Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 03:53:28 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Huyền Trân Công chúa  (Đọc 35291 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #30 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:17:25 pm »

Thái tử lấy giọng đọc to:

- Hữu phất học, học chí phất năng, phất thố giã. Hữu phất vấn, vấn chi phất tri, phất thố giã. Hữu phất tư, tư chi phất đắc, phất thố giã. Hữu phất biện, biện chi phất minh, phất thố giã. Hữu phất hành,hành chi phất độc, phất thố giã. Nhân nhất năng chi, kỷ bách chi; nhân thập năng chi, kỷ thiên chi. Quả năng thử đạo kỷ, tuy ngu tất minh, tuy nhu tất cương.

Thái tử vừa đọc dứt lời, Trần Huyền Trân mỉm cười hỏi:

- Vậy cháu có hiểu nghĩa đoạn văn trên nói gì không ?

Thái tử lắc đầu:

- Ông ấy chưa giảng. Hôm nay mới bắt đầu học sách Trung dung.

Chợt có người vào bẩm:

- Quan trừ cung giáo thụ đã tới!.

Công chúa cúi đầu chào với vẻ bẽn lẽn đứng né sang một bên.

Trần Khắc Chung vòng tay đáp lễ, rồi nói:

- Thưa công nương, hôm qua tôi có được hân hạnh đọc thư công nương ngỏ ý muốn xem thái tử học hành
thế nào. Tôi không dám thiện tiện trả lời công nương, bởi việc đó lại quyền ở thái tử. Còn về phần tôi, được tiếp rước công nương, tôi cho là một ân huệ.Xin công nương và thái tử bỏ lỗi cho buổi học hơi trễ này, là bởi sớm nay quan gia cho gọi tớii chầu. Tan chầu, tôi vội vã về đây ngay, kẻo công nương cùng thái tử phải đợi. 

- Nếu ông giáo thụ không cho việc tôi tới đây nghe giảng là quấy rầy, thì xin ông cứ giảng cho thái tử.

Quan giáo thụ sửa lại mũ, áo ngay ngắn rồi ngồi xếp bằng trên kỷ nói:

-Thưa thái tử, buổi học bắt đầu. Xin thái tử đọc lại đoạn văn chép hôm qua, để thần được hầu giảng.

Thái tử mở sách đọc lại đoạn văn lúc trước đã đọc cho hoàng cô nghe. Vừa đọc dứt lời, quan giáo thụ cất giọng sang sảng:

- Đoạn văn trên Đức thánh dạy rằng: Có điều mình chẳng học,nhưng đã học mà chưa hay thì chẳng thôi.
Có điều mình chẳng hỏi nhưng đã hỏi mà chưa biết thì chẳng thôi. Có điều mình chẳng nghĩ, nhưng đã nghĩ mà chưa ra lẽ thì chẳng thôi. Có điều mình chẳng biên bạch, nhưng đã biện bạch mà chẳng rõ ràng thì chẳng thôi. Có điều mình chẳng làm, nhưng đã làm mà chưa hết sức thì chẳng thôi. Người ta ra công một lần mà thành, mình hãy ra công đến trăm lần. Người ta ra công mười lần mà thành, mình hãy ra công đến nghìn lần. Nếu giữ vững đường lối ấy, dầu ngu độn cũng hóa ra thông minh, dẫu nhu nhược cũng hóa ra cường mạnh.

Cắt xong nghĩa đen, quan giáo thụ ngửng nhìn thái tử và công chúa. thấy mặt thái tử còn ngây ngây, ông chắc người học trò của mình chưa hiểu. Nhưng công chúa lại tươi tỉnh. Mắt nàng ánh lên những tia sáng như he hé cười. Ý như giục quan giáo thụ cứ giảng tiếp. Quan giáo thụ muốn nhân lời thầy Tử Tư nói về  sự học hành mà huấn dụ cho thái tử phải động tâm, sửa mình, để cho sự học được siêng năng tấn tới. Bởi mai đây thái tử sẽ lên ngôi báu, trị vì thiên hạ. Người đứng đầu một quốc gia, phải là người thông tuệ. Phải có ý chí sắt đá, kiên cường. Phải có lòng khoan dung đức độ.Cái chí và cái tâm của vị đứng đầu thiên hạ sau này phải được rèn giũa từ bây giờ. Ông chủ tâm đường học là ở nơi rèn trí và rèn đức, bởi vậy ông không nhồi nhét, bắt trẻ nhỏ phải thuộc làm lòng những điều mà nó chưa ý thức được. Cho nên việc khai trí trước hết phải bắt đầu từ việc khai tâm. Cáii gốc vẫn là ở sự khai tâm. Quan giáo thụ cũng biết công chúa là người hiếu học,ham đọc kinh sách. Nên nhân bài học này, quan cũng muốn khích lệ lòng trọng học của nàng, để nàng thấy được cái ý thâm viễn của thánh hiền, huấn giáo cho kẻ hậu học, là học để làm người, chứ không phải học để nhuyễn văn.

Quan giáo thụ lại ném cái nhìn về phía thái tử và hỏi:

- Thưa thái tử, tôi nói thế, thái tử đã thâu nhận được cái ý của bài văn chưa ạ?

Thái tử gật đầu, nhưng mắt vẫn nhìn quan giáo thụ với vẻ ngây ngây. Biết cậu bé này chưa hiểu bài, ông lại cắt nghĩa một cách rành rọt, giản dị. thái tử chăm chú nghe, mắt cứ sáng dần lên, khuôn mặt nom lanh lợi. Kinh nghiệm cho ông biết, như vậy là học trò đã nắm được bài. Ông bắt thái tử phải tự mình cắt nghĩa.
Khi cậu bé nói lại được những điều vừa nghe giảng, quan giáo thụ gật gù khen ngợi:

- Bây giờ tôi lại giảng sang nghĩa bóng của đoạn văn trên, xin thái tử lưu tâm.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #31 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:18:04 pm »

Với giọng nói uyển chuyển, với lối dẫn dụ xa gần, kim cổ khiến bài giảng của ông vừa cao, sâu, vừa giản dị, làm cho người nghe tưởng như mình đang chứng kiến những cảnh có thực trong đời. Bởi vậy không những thái tử bị hấp dẫn, mà ngay cả công chúa cũng cuốn hút vào lối giảng vừa hiển lộ vừa uẩn ảo của quan giáo thụ.

Sau khi nói hết những ý sâu xa, ông lại nhấn mạnh thêm:

- Người đời thường đem chuyện ông Ngu Công dở núi, với chuyện mài sắt thành kim, để khích lệ ai đã làm việc gì phải hằng tâm hoàn tất. Chứ thật ra người đời có ngu gì mà không dời nhà mình đi chỗ khác mà lại đi dời núi. Cũng như cái công bỏ ra mài một cục sắt mà thành cây kim, nếu để làm việc khác có thể mua được tới cả ngàn cây kim. Bởi chưng việc học ở đời là việc cực khó; nên người đời mới đặt điều khuyến dụ như vậy. Ấy là nói cái học để thành nhân, chứ không phải cái học để thành danh. Các đấng minh quân từ xưa tới nay,đều là những bậc trí huệ nhân bản cả. Người trị vì cả một nước dù là nước nghèo, nếu như giữ được cái đạo thường, dân vẫn mến nghĩa nghe theo. Nước vẫn thái bình thịnh trị. Muốn giữ được kỷ cương ấy, người cầm đầu thiên hạ phải là người trí. Hóa nên dân tuy có tạm bị mất mùa mà thiếu đói, nhưng nước vẫn có rường mối, ổn định, Còn như nước giàu, mà người cầm đầu thiên hạ lại không phải là người trí, thì mọi kỷ cương đều xáo trộn. người dân không còn biết tin và nghe cái gì nữa. Thành thử nước tuy có giàu, mà vẫn không có lễ luật, khiến cho nhân tâm biến loạn. Nước ấy sẽ nát như tương. Thái tử là người sau này giữ gìn ngôi báu chăn dắt trăm họ, không thể không lưu tâm đến điều có quan hệ tới việc trị nước, an dân. Nói tới điều này hẳn nhiên Trần Khắc Chung đứng trên cương vị của quan đại an phủ sứ mà thẩm định. Tan học, quan phụ giảng ra mời quan giáo thụ, thái tử và công chúa vào trà thất.

Sau hai tuần trà rồi, mà đầu óc công chúa vẫn còn vương theo những lời huấn giảng của quan trừ cung giáo thụ. Rõ ràng là từ trước, nàng chưa được nghe một buổi giảng kinh sách nào vừa nghiêm trang lại vừa hấp dẫn, vừa hiểu được nghĩa của sách, vừa biết được cái nhẽ ở đời. Lời lời như thúc giục người nghe phải hành động, chứ không phải chỉ nhấm nháp thụ hưởng văn chương.

Quan giáo thụ là người thông bác cả dịch lý, nên ông thừa biết tâm trạng của công chúa thế nào. Tuy vậy, ông vẫn nhũn nhặn hỏi cái điều ông đã biết:

- Thưa công nương, chẳng hay việc hầu giảng của tôi bữa nay có gì khiếm khuyết, xin công nương phủ chính cho.

- Ông giáo thụ quá khiêm nhường. Tôi trộm nghĩ, nếu được ông chỉ giáo, hẳn là đá cũng phải trở thành hiền nhân quân tử.

Trần Khắc Chung cười, mọi người cười theo.

Huyền Trân lại hỏi:

- Bữa nay quan giáo thụ tan chầu muộn. Chẳng hay vương huynh ta cùng các trọng thần luận bàn điều
chi. Ông có hay tin phụ hoàng ta vào Chiêm đã có hồi âm chưa?

- Thưa công nương, việc thượng hoàng vào Chiêm thì sáng nay quan gia đã bố cáo nơii triều hội. Rằng theo như lời biểu của quan điện súy thượng tướng quân, từ biên thùy phía nan gửi về, thì thượng hoàng vào Chiêm được tiếp rước nồng hậu. Sức khỏe của thượng hoàng và đoàn tùy tùng vẫn bình thường. Người vẫn chưa ấn định ngày về. Ngừng một lát, quan đại an phủ sứ tủm tỉm cười, nói tiếp:

- Có một điều lẽ ra tôi không có quyền nói ở đây, nhưng đều là người trong hoàng gia cả nên tôi cứ mạo muội… Bỗng quan an phủ sứ ngừng lời khiến mọi người càng háo hức muốn nghe. Phút yên lặng tưởng dài đến vô tận.

Không nén nổi tính tò mò con trẻ, thái tử lên tiếng giục:

- Xin ông giáo thụ kể tiếp đi. Kể tiếp đi.

Quan giáo thụ cố giấu đi nụ cười, làm ra vẻ nghiêm trang, ông nói:

- Chả là sớm nay, quan thái y lật đật vào triều tâu trình một việc hơi lạ. Cứ như lời quan thái y thì suốt
đêm qua, đám lính canh không dám ngủ. Họ nói là có ma đập vào cửa.

Nghe nói tới đây, Huyền Trân công chúa bưng miệng để tránh một tiếng cười phì. Còn hoàng tử thì tròn xoe mắt ngơ ngác, nửa phần như sợ hãi, nửa phần như muốn quan giáo thụ kể tiếp. Quan giáo thụ lại nói:

- Kỳ lạ là cứ mỗi khi đám lính canh thắp đèn đuốc soi tìm thì không thấy một dấu vết gì. Nhưng vừa tắt đèn vào nhà, tiếng đập cửa lại vang lên. Cứ thế tới cả chục lần, sau đám lính sợ quá chạy dạt ra ngoài. Nghe đâu việc ấy xảy ra ngay lúc chập tối. Đêm khuya thì ắng lắm, nhưng mọi người vẫn sợ.

Sự việc chỉ có thế. Qua gia truyền quan thái bốc đoán xem là điềm gì.

Sau một hồi suy đoán tính toán, quan thái bốc bèn tâu rằng:

- Đó là các oan hồn chết vì thuốc của thái y viện, nay chúng kéo nhau về đòi giải oan để chúng được thoát sang kiếp khác. Việc này không lập đàn chay cúng tế là không xong.

Làm ra vẻ bình thường có pha chút tò mò, công chúa hỏi quan giáo thụ:

- Thưa ông, việc đó theo ông nên hiểu như thế nào? Có đúng là có ma như quan thái y nói không? Có đúng như quan thái bốc nói là lập đàn chay cúng tế là giải thoát được không? Nhưng nếu cúng tế rồi mà vẫn không yên thì sao?

- Thưa công nương, tôi vốn không tin vào những điều dị đoan, nhảm nhí. Bởi vậy, tôi không tin vào lời của quan thái y và thái bốc. Tôi nghĩ rằng “linh tại ngã bất linh tại ngã”. Nghĩa là thiêng hay không thiêng đều ở nơi mình mà ra.

- Quan giáo thụ nói chí lý lắm. Tôi cũng tin rằng linh tại ngã bất linh tại ngã. Công chúa nói thêm ma quỷ thần thánh gì thì cũng ở nơi con người mà ra cả.

Nói rồi công chúa cáo lui.   
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #32 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:19:08 pm »

Chương 11

Kiệu vừa hạ xuống trước cửa cung. Cả đoàn tì nữ ùa ra đón công chúa. Nàng chưa kịp thay áo, Bích Huệ đã lén vào phòng hỏi:

- Thưa công nương, người đã biết bên viện thái y có chuyện gì chưa ạ?

Làm ra vẻ không lưu tâm, công chúa lại hỏi:

- Ngươi bảo có chuyện gì. Ta chỉ thấy nói bên thái y viện hoặc phủ kim ngô, để quân lính canh phòng thế nào mà kẻ gian lọt được vào yểm đảo bùa chú. Phủ kim ngô đe sẽ tìm ra bọn phù thủy dùng tà thuật làm náo loạn nhân tâm để trị tội. Nói đến đây giọng công chúa tỏ vẻ nghẹn ngào nhìn về phía Bích Huệ. Ngừng một lát, công chúa lại hỏi:

- Vậy chớ em biết chuyện gì xảy ra ở bên đó?.

- Thưa công nương, con nghe người ta đồn ầm lên rằng đêm qua có ma về đập cửa viện thái y.

- Thế em có biết vì đâu ma đập cửa không?

- Dạ thưa công nương, con không biết ạ.

- Em khéo vờ quá. Chính bữa qua em đã làm bùa phép gọi ma về. Ta nghe nói có ngườii thấy em di di cái gì
trên cửa viện thái y. Từ lúc nghe thấy thế, ta đau lòng quá.Ta đang nghĩ cách cho em đây. Chỉ sợ lúc ta chưa nghĩ được kế, họ đã ập tới bắt em. Rồi đòn đau khảo đả, không chịu nổi, em lại xưng vấy cho ta. Thế là cả ta, cả em… ôi biết đâu lại tớii nông nỗi này? Bích Huệ mặt mày tái xanh, tái xám. Nhưng chỉ một thoáng, cô nữ tì này đã lấy lại được vẻ bình tĩnh. Nước mắt lã chã, cô sụp lạy công chúa:

- Xin công nương, người cứ an tâm. Thân con coi như đã chết, nếu như không có công nương ra tay cứu vớt. Vạn nhất họ có đến bắt con ngay bây giờ thì con sẽ cắn lưỡi tự tử, chứ không khi nào con để lụy đến công nương. Nói xong, Bích Huệ lại òa khóc thảm thiết.

Sợ bên ngoài nghe thấy, công chúa khép cửa lại rồi lấy khăn lau nước mắt cho Bích Huệ và dỗ:

- Nín đi em. Em làm lòng dạ ta xao xuyến cả lên. Ta không ngờ em lại trung thành với ta đến độ không tiếc cả tấm thân cha mẹ sinh ra nữa. Em bỏ lỗi cho ta. Những điều ta vừa nói với em là nói đùa đấy. Ta nói đùa, em lại tưởng thật.

Bích Huệ lại càng khóc to:

- Con chắc công nương thương con nên nói thế. Thề có trời đất, quỷ thần chứng giám, con không bao giờ
phản bội công nương.

Công chúa bật cười vì sự ngây thơ hốt hoảng của Bích Huệ. Nàng đang nghĩ cách làm thế nào để chấm dứt
cái trò đùa nguy hiểm này thì Thúy Quỳnh ló đầu vào. Công chúa reo lên:

- Ôi, Thúy Quỳnh, ta đang mong em tới.

Nhìn thấy cảnh Bích Huệ đang quỳ, nước mắt lã chã. Thúy Quỳnh sửng sốt ngỡ là Huệ phải đòn. Nhưng
thấy khuôn mặt công chúa vẫn tươi tỉnh, hồn nhiên, Thúy Quỳnh liền nói:

- Bẩm công nương có chuyện gì thế ạ?.

Công chúa tươi cười nói:

- Em đỡ Bích Huệ lên để ta bày tỏ đôi điều.

Cả hai thị tì cũng không biết công chúa sẽ phán dậy điều gì. Lành hay dữ?

Họ lo lắng ngồi nép vào nhau chờ. Công chúa lên tiếng:

- Thúy Quỳnh, em có nghe người ta nói tới chuyện bên viện thái y không?

- Dạ bẩm công nương thuần những chuyện ma quái rùng rợn. Chuyện còn lan ra cả tới phố phường, con
thấy nhà nào cũng bầy hương án ngoài sân cúng trời, bàn tán xôn xao lắm ạ.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #33 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:19:44 pm »

- Họ nói thế nào?. Công chúa hỏi:

- Bẩm công nương, họ bảo trong hoàng thành, quân canh tứ phía, uy nghiêm là thế ma còn dám tới đập cửa. Thưa công nương họ còn dựng lên cả một câu chuyện thật là kỳ cục. Ví như họ nói: “Có một đoàn ma già, ma trẻ kéo tới viện thái y. Bắt quan thái y đem dìm xuống nước mãi mới chịu buông ra. Quan thái y rét run cầm cập, mặt cắt không được một giọt máu chạy về phục trước sân rồng, nom ông như một đống rạ mục… Ôi, thưa công nương, miệng thế gian biết thế nào mà tin được. Nhưng con vẫn ngờ dân chúng họ thính lắm, sự thể có thế nào chẳng giấu được họ đâu.Con bèn ghé qua bên viện thái y. Bên ấy vắng tanh vắng ngắt. Con sợ quá, phải chạy té về ngay”. Công chúa nghe xong câu chuyện cũng có vẻ động dao.
Nàng tự xem xét lại cái trò nghịch ngợm của mình, không ngờ sự thể lại xảy ra oái oăm đến thế. Nhìn thẳng vào mắt hai ả thị tỳ, công chúa tủm tỉm cười, rồi chậm rãi:

- Các em có nhớ hôm ở chùa Phổ Minh, phụ hoàng ta đã nói, khi người khuyên các vị trưởng lão, các tăng già hãy răn dạy dân chúng, đừng tin vào những điều dị đoan nhảm nhí, Nhất là những phương sách bịp bợm, ma giáo của lũ phù thủy người Tống. Họ chạy sang ta từ khi nước họ bị người Thát lấy mất. Họ đem theo cả một số tà thuật sang để làm sinh kế. Dân ta đôn hậu, cứ cắm cổ nghe theo. Thành thử tổn hại không biết bao nhiêu mà kể. Tiền của mất. Bệnh tật thêm. Mà thần nọ thánh kia, miếu này phủ nọ, nó mọc lên nhan nhản. Chỗ nào cũng thờ, cũng hương khói, cúng vái. Hóa ra chúng dân đâm nhát sợ, thờ từ một hòn đá đến gốc cây, bụi cỏ. Cứ hễ cái gì dị dạng dị hình, chúng bảo đó là thần linh, hoặc yêu quái. Chính thần, tạp thần, dâm thần cứ gặp gì thờ ấy… Có đúng phụ hoàng ta đã nói như thế không các em? Ừ phải, ta nhớ không sai. Phụ hoàng ta còn vạch một số tà thuật của bọn người Tống để các bậc trưởng lão, nếu chưa tin thì cứ việc làm thử. Chỗ ấy các em có nhớ không? Không nhớ à? Ta cũng tin là các em không nhớ. Ngay từ khi ta sai các em đi xin các vị thuốc A ngùy rồi về sao tán, không thấy các em cật vấn điều gì, ta biết ngay là các em đã quên. Chính quan thái y cũng không biết, huống chi các em. Thật ra ta không muốn đem đến thái y viện mà làm thử. Nhưng vì quan thái y bữa đó, trước khi ra về còn dặn một điều lấp lửng: “Công nương phải rất cẩn thận trong khi dùng vị thuốc này”. Làm như ông ta biết chắc chắn rằng ta dùng vào việc gì. Ta lại cho rằng, ông ta chẳng biết gì hết. Vậy nên ta trêu tức, mới sai Bích Huệ đem sang bôi vào cánh cửa viện thái y. Bây giờ sự thể nó bùng ra như các em thấy đấy.

Cả hai cô thị tì đều ngơ ngác gần như kinh ngạc. Rằng tại sao chỉ bôi có vị thuốc A ngùy hòa với rượu lại gọi được ma quỷ về.

Huyền Trân nhìn hai thị tỳ với vẻ thương hại:

- Các em tưởng ta cũng như phù thủy có phép gọi ma về phải không? Láo hết, chẳng có phép tắc nào cả.
Tiếng ma đập cửa ấy chính là tiếng va đập của những con dơi đụng vào cánh cửa. Chả là thế này, A ngùy sao tán lên rồi tẩm với rượu, nó toát ra một thứ mùi thơm thơm, hắc hắc, loài dơi rất thích. Một con thích gọi cả bầy đàn. Hết đàn ấy, đến đàn khác. Chúng cứ thay nhau lao vào cánh cửa. Mỗi con lao lại gây ra một tiếng đập, kiểu như tiếng người đập cửa. Sự việc xảy ra bên  viện thái y là như vậy. Cũng đúng như ta xét đoán, quan thái y chẳng hiểu gì về cái vị thuốc này cả. Còn hàng trăm vị thuốc khác nằm trong các hộp để bào chế, ta không hiểu quan thái y biết đến mức nào?

- Dạ bẩm công nương, thế có cách nào giải được cái nạn dơi đập cửa này không ạ?… Thúy Quỳnh lễ phép hỏi. Nàng nói thêm:

- Thưa công nương, con nghe nói lính canh đã dùng đèn đuốc soi, sao lại không biết có dơi là thế nào ạ. Chuyện này con chưa được tường lắm, xin công nương dạy cho.

- Ta cũng đang muốn chấm dứt cái trò chơi này với quan thái y. Lại phải nhờ đến hai em đây. Chiều nay
các em nấu lấy một ít nước ngũ vị thật đặc, xong rồi tẩm vào vải, đem sang bôi đè lên chỗ bữa nọ Bích Huệ đã bôi nước A ngùy. Hết mùi A ngùy, dơi không tới nữa. Vừa rồi, Thúy Quỳnh có hỏi ta: “Lính soi đèn sao không biết có dơi”. Bí quyết lừa bịp của bọn phù thủy là ở chỗ đó, dân sợ cũng ở chỗ đó. Vì đêm tối bất chợt có tiếng đập cửa râm ran, hỏi không có ai trả lời. Người trong nhà đâm sợ. Nổi đèn đuốc lên, hô hoán lên, xóm giềng kéo đến. Không tìm thấy một dấu vết nào. Chán rồi mọi người ai về nhà nấy. Chủ nhà cũng đi ngủ. Cửa vừa gài, đèn vừa tắt, tiếng đập cửa lại vang lên. Cứ như thế ai mà không sợ. Kéo dài mãi, người trong nhà có thể bị điên. Thế là phải tìm đến thầy cúng, cầu xin lễ vái. Còn khi thắp đèn, đuốc, dơi không tới nữa là do dơi sợ ánh sáng. Đây có một câu chuyện để ta kể cho các em nghe…
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #34 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:20:25 pm »

Với vẻ lim dim thư thái, công chúa như cố nhớ, cố chắp nối lại những mảnh lẻ rời rạc trong ký ức tuổi thơ. Hai tì nữ mắt hau háu nhìn Huyền Trân, vẻ như van lơn, như nài xin công chúa nói cho nghe.

Một thoáng sau, công chúa khẽ cất lên giọng trầm trầm, ấm áp:

- … Ngày xưa, có một cuộc thi tài đọ sức giữa hai loài thú và chim. Dơi có nước da đen mốc, bộ mặt choắt, dăn deo như một cụ già trăm tuổi. Lại có vóc dáng đạo mạo uyên nguyên như một nhà hiền triết, nên được cả hai loài chim thú cử làm giám thí. Chiêng trống nổi lên, đàn sáo nổi lên, Lại có cả những giọng hót hay của loài chim sơn ca, chích chòe, liếu điếu, họa mi, yến xen với tiếng gầm gào của các loài thú dữ như hổ, báo, sư tử, khiến trời đất chật ních những thanh âm. Khi các âm thanh hỗn tạp vừa dứt, cuộc đấu bắt đầu. Loài chim cử đại bàng ra thách đấu. Loài thú cử hổ vằn ra nghênh chiến. Một mãnh thú, một mãnh cầm quần nhau làm cho núi nghiêng, cây đổ. Lá rừng nát tươm cùng với bụi cát bay lên che lấp cả ánh mặt trời. Cuộc đấu mỗi lúc một thêm căng thẳng, dữ dội tưởng như không bao giờ dứt. Có lúc đại bàng đã cắm được những chiếc móng sắc nhọn vào mình hổ. Chỉ còn một việc vỗ đôi cánh rộng lao vút lên chín từng trời, rồi thả cho hổ rơi vào vách đá hoặc chìm xuống vực sâu, thân xác tan nhừ như một cây thối ruỗng. Đó là món võ ác hiểm sở trường của vị chúa tể loài chim này. Giữa lúc tính mệnh hổ nghìn cân treo sợi tóc thì quan giám thí reo ầm lên: “Hổ thua rồi! Hổ thua rồi! Vinh quang biết mấy cho loài chim chúng ta! Muôn năm vị chúa tể của chúng ta! Muôn năm vị chúa tể của chúng ta! Muôn năm sự dũng mãnh của đức vua đại bàng! Vinh hạnh cho ta mang trong mình dòng máu của đức vua!”. Nói xong dơi giang đôi cánh mỏng không có một mảng lông, chỉ có một mảng da nhăn nheo, như để chứng minh cho quan khách biết: “Ta thuộc loài chim”. Nhưng vị chúa sơn lâm đâu có chịu chết một cách nhục nhằn. Ngài gầm lên một tiếng dữ dằn như một làn sóng thần, khiến lá rừng rơi rụng trơ trụi như một sáng trọng đông. Rồi vùng ra khỏi những chiếc móng nhọn như răng của một chiếc kìm thép của đại bàng. Và đột ngột hổ quay ngoắt lại vồ được một bên cánh của đại bàng, kéo giăng ra như một chiếc quạt khổng lồ. Hổ đã chuyển bại thành thắng, nhờ có sự dũng mãnh phi thường, và cũng nhờ vào miếng võ gia truyền tuyệt luân của họ hàng nhà hổ.

Trong khi các quan khách chưa hết sững sờ vì ngón đòn của hổ, thì dơi đã bật dậy reo nồng nhiệt: “Hổ thắng rồi! Hổ thắng rồi! Đại bàng sẽ chết! Đại bàng sẽ chết! Muôn năm vị chúa tể sơn lâm. Muôn năm đức vua dũng mãnh của loài thú chúng ta…”

Dứt lời, dơi vội vàng lết đi chậm chạp như một con bọ hung, cũng là để khoe với quan khách rằng: “Ta thuộc loài thú kiêu hùng chứ không có dính dáng họ hàng gì với loài chim hạ đẳng”.

Trong khi dơi đang cao đàm khoát luận thì đại bàng nhanh như chớp, lấy hết sức bay vọt lên rồi mổ chiếc
mỏ vừa sắc như dao vừa nặng như búa vào đầu hổ. Cuộc đấu lại tiếp diễn, mỗi lúc một ác liệt thêm. Cho mãi đến khi mặt trời đã rơi xuống phía bên kia các ngọn núi thấp, bầu trời xám xịt, cuộc đấu vẫn chưa phân thắng bại. Cả hổ lẫn đại bàng đều khôn ngoan hơn, thế công thủ kín đáo vững vàng hơn. Cuộc đấu có thể kéo dài đến vô hạn, cả hai loài chim và thú, thấy không có cách nào khác là phải chung sống với nhau dưới bầu trời của thượng đế. Chúng bèn cử họa mi và khỉ ra dàn xếp. Cuộc hòa giải kết thúc vui vẻ. Công ra múa, bộ lông của nó xòe ra cụp vào, màu sắc rực rỡ như muôn ngàn vì sao lấp lánh. Thiên nga đan kết thành vòng nhào lộn trên bầu trời mờ tối.Các loài chim, các loài thú đều rộn rã tấu lên khúc nhạc êm hòa giao kết… Đêm xuống, các loài chim về ngàn, dơi xập xòe đôi cánh bay theo. Nhưng bị chúng xua đuổi. Không có một giống chim nào chịu nhận dơi vào tộc họ của mình. Lủi thủi, dơi quay về bò lết những mẩu chân ngắn ngủn theo các loài thú. Lại đến lượt các loài thú xua đuổi dơi. Chỉ vì dơi định chơi trò láu cá. Khi được cử làm trọng tài giám sát cuộc thi, dơi đã không làm tròn chức phận một cách công bằng, mà chỉ chăm chút gửi tấm thân mình về bên nào có lợi nhất. Dơi cũng khéo cải trang cho bộ mặt mình có cốt cách của loài thú, có vóc dáng của loài chim. Nhưng xét cho cùng, dơi chẳng phải chim, cũng chẳng phải thú, lại còn thêm một tâm địa xảo trá, nên cả hai loài chim và thú đều không cho gia nhập cộng đồng. Thành thử dơi phải sống lén lút. Bởi ngày là của một số loài chim, đêm là của một số loài thú, nên dơi chỉ có thể lợi dụng kiếm ăn vào lúc ngày sắp tàn, đêm sắp tới. Âý là lúc chập choạng giữa tranh tối tranh sáng. Thế mới hay ở đời: “Khôn ngoan lắm, oan trái nhiều…”. Công chúa thở dài như vừa trút đi một cái gì nặng nề ám ảnh ở trong lòng.

Với vẻ thán phục. Bích Huệ ngước nhìn công chúa hỏi:

- Thưa công nương, chẳng hay do đâu mà công nương biết được lai lịch loài dơi một cách tường tận như vậy?.

Thúy Quỳnh cũng săn sái nói thêm:

- Công nương quả là lỗi lạc. Cái gì người cũng biết tới ngọn ngành. Mới nghe thượng hoàng nói về cái vị thuốc “A ngùy” thế thôi, chúng con thì một câu chữ cũng không nhớ, còn công nương lại ứng dụng làm liền, khiến quan thái y và cả thái y viện phải lao đao.

Công chúa mỉm cười với vẻ mặt đầy kiêu hãnh, nàng nói:

- Biết lai lịch của loài dơi, là do một chuyện tình cờ. Có lần ta thấy một con vật lạ bay vào trong lầu, rồi nó cứ bám chặt vào gót kèo, đầu chúc xuống đất. ta sợ quá hét lên. Ngày ấy ta còn nhỏ, chừng bảy, tám tuổi. Nhũ mẫu bèn chạy đến, khi đã rõ đầu đuôi câu chuyện. Người bèn đi lấy một chiếc tay mây kều con dơi xuống, rồi kể cho ta nghe câu chuyện vừa rồi. Phải nói, ta có biết chút ít về cuộc sống ngoài đời, ấy là do nhũ mẫu dạy cho. Chính các em cũng đem đến cho ta nhiều điều mới lạ. Nếu không, ở chốn cung cấm này, ta làm sao biết được. Hoặc giả ta chỉ biết qua những điều sách nói. Mà sách thuần có dạy người ta về các điều đạo lý cao xa,nó không sát hợp với cuộc sống thường ngày. Cũng vì thế mà ta ham mải tìm kiếm những gì vốn có quanh ta. bởi thế, khi nghe phụ hoàng nói, về ba cái trò ma giáo của mấy anh phù thủy người Tống, mất nước chạy sang ta, đi lừa bịp kiếm ăn. Ta đã ghi ngay vào trong đầu óc, là phải làm thử xem, có đúng như lời phụ hoàng nói không? Ai ngờ… Mắt công chúa long lanh sáng, nở một nụ cười kín đáo. Rồi nàng bảo hai tì nữ thân cận:

- Ngay chiều nay, các em phải đem nước ngũ vị sang bôi kỹ lên cánh cửa bên viện thái y, chỗ bữa trước Bích Huệ đã bôi nước A ngùy. Phải thôi ngay cái trò chơi ma quỷ này, nếu không, chủ, tớ chúng ta đều mắc vào trọng tội đó. 

- Chúng con xin vâng! Cả hai nữ tì cùng lên tiếng đáp lời chủ.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #35 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:22:17 pm »

Chương 12

Vua Nhân tôn và đoàn tùy tùng đi theo đường ngựa trạm vào các châu, quận phía nam, để rồi vào Chiêm bằng đường thủy. Chỉ những đoạn nào hiểm trở lắm, nhà vua mới chịu đi cáng.Nhà vua cũng cấm ngặt không được thông đạt cho các viên an phủ sứ, tri phủ hoặc kinh lược sứ, quan sát sứ ở các châu, quận để tránh sự tiếp rước phiền nhiễu cho dân. vừa đi nhà vua vừa xem xét dân tình. Quả như Khắc Chung nói: “Chúng dân tuy vẫn một lòng hướng về triều đình nhưng quá đỗi nghèo nàn. Nhiều người đã phải lìa bỏ quê quán đi tha hương cầu thực. Nhiều người chồng con vẫn còn tại ngũ, không ai làm trụ cột gia đình cũng sa vào cảnh sống vất vưởng”. Nhà vua thường cải dạng đi lẫn vào dân. hỏi bất cứ người nào, ở vùng nào họ cũng đều có chung một nguyện vọng, được sống trong thái bình, ổn định. Ai cũng mong mỏi được an cư, lạc nghiệp, chồng con không phải ra trận mạc, không phải chết vì mũi tên ngọn giáo. Đức vua thương dân đến quặn thắt cả ruột gan. Người tự nhủ: “Chuyến này vào Chiêm, mọi việc suôn sẻ tốt lành ta sẽ tha bớt lính cho về quê quán làm ăn. Không những thế, còn phải giảm thuế ruộng cho dân, và bắt nhà giàu cũng phải giảm bớt tô cho người nghèo. Rồi khuyến khích việc tầm tang, việc làm muối, khai mỏ, việc thông thương hàng hóa trong cả nước. Còn phải biệt đãi những người có tài lạ chước hay. Mong sao trong một vài năm tới, có thể chấn hưng được nền kinh tế, hồi phục được sức dân. Thương dân, không gì bằng lo cho dân được no ấm. Lo cho dân no ấm, không gì bằng khuyến khích dân vỡ đất cấy trồng, tha bớt tô thuế, hạn chế tạp dịch. triều đình cũng phải xén bớt các cuộc tế lễ, yến ẩm linh đình. Việc kiệm ước phải thấu đạt từ vua quan tới chúng dân trăm họ. Phải có hình phạt nặng nề đối với bọn xa hoa lãng phí. Phải ghép bọn quan lại, bọn hào mục hay bòn rút của dân, của nước vào tử tội…”. Nhà vua có lòng thương dân như thương con. Tới vùng nào vua cũng dừng lại chẩn cấp chút ít, gọi là lộc nước cho những người nghèo khổ, phải lang thang kiếm sống. Và làm lễ cầu siêu cho những người đã bỏ mình vì nước. Lại nữa, dù bận rộn đến đâu, nhà vua cũng không quên khai mở hội giảng để đích thân ngài truyền bá kinh Phật cho tăng chúng và đệ tử. Ngài chỉ mong bố cáo cùng thiên hạ, về tấm lòng từ bi hỉ xả của đức Phật. Ngài kêu gọi mọi người hãy từ bỏ sông đục bến mê, mở lòng mở dạ, tu tính tu tâm. Chớ có tin vào chuyện dị đoan nhảm nhí. Lời nói của nhà vua có sức thuyết phục lạ lùng. Nhà vua không bao giờ nói đến chuyện cấm đoán đền nọ phủ kia, thần này thánh nọ. Nhưng hễ ai đã nghe vua nói rồi, đều thấy việc kính cẩn thờ phụng từ con chó đến gốc đa, gốc gạo là chuyện khôi hài, nhảm nhí. Vì vậy, gót chân của nhà vua đặt tới đâu, thì ở đó bãi bỏ được mê tín quàng xiên. Việc thờ cúng rốt cuộc chỉ còn lại với tổ tiên, ông bà trong các ngày giỗ, ngày tết. Và thờ một vị thần cao nhất, ấy là đức Phật tổ. Nhưng việc thờ cúng Phật tổ, cũng chỉ ở trong lòng là chính. Ai ai cũng vậy, đã theo về Phật, đều phải rèn cho được cái bản ngã trở thành vô dục. Có nghĩa là từ bỏ lòng tham vô lối. Vì lòng tham, chính là con đường dẫn tới tội ác. từ bỏ được lòng tham, con người đã hé được cánh cửa đi vào cõi thiện.

Đi hết mảnh đất phía nam của Đại Việt, vua Nhân tôn vỗ về quan điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão cùng đoàn hộ giá. Ngài hết lời khen ngợi sự tận tâm của quan điện súy, song ngài không quên nhắc nhủ: “Ta biết quan tướng quân là người mưu lược, dụng binh như thần. Nay ta muốn quan tướng quân cũng chăn dân giỏi như dụng binh. Vì gốc của nước là dân. Có dân mới có nước. Binh phiên gì cũng là từ dân cả. Nay ta ra khỏi cõi, chỉ mượn vài lời của tiền nhân ký thác lại tướng quân, ấy là: “Vạn sự xuất ư dân”. Nói xong nhà vua phóng tầm mắt nhìn bốn phía mảnh đất của tổ tiên. Ngài như muốn thu vào tận đáy mắt cả non sông gấm vóc. Từng ngọn núi, dải rừng cho tới các thôn ấp đìu hiu bỗng rực sáng lên, trong trẻo lên dưới nắng xuân vàng ấm. Tất cả như cùng hát lên lời ca tạm biệt. Đức vua khoan thai bước xuống thuyền.

Quan điện súy dù là người đã xông pha trăm trận cũng không khỏi bùi ngùi, trước tấm lòng nhân ái như trời bể của nhà vua, đối với trăm họ. Viên võ tướng cúi đầu, chắp tay vái nhà vua:

- Thần xin lĩnh mệnh!

Khi nhà vua cùng đoàn tùy tùng đã yên vị xong, các thủy thủ bèn nhổ neo, căng buồm nhằm hướng nam lướt sóng. Phạm Ngũ Lão cùng đoàn tháp tùng đồng thanh hô:

- Chúc thượng hoàng bình an! Thượng hoàng thiên tuế!. Thiên… thiên… t… u… ế!

Gió đem lời chúc bằng an vào tận khoang thuyền. Vua Nhân tôn xúc động, với lấy cây thiền trượng huơ lên
ba lần. Đoàn thuyền lẩn vào sóng rồi khuất dần sau một đám mây lang thang, bỗng sà thấp xuống như một chiếc tán bạc khổng lồ che cho thuyền ngự .
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #36 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:22:53 pm »

Ròng rã gần hết một tuần trăng trên mình ngựa, hoặc trong các đền, chùa, quán xá, nhà vua thấy thấm mệt. Ngài nằm thư giãn trên tấm nệm gấm, mắt lim dim ngắm cảnh hoàng hôn trên biển. Nhà vua thiếp đi lúc nào không biết. Lúc tỉnh dậy thấy trắng xóa một trời trăng. Lòng bồn chồn không sao ngủ được, nhà vua khẽ hất tấm mền mà người hầu cận đã đắp cho ngài lúc thiu thiu ngủ và ngồi nhỏm dậy. Ngài khêu to ngọn bấc trong cái đĩa đèn dầu lạc. Lão Thái giật mình thấy nhà vua đang thả hồn trên mặt biển. Biển sáng lấp lánh đến nỗi lão có cảm giác như thuyền đang đi trên một vùng biển thủy ngân. Lão chính là hòa thượng Minh Thái, trụ trì ở chùa Quỳnh Lâm. Nhân một buổi nhà vua có ghé qua chùa thuyết pháp, lão mến mộ đức lớn của nhà vua nên tình nguyện xin được theo hầu. Vua nhận làm đồ đệ đem về Yên Tử để ngài sai khiến. Chuyến đi này lão xin theo làm hầu cận nhà vua, và cũng là đi hộ giá luôn thể. Lão khẽ mở rương lấy tấm áo ngự hàn khoác lên vai nhà vua. Ngài ậm ừ một điều gì đó mà lão Thái chỉ cảm thấy hơn là nghe thấy. Công bằng mà nói, tài cảm nhận của lão đã đạt tới mức siêu phàm. Chưa một lần nào lão bị nhầm lẫn. Cũng vì vậy lão mới săm săm đi lấy nghiên, bút cùng một xếp giấy hoa tiên đem lại hầu vua. Rồi lão quay ra quạt lò đun nước pha trà. Chính lão vừa quạt lò vừa phân vân. Vì rằng từ lâu lắm nhà vua không dùng trà, người chỉ dùng một thứ gỗ của cây mai để nấu nước uống. Và người thường gọi là “Lão mai trà”. Ngài hằng tâm khuyến dụ mọi người nên kiệm ước. Bao giờ ngài cũng đi đầu thực hiện những lời chính ngài khuyên bảo chúng dân. Nhà vua hí hoáy viết, đoạn người quay lại nói cùng lão Thái: - “Ngươi lại phía sau lâu thuyền, mời quan ngự sử trung tán tới dùng trà”.

Một lát sau, Đoàn Nhữ Hài đã có mặt. thấy vua Nhữ Hài toan sụp lạy. Nhà vua vội xua tay miễn lễ, và chỉ cho Nhữ Hài ngồi vào tấm nệm gấm.

Với cử chỉ e lệ như một nho sinh nơi thôn ấp mới được vào trường Quốc tử giám, Nhữ Hài khép nép ngồi vào góc tấm nệm.

Lão thái bê ra một chiếc khay khảm, trên để hai chiếc chén có nắp. Vua Nhân tôn tự mình bê lên một chén ban cho Đoàn Nhữ Hài và nói:

- Trà này ta trồng trên thung Yên Tử. Còn việc sao, hái, ướp sen là do hòa thượng đây giúp rập vào.

Nhà vua vừa nói vừa nhìn về phía lão Thái nửa như khen ngợi, nửa như tỏ ý biết ơn.

Đoàn Nhữ Hài cung kính đón lấy chén trà. Lòng bồi hồi xúc động. Nhữ Hài nói, giọng run run:

- Muôn tâu thượng hoàng, thần chưa có chút công lao gì…

Nhữ Hài còn đang ấp úng, nhà vua đã gạt đi:

- Ta mến khanh tuổi còn trẻ mà đã sớm bộc lộ cái chí của mình. Nhưng khanh quá giữ lễ vua tôi, khiến cho tình ta với khanh cách biệt quá. Đạo thần tử là cốt để gìn giữ rường mối quốc gia. Việc đó thể hiện ở lễ thiết triều, hoặc khi giao tế. Còn khi đàm đạo đôi điều tâm đắc, mà khanh cứ thủ lễ một cách thái quá, ta e câu chuyện sẽ trở nên khách sáo. Khanh hãy cứ coi ta như một người bạn vong niên.

- Tâu thượng hoàng, thần đâu dám nghĩ vậy.

- Khanh uống đi, rồi nhích lại gần đây đọc giùm ta bài thơ tức cảnh. Khanh có thấy biển phương nam đẹp
không. Ta đã từng thưởng trăng nhiều dịp . Mỗi nơi mỗi cảnh đều có cái đẹp riêng. Nhưng với cảnh sắc đêm nay ta thấy có gì lạ lắm. Lạ lắm.

- Tâu… thượng hoàng thấy thế nào ạ?.

- Ta thấy… ôi khó nói quá chừng. Nói cho đúng ta cảm thấy hơn là ta thấy. Ta cảm thấy như ta có thể
hòa nhập cùng vũ trụ. Và ta cũng chính là… là một phần của vũ trụ. Vừa đây ta cứ nhìn mãi vào một ngôi
sao chính diện trong chòm sao Thần nông kia, và ta trò chuyên. Đúng thế, ta đã trò chuyện trong cái mênh mông vô thức. Cảm nhận chính ta là một phần của vũ trụ, nảy sinh trong khoảnh khắc đó.

Nhữ Hài chăm chú nhìn mãi vào tờ giấy hoa tiên do nhà vua trao cho. Quan ngự sử không còn tin ở mắt mình nữa, cứ xoay đi xoay lại tờ giấy không tìm đâu ra lấy một chữ. Chỉ có một hình vòng tròn. Giữa là một nhân tròn bằng hạt đậu màu đậm đặc. Màu đó cứ chuyển nhạt dần đều cho tới lúc nó chỉ còn mờ mờ như một màn khói. Toàn thể hình tròn chỉ to bằng lòng bàn tay. Do dự một lát, quan ngự sử trung tán bèn trao tờ giấy lại cho vua và nói:

- Tâu thượng hoàng, chẳng biết có phải thần là hạng người ngu tối không. Quả thần không đọc được một chữ nào. Phải chăng đây là là một thứ thiên thư vô tự?.

Vua Nhân tôn vội đón lấy tờ giấy từ tay Đoàn Nhữ Hài. Lại đến lượt nhà vua sửng sốt. Nhìn hình vẽ, nhà vua thốt lên:

- Chính lúc ấy ta trông thấy ngôi chủ tể trong chòm sao Thần nông y hệt thế này. Trời, sao ta lại có thể vẽ ra được cái điều huyền bí dường kia của tạo hóa. Ta cho đây là giây phút thăng hoa nhất của tâm linh, khiến con người có thể tiếp xúc được với cái vô biên. Chính lúc lão Thái đưa giấy bút cho ta, là lúc ta vừa có tứ thơ nảy ra ở trong đầu. ta định cầm lấy bút viết, hóa lại vẽ thành cái hình này.

Nhà vua lặng đi trong giây lát. Nhữ Hài cũng băn khoăn xét đoán. Chàng tự nghĩ: Hay là thượng hoàng mắc phải chứng bệnh gì đây. Thời tiết phương nam chắc không hợp với tạng của người. Chàng đã toan ngỏ lời vấn an nhà vua bỗng giọng nhà vua lại cất lên ấm áp:

- Trong cuộc tuần thú, nói cho đúng là cuộc vi hành các châu Hoan, Ái vừa qua, khanh có ghi nhận điều gì về chúng dân, về quan chức ở các lỵ, sở, châu, quận?.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #37 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:23:32 pm »

Nhữ Hài im lặng, như còn cân nhắc đắn đo những lời sắp nói. Vua Nhân tôn tự tay rót cho Nhữ Hài một tuần trà thứ hai nữa, ngài khích lệ:

- Khanh cứ mạnh dạn nói lên cái ý của riêng khanh. Khanh chớ nên chọn ý lựa lời cốt làm đẹp lòng ta. Dù khanh nói có trái ý ta, nhưng là việc phải, không bao giờ ta trách. Ngay cả những điều quấy, được nói qua miệng khanh, ta cũng không thể trách phạt. Ta biết trong dân chúng, trong quan lại, ngay cả trong triều đình, vẫn còn nhiều điều làm ta áy náy.

Nhữ Hài là một viên quan trẻ nhất triều. Mới hai mươi tuổi đã đựoc vua Anh tôn tin dùng, cất nhắc vào hàng ngự sử trung tán. Vì tài năng chưa có cơ hội bộc lộ, nên các bạn đồng liêu vẫn tỏ ý không phục. Đôi người làm thơ chế giễu.Việc ấy đến tai, Nhữ Hài chỉ cười.(Đoàn Nhữ Hài được cất nhắc vào hàng quan trụ cột của triều đình. Nhiều người làm thơ, ngầm có ý phản đối. Trong đó có ý chế giễu Nhữ Hài có hai câu như:

“Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ.

Khẩu tồn nhũ sú Đoàn trung tán”.

Dịch:

“Đài ngự sử ôn câu cổ ngữ.

Miệng Đoàn trung tán sữa còn hoi”. )

Và chàng cũng tự thú nhận: “Chức quan quá to, so với tuổi của ta, quả là ta còn là một đứa trẻ nít thật”. Gần đây được vua sai khiến, qua vài việc Nhữ Hài làm vừa ý, nhà vua lại có ý định thăng Nhữ Hài lên hàng ngự sử đại phu, có thể sánh ngang với các vị đại thần trong háng nhất nhị phẩm. Biết mình còn nhiều người ganh ghét, và Nhữ Hài cũng không muốn vì được nhà vua tin dùng mà lên mặt. Cho nên chàng cố xin vua hãy khoan thăng bổ. Còn việc nhận xét các bạn đồng liêu trên, dưới, trong ngoài triều chính, Nhữ Hài lại càng cẩn trọng lắm. Phải nói nhờ có đức cẩn trọng ấy mà Nhữ Hài đứng được vững trên vị trí của mình. Nhưng nó cũng làm cho chàng trai hai chục tuổi, vướng vào đường công danh ấy già đi tới chục tuổi nữa. Không những chàng phải giữ mồm giữ miệng, giữ từng tư thế cử chỉ cho đến mọi mối giao du y hệt một nhà tu giữ đạo. Về khía cạnh này, Nhữ Hài là mặt trái của Trần Khắc Chung. Khắc Chung phóng túng hào hoa, tới mức như chẳng cần gìn giữ một tý gì trong cương vị của mình.

Mải đắn đo cân nhắc, Nhữ Hài chợt nhớ câu hỏi của thượng hoàng bèn kính cẩn đáp:

- Muôn tâu thượng hoàng, theo thiển ý của thần thì dân chúng các châu Hoan, Ái trong hai cuộc kháng
Nguyên vừa qua, đã tỏ ra xứng đáng là phên dậu của triều đình. Các nhà đã đóng góp tới suất đinh cuối cùng, đồng tiền bát gạo cuối cùng cho triều đình đánh giặc. Vì vậy sức dân hầu như đã kiệt. Sau chiến tranh, triều đình có tha tô, thuế một phần nhưng nhiều năm hạn hán, bão lụt, mất mùa, kinh tế xã hội chưa kịp hồi phục thì nạn tham nhũng đã mọc lên. Quan lại ở các nha, trấn, châu, quận đua nhau xây nhà, lập phủ, bòn rút của dân. Vì vậy tiếng oán vọng trong dân chúng không phải là không có.

Nhữ Hài thấp giọng, vẻ như ngậm ngùi. Kỳ thực chàng thăm dò ý tứ xem nhà vua có còn muốn nghe những điều nghịch lý, trái tai nữa không. Chàng ngừng lời một cách đột ngột.

Vua Nhân tôn khẽ nhíu đôi hàng mi, vầng trán ngài in đậm những nét nhăn ngang dọc, cặp mắt ngài ánh lên vẻ buồn buồn. Nhìn về phía Nhữ Hài, ngài nói giọng trầm tĩnh:

- Ta vẫn lắng nghe, khanh cứ nói tiếp đi. Ta nhắc lại, khanh cứ nói những việc tai nghe mắt thấy. Và cả những điều khanh suy nghĩ thầm kín, nhưng không muốn bộc lộ. Ta muốn khanh nói rõ hơn. Chớ có nói chung chung. Ta không mong mỏi trong dân chúng không có điều chi oán vọng. Vì rằng ta tăng cho phần của người này, hẳn là phải bớt phần của người kia. Người được tăng sẽ ơn ta. Người bị xén bớt sẽ oán ta. Nhưng cái chính là sau mỗi việc làm,ta thấy lương tâm yên ổn. Tuy nhiên, bọn quyền cao chức trọng, bộn giầu nứt đố đổ vách có oán ta, ta chẳng mảy may động tâm. Nào, khanh nói đi!.

Nhữ Hài chợt nghĩ không cần phải giấu kín những điều mắt thấy tai nghe, những điều bấy lâu hằng tâm suy ngẫm, chàng mạnh dạn thưa:

- Tâu thượng hoàng, trước hết tư cách trong hàng quan lại của triều đình có nhiều điều sa sút. Luật pháp không được tôn trọng, dân chúng không còn biết tin vào đâu. Tỷ như quan thái bốc đi nói những điều dị đoan nhảm nhí, lòe bịp dân chúng để lấy lễ lấy tiền. Quan thái y không lo việc trị bệnh lại thiên sang đường cầu cúng. Quá nửa số quan lại trong triều từ hàng ngũ, tứ phẩm trở lên xây nhà, lập phủ bằng tiền bạc đục khoét của dân.

Nhà vua thầm nghĩ: “Việc ấy lão Dương có nói, ta cũng đã biết”.

- Muôn tâu thượng hoàng, điều đáng nói không phải ở chỗĩây nhà lập phủ. Mà sự nguy hại là ở nơi nó tạo
cho những người này có thói quen xa hoa hưởng lạc. Nó làm cho họ trở nên đồi bại. Lẽ ra toàn bộ trí tuệ con người có được phải nhằm vào việc ích nước lợi dân, thì những người này thuần lo vào chuyện biển lận, dối trên, lừa dưới, ích kỷ hại dân. Biến phép nước thành một thứ trò chơi con trẻ, Dạ tâu thượng hoàng, loại người này thì ở đâu cũng có. Vả lại trong những ngày vi hành vừa qua, thượng hoàng cũng đã mục kích. Không nói đâu xa, ngay nơi thang mộc của thượng hoàng và các tiên đế, sự nhũng nhiễu hà lạm cũng không thiếu. Thần nhớ, bữa về Thiên Trường, thần có gặp một bà lão ăn xin, là mẹ của hai liệt sĩ bỏ mình vì nước. Bản thân bà lão có công lừa giặc vào nơi hang bẫy, làm chết gần hết một cánh quân Nguyên.
Những người như thế, triều đình đã ban ân tứ. Nhưng ân sủng của nhà vua đâu có đến được người dân. Nói đến đây Nhữ Hài thở dài, ngừng lời.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #38 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2010, 10:24:22 pm »

Nhà vua cũng nao nao buồn. Ngài nói:

- Việc đó, ta cũng có biết. Ngày ở Thiên trường về, Huyền Trân có đến phàn nàn với ta chuyện khanh vừa nói. Ta đã bảo quan gia phải khiển trách bọn hương chức sở tại. Phải chu cấp cho lão bà đầy đủ suốt đời.
Khi chết phải lập miếu thờ.

- Tâu thượng hoàng, trong thiên hạ thiếu chi những người có cảnh ngộ như bà lão đó, mà thượng hoàng cũng như công nương và triều đình chưa biết tới. Thành thử người có công không được thưởng, kẻ có tội không bị trừng trị, lòng người sao phấn khích được.

Nhà vua đột ngột ngắt lời Nhữ Hài và hỏi:

- Thôi được, việc đó ta đã có chủ ý rồi. Khi ở Chiêm về, ta sẽ bàn kỹ với khanh và quan gia. Bây giờ ta muốn lưu ý khanh đôi điều khi vào đất Chiêm. Trước hết, ta muốn biết khi đi quan gia có căn dặn khanh điều gì không?

- Tâu thượng hoàng, quan gia chỉ nói nhất nhất mọi việc đều phải xin ý chỉ của thượng hoàng.

- Thượng tướng thái sư và quan điện súy có cậy nhờ khanh việc gì không? .

- Bẩm thượng hoàng, hai quan thượng tướng chỉ căn dặn thần phải hết lòng hộ giá.

Nhà vua trầm ngâm nhìn ra mặt biển lúc này hơi tối, trăng đã ngả về tây. Gương mặt ngài có vẻ thanh
thản. Dường như ngài đang nghĩ về điều gì ở một cõi xa xăm nào đấy. tiếng nói ngài phát ra như từ thinh không dội xuống:

- Vậy chớ không có ai căn dặn hoặc nhờ cậy khanh điều gì sao?.

Như sực nhớ ra, Nhữ Hài “dạ “ lên một tiếng:

- Dạ tâu thượng hoàng, thần nhớ có lần trong buổi nhàn đàm với quan đại an phủ sứ Trần Khắc Chung về chuyện thế sự. Quan huynh có nói bâng quơ, kỳ thực hàm ẩn sự răn dặn.

- Vậy chớ Khắc Chung đã răn dặn khanh những gì?.

- Tâu thượng hoàng, thần nhớ vào dịp lễ Thường tân năm ngoái, sau khi theo quan gia vào làm lễ dâng
cơm mới ở nhà thái miếu, quan đại an có mời thần ghé chơi bên an phủ sứ. Sau khi bàn bạc nhiều về thời
cuộc, về lẽ thịnh suy ở đời, câu chuyện lại dẫn dắt đến thế sự Trung nguyên. 

Chúng thần đều cho rằng trước sau rồi người Thát-đát cũng bị người Trung nguyên tống ra khỏi cõi. Nhưng trước mắt thì đế quốc Nguyên tức là cả người Thát lẫn người Trung Hoa đều muốn thôn tính Đại Việt ta. Cho nên thượng hoàng dùng kế: “hòa hoãn với phương bắc, hòa hợp với phương nam” là thượng sách. Nhân đó quan đại an phủ sứ có lưu ý thần, nếu có dịp nào vào Chiêm công cán, thì trước hết nên thăm thú xem nội tình nước họ ra sao? Binh lực họ bố trí thế nào. Lương thảo họ tích trữ ở những đâu, và các đường giao thông thủy bộ của họ đi được loại xe nào, thuyền nào, cửa bể của họ nông sâu bao nhiêu. Rồi quan đại an mở cuốn “Binh pháp Tôn Tử” chìa cho thần xem thiên “Dụng gián”. Thần ngầm hiểu ý quan đại an và hỏi lại:

- Quan huynh làm tướng văn mà lại am tường sâu sắc về ngành võ.

Đáp:

- Tôi ngờ rằng giặc Bắc chẳng bao giờ để cho ta yên, nên lúc nào tôi cũng phải chuẩn bị, phòng khi quan gia và thượng hoàng sai khiến.

Nhữ Hài ngừng lời. Vua Nhân tôn thở dài. Ngài ngó nhìn ra phía biển, trăng đã ngả ngang mái thuyền. Ngài nói, giọng ôn tồn:

- Ta mừng vì Khắc Chung có cái lo cho thiên hạ. y nhìn phương Bắc thế là sáng suốt. Rất hợp ý ta. Nhưng ta buồn vì y lại có ý nhòm nhỏ phía nam. Ta nghĩ rằng, nếu mình không muốn người Nguyên xâm lấn thế nào, chắc chắn người Chiêm cũng nghĩ như vậy với chúng ta. Khắc Chung có cái tâm không thiện, vì thế ta đã nhiều lần khước từ quan gia có ý muốn chuyển y sang làm tướng võ. Ta còn nghe y nói với các bạn đồng liêu, y có tài dùng tì tướng, nhưng cũng có tài chém tì tướng. Mà nghệ thuật của việc sai khiến này là ở chỗ đã chém thì gươm phải thật sắc và lau máu cho thật nhanh. Đức vua rùng mình, ngài nói tiếp:

- Vì vậy ta không để quan gia trao quyền làm tướng võ cho một kẻ thất đức.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #39 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2010, 09:55:28 pm »

Chương 13

Từ bữa nghe lão Dương kể về Khắc Chung lĩnh mệnh vua vào trại giặc làm rạng rỡ khí tiết của Đại Việt, lại được diện kiến Khắc Chung ở bên phủ Đông cung, Trần Huyền Trân thật sự tôn kính con người bằng xương bằng thịt đó, mà trước đây nàng chỉ hình dung chàng một cách mơ hồ như các nhân vật thần linh trong huyền thoại. Công chúa thật sự tôn thờ chàng như một người anh hùng kỳ vĩ, văn võ toàn tài, người độc nhất vô nhị trên thế gian này. Thật tình Khắc Chung không còn trẻ trung gì, cũng chẳng phải một tay mã thượng anh tuấn như Huyền Trân thường phác họa hình ảnh chàng ở trong đầu. Khắc Chung thường ngày Huyền Trân gặp là một người mảnh khảnh, nước da mai mái, đầu đội chiếc mũ triều thiên màu tía biếc, mình vận áo tay rộng cũng màu tía. Dáng đi thư thái, tao nhã. Ấy thế nhưng công chúa thường tưởng ra một Khắc Chung oai phong lẫm liệt. Hia cao tới gối, kiếm dài quét đất. Thoắt một cái đã leo lên mình ngựa, ra roi phi nước đại, cát bụi cuốn lên như một cơn lốc. Vì thế mà không lúc nào nàng không mơ tưởng đến Khắc Chung. Trong lời nói cũng như trong hành vi cử chỉ nhiều khi nàng đã tỏ ra khinh suất. Nghe nói Khắc Chung sinh ra ở một vùng núi non hùng vĩ, sông nước điệp trùng, rừng xanh vô tận, đó là vùng Giáp Thạch, lộ Hải Đông, Huyền Trân lấy cớ đi du ngoạn có ghé qua đây hồi tháng trước. Từ khi ở Giáp Thạch về, công chúa có phong độ như một người từng trải.

(Trần Khắc Chung sinh ở Giáp Thạch, nay là xã Hiệp Thạch, huyện Kinh Môn, tỉnh HảI Dương, cùng quê với Phạm Sư Mạnh)

Việc giao du cũng không còn bó hẹp trong một số các vị lão thần và giáo thụ, mà nàng tìm đến xướng họa với nhóm nho sinh xuất sắc trong Quốc tử giám. Nàng nghe đồn trong đám nho sinh sắp vào thi đình năm tới, văn tài nổi nhất có Mạc Đĩnh Chi. Lại nghe nói Đĩnh Chi là người hơi dị dạng. Vì vậy càng khơi gợi trí tò mò của một nàng công chúa khuê các. Huyền Trân bèn quyết định xông thẳng vào gặp quan Tư nghiệp quốc tử giám, và xin được dự một buổi bình văn. Hạnh ngộ đúng buổi quan Tư nghiệp đang chủ tọa buổi
bình thơ của cố tướng quân Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải.

Quan Tư nghiệp trịnh trọng mời công chúa ngồi vào hàng chiếu nhất, kế bên quan Hàn lâm thị độc, Trần Huyền Trân nhẹ đưa ánh mắt bao quát cả một lượt từ phía các quan đại thần tới hàng các nho sinh. Trong đám nho sinh nhiều người còn rất trẻ, khoảng độ mười lăm mười sáu tuổi. Huyền Trân chú ý đến một người ngồi hàng đầu. Nước da sàm sạm, đôi gò má cao nhô lên, má hóp, trán giô, chỉ được đôi mắt to tròn linh lợi, sắc sảo. Đôi mắt như toát ra hai luồng hào quang chói sáng. Chàng trai ấy ngồi hai đầu gối co lên quá tai. Cằm tì giữa hai gối, nom chàng giống hệt dáng vẻ một con khỉ. Nàng thầm đoán: “Có lẽ người này là Mạc Đĩnh Chi, thiên hạ vẫn đồn đại đây”. Huyền Trân đang mải mê quan sát sắc diện đám nho sinh, bỗng thấy quan Tư nghiệp giơ chiếc vồ bằng ngón chân cái, gõ vào núm một quả chuông to bằng hai trái bưởi treo vào cái giá nho nhỏ. Tiếng chuông vừa dứt, quan thị độc cất giọng sang sảng đọc bài “Tống Sài trang Khanh” . Đọc xong, quan Thị độc ngừng nhìn cử tọa. Cả học đường im phăng phắc.

(Nguyên văn bài thơ :

TỐNG SÀI TRANG KHANH

Tống quân qui khứ độc bàng hoàng

Mã thủ xâm xâm chỉ đế hương

Nam Bắc tâm tình huyền phản bái

Chủ tân đạo vị phiếm ly trường

Nhất đàm tiếu khoảnh ta phân duệ

Cộng xướng thù gian tích đối sàng

Vị thẩm hà thời trùng đổ điện

Ân cần ác thủ tự huyên lương

Dịch nghĩa

TIỄN SÀI TRANG KHANH

Tiễn ông về nước tôi thật bồi hồi

Ngựa xâm xâm trỏ lối đế hương

Trạnh miền Nam Bắc, tâm tình như treo trên lá cờ đi sứ trở về.

Chủ khách say mùi đạo, cùng nhau chuốc chén biệt ly.

Nói cười vừa chốc lát, than ôi đã dứt áo chia tay.

Trong lúc ngâm nga xướng họa nhớ tiếc khi giường nằm đối diện.

Chưa biết ngày nào lại gặp nhau,

Để nắm tay kể chuyện hàn huyên.)
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM