩ… bị ta đánh tan tác. Một số quân địch thoát chết hốt hoảng chạy về hướng đông, lại bị đơn vị đón lõng của ta tiêu diệt.

12 giờ 30’ trung đoàn 31 đã diệt hết 2 đại đội của tiểu đoàn 3 ngụy quân tại điểm cao 238, trong khi đó trung đoàn 1 đã diệt tọn tiểu đoàn 2 quân ngụy, làm chủ các mục tiêu. Phản kích dợt 1 của trung đoàn 2 ngụy bị đập tan, nhưng trên các khu chiến khác vẫn chưa nổ súng. Áp lực trên chiến trường vào những ngày cuối tháng 7/1974, ở mức độ bình thường, vì vậy Ngô Quang Trưởng tiếp tục điều liên đoàn biệt động quân số 17 gòm 3 tiểu đoàn, 21, 37, 39 tiếp tục dẫm lên đoạn đường thất bại của trung đoàn 2 ngụy.

Trong 5 ngày từ 31 đến 4/8/1974, trung đoàn 38 nố súng tấn công quân ngụy trên suốt tuyến đường 105, từ căn cứ Cấm Dơi đến Hòn Chiêng qua Việt An thu hồi tất cả các chốt địch đã lấn chiếm, giải phóng 6 xã vùng tây huyện Quế Sơn. Trong lúc sư đoàn 2 Quân khu 5 quét sạch địch phía tây nam, ở phía tây bắc sư đoàn 304 nổ súng tấn công tiêu diệt quân địch và giải phóng hoàn toàn chi khu quận lị Thượng Đức.

Ngày 8/8/1974, chi khu Thượng Đức thất thủ, Ngô Quang Trưởng, tư lệnh quân đoàn 1 cho đánh bom hủy diệt cả đồng bọn còn sống sót trong chi khu.

Thế là tuyến phòng thủ phía tây nam Đà Nẵng từ Cấm Dơi, Quế Sơn, Nông Sơn - Trung Phước đến Thượng Đức đã bị đập tan.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #117 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2011, 08:41:16 pm »

NHỮNG NĂM THÁNG GẮN BÓ
VỚI SƯ ĐOÀN

Chiến dịch Thu năm 1974 kéo dài hơn một tháng, đem lại thắng lợi trên cả hai mặt trận quân sự và chính trị. Lần đầu tiên trên một chiến trường ác liệt của hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà, ta giải phóng và làm chủ một phần đất đai quan trọng, được xem là cánh cửa thép của quân địch ở phía tây thành phố Đà Nẵng. Bị ngấm đòn thu đau, quân địch điều quân phản kích, lại bị đánh bại liên tục, buộc Bộ Quốc phòng ngụy phải điều động cả quân dự bị chiến lược như lính dù, lính biệt động và lính thủy đánh bộ vẫn không đủ sức chống đỡ cứu nguy bọn chúng. Bọn chúng liên tục bị quân ta đánh cho tơi tả… Thắng lợi của chiến dịch Thu nhanh chóng tác động đến hình thái bố trí chiến lược của quân địch trên một chiến trường quan trọng bậc nhất ở miền Trung, tác động mạnh vào tư tưởng và tinh thần vốn đã tan rã của quân ngụy.

Thắng lợi của chiến dịch Thu năm 1974 là thắng lợi của quân và dân hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà trong hợp đồng chiến đấu, quyết đánh, quyết thắng kẻ địch trên một địa bàn rộng, có sự bố phòng mạnh của địch. Trong đó, sư đoàn 2 Quân khu 5 và sư đoàn 304 của Bộ tăng cường cho Quân khu 5, là hai đơn vị chủ công mở ra vùng giải phóng rộng lớn và liên hoàn. Từ tây nam huyện Đại Lộc, tây nam huyện Quế Sơn và tây huyện Thăng Bình - huyện Tam Kì lên Tiên Phước, Trà Mi, tiếp giáp với vùng đại ngàn của hai huyện Đông Giang và Tây Giang (2 huyện Hiên và Giàng). Thắng lợi của chiến dịch Thu tạo nên thế mới, lực mới, khả năng mới cho tấn công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và nhân dân ta giành thắng lợi lớn hơn.

Những năm tháng cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam và chiến trường Quân khu 5 sau Nghị quyết 21 Trung ương ra đời đã có những chuyển biến mạnh. Nghị quyết chỉ rõ: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực”. Quán triệt Nghị quyết của Trung ương, các lực lượng vũ trang trong quân khu quyết tâm tiến lên giành thế chủ động trên chiến trường, đẩy quân ngụy vào thế bị động đối phó.

Giữa lúc khí thế thắng lợi của nhân dân và các lực lượng vũ trang trên chiến trường đang sôi nổi, giữa những ngày toàn Quân khu tập trung chuẩn bị cho những đợt tấn công địch, mở ra vùng giải phóng thì một điều không may đã đến với tôi. Vết thương ở hai mắt mờ dần. Từ chiến trường tôi được đưa về hậu phương lớn để đi sang nước bạn điều trị.

Trong những ngày xa Tổ quốc, tôi có dịp ôn lại những tháng năm gắn bó với sư đoàn. Cho đến lúc tạm biệt sư đoàn, tôi đã có 6 năm vinh dự trong đội hình của sư đoàn 2 Quân khu 5. Lúc sư đoàn được thành lập cũng là lúc đế quốc Mĩ điên cuồng đổ quân vào miền Nam, chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc bước vào giai đoạn gay go, quyết liệt nhất thì lời kêu gọi của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân và các lực lượng vũ trang lên thành cao trào quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược. Sư đoàn 2 Quân khu 5 bước vào giai đoạn chiến đấu mặt đối mặt với các đơn vị thiện chiến nhất của quân Mĩ - ngụy - chư hầu, và trung đoàn Ba Gia, sư đoàn 2 Quân khu 5 đã làm nên chiến thuật Vạn Tường lừng lẫy một thời, mở đầu cho những trận thắng lớn sau này.

Vượt qua những gian khổ ác liệt, cán bộ chiến sĩ sư đoàn luôn mài sắc ý chí, xác định mục tiêu chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng Tổ quốc - “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kể thù nào cũng đánh thắng!”. Cán bộ chiến sĩ sư đoàn 2 vững vàng bước vào cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966-1967, bằng những chiến công đánh Mĩ và thắng Mĩ ở đồi tranh Quang Thạnh, đánh quỵ cuộc càn “Liên kết 81” giữa liên quân Mĩ - ngụy - chư hầu trên đất Quảng Ngãi.

Sau mùa Xuân tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, sư đoàn giữ thế chủ động tấn công góp phần đánh bại các mưu đồ chiến lược chủ yếu của quân Mĩ như: Chiến lược “Quét và giữ”, “Bình định nông thôn” phá vỡ từng mảng quan trọng tuyến phòng ngự cơ bản của địch và phối hợp lực lượng vũ trang địa phương giành dân, giữ đất, tiêu diệt một số chi khu quận lị của địch, mở rộng vùng giải phóng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #118 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2011, 08:42:09 pm »

Trong chiến tranh cách mạng nhiệm vụ chủ yếu của các đơn vị chủ lực là tiêu diệt địch, tạo ra cơ sở để hoàn thành các nhiệm vụ khác. Mỗi kế hoạch chiến dịch, mỗi sa bàn chiến đấu đều được Đảng ủy Bộ Tư lệnh sư đoàn nghiên cứu tường tận, chu đáo. Từ công việc nghiên cứu đến thẩm định bổ sung, từ việc xác định đối tượng đến nổ súng tấn công đều được cân nhắc tỉ mỉ. Đối tượng chủ yếu của sư đoàn là các trung đoàn, chiến đoan, sư đoàn quân chủ lực Mĩ - ngụy - chư hầu. Bộ Tư lệnh sư đoàn tập trung suy nghĩ tìm tòi cách phát triển nghệ thuật chiến dịch, tạo nên ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mĩ, được thể hiện trong cách đánh địch ngoài công sự, đã tiêu diệt gọn từng chiến đoàn ngụy trong điều kiện thủy quân lục chiến Mĩ đã nhảy vào tham chiến ở miền Nam và liên tiếp đánh quỵ lữ đoàn Mĩ ở trận núi Ngang, đánh quỵ sư đoàn ngụy ở đường 9 - Nam Lào. Từ tiêu diệt đại đội Mĩ, tiến lên tiêu diệt tiểu đoàn Mĩ; từ diệt chi đoàn xe bọc thép của Mĩ, tiến lên tiêu diệt chiến đoàn xe bọc thép Mĩ; từ diệt đại đội Nam Triều Tiên, tiến lên tiêu diệt tiểu đoàn Nam Triều Tiên; từ diệt cứ điểm chi khu đến tấn công hợp đồng binh chủng đánh nhiều cứ điểm cùng một lúc. Sư đoàn đã phá vỡ từng mảng tuyến phòng ngự quan trọng của địch; từ tấn công giải phóng chi khu quận lị tiến lên tấn công giải phóng thị xã, thành phố. Nhiệm vụ nào sư đoàn cũng hoàn thành một cách xuất sắc.

Ý chí quyết chiến quyết thắng của sư đoàn 2 Quân khu 5 là luôn hướng sự quan tâm của cán bộ, chiến sĩ sư đoàn xây dựng từng đơn vị lớn mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và chiến đấu liên tục, khẩn trương tìm ra biện pháp nâng cao sức mạnh và chất lượng chiến đấu của sư đoàn. Trước mỗi chiến dịch, sư đoàn luôn xây dựng tư tưởng quyết tâm chăm lo huấn luyện kĩ chiến thuật và chấp hành mệnh lệnh, sau chiến dịch sư đoàn tổng kết, sinh hoạt chính trị rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm làm cho đơn vị tăng sức chiến đấu.

Những năm đánh Mĩ cứu nước tôi được sống, chiến đấu trong đội hình sư đoàn 2, một năm ở sư đoàn 711 (Quân khu 5), qua 6 đời sư đoàn trưởng. Mỗi đồng chí đều để lại trong tôi những dấu ấn khó quên. Một nét chung mà tôi nhớ mãi ở các đồng chí đó là biểu hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần chiến đấu dũng cảm; tận tụy công tác, đồng cách mạng cộng khổ, đói thiếu, gian khổ không nề hà, lúc nào cũng lo cho đơn vị làm sao để đánh thắng địch. Đồng chí nào cũng tập trung suy nghĩ, nghiên cứu, tìm hiểu những thủ đoạn, mánh lới của địch trong tất cả các tình huống chiến đấu, để xây dựng đơn vị mạnh hơn kẻ địch, đánh phải thắng và diệt gọn quân địch. Trong khó khăn ác liệt, các đồng chí càng thể hiện tinh thần lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi, làm giữ vững ý chí tiến công, tin yêu cán bộ, chiến sĩ, sống chết có nhau.

Tấm gương hi sinh oanh liệt, đạo đức phẩm chất sáng ngời của anh Lê Hữu Trữ (sư trưởng), Nguyễn Minh Đức (chính ủy), Trần Tiến Quảng (sư trưởng), Nguyễn Việt Sơn (sư trưởng), Dương Tiến Lợi (sư trưởng), đã để lại trong lòng cán bộ, chiến sĩ sư đoàn niềm thương tiếc vô hạn. Các anh ấy là lớp cán bộ kế tục, tiêu biểu đức tài như Giáp Văn Cương, quê ở Bắc Giang, năm 1949, chỉ huy tiểu đoàn 19, diệt tên đại tá Pháp Rôrê trên đèo Hải Vân, sau này là Thượng tướng, Đô đốc Hải quân Việt Nam, đã qua đời năm 1992. Anh là một cán bộ quyết đoán, cương trực, giỏi kế hoạch, làm việc khoa học, dứt khoát. Anh Hoàng Anh Tuấn, một trí thức, quê Thừa Thiên - Huế, sau này là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, là thương binh trong kháng chiến chống Pháp, hỏng một mắt. Suốt hai cuộc kháng chiến vẫn liên tục chiến đấu, anh rất thương yêu cán bộ chiến sĩ. Có lúc đơn vị hành quân, gặp chiến sĩ ốm đau, sốt rét, không mang vác được anh đã mang giúp ba lô, súng đạn, để chiến sĩ cùng đi theo kịp trong đội hình.. Anh Lê Kích, quê Quảng Ngãi, là chiến sĩ du kích Ba Tơ năm xưa, chiến đấu dũng cảm thông minh, lao động cần cù, sâu sát chiến sĩ, hòa mình với nhân dân. Anh Trần Tiến Quảng, quê Quảng Ngãi, một thư sinh nho nhã, nhưng biết rèn luyện trong gian khổ, qua hai cuộc kháng chiến, bám sát chiến trường, giỏi công tác tham mưu, tác phong dân chủ, tôn trọng tập thể, đồng chí, lắng nghe cấp dưới, làm việc ngày đêm, không biết mệt mỏi. Anh Nguyễn Chơn (sư trưởng) sau này là Thượng tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang, là người có cá tính mạnh mẽ, quyết đoán, được anh em cán bộ, chiến sĩ thán phục, có lời tặng “Người anh hùng say mê đánh giặc”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #119 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2011, 08:43:13 pm »

Tôi không thể nào quên được những tấm gương chiến đấu quên mình của các anh hùng và anh hùng liệt sĩ, các cán bộ chiến sĩ của sư đoàn như cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 17 thông tin, trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, vượt dưới bom đạn địch hàng trăm lần để nối dây, rải dây phục vụ chiến đấu, trên mũ mỗi người dán khâu hiệu “Mạch máu có ngừng, nhưng đường dây không bao giờ tắt”, như anh Phạm Minh, chính trị viên đại đội, trong một trận đánh, khi cửa mở, gặp ổ đề kháng của địch ác liệt, anh lấy thân mình nằm vắt lên hàng rào kẽm gai, để cho đồng đội đạp lên, băng qua đột phá trung tâm cứ điểm địch giành thắng lợi. Anh Lê Hữu Tựu, với 4 năm tuổi quân, đã bắn rơi 31 máy bay các loại của địch, riêng năm 1968, anh bắn rơi 18 máy bay, diệt 64 tên địch. Anh Nguyễn Nhân Biểu, đánh 43 trận, trận nào cũng được biểu dương về thành tích chiến đấu. Anh Đặng Đình Trường, bám chốt núi Ngang, bắn rơi 13 máy bay trực thăng, có một chiếc bị anh bắn đứt làm đôi khi chưa kịp đổ quân. Anh Trần Đình, một chiến sĩ nuôi quân được đi chiến đấu, đã thể hiện tinh thần dũng cảm đánh nhanh, thọc sâu, làm cho quân địch bất ngờ và giành chiến thắng. Chị Nguyễn Thị Hồng ở đại đội 3 vận tải, bị 36 mảnh bom bi cắm vào người, vẫn nén cơn đau, đưa thuyền chở thương binh vượt qua vùng trọng điểm đến nơi an toàn. Anh Đặng Đình Đào, suốt 4 ngày đêm quần nhau với thiết giáp Mĩ, bắn cháy 6 xe tăng. Anh hùng Nguyễn Chuyễn, quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, chiến sĩ trinh sát, đã điều tra nghiên cứu, bám địch, vượt hàng rào thép gai qua hàng thục cứ điểm để phục vụ cho chiến đấu.

Hình ảnh đại đội 3, thuộc tiểu đoàn 19, vận tải của sư đoàn, là đơn vị nữ được tuyên dương anh hùng. 120 cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ gùi, thồ lương thực, vũ khí, thuốc men. Thân gầy mảnh khảnh, nhưng chị em vẫn lao động không mệt mỏi, mỗi người gùi nặng từ 50 đến 60kg. có chị gùi đến 100kg. Đầu trần, chân đất, qua sông lội suối, leo núi vượt đèo, ốm đau, bệnh tật, có khi lạt muối đói cơm, nhớ nhà, người thân, suốt 10 năm gian khổ ác liệt, ngược xuôi hàng vạn cây số phục vụ 20 chiến dịch đánh địch của sư đoàn. Đến nay thỉnh thoảng tôi gặp lại các nữ quân nhân ấy, có người đã làm mẹ, làm bà với mái gia đình hạnh phúc, có người còn ở vây để sống với quá khứ không nguôi, cón người chỉ là dòng tên trên bia mộ, hoặc trong kí ức của đồng đội, bạn bè.

Tôi không thể nào quên được, và cũng không thể nào nhớ hết được một đội ngũ cán bộ ác cấp từ tham mưu, chính trị, hậu cần, các bác sĩ, dược sĩ, y tá, hộ lí, thợ quân giới, thông tin liên lạc, anh chị nuôi… lăn mình trong mưa bom, bão đạn, thiếu thốn mọi bề, vẫn lạc quan, ung dung thanh thản làm việc quên mình để bảo đảm trong công tác chiến đấu của sư đoàn trên các chiến trường, chiến dịch thắng lợi.

Hàng vạn, hàng vạn hành động anh hùng vượt qua ác liệt, gian khổ, bền gan vững chí để giành thắng lợi cho cách mạng nói chung và cho đơn vị nói riêng, đã được Đảng, Nhà nước, quân đội ghi công, tuyên dương, khen thưởng, nhưng cũng còn biết bao tấm gương ẩn mình trong thầm lặng vì nhiều lí do như chiến sĩ Bùi Thanh Thà, một mình với khẩu AK bám bắn liên tục, không cho trực thăng hạ cánh bắt sống tôi trên cánh đồng Phương Đông, Dương Yên (huyện Trà Mi). Chiến sĩ Đàm Văn Hưng, dân tộc Tày, quê tỉnh Cao Bằng, và Quách Văn Thành, dân tộc Mường, quê tỉnh Thanh Hóa, đã dũng cảm lấy thân mình nằm trùm lên người tôi, để cứu tôi thoát chết trong đợt B52 rải thảm tại xã Sơn thạch, huyện Quế Sơn… Khi được hỏi các chiến sĩ đều nói một cách chân tình, cởi mở và vô tư: “Chúng tôi hi sinh để cho thủ trưởng sống chỉ huy chiến đấu”.

Tôi vô cùng thương tiếc những đồng đội đã hi sinh ở chiến trường Kon Tum, Tân Cảnh, Đắc Tô, Đường 9 - Nam Lào, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Quảng Đà… Tôi như còn thấy bên tôi những anh em, đồng chí ngày nào:

Tấm choàng che mưa chôn xong đồng đội
Hẹn thắng giặc rồi lặn lội tìm anh
Hai mươi lăm năm chấm dứt chiến tranh
Mà anh còn ở rừng xanh chưa về
Thương anh nhớ lại lời thề
Tìm anh mà vẫn không hề gặp anh

               (Tình đồng đội - NHC)

Tất cả những hành động dũng cảm đó, từ lúc chuẩn bị lên đường cho đến khi xung trận, trong những phút hiểm nguy nhất đều chung một quyết tâm anh dũng chiến đấu, sẵn sàng xả thân vì thắng lợi để làm nên chiến công tô thắm truyền thống anh hùng. Cao đẹp thay tình đồng chí, đồng đội. Những tấm gương tiêu biểu của cán bộ, chiến sĩ đã cùng tôi công tác trong sư đoàn 2, sư đoàn 711, là bài học lớn về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, cho tôi có điều kiện học tập, rèn luyện và trưởng thành.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM