Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:52:36 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Huyền Trân Công chúa  (Đọc 35203 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #10 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:01:18 pm »

Bà lão giật thót hai tay lại. Mắt bà tối sầm. Nước da sạm nắng trở nên tái ngắt. Môi run run. Một lúc sau đôi môi ấy mới mấp máy. Bà lão nói thều thào:

- Già vốn làm nghề bán nước bên bến sông. Ngày nọ giặc Thát xâm lấn bờ cõi. Đức vua bố cáo từ tiểu hoàng nam đến đại hoàng nam đều phải xung vào cơ ngũ. Thân góa bụa, có hai đứa con trai đều đi đánh giặc cho vua cả. Già vẫn bán nước tại bến sông quê. Một hôm có đoàn quân thất thủ từ Thăng Long rút về qua bến sông này. Lão cứ nhìn mãi xem có thấy mấy đứa con lão không, nhưng chẳng gặp một đứa nào. Chừng nửa khắc canh thì quân Thát ầm ầm kéo đến. Phải nói là chúng nó đi như voi đi. Vườn tược, cây cối, nhà cửa chúng đốt phá, dày xéo tan hoang hết cả. Mấy đứa vào hỏi lão: "Có thấy đoàn quân chạy trốn qua đây không?". "Có đấy". Lão trả lời.

- Nó chạy hướng nào? Chúng quát.

Đáng lẽ chỉ theo hướng đoàn quân chạy, thì lão lại chỉ về hướng có gài bẫy chông, bẫy đá.

Quân Thát hùng hổ đi về hướng có giăng bẫy. Chúng bị thụt hầm, thụt hố, chết quá nửa. Chắc là chúng nó căm lắm. Khi trở lại, chúng đốt quán, trói lão lại rồi chặt hai bàn tay. Giặc Thát diệt xong rồi, nhưng các con lão không một đứa nào trở lại. Lão bị giặc đốt nhà, đốt quán, lại không có tay, nên đành phải sống như vậy. Nói ra cực đủ trăm đường. Xin các cô rủ lòng làm phúc.

Cảm thông với hoàn cảnh của bà lão, công chúa nói:

- Chị em tôi không mang tiền theo. Nhưng tôi có cái này xin giúp lão bà.

Vừa nói, Huyền Trân vừa nong hai tay vào trong cổ áo tháo chiếc vòng ngọc bích nạm vàng. Đúng lúc bà
lão chìa hai cánh tay cụt ra. Bà vội rụt cánh tay lại như vừa chạm vào lửa. Chiếc vòng rơi xuống đất, lăn quay rồi đổ ngã. Bà lão thất vọng xua tay:

- Giả ơn các cô.

- Ơ kia lão bà. Tôi biếu lão bà thật mà. Công chúa ngơ ngác tưởng lão bà sợ bị đánh lừa.

- Tôi biết cô có lòng cho tôi thật. Nhưng ích gì đâu. Ví bằng tôi nhận của cô, hẳn nhiên bọn trộm cướp
không để tôi yên. Dẫu bọn trộm cướp có để tôi yên, thì các quan lớn, quan bé ở đây cũng không để tôi yên. Họ lại cướp mất. Khéo không các quan còn cho ngồi tù. Bà lão ngửa mặt lên trời chắp hai cánh tay cụt, vái chơi vơi. Bà thở dài, nói tiếp:

- Tôi lấy gì chống lại họ. Bọn trộm cướp, bọn quan nha ấy. Của hại người như chơi. Nói rồi bà lão quay quắt đi, không một lời cảm tạ.

Trước đó ai cũng bảo bà lão "dở người", "dại". Ai cũng xui bà "cứ nhận chiếc vòng đi". Nhưng khi nghe bà giãi bày nông nỗi, ai cũng nhận điều bà nói là chí lý.

Bà lão bỏ đi, công chúa bàng hoàng như người bị lấy mất hồn. Vừa xúc động, vừa tủi. Huyền Trân òa khóc.
Bích Huệ dẫn Huyền Trân và Thúy Quỳnh ra khỏi chợ, thấy dòng người tuôn đổ về hướng Tức Mạc cũng đi theo. Phần đông là các cụ lão ông. Có cụ đầu bạc trắng, tay chống gậy trúc, thủng thẳng bước đi. Có cụ lưng còng rạp xuống phải bám vào chú tiểu đồng, dò dẫm từng bước. Loáng thoáng có những nhà sư vận áo cà sa dài quét đất, đầu đội mũ hoa sen, tay chống thiền trượng, uy nghi như các đức Phật sống. Các tăng, ni, phật tử, trong vùng nườm nượp đổ về. Tất cả mọi người đều kéo nhau vào chùa Phổ Minh. Họ kháo nhau đi nghe nhà vua thuyết pháp. Huyền Trân nghĩ thầm: Chắc chắn vua cha đăng đàn.

Khi mọi người đã tề tựu, Huyền Trân cùng hai nữ tì ngồi khuất sau gốc cây ngâu phía sân chùa, để nghe nhà vua giảng đạo. Một lát, Trần Nhân tôn xuất hiện. Nhà vua đi trong tiếng A di đà râm ran như tiếng cầu kinh của các phật tử. Vua Nhân tôn đăng đàn với tất cả y phục của vị tu hành. Ngài vận chiếc cà sa màu vàng, đầu đội mũ hoa sen, tay cầm thiền trượng. Ngài đứng ngay dưới chân bệ tượng Phật Thích-ca mà nói. Nhà vua có dáng người hơi nhỏ. Khuôn mặt phúc hậu, đôi mắt long lanh tỏa ra một sắc sáng xanh như người có huệ nhãn. Đôi tai to, vành tai dày và chảy xuống như tai Phật. Nhà vua nói với các tăng già và bô lão trong vùng về sự thống nhất tín ngưỡng. Nhà vua không bài xích, không cấm đoán các tín ngưỡng khác. Người chỉ nói đến tính dung tục của đa thần giáo. Và trình độ sơ khai của dâm thần và các tạp thần. Người khuyên mọi người nên hướng về đạo Phật. Có người hỏi về ý nghĩa xuất gia và tại gia của việc tu dưỡng khác nhau như thế nào. Người đáp:

- Mục đích của việc tu đạo là tu dưỡng vô dục, vô ngã. Việc làm dưỡng ấy quả là công phu lắm. Người tại gia cũng có thể đạt tới mục đích giải thoát. Khốn thay, thế gian vốn được xác lập trên nền tảng của dục. Cho nên, sống giữa thế gian mà tu dưỡng được vô dục, vô ngã là việc khó lắm, hiếm lắm. Bởi thế, người ta mới phải ỷ vào phép xuất gia, dứt bỏ ái ân phú quí, vinh hoa, trừ khử lòng ngã chấp, ngã dục để chuyên tâm tu đạo. Nhưng nếu ai ai cũng muốn xuất gia cả thì ở vào đâu mà tu. Việc xây cất chùa chiền tràn lan không phải là việc có lợi cho dân, có lợi cho đạo. Chùa là chốn để sư ở, chứ Phật đâu có ở chùa. Không ai có thể đem Phật nhốt vào chùa được. Vả lại, việc tu đạo cốt ở tu tâm. Trước hết mọi người phải chính tâm mới tu được. Ta muốn đem cái lẽ bác ái của đạo Phật để thức tỉnh nhân tâm trong toàn cõi Đại Việt. Ta muốn mọi nhà, mọi người đều tu Phật, tức là tu tâm. Tâm thiện ấy chính là Phật. Nên chỉ mỗi gia đình phải thực sự hòa thuận, kính trên nhường dưới, bảo ban nhau làm ăn. Chớ có tin vào những điều nhảm nhí, dị đoan của bọn phù thủy đem từ Trung Quốc sang. Sao cho nhà nào cũng không phải lo đói, lo rét, lại còn dư dật ra chút ít để cứu giúp những người cơ nhỡ.Tức là mỗi gia đình đều có khả năng làm điều thiện. Nhà nhà đều no ấm, thuận thảo, hiếu nghĩa thì toàn xã hội không còn nạn trộm cắp, lừa đảo, bất hiếu, bất mục nữa. Khi mọi nhà đã no ấm, sẽ đua nhau làm việc thiện. Một xã hội đủ đầy, hiếu thuận là một xã hội có sức mạnh thần thánh, không còn lo sợ sự xâm nhập của ngoại bang nữa. Vua Nhân tôn nhìn khắp lượt mọi người rồi nói tiếp: - Ta muốn các chư vị bô lão, hào trưởng cùng tăng già hãy góp sức nhau lại làm cho sự đạo phát khởi. Làm sao cho quốc gia Đại Việt ta sẽ là một Niết bàn giữa trần gian.

Nhà vua đang say sưa thuyết giảng thì quan ngự sử trung tán Đoàn Nhữ Hài, cỡi con ngựa trạm chạy mệt sùi bọt mép, đang đứng giậm chân cồm cộp ngoài cổng chùa. Nhữ Hài được quan gia sai xuống kính báo cáo cho vua cha biết là có đoàn cống sứ Chiêm Thành sang. Họ đã tới kinh đô.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #11 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:03:02 pm »

Chương 4

Vẫn nguyên trong bộ y phục hòa thượng mặc khi thuyết pháp, vua Nhân tôn ngồi trầm ngâm trong thế tọa thiền. Mắt ngài khẽ nhắm lim dim như khi ngài nhập định. Quan trung tán Đoàn Nhữ Hài mặt còn non choẹt như một gã thư sinh. Nhưng những nét lo âu và sương gió, đã gieo lờ mờ trên vầng trán cao của vị quan nhỏ tuổi này vài vết nhăn. Đoàn Nhữ Hài vẫn chắp tay cung kính đứng phía sau nhà vua. Lâu lắm không thấy Nhân tôn dạy bảo điều gì, quan ngự sử bèn nghĩ lại những điều mình đã tâu trình với đức vua, xem có gì sai sót khiến ngài giận. Miên man, Đoàn Nhữ Hài lại nghĩ tới hai năm về trước, cũng ở phủ Thiên Trường này. Bữa đó Nhữ Hài phải quì trước sân để dâng biểu tạ tội cho vua Anh tôn, suốt từ sáng sớm tới xế chiều. Trải mưa gió, sấm chớp mãi rồi thượng hoàng mới thương tình nhận biểu. Ấy là nhân ngày tết Đoan Ngọ. Có người dâng rượu xương bồ cất đã ngót trăm năm. Nhà vua vốn là người sành rượu, nhưng chưa hề được nếm một thứ rượu nào tinh khiết, thơm tho, ngọt dịu mà đậm đà đến thế. Ngài dùng hơi quá chén. Nên khi thượng hoàng từ phủ Thiên Trường về hỏi đến, cung nhân mới vào trong đánh thức, mãi nhà vua cũng không tỉnh được. Thượng hoàng giận bỏ về Thiên Trường ngay lập tức. Người xuống chiếu cho các quan trong triều, ngày hôm sau phải có mặt ở Thiên Trường để điểm mục. Ai trái lệnh sẽ xử tội. Lúc nhà vua tỉnh dậy đã quá nửa chiều. Khi biết mọi việc xảy ra, nhà vua hốt hoảng bỏ ra ngoài cung. Cơ may run rủi thế nào, vua lại gặp Nhữ Hài ở cửa chùa Tư Phúc. Biết Nhữ Hài là học trò, nhà vua bảo làm cho bài biểu tạ tội. Làm xong, nhà vua dẫn Nhữ Hài xuôi thuyền thâu đêm về đây. Bữa đó Nhữ Hài mới được thấy dung nhan thượng hoàng. Và cũng được thấy đức nghiêm khắc của người đối với việc nước, việc nhà. Thượng hoàng thét mắng nhà vua:

- Ta còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Ta còn sống mà ngươi đã dám như thế, huống chi sau này?…

Chính từ sự việc đó mà Nhữ Hài - một anh học trò chân trắng được cất nhắc lên làm ngự sử. Cũng từ đó, Anh tôn suốt đời không bao giờ uống rượu nữa.

Chợt nhà vua mở bừng mắt ngoái lại nhìn Nhữ Hài:

- Vậy là khanh vẫn không chịu ngồi. Sao khanh không quì như năm trước dâng biểu cho quan gia. Đức vua
mỉm cười vẫy Nhữ Hài ngồi xuống sập.

Nhữ Hài khép nép vái ba vái rồi mới ghé ngồi.

- Khanh có thấy thư phúc đáp của quốc vương Chiêm Thành gửi cho ta không?. – Nhà vua hỏi.

- Tâu thượng hoàng, theo như thần được biết thì có. Nhưng đường xa, lại e có con mắt của người Nguyên nom dòm, nên quan gia muốn thỉnh thượng hoàng về kinh để thượng hoàng coi xét và chỉ giáo cho. Bẩm thượng hoàng, vì thế mà đoàn cống sứ vẫn còn nghỉ ngoài dịch quán, quan gia chưa tiếp.

- Cầm đầu sứ đoàn là ai, khanh có biết không?

- Bẩm thượng hoàng, cầm đầu sứ đoàn là quan Bồ-đề (quan tể tướng), cậu ruột của quốc vương Chế Mân. Nhưng linh hồn của sứ đoàn lại ở nơi hòa thượng Du Già, chủ sự phái Phật giáo Đại thừa Chiêm quốc.

- Thế thì hay lắm! Nhà vua reo lên. Người không nén nổi niềm vui.

- Bẩm thượng hoàng, nhà sư lại cải dạng làm người thường.

- Sao khanh biết?.

- Bẩm có tá thánh thái sư dò xét trong đám tùy tùng. Và có người của ta nhận mặt được nhân chuyến
sang sứ Chiêm mấy năm trước.

- Ta chắc có duyên do uẩn khúc gì đây, chứ người Chiêm sai đủ thâm sâu như người Tống, người Nguyên để lừa ta? Khanh thất sắc diện của họ ra sao?

- Trình thượng hoàng, thần không dám võ đoán. Nhưng cứ xét vẻ ngoài thì họ đến ta với ý đồ chân thực.

- Ta cũng nghĩ như khanh.

Đêm ngược thuyền về kinh, vua Nhân tôn cho Nhữ Hài đi cùng với thuyền ngự. Công chúa Huyền Trân
được phép ở lại đi ngoạn cảnh vài bữa rồi thu xếp về sau. Vốn có lòng mến Nhữ Hài từ buổi y đội biểu tạ tội cho quan gia. Nhà vua muốn đàm đạo với gã thiếu niên này, xem kiến giải của y cao thấp ra sao mà
được quan gia sai khiến.

Đêm hạ tuần, không trăng, không sao. Gió đông bắc tuy không gào thét như trong buổi trọng đông, nhưng cũng đủ lạnh tê tái cho những ai thiếu áo, thiếu chăn. Ngược nước lại ngược gió. Hai chục tay chèo vẫn không đẩy được con thuyền đi nhanh hơn. Người trưởng cơ hộ giá bèn phái bốn lực sĩ lên bờ kéo dây. Thấy người chèo người kéo vất vả, nhà vua bèn bảo với trưởng cơ rằng:

- Chỉ có một mình ta đi, mà hàng chục các ngươi vất vả. Hãy neo thuyền lại, cho lính ngủ, sáng mai dậy đi cũng chưa muộn. Được nhà vua tỏ lòng thương cảm, tốp lính chèo thuyền càng chèo hăng hơn. Người trưởng cơ xin với nhà vua cứ cho đi, rồi ngày mai sẽ cho lính nghỉ. Dường như chưa an tâm, nhà vua lại truyền cho trưởng cơ hay rằng:

- Ngươi nói với mọi người đi hộ giá đêm nay, ta sẽ thưởng cho mỗi người một tấm lụa đem về may cho vợ con. Trong các người ấy, có ai có cha mẹ già yếu phải phụng dưỡng, hoặc như có con nhỏ mà gia đình neo đơn, cứ thực tình tâu lên, ta sẽ cho về quê quán làm ăn.

- Người trưởng cơ và cả tốp lính hộ giá, tưởng như trước mặt mình là đức Phật hiện ra cứu khổ cứu nạn, chứ không phải đức vua nữa.

Nhà vua sai pha trà rồi gọi Nhữ Hài tới hỏi chuyện:

- Ta biết khanh không phải là kẻ xu phụ. Nên ta muốn hỏi khanh vài việc, có thế nào khanh nói vậy, không phải lựa ý tìm lời để làm đẹp lòng ta.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #12 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:03:44 pm »

- Muôn tâu thượng hoàng, thần xin lĩnh ý - Nhữ Hài nói mà trong dạ vẫn chưa yên. Quan ngự sử quá trẻ so với tước vị này, tuy có học nhưng chưa qua khoa cử đỗ đạt, lại chưa từng trải việc đời mà nhiều kẻ độc miệng cứ gọi là "làm quan tắt", nên chỉ mỗi khi nhà vua hỏi đến, vẫn có ý thèn thẹn, làm khuôn mặt đỏ ửng lên.

- Trong tình thế hiện nay, khanh có nghĩ rằng người Nguyên lại có ý dòm dỏ thôn tính Đại Việt ta nữa không?

- Tâu thượng hoàng, theo thiển kiến của thần, không lúc nào người Nguyên thôi dòm dỏ nước ta. Nhưng trong lúc này thì họ chưa thể nghĩ đến chuyện khởi binh thôn tính Đại Việt ta được. Là vì các tướng soái giỏi giang đã lần lượt qua Đại Việt, kẻ bị giết, kẻ bị bắt làm tù binh, kẻ thua đại bại, cho tới nay vẫn còn ngao ngán. Lòng thì căm uất muốn phục thù, nhưng trí chùng, lực kiệt. Còn loại tướng trẻ mới lên, tuy có hung hăng nhưng chưa trải qua chiến trận, cũng chưa dám nghĩ đến việc tiến binh sang Đại Việt. Vả lại Trung nguyên tuy có tạm thời khuất phục, nhưng dễ gì người Trung Quốc cam tâm chịu làm thân chó lợn cho người Thát mãi. Tuy họ thống trị Trung Hoa, nhưng thực ra họ đang cưỡi trên lưng cọp. Sao có thể rảnh tay mà nhìn về phương nam. Tâu thượng hoàng, ấy là chưa nói đến hai lần động binh gần đây, họ hao tổn không biết bao nhiêu tiền của, lấy gì mà động binh lần nữa.

- Khanh nói rất hợp ý ta. Nhưng ta còn thấy một điều nữa khiến họ chưa thể động binh được, là các kế sách của họ đều thấp, đều lỗi thời và đã bị quân ta phá, mà kế sách mới thâm sâu, ảo diệu thì họ chưa kiến tạo được.

- Tâu thượng hoàng, quả đúng như lời thượng hoàng nói. Họ thua ta là thua về kế sách, chứ binh lực họ còn hùng hậu lắm. Kiến thức của thượng hoàng quá ư thâm viễn, kẻ tiểu sinh này còn nông cạn chưa hiểu được.

- Khanh thấy quan gia là người thế nào? Các quan đại thần văn võ từ việc cất nhắc, bổ dụng đến năng lực, tư cách của mỗi người, ngươi thấy có gì đáng nói.

- Tâu thượng hoàng, việc thẩm định năng lực và tư cách các đại thần là việc quá lớn, tiểu sinh không đủ
tư cách bàn tới, xin thượng hoàng tha tội. Nhưng có một việc thần xin thượng hoàng lưu tâm. Ấy là việc mở khoa thi chọn người tài để giúp rập nhà vua. Trước đây tiên đế từ năm Bính ngọ (1246, nhà Trần định lệ thi tiến sĩ cứ bảy năm một kỳ) đã định lệ thi tiến sĩ cứ bảy năm một lần. từ đó mở được bốn khoa. Khoa cuối cùng là vào năm Ất hợi (1275), tới nay đã ngót ba chục năm. Kẻ sĩ trong nước chán nản không muốn tiếp tục đi sâu vào con đường học vấn nữa. Vì họ không có chỗ tiến thân. Một nước mà kẻ sĩ không được coi trọng, làm sao có thể khai phóng được dân trí. Dân trí không khai phóng được thì làm sao có văn hiến? Các quan đại thần thì ở cương vị quá lâu mà không có sự thay đổi.

Lệ khảo khóa đã định mà không được tiến hành, để loại bỏ bớt những kẻ bất tài vô dụng. Thành thử những người già yếu, bất lực vẫn cứ khư khư nắm giữ quyền hành, người trẻ trung tài cán không được cất nhắc, nhân tài ngày một hao mòn, thưa vắng.

Vua Nhân tôn gật gù như người nhấm nháp từng giọt mật đắng, mà viên ngự sử trẻ tuổi này đã dũng cảm hiến dâng. Không phải nhà vua không nghĩ tới những điều Đoàn Nhữ Hài nói. Số người nắm quyền bính cao nhất trong triều hiện nay là những ai? Thực chất là các bậc cao niên vào hàng cha chú của đức vua. Những người này trong quá khứ thật sự có tài, có công lao lừng lẫy đánh giặc giữ nước. Nay lấy cớ gì xô hất họ đi được. Nhà vua đủ sáng suốt nhận thấy hàng ngũ quan lại trong triều, những người giữ các cương vị chủ chốt, hầu như không còn đủ năng lực điều hành bộ máy nữa. Họ nghĩ đến tư lợi quá nhiều, đua nhau xây dinh, lập phủ, sống xa hoa, đúng như lời lão bộc Đặng Dương nói. Còn việc mở khoa thi kén người tài, cũng là chuyện làm nhà vua khổ tâm. Đúng là kẻ sĩ lâu nay không có chỗ đua tài. Nhưng nếu mở khoa thi kén được người tài, phải bổ dụng họ vào các chức xứng với học vấn, học vị của họ. Một điều làm nhà vua đau lòng không kém, là người trong hoàng tộc ít chịu học hành rèn giũa. Nếu có mở khoa thi, lại người ngoài chiếm hết tam khôi (Các chức danh cao nhất trong hàng đại khoa: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa). Nhà vua cố kìm nén những điều suy ngẫm đến lao lung. Người khẽ mỉm cười rồi thấp giọng phán:

- Các điều khanh nói, thuần là những sự thật đau lòng. Ta sẽ lưu ý quan gia. Song điều làm ta boăn khoăn nhất vẫn là việc bên ngoài. Phương bắc, như khanh đã nói, lúc này tạm thời không lo ngại lắm. Nhưng với ta, cái họa phương bắc là họa bao trùm. Họ là kẻ thù dai dẳng tiềm tàng của Đại Việt. Họ cũng là kẻ thù tri kỷ của ta nữa. Cho nên tâm lực của ta thường để vào mặt bắc. Còn mặt nam, theo ý khanh, nên như thế nào? Ta muốn mở đường hòa hiếu ở mặt nam để rảnh tay đối phó mặt bắc?.

- Bẩm thượng hoàng, thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng với kế sách: Bắc cự Tào Tháo, đông hòa Tôn Quyền, nên đã giữ được thế chia ba thiên hạ. Nhưng lực của Ba Thục không hòa được, còn lực của Đại Việt ta dư sức tiến về phương nam. Thần thường thấy các bậc lão tướng, các bậc cân quắc bàn chuyện thừa thắng Đại Việt nên tiến về phương nam để mở mang bờ cõi. Chẳng hay ý của thượng hoàng thế nào?.

Vua Nhân tôn sầm mặt lại. Người ngoảnh nhìn ra sông. Lúc này trăng hạ huyền đã soi ánh lạnh mờ mờ trên dòng nước đỏ nhờ. Những người chèo thuyền chừng như đã thấm mệt, họ chèo uể oải. Mấy sợi dây kéo thuyền chùng võng xuống. Hẳn những người ở trên bờ cũng không còn đủ sức chạy bộ nữa. Nhà vua thầm nghĩ: "Ban tối ta mới bảo những người này, ai gặp cảnh ngộ khó khăn, ta cho về quê quán làm ăn. Nhưng nếu lại có chiến tranh, chắc ta phải nuốt trôi lời hứa. Mà họ thì có tội tình gì đâu".

Một thoáng im lặng, ngọn bạch lạp cháy gần tàn, ánh sáng leo lét làm cho cảnh trong khoang thuyền lung linh huyền ảo. Đoàn Nhữ Hài không nhìn thấy nét giận dữ hiện trên khuôn mặt nhà vua. Cũng may mà Nhữ Hài không nói tiếp cái ý tiến về phương nam. Phút im lặng nặng nề khiến Đoàn Nhữ Hài lờ mờ nhận ra, mình đã làm nhà vua phật ý.

Vua Nhân tôn lại lên tiếng. Giọng nói của nhà vua như lạc đi:

- Ta không chấp nhận việc tiến về phương nam! Ngươi thử nghĩ xem, nếu bây giờ người Nguyên cũng đặt chuyện tiến xuống phía nam, tiến vào Đại Việt thì sao? Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân. Chữ Hán, nghĩa là: Điều gì mình không muốn thì đừng bắt người khác muốn). Người nhân nghĩa không thể vô cớ cất quân đi xâm lấn bờ cõi người khác. Ngừng một lát, giọng nhà vua lúc này vang lên ấm áp như lúc ngài thuyết pháp. Ngài nói với vẻ như răn dậy:

- Nhữ Hài, khanh còn trẻ mà đã được cất nhắc. Song khanh đừng sớm vội ỷ vào tài năng mình mà quên điều nhân nghĩa. Ta khuyên khanh phải tĩnh tâm lại. Phải hằng tâm suy nghĩ về điều thiện. Phải làm nhiều việc thiện. Nếu không lấy cái thiện để chính tâm, thời ở vào vị thế quan chức như khanh, dễ sa vào bể dục, để tự mình biện hộ cho mình mỗi khi làm điều ác.

Nhà vua như cảm thấy mệt mỏi, ngài tựa vào khuôn gối xếp thiu thiu ngủ. Ánh nến tắt lịm. Khoang thuyền tối om.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #13 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:05:30 pm »

Chương 5

Tỉnh giấc, vua Nhân tôn không biết mình đã thiếp ngủ đi từ lúc nào. Khoang thuyền sẩm tối như trong hang. Không gian tĩnh mịch, nghe rõ cả hơi thở của từng người nằm rải rác đó đây. Lại nghe rõ cả tiếng nước vỗ nhẹ mơn man ngoài mạn thuyền, như trẻ thơ vầy nước trong chậu tắm.

Nhà vua mở nhẹ tấm chăn bông, đoạn khoác chiếc áo ngự hàn lên tấm thân mảnh mai như thân hạc, rồi ngài ló nhìn ra ngoài trời. Ánh trăng tan loãng trong sương. Vành trăng thu nhỏ lại như một chiếc lưỡi hái. Nhìn vành trăng, nhà vua biết trời đã về sáng. Ngài cúi nhìn dòng sông đen xỉn, loáng thoáng vài đốm sao rơi trên mặt nước, khiến dòng sông như một tấm vải mầu chàm, cải lưa thưa những chấm hoa trắng li ti.
Viên quan nội hầu đang ngủ say, chợt gió xộc vào mũi y một mùi hương quen thuộc làm y choàng tỉnh, và hốt hoảng lao về phía mũi thuyền. Thấy thượng hoàng trầm ngâm ngắm cảnh trời, nước, y vội lên tiếng:

- Tâu, ngoài này sương giá, xin thượng hoàng bảo trọng.

Nhà vua miễn cưỡng quay vào.

Viên quan nội hầu đã kịp khơi bạch lạp và đặt siêu nước lên chiếc hỏa lò đang bén lửa.

Vua sai đánh thức quan ngự sử trung tán Đoàn Nhữ Hài dậy thưởng trả.

Nhữ Hài khép nép đứng hầu:

Vua chỉ tay vào góc đệm gấm:

- Ngồi xuống! Nơi thuyền bè chật chội mà sao khanh thủ lễ một cách thái quá. Ta miễn lễ, khanh cứ tự
nhiên cho thoải mái.

- Đa tạ thượng hoàng gia ân. Đoàn Nhữ Hài nói nhỏ, vừa đủ để nhà vua nghe, rồi chàng ghé ngồi nơi mép đệm.

Vua Nhân tôn đã gặp, đã trò chuyện với Đoàn Nhữ Hài đôi lần. Nhưng lần nào cũng vội vã bởi công việc chi phối. Vả lại chàng cũng khép nép giữ ý, nên không bộc lộ được tâm tính một cách hồn nhiên.

Duy lần ta gặp Nhữ Hài ở chùa Siêu Loại, có dễ đến gần hai canh giờ. Qua trò chuyện, ta biết Nhữ Hài là người có tài.Và quan gia cất nhắc như vậy cũng là một sự mạnh tay. Nay đã được vài năm, ta muốn kiểm xét lại Nhữ Hài, xem y đã tinh tấn ra sao.

Lần này Nhữ Hài ở ngay bên cạnh, gần gũi, thân mật, nhà vua muốn tự mình thăm dò ý tứ sâu nông, xem kiến văn và cả sự từng trải của một quan lớn nhỏ tuổi, được quan gia sai khiến thế nào. Không những nhà vua muốn kiểm xét tài năng và nhân cách của Đoàn Nhữ Hài, mà ngài còn muốn kiểm xét cả trí sáng suốt của Trần Anh tông trong việc dùng người. Bởi việc dùng người chính là thước đo năng lực của bộ máy cai trị. Mà bộ máy cai trị lại chính là thước đo về sự mạnh yếu của một quốc gia. Vì rằng, nếu bộ máy cai trị dùng được nhiều người tài đức nơi triều chính tới các phủ, lộ, châu, quận và cả hương ấp nữa, thì nước không mạnh là điều xưa nay chưa từng thấy. Trái lại, những kẻ bất tài, vô hạnh, tham bẩn ngự trị nơi triều chính và lẩn khuất khắp mọi nơi, thì nước không suy yếu rồi sụp đổ cũng là việc xưa nay chưa từng thấy. Thế nhưng bộ máy cai trị của một quốc gia mạnh hay yếu, tốt hay xấu, lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự anh minh và đức độ của người đứng đầu quốc gia đó, được thể hiện qua việc sử dụng nhân tài. Tuy đã trao quyền trị quốc cho Anh tông từ năm Quí mùi (1293), và ngài đã xuất gia tại hành cung Vũ Lâm từ tháng 6 năm Ất dậu (1295), nhưng ngài vẫn giám sát việc điều hành triều chính của Anh tông.

Hai cây bạch lạp thi nhau tỏa sáng. Ánh sáng soi tỏ cả một khoang thuyền đã được ngăn bằng những tấm ván thưng. Nói rằng thuyền ngự, nhưng Nhân tôn không cho phép trang hoàng xa xỉ. Chỗ ngài nằm chỉ trải tấm nệm gấm mầu huyết dụ đã cũ lắm. Mép đệm đã xơ, mặt đệm loáng thoáng có một vài lỗ thủng để lộ mầu bông trắng nhờ. Bên chồng gối xếp có mấy cuốn kinh Phật, một ống gỗ mun đen nhức cắm vài ngọn bút lông và nghiên mực cạn. Ngoài ra, còn có chiếc tráp nhỏ và bộ đồ trà.

Đoàn Nhữ Hài ngồi đối diện với nhà vua, nhưng trong lòng đang nghĩ về những công việc mà chàng đã trải từ mấy năm nay. Và cả việc chàng được cất nhắc mà chính chàng cũng khó tin. Từ một anh học trò mặt trắng, bỗng trở thành một ngự sử trung tán; ở chức chưa được vài năm lại thăng bổ Tham tri chính sự, tham dự chính phủ. Tuổi trẻ, chức quan vượt trên cả các bậc cố lão đại thần, Đoàn Nhữ Hài cảm như có một mối hiểm nguy mơ hồ, lúc nào cũng rình rập, khiến chàng canh cánh lo âu. Đôi lúc, chàng đã mạnh dạn thổ lộ với Anh tông.

Nhà vua mỉm cười độ lượng, vỗ vào vai Nhữ Hài nói lời an ủi:

- Khanh đừng lo người khác ghen tị, hoặc chọc hại khanh. Mà hãy lo làm cho thật tốt phận sự của chính mình. Theo ta, đó là cách phòng vệ tốt nhất. Có như thế mới không phụ lòng ta tin cậy, và mới bịt được miệng những kẻ xấu bụng luôn nghĩ bậy cho người khác.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #14 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:06:06 pm »

Chàng cứ đuổi theo những hình ảnh từ buổi sơ ngộ với đức Trần Anh tông, tới việc chàng theo hầu nhà vua, và được cất nhắc vào quan chức triều đình trong mấy năm qua. Nhưng mắt chàng lại dừng nơi đôi bàn tay viên quan nội hầu với cách thức y chế trà.

Chao ôi, sao mà ông ta làm các việc nó ngon lành và thuần thục như vậy. Đến nỗi Nhữ Hài có cảm giác như ông ta được sinh ra cuộc đời này để chỉ làm có mỗi một việc là chế trà.

Ông ta bầy bộ đồ trà ra từ lúc siêu nước mới réo sôi. Đồ trà là một thứ đồ gốm Bát Tràng. Một chiếc ấm song ẩm mầu thúy hồng độc sắc, có một đường viền chìm bằng hoa cúc dây quanh miệng ấm. Bốn chiếc chén cũng mầu thúy hồng nhưng có trình bày một dây hoa cúc chạy chìm quanh miệng chén. Mặt trong chén được láng men trơn mầu trắng. Bốn chiếc chén bầy trên một đĩa có chân đế. Mặt ngoài đĩa láng men thúy hồng, mặt trong men trắng độc sắc có một đường viền quanh đĩa bằng dây hoa cúc chìm trong men. Một chiếc chén cái, cũng gọi là chén chuyên hình thuôn, có chân đế cao, dáng khỏe, men và hoa lá trang trí y hệt bốn chiếc chén quân bầy trong đĩa. Tất cả đều được đặt trên chiếc khay gụ trơn hình vuông. Một lọ trà to bằng hai chiếc chén cái, mầu sắc trang trí như cách trang trí chén và đĩa.

Kỳ lạ là y vừa bầy xong các thứ khay chén ra,  thì siêu nước cũng réo sôi. Y khéo léo tráng ấm bằng chén nước sôi rồi lào chè ra lòng bàn tay để cho vào ấm. Lại chế nước sôi vào bình trà, rồi rót nhanh nước đó vào bát thải bã chè. Đó là nước rửa chè, để nếu như có bụi bẩn bám dính vào trong khi sao sấy trà, sẽ được khử bỏ hoàn toàn. Y pha hãm liền ba nước, đều trót vào chén cái. Còn cách chừng một hạt thóc nữa thì nước chớm vành dây hoa cúc phía trong miệng chén. Tráng lại nước sôi mấy chiếc chén con một lần nữa, viên quan nội hầu chuyên trà từ chén cái sang; mầu trà xanh sánh như mật ong, trong như hổ phách, không hề gợn một mảy cấn chè.

Đoàn Nhữ Hài đã được hầu trà ông nội, lại cũng được hầu trà quan quốc tử giám tư nghiệp, hồi theo học trong trường Giám, nhưng chàng chưa thấy có một ai pha trà khéo tới mức tinh tế như viên quan nội hầu này. Từ việc rót nước sôi vào ấm, rót trà ra chén cái, lại chuyên trà sang các chén quân, chàng không hề thấy một giọt nào trào hoặc sánh, hoặc rơi ra ngoài. Vậy mà ông ta đã già, các đường gân đã nổi chằng chịt như những con giun trên mu bàn tay, và gương mặt dăn deo những đường hằn ngang dọc. Cặp lông mi thưa, vểnh ra những sợi dài bạc trắng. Mái tóc giấu kín trong chiếc mũ bồ đài bằng gấm đỏ. Ông có khuôn hình nhỏ thó nom hao hao lão Dương ở trong cung, đã từng theo hầu thượng hoàng và thái thượng hoàng từ hồi chống giặc Thát năm Giáp thân (1284).

Viên quan nội hầu mà thực ra y là một lão bộc hết đỗi trung thành, khom lưng dâng chén trà đang bốc khói lên thượng hoàng.

Nhà vua đỡ lấy chung trà, nói:

- Ta ban cho quan Tham tri một chung trà, khanh rót đi:

Vừa bê trà cho Đoàn Nhữ Hài xong, quan nội hầu định lui ra phía mép cửa khoang thuyền chờ sai khiến.
Bỗng giọng nói êm nhẹ của nhà vua lại cất lên: - Ta cũng ban cho khanh một chung. Khanh tự rót lấy. Nào, ta cùng uống cho vui. Nhân tôn vừa nói vừa đưa chung trà lên môi nhấp.

Tới lúc này Đoàn Nhữ Hài và viên quan nội hầu mới dám nâng chung trà lên tay. Mùi trà thơm bốc theo khói xộc vào mũi, khiến Nhữ Hài có cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái. Nhưng chàng không phân biệt được đấy là hương của loài hoa nào, hương của loại trà nào. Sự thật quan tham tri mới ngoài hai chục tuổi. Phần lớn tuổi trẻ của chàng đều dùng vào việc học hành, rèn trí và rèn đức. Chưa có thì giờ, và cả không có tiền bạc thưởng thức những thú vui như trà lầu, tửu quán. Vì vậy quan ngài thưởng trà, thưởng rượu cũng không khác chi đám trai nghèo lam lũ uống nước mưa bằng gáo dừa.

Đợi cho Nhữ Hài uống xong, vua Nhân tôn mới ném về phía chàng một nụ cười và hỏi:

- Khanh thấy lão Tá pha trà thế nào? Và hương vị trà của ta có làm khanh hài lòng?

- Tâu thượng hoàng, Nhữ Hài nói, gương mặt chàng ửng đỏ lên vì ngượng. - Xin thượng hoàng tha tội.
Thần… Thần không biết nói thế nào. Vì ở nhà, thần chỉ có uống nước vối thôi ạ.

Vua Nhân tôn bật ra tiếng cười sảng khoái. Nhà vua phải lấy tay ôm bụng để cho cơn cười hạ xuống.

Vẻ hài lòng:

- Hay lắm, khanh không có lỗi có tội gì cả. Ta mừng vì khanh còn giữ được sự trong sáng của thời học trò,
chưa bị lây nhiễm các thói tật của đám quan lớn. Ước gì bộ máy cai trị của ta, mọi người đều có được phẩm hạnh như khanh. Tệ lắm, ta biết cái đám quan lớn kia, không thiếu kẻ lê la hết  trà đình, tửu điếm đến lầu ca kỹ viện, ngón nào cũng tinh rành như ma. Sau các ngón ăn chơi đó là các mưu ma chước quỉ, dối trên lừa dưới, móc mổ móc họng dân lành.

Đoàn Nhữ Hài nghe nhà vua nói, và nghiệm trong hàng các quan lại mà chàng được biết, phần đông trong số họ đều có đủ các phẩm chất hệt như vua nói.

Vẻ thân mật, thượng hoàng lại bảo:

- Ta nói để khanh biết, vì có khanh nên ta mới sai lão Tá chế trà ngon, chớ riêng ra, từ ngày xuất gia, ta chỉ dùng lão mai trà, hoặc dùng trà vối như khanh thôi.

Đoàn Nhữ Hài rưng rưng cảm động. Chàng tự nhủ: "quan gia biệt đãi ta, còn thượng hoàng lại ưu ái ta. Những trọng ân ấy biết lấy chi báo đáp ngoài sự tận lực đối với công việc và tấm lòng trung của ta đối với non sông đất nước".
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #15 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:07:18 pm »

- Này Nhữ Hài, khanh có nghe dân chúng và cả quan lại đàm tiếu, dị nghị về việc ta xuất gia không?

- Tâu thượng hoàng, trong dân chúng cũng như quan lại, đàm tiếu thì không, nhưng dị nghị thì có.

- Chẳng hay họ dị nghị gì về ta? Khanh nói thử ta nghe.

- Tâu, họ thường nói bệ hạ là người tài đức chói ngời, công trùm thiện hạ. Hai lần cầm quân đánh tan lũ giặc Mông - Thát có sức mạnh ngang trời đất,  cứu giang sơn khỏi cái họa diệt vong. Thế mà lại bỗng dưng xuất gia.

- Mọi người nghĩ thế là phải. Bởi cái mong muốn thường tình ở cõi thế gian này, là quyền cao chức trọng và của cải. Cả hai thứ ta đều có, bỗng chốc lại buông hết. Thế gian ít kẻ hiểu được lòng ta. - Gương mặt nhà vua an nhiên tự tại, không lộ vẻ vui buồn. Đoạn nhà vua như chợt nhớ ra, liền hỏi: - Riêng khanh, khanh nghĩ thế nào về việc ta xuất gia?

Câu hỏi bất chợt của thượng hoàng khiến Đoàn Nhữ Hài lúng túng. Thật tình, đôi lúc chàng có nghĩ tới, nhưng chưa bao giờ chàng lại ngờ tới một tình thế khó xử như thế này. Đành liều! Chàng tự nhủ. Và cứ thực tình tâu bẩm, chắc thượng hoàng không vì thế mà trách phạt ta. Nghĩ vậy, chàng bèn thưa:

- Xin thượng hoàng tha tội. Chính thần cũng không hiểu, vì sao thượng hoàng xả bỏ một cách nhẹ nhàng những thứ mà cả thiên hạ khát khao kiếm tìm. Thần lại nghĩ, chắc thượng hoàng phải vì một cái gì lớn lắm, thiêng liêng lắm, không cho riêng bản thân ngài, mà cho cả trăm họ, không chỉ cho ngày nay mà cho cả muôn sau. Dạ, đó là tất cả những gì mà thần nghĩ, hiểu trong việc thượng hoàng xuất gia.

Vua Nhân tôn biết đằng sau những lời nói kia là cả một tấm lòng chân thực. Giọng nhà vua trở nên ấm áp:

- Ta phải cám ơn khanh về những điều khanh nghĩ về ta. Song, quả thực những người nghĩ được như khanh hiếm lắm. Ta biết, số đông họ nghĩ về ta khác kia. Họ cho là ta giả dối. Tu vờ. Mà tu chỉ là cái cớ để đi khắp nước dò tìm kẻ đối nghịch với triều đình. Cũng có người tin là ta đi tu thật. Nhưng họ lại nghĩ, một ông vua đi tu vẫn còn sướng hơn chán vạn người khác. Ôi cái thân tứ đại thì có gì khác nhau giữa vua chúa với chúng dân. Còn như lấy miếng ăn miếng uống ra để so bì cao thấp, thì đó là một thứ nghĩ suy hạ cấp của những loài súc sinh chưa tiến hóa.

Tuy vậy từ ngày xuất gia, ta bỏ hài nhung, hài gấm, mà chỉ đi dép cỏ, bỏ áo lông áo gấm vận xô gai, bỏ trà thơm uống nước vối, hoặc chẻ gỗ mai ra pha hãm làm nước uống thay trà; bỏ thịt cá, sơn hào hải vị dùng cơm chay. Ta không phải gò mình ép xác sống khổ làm gì. Nhưng ngay cả khi ăn nem công chả phượng, hải sâm, yến sào, ta cũng có cho nó là sang là quí đâu. Chẳng qua chúng cũng chỉ là các đồ giả thực, nuôi sống tấm thân giả hợp của ta thôi chứ có gì ghê gớm đâu.

Trầm ngâm một lát, vua Nhân tôn thả cái nhìn ra ngoài trời lúc này sương đã tan loãng, bóng sao đã lặn chìm, phương đông hơi loe lóe một ráng hồng. Bất chợt nhà vua lên tiếng:

- Này Nhữ Hài! Có phải khanh nghĩ, việc ta xuất gia vì một cái gì lớn lắm, thiêng liêng lắm, không cho riêng bản thân ta, mà cho cả trăm họ, không chỉ cho ngày nay, mà cho cả muôn sau. Có phải đúng là khanh nghĩ thế hay khanh nghe ai nói thế, hay là khanh đã đọc ở sách nào?

Nhữ Hài ngượng chín người về câu hỏi có vẻ hoài nghi của thượng hoàng. Từ nãy, chàng vẫn ngắm thượng hoàng giấu tấm thân nhỏ nhắn trong cặp áo nâu sồng nhà tu. Nơi cổ ngài đeo chuỗi hạt bồ đề, mỗi viên to bằng đầu ngón tay cái. Và trên đầu, ngài trùm chiếc mũ vải kết gút nom như đầu các vị bụt ốc. Toàn thân ngài toát lên vẻ dung dị, dẫu ta có nằm mơ cũng không nghĩ rằng đó là một vị quốc vương rất đỗi anh hùng vừa cởi áo giáp, trút hoàng bào, bỏ vương trượng, để khoác lên mình tấm áo cà sa, và nắm lấy cây thiền trượng đi thuyết giáo khắp nơi, kể cả thôn cùng xóm vắng. Chàng bẽn lẽn đáp lời:

- Tâu, điều thần nghĩ là bắt nguồn từ các việc mà thượng hoàng đã làm.

- Khanh nói thử các việc ấy ta nghe.

- Muôn tâu, đó là thượng hoàng đi khắp cõi thuyết pháp, khuyên bảo dân chúng tu tâm dưỡng tính theo
yếu chỉ của đạo thiền, không tin nhảm nhí, không thờ bừa bãi các tà thần, dâm thần, tạp thần. Mỗi người hãy tự tin ở mình, khai phóng nội lực, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, không vọng tưởng, không cầu tìm tha lực. Tâu thượng hoàng, theo ngu ý của thần, thì đó là một công cuộc đại khai trí cho toàn dân, thông qua việc giáo hóa của bệ hạ về ngũ giới và thập thiện, tiến tới một ngày nào đó bệ hạ sẽ khai ngộ cho toàn dân tộc.

Vua Nhân tôn hết đỗi xúc động về những lời nói không khoa trương, không xu nịnh của Nhữ Hài. Nhà vua có cảm nhận như người này có phần nào được khai ngộ bởi cái trí vô sư đã xuất hiện nơi chàng. Nghĩ vậy, nhà vua bèn dẫn dụ để chàng hiểu thêm về các công việc ngài làm, và cũng có ý muốn khai ngộ thêm cho chàng, bởi chàng là một quan lớn chăn dân. Vua nói:

- Nếu những kẻ chăn dân vừa có trí tuệ, vừa có lòng nhân, đức thiện thì dân được nương tựa, mà đạo của ta cũng có đường vào.

Ta nhớ trong lịch sử truyền giáo, đức Thích-ca-mâu-ni đã ao ước thu nạp được nhà học giả minh triết Xá-lợi-phất như thế nào. Và khi ngài Xá-lợi-phất viên tịch, Phật đau đớn thốt lên: Ôi, đạo của ta trống rỗng!. Nghe qua ý tứ của nhà vua, Đoàn Nhữ Hài biết nỗi khát khao cháy bỏng của ngài, là muốn bộ máy cai trị của ngài tóm thâu được nhiều người trí, người tài đức. Bởi người dẫn dắt dân lành mà là kẻ bất trí, bất thiện thì y sẽ biến cả xã hội thành một tổ quỉ khổng lồ. Vả lại, trong dân gian vẫn thường nói: Một người biết lo bằng một kho người làm. Vậy đó, theo ý nhà vua, quyền dẫn dắt dân chúng không thể trao vào tay những kẻ ngu khờ, ác hiểm. Và chàng tự nhủ: Chắc ta chưa đạt được mức người trí như đức vua mong muốn. Tuy vậy, ta cũng không phải hạng ngu khờ, song ta quyết không phụ lòng ngài trông đợi.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #16 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:07:54 pm »

Im lặng một lát, như để cho Đoàn Nhữ Hài kịp lãnh hội cái vi ý của ngài, nhà vua lại hỏi:

- Vậy chớ khanh có còn hoài nghi gì về những việc ta làm, những điều ta nói?

- Tâu bệ hạ, thần cứ tự hỏi, tại sao lúc này bệ hạ lại hối thúc việc rao giảng ngũ giới và thập thiện đến thế?

Thoáng gợn một chút gì đó trên gương mặt bình thản của nhà vua. Đoạn ngài chậm rãi:

- Không phải chỉ lúc này ta mới rao giảng về ngũ giới và thập thiện. Nhưng lúc này ngũ giới và thập thiện là cứu cánh cho xã hội. Khanh không thấy hiện tình xã hội ta đang mắc vướng điều gì sao? Chẳng lẽ khanh không thấy trong ba năm liền, đất nước ta phải đương đầu với hai cuộc xâm lăng tàn khốc do giặc dữ Mông
- Thát tràn vào các năm Ất dậu (1285) và Đinh hợi (1287), mỗi lần tới hơn năm mươi muôn (500.000) quân sao?

Như sực nhớ ra, Nhân tôn à lên một tiếng:

- Phải rồi, ngày ấy khanh còn nhỏ quá. Mới chỉ hơn 10 tuổi. Phải, khanh có phải đi chạy giặc. Có biết khổ và cả biết hãi sợ nữa. Nhưng thức nhận về tầm nguy hại của cuộc chiến, ta chắc ngày ấy khanh chưa biết.
Khanh chưa thể hình dung ra sức mạnh của 50 muôn quân với ngựa chiến, tầu thuyền cùng khí giới tinh nhuệ nhất, với các tướng tài lừng danh của một đội quân bách chiến. Chưa cần phát tác oai lực, chỉ cần 50 muôn quân ấy đi qua nơi nào, lập tức biến nơi ấy thành vùng đất chết. Bởi nhà cửa sẽ cháy rụi hết. Cây cối đổ nát hết. Ngay cỏ trên đường đi cũng không còn một cọng. Đội quân có sức mạnh trùm sông núi ấy, với chính sách tam quang tảo đãng vô cùng tàn bạo. Nghĩa là đi đến đâu chúng đốt hết, giết hết, và cướp phá hết. Bởi thế, tất cả những nơi chúng đã đi qua đều ngợp chìm trong máu và lửa. Bước chân chúng đặt tới đâu là biến nơi đó thành vùng đất chết.

Hai cuộc chiến kinh hoàng làm vậy, ụp lên đầu một đất nước nhỏ yếu với chưa đầy bốn triệu dân, trong vòng ba năm giời. Người yếu bóng vía, chỉ nghe tiếng quân reo, tiếng ngựa hí của giặc cũng vỡ mật ra mà chết, nói chi đến việc đánh lại chúng. Ấy thế nhưng người mình đã dám kình chống, và đã thắng. Do gồng sức lên trong cuộc chiến, nên hậu chiến nảy sinh không biết bao tai họa, và cũng không biết bao nhiêu công việc phải làm. Nào bệnh tật tràn lan. Nào phải xây dựng lại nhà cửa. Nào phải khôi phục lại những đất đai hoang hóa trong những năm biến loạn. Nhưng bi thảm nhất vẫn là không khí tang tóc trùm phủ khắp non sông đất nước. Nhiều nhà, giặc tàn sát không còn sót một sinh linh. Nhiều làng, giặc triệt hạ thành bình địa. Mồ mả cha ông, giặc cuốc đào.

Có thể nói, nỗi bất hạnh do chiến tranh đem lại được chia phần một cách không đồng đều cho mỗi gia đình, mỗi thân phận trong cả nước. Nó không chừa, không tránh một ai. Ngay cả hoàng gia và hoàng tộc cũng thế thôi, cũng phải chịu tang tóc và đắng cay muôn nỗi. Trong lúc thế nước lâm nguy, buộc ta phải thuận lòng đưa hoàng cô An Tư vào nộp cho tướng giặc Thoát-hoan, để làm thư quốc nạn. Rồi hoàng cô cũng thác trong đám loạn quân. Quốc thúc Trần Ích Tắc thì đem cả nhà về hàng giặc, trong lúc thế giặc đang mạnh như vỡ đê trời. Giặc đánh vỡ mặt trận phía nam, toàn quân ta và cả triều đình đều ở trong vòng vây giặc, thì người anh em thúc bá Trần Kiện, đem cả một muôn quân đi đầu hàng giặc. Y còn tự thân dẫn đường cho giặc truy đuổi quốc thúc thượng thái sư Trần Quang Khải. Nghĩa đệ của ta, tiểu tướng quân Trần Quốc Toản thì hi sinh trên đường truy đuổi giặc, ở bờ bắc sông Như Nguyệt trước ngày quân ta toàn thắng chỉ có một hôm. Ôi, còn bao chuyện đau lòng khác, kể sao cho xiết. Lại theo đó, nảy sinh biết bao điều bất như ý khác.

Nhữ Hài, khanh biết đấy, trước chiến tranh, dân ta sống chất phác, hòa hiếu biết dường nào. Nay thì nạn cướp của giết người lan tràn từ kinh thành đến cả xóm thôn thưa vắng. Trong nhiều gia đình, kỷ cương, hiếu đễ lộn đảo: con giết cha, vợ giết chồng, cháu con hỗn láo ngược đãi ông bà, cha mẹ vì đói nghèo, vì túng quẫn. Anh chị em đánh giết nhau vì tranh đoạt một chiếc niêu đất, một bó rơm. Phải, những thứ đó là hậu quả của chiến tranh. Vì chiến tranh làm cho con người quen lờn với máu, lửa, giết chóc và tàn bạo.
Trước tình cảnh đau lòng ấy, khanh bảo ta làm cách nào để trục bỏ những thứ đó ra khỏi đời sống xã hội? Ta nghĩ, chỉ còn cách giáo hóa ngũ giới và thập thiện cho mọi người. Nếu nhà nhà đều thức nhận được về ngũ giới và thập thiện; nếu người người làm theo ngũ giới và thập thiện thì chẳng bao lâu cái ác phải lui dẹp. Làm như vậy, là ta muốn hỗ tương cho quan gia đang ráng sức lo cái ăn, cái ở và học hành cho trăm họ. Ta nghĩ, nếu chuyển xoay được cả phần thế tục và tâm linh cho bách tính, thì chí ít trong vòng từ 5 đến 10 năm nữa, nước ta mới có cơ phát khởi trở lại, cường thịnh trở lại.

..........

(Ngũ giới : Năm điều răn cấm của Nhà Phật:Không sát sinh. Không trộm cắp. Không gian dâm. Không nói càn, bậy. Không uống rượu.

Thập thiện: Gồm ba thứ: Thân thiện nghiệp do sự hành động của thân thể gây ra. Khẩu thiện nghiệp do nơi lời nói gây ra. Ý thiện nghiệp do nơi ý nghĩ, tư tưởng gây ra.

- Ba nghiệp thuộc về thân:Không sát sinh, Không trộm cắp,Không tà dâm.

- Bốn nghiệp thuộc về lời nói:Không vọng ngữ (nói dối),Không nói hai lưỡi (vu oan giá họa), Không nói ác khẩu,Không ỷ ngữ (nói điêu, nói thêu dệt).

- Ba nghiệp thuộc về ý:Không tham lam,Không sân hận,Không ngu si, tà kiến.)
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #17 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:09:23 pm »

Chương 6

Vua Nhân tôn đọc đi đọc lại tới cả chục lần bức điệp của vua Chiêm. Người rất hài lòng về lời lẽ ôn nhu của Chế Mân, một vị vua trẻ tuổi mà trong bang giao lại tỏ ra chín chắn, cao nhã đến vô cùng. Nhà vua suy nghĩ mãi về lời mời của Chế Mân:

…Tôi nghe nói đức vua đã xuất gia. Vậy tôi phái vị hòa thượng trưởng lão Phật giáo của nước tôi sang kính thỉnh nhà vua qua thăm vương quốc bé nhỏ của chúng tôi. Tôi cũng mong có dịp hầu tiếp đức vua về chuyện miền đất mà các tiên đế của chúng tôi đã cắt về cho Đại Việt. Nhưng trải mấy đời nay lại xảy ra sự tranh chấp quyết liệt giữa hai nước chúng ta, khiến cho mối hòa hiếu bị tổn thương…

… Hòa thượng của chúng tôi sẽ tâu bầy với nhà vua về phong thổ, thời tiết, sản vật và nền văn hiến của Chiêm quốc. Nước Chiêm Thành tuy bé nhỏ, nhưng dân nước chúng tôi cũng biết giữ lễ, hiếu hòa và hiếu khách. Nếu đức vua quá bộ ghé thăm vương quốc của chúng tôi, chắc hẳn con người, cảnh vật và nắng ấm của đất phương nam sẽ làm nhà vua hài lòng…

… Thư nói chẳng hết lời. Tận đáy lòng tôi kính dâng lên đức vua lời chào ngưỡng mộ, và lòng khâm phục của triều đình chúng tôi đối với chiến thắng mà nước Đại Việt hùng cường thu được, trong sự nghiệp bảo tồn nền độc lập của quí quốc…

Với ánh mắt tươi rói, vua Nhân tôn trao bức thư cho Trần Anh tôn và nói:

- Quan gia đọc đi, rồi cho ta biết đối sách của quan gia với lân quốc phương nam này?.

Đoạn nhà vua quay hỏi tá thánh thái sư Trần Nhật Duật:

- Thưa thái sư, trên mặt bắc có động tĩnh gì không ạ?

Trần Nhật Duật xòe bàn tay ra vuốt ngược mái tóc lại phía sau để lộ vầng trán cao và khuôn mặt quắc
thước, rồi tươi cười, nói:

- Tâu thượng hoàng, mặt bắc tĩnh lắm. Thượng hoàng cứ an tâm. Dù người có đi thăm Chiêm quốc tới cả năm cũng chưa có gì đáng quan ngại.

- Còn mặt nam thế nào, điện súy?. Vua Nhân tôn lại quay ra phía Phạm Ngũ Lão hỏi.

Dáng người to khỏe, nhưng cử chỉ nhanh nhẹn, thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão đứng phắt dậy vái Nhân
tôn hai vái rồi nói:

- Trình thượng hoàng, mặt nam tĩnh. Người Chiêm từ sau khi Toa-đô đại bại, họ không đóng quân trên miền đất hai Châu nữa.(Năm 1069 vua Lý Thánh tông thân chinh đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Rudravarman Đệ tam (Chế Củ). Để đổi lấy tự do, Chế Củ phải dâng ba châu: Đại Lý, Ma Linh và Bố Chánh (thuộc Quảng Bình, Quảng Trị). Đó là vùng đất cùng với Châu Ô, Châu Lý sau này trở thành miền đất tranh chấp kịch liệt giữa hai quốc gia Chiêm - Việt.)

Thuyền bè của dân chài lưới, thuyền buôn của hai nước trên vùng biển giao lưu không xảy ra nạn hải tặc như trước.

Để đáp lại thiện chí của họ, thần chỉ để một vài đồn canh ngoài biên ải. Quân triều đình cho rút cả về Châu Ái, Châu Hoan.

Nhân tôn tỏ vẻ hài lòng. Nhà vua gật đầu khen:

- Khanh quả là sáng suốt. Quan gia sai khanh trấn biên thùy mặt nam rất hợp ý ta.

Vua Anh tôn đọc xong bức thư rồi đưa cho mọi người truyền tay nhau đọc. Trần Khắc Chung, Đoàn Nhữ Hài
là hai người đọc cuối cùng.

Vua Nhân tôn chậm rãi cất lời hỏi:

- Theo ý các khanh, vua Chiêm mời ta sang Chiêm quốc có chủ đích gì? Ta có nên đi không, hay chỉ nên
cử một đoàn sứ giả sang đáp lễ?.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #18 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:10:11 pm »

Điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão là người am tường về biên ải phía nam, liền nói:

- Tâu thượng hoàng, cứ xem ý tứ trong thư, đủ thấy chúa Chiêm là người khôn ngoan. Ông ta thấy được cái nhẽ mạnh yếu ở đời. Đây là một người xuất, xử, tiến, thoái đều có kế sách, chứ không phải người hồ đồ. Lời lẽ trong thư tuy nhún nhường, nhưng vẫn giữ được thể diện quốc gia. Chiêm quốc hiện nay không phải là nước mạnh. Cũng chưa hẳn là một nước yếu. Theo ý thần, thượng hoàng nên đi một chuyến. Chắc chắn là vị vua Chiêm này sẽ làm thượng hoàng đẹp ý.

- Ý chú Chiêu Văn thế nào?. Vua Nhân tôn bỗng chốc quên mình đang điều hành công việc triều chính, hay nhà vua muốn tỏ ý thân mật và kính trọng đối với vị chú ruột đứng đầu tướng văn, tướng võ trải ba triều.

Thượng tướng, thái sư Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật mỉm cười đáp lại:

- Tâu thượng hoàng, ta đã xử với Chiêm Thành như một nước có nền văn hiến cao. Nhẽ ra, sau khi đã ba lần đánh bại quân Nguyên, ta chỉ cần cử một đạo binh nhỏ tới thu hồi miền đất hai châu, mà quốc vương Chiêm là Chế Củ đã dâng cho Đại Việt từ thời Lý Thánh tông. Nhưng chúng ta đã không làm thế. Chúng ta cũng không có một thông điệp nào nhắc vua Chiêm về chuyện đất đai hai bên tranh chấp. Quan điện súy còn tỏ lòng cao thượng lui hết quân triều đình về tận Hoan, Ái. Thần cho rằng vua Chiêm vì cảm mến cái đức nhân nghĩa của thượng hoàng và quan gia, nên thực tâm muốn hòa hiếu. Thượng hoàng đi chuyến này ắt thành công. Ngừng một lát, như tỏ ra cân nhắc kỹ lưỡng lắm, quan thái sư lại nói tiếp:

- Tâu thượng hoàng, còn một điều thần đang băn khoăn, không hiểu trong chuyện thông hiếu giữa hai nước này, người Nguyên có xen vào mưu đồ gì không? Thần trộm nghĩ, dù họ có mưu ma kế quỉ gì cũng không lừa nổi chúng ta.

Vua Anh tông vốn sẵn lòng ưu ái với viên quan trẻ nhất triều, mà nhà vua cho rằng mưu lược không kém gì các vị lão thần. Quay về phía Đoàn Nhữ Hài, nhà vua hỏi:

- Chẳng hay ý quan ngự sử trung tán thế nào?

Thoáng đỏ mặt như một cậu học trò hay xấu hổ, Đoàn Nhữ Hài đứng lên chắp hai tay vái hai vua, rồi nói, giọng xúc động:

- Tâu thượng hoàng, tâu quan gia. Theo thiển ý của thần, vua Chiêm mời thượng hoàng sang là để thương lượng trả ta miền đất hai châu. Sở dĩ Chế Mân chưa làm ngay được, là vì triều đình của ông ta còn nhiều người có thế lực chống lại. Đây mới là chỗ mà vừa rồi quan thái sư ngờ có bàn tay của người Nguyên xen vào. Nếu thượng hoàng đi chuyến này, sẽ giúp cho Chiêm quốc có thời cơ giao hảo lâu dài với ta. Dù bản chất của người Chiêm có tráo trở đi nữa, họ vẫn chưa đủ mạnh để làm điều họ muốn. Cho nên thượng hoàng cứ sang Chiêm là thượng sách.

Đến lượt quan đại an phủ sứ của kinh sư Trần Khắc Chung lên tiếng. Ông có giọng nói trầm, ấm. Lại là người khéo nói, nên ai đã nghe ông nói chuyện một lần là mến mộ ngay. Với hàng ngũ quan lại trong triều hiện nay, ông được nhiều người kính nể. Người ta nể không phải vì ông có tài lạ, chức cao. Mà nể bởi sự hiện hữu của nhân cách ông. Ví như trong lúc nhiều các quan đua nhau xây dinh, lập phủ, thì ông hầu như là một ông quan nghèo, thanh liêm. Ông không có nhà riêng. Ông làm việc và ở ngay tại công đường. Đôi khi sang giảng kinh sách bên Đông cung, ông ăn, ngủ luôn tại đó với thái tử. Bởi ngoài chức đại an phủ sứ, cai quản cả kinh thành Thăng Long, ông còn kiêm chức Trừ cung giáo thụ nữa.

(-Đông cung:Chỗ ở của một người con vua được lập làm thái tử, sau sẽ lên ngôi vua. Theo truyền thuyết Trung Hoa, ngoài biển Đông có núi Đông minh, trên núi có cung điện xây bằng đá xanh, có biển đề sáu chữ Thiên địa trưởng nam chi cung (Cung điện con trưởng của trời đất). Vì thế mới gọi thái tử là Đông cung.
-Trừ cung giáo thụ: chức của quan dạy thái tử học)

Ông là người sống hào phóng, giao du rộng. Nhưng điều làm mọi người trọng ông hơn cả là việc ông đi cầu hòa với người Nguyên. Ông nói:

- Muôn tâu thượng hoàng! Muôn tâu quan gia! Theo thiển ý của thần, qua hai lần đánh quân nguyên xâm lấn gần đây, sức quân mỏi mệt, sức dân kiệt quệ. Người dân lúc này không mong gì hơn là một cuộc sống thái bình. Cho nên, bằng mọi giá, triều đình phải lập được một nền hòa bình bền vững. Dẫu rằng trong tay ta có dư binh lực, có thể tiến sâu về phương nam, mà vẫn không lo mặt bắc, thì cũng không nên động binh. Nếu Đại Việt ta muốn thu hồi miền đất hai châu, đâu có phải là chuyện khó không thể làm được. Nhưng động binh lúc này sẽ làm cho nhân tâm ly tán. Tránh sao được sự dòm ngó của ngườii Nguyên. Động binh là hạ sách.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #19 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2010, 08:11:08 pm »

Có người hỏi:

- Quan đại an phủ sứ nói không động binh mà vẫn thu hồi được miền đất hai châu, vậy ngài có sẵn sàng làm một kẻ thuyết khách, đem ba tấc lưỡi của Trương Nghi, Tô Tần đi du thuyết người Chiêm chăng?(Trương Nghi,Tô Tần : Hai nhà thuyết khách nổi tiếng thời Chiến quốc ở Trung Hoa cổ đại.)

Nhìn xem đó là bạn đồng liệt nào rồi Khắc Chung mới đáp:

- Té quan tả thị lang ngờ tôi là một kẻ ngoa ngôn chăng? Tôi đã vào hang ổ giặc, trong lúc thế giặc đang cường. Tôi đâu có sợ đem ba tấc lưỡi sang Chiêm. Nếu triều đình có mệnh, dù có phải đạp chông gai đi vào nước, lửa, tôi sẵn sàng sả thân chịu mệnh, chứ không phải chỉ là một tên hủ nho nhút nhát. Nhưng tôi chắc thượng hoàng và quan gia đã có kế sách rồi.

Thấy cuộc đàm luận có chiều hơi căng, vua Anh tôn bèn vẫy tay cho tả hữu ngồi xuống rồi nói:

- Những điều các khanh bầy tỏ đều hợp ý quả nhân. Nên nhớ một điều, thượng hoàng dạy ta khi người xuất gia, bây giờ ta nhắc lại để các khanh cùng biết. Người nói: Giang san gấm vóc đã thấm không biết bao nhiêu máu, xương của tổ tiên mới có được. Nay trăm họ giao cho ta gìn giữ, một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ngẩng nhìn các quan đại thần khắp một lượt, nhà vua lại nói:

- Các khanh ăn lộc triều đình, gắng hoàn thành trách vụ cho tốt. Còn việc có vào Chiêm hay không, đó là quyền quyết định tối hậu của thượng hoàng.

Tan chầu, Anh tôn mời vua cha vào hậu điện. Anh tôn cảm thấy ấm áp tình cha con. Nhà vua tự nghĩ: Thì ra không phải vua cha xuất gia để cầu nhàn hoặc cầu đắc đạo. Mà chính vua cha xuất là để xử. Vì trong mỗi bước đi, mỗi việc làm của triều đình, vua cha đều kín đáo theo dõi và giám sát chặt chẽ. Nhà vua nói:

- Thưa phụ hoàng, con được thái sư cho biết, ông hòa thượng ấy chính là người tâm phúc của vua Chiêm. Còn quan tả bộc xạ tuy là cậu ruột Chế Mân, nhưng lại có ý tranh chấp với cháu.  Ông ta vào Đại Việt, là thay mặt Chiêm quốc làm việc bang giao, nhưng cũng có ý dò tìm xem Chế Mân có ngầm liên kết với Đại Việt không.

- Ta biết. Vua Nhân tôn nói. Ta đã trò chuyện kín đáo với vị hòa thượng đó ở chùa Diên Hựu (Nay là chùa Một cột). Chế Mân thực tâm cầu hòa. Ông ta là một vị vua anh minh. Ta vào Chiêm chuyến này làm việc liên kết phía nam để rảnh tay đối phó với mặt bắc. Quan gia ở nhà xem xét việc triều chính, việc biên ải cho ngặt. Cả phía biển đông nữa cũng không được lơ là. Quan gia kíp sai Nhữ Hài viết thư phúc đáp cho quốc vương Chiêm Thành. Bố cáo trước cho họ biết, đích thân ta cầm đầu phái bộ Phật giáo Đại Việt tới thăm Chiêm quốc, để trao đổi kinh sách và về sự đạo giữa hai nước. Tùy cơ ứng biến, vào đó ta sẽ làm cả việc đạo lẫn việc đời. Người Chiêm hiện thời kiêu ngạo về đội thủy binh của họ. Họ hung hăng cướp bóc tàu buôn các nước qua lại trên biển. Quan gia nên cho cái ông tả bộc xạ Chiêm quốc ấy đi xem hải đoàn của Nhân Huệ vương. Cho ông ta tận mắt thấy cảnh chiến diễn ra trên Bạch Đằng giang như thế nào. Cũng cho ông ấy xem cả tượng binh, kỵ binh của ta nữa.

(Cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, Chiêm Thành có lực lượng hải quân khá mạnh. Họ thường hay tổ chức cướp biển. Tàu buôn các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…thường bị họ cướp bóc tàn tệ. Người Pháp đã gọi họ là Pirate de mer = hải tặc.)

Có thể ta sẽ đi Chiêm trước khi sứ bộ Chiêm Thành về nước. Nhưng ta đi đường bộ, để còn xem mặt nam, quân cơ phòng vệ với dân tình ra sao. Họ về bằng đường thủy. Hẳn là họ sẽ tới Chà Bàn trước ta.

Có mấy việc khi ta đi rồi, ở nhà quan gia phải lưu tâm: Thứ nhất là tới lễ tịch điền ta chưa về, quan gia phải tiến hành như thường lệ. nhẽ ra ta phải tự tay cầy cấy lấy lúa gạo để thờ cúng tổ tiên. Ấy là tỏ lòng hiếu kính của ta với các bậc tiền bối. Ấy cũng là việc tốt để làm gương cho thiên hạ. Không làm được như vậy, ta cũng phải tỏ cái tình của ta đối với việc nông tang. Quan gia cầy một hai đường cầy, có phải là quan gia cầy ruộng đâu; chính là quan gia cầy vào lòng thiên hạ. Còn thiên hạ sẽ vì quan gia mà cầy ruộng. Đấy mới chính là cái gốc của lễ tịch điền. Cũng như ngày trước, tiên đế mở Đại hội Diên Hồng. Đánh giặc như thế nào, triều đình đã có kế sách. Đâu phải tới Diên Hồng mới bàn kế đánh. Diên Hồng chính là điểm tụ hội lòng dân, khích lệ toàn dân cố kết với triều đình đánh giặc.

Một việc quan yếu nữa, quan gia phải đích thân lo liệu. Phải cấp thời mở lại khoa thi tiến sĩ cứ bẩy năm một lần, mà tiên đế đã định lệ từ năm Bính ngọ (1246). Những năm trước không mở được còn nhiều lẽ để biện minh. Đến nay không mở nữa, sẽ làm nản lòng kẻ sĩ trong thiên hạ. Ngừng một lát, như để các lời nói của mình có âm hưởng sâu xa trong tâm trí người con đang kế nghiệp, trị vì thiên hạ, Trần Nhân tôn lại nói:

- Quan gia đã nhớ kỹ lời ta dặn rồi chứ?

- Bẩm phụ hoàng, con nhớ!
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM