Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:00:51 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bão táp cung đình  (Đọc 42526 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #90 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:44:07 pm »

Túa về kinh sư đủ thứ đủ hạng người. Nào văn nhân, sĩ tử. Nào nhà buôn. Nào các giáo phường. Sĩ tử cũng chia làm năm bảy hạng. Người giàu có thì ngựa xe, võng cáng, kẻ hầu người hạ. Người bậc trung thì tiểu đồng quẩy theo tay nải áo quần, bút nghiên. Người nhà gánh gạo, gánh chõng lều, lốc thốc đi theo. Đến như những người nghèo túng lại rớt mấy khoa thi trước, tuổi vừa cao, vừa gò lưng gồng gánh tất cả các thứ, như một cái ngựa thồ.

Đất Thăng Long văn vật, đón nhận một cách hào phóng sĩ tử từ bốn phương về dự tuyển. Quan đại an phủ sứ của kinh sư đã cho dựng mười hai dãy nhà ở phía sau Quốc tử giám, để đón nhận và cung phụng những hàn sĩ không đủ tiền vào nhà trọ. Lại sức cho các nhà hàng quán trọ, không được tăng giá tiền ăn tiền trọ, đối với các sĩ tử và thân nhân. Tuy vậy, nhiều nhà phú hào, nhà buôn, vừa mang tính hào phóng đất kinh sư, vừa thầm mong phúc ấm lại có một vị đại khoa nào đó đoái tưởng đến con gái mình, thường ra đường chào đón, mời gọi các hàn sĩ về nhà mình trú tạm. Trong suốt thời gian nho sinh lưu trú tại các tư gia ấy, đều được đón tiếp, phục dịch thật là ưu hậu, thật là nồng nhiệt, với tất cả sự hào hoa của đất kinh sư văn
hiến.

Khoa thi này nhà vua đích thân kiểm xét các mặt, nên các quan từ sở tại cho tới các đài, sảnh, viện, các… đều lo chạy xốn xáo, cốt sao mọi việc thật chu toàn trước khi hoàng thượng ngó tới. Quan chánh chủ khảo đã cho nhóm họp các thuộc lại tới ba lần. Nói rõ các chức phận của từng người, từ viên Di phong(5), Khảo tự hiệu(6), Đằng lục(7) đến các quan Thí viện(Cool, Khảo viện(9) ai nấy đều phải thuộc nằm lòng các phần
việc được giao phó.

Không khí văn vật trùm phủ khắp đất Thăng Long. Không một người dân nào không mong có dịp được làm một nghĩa cử, đối với các tao nhân mặc khách, từ muôn phương về kinh sư tụ hội. Nhiều nhà sáng sớm đã nấu nước chè khiêng ra đầu đường, để khách qua lại tiện dùng. Không thiếu các nhà ngày nào cũng làm sẵn dăm bảy mâm cơm, để nếu có khách quen, khách lạ ghé vào là có thức ăn ngay. Khách bốn phương, ai gặp khó khăn thiếu thốn gì, chưa kịp bầy tỏ hết lời, đã được bà con phường phố sẵn sàng đáp ứng. Người Thăng Long vốn hào hoa như thế đấy.

Được tin bữa nay nhà vua sẽ giảng kinh sách tại toà Ngự Diên(10), từ sáng sớm sĩ tử đã nườm nượp kéo nhau vào ngồi kín từ trong nhà tới ngoài sân.

Kiệu vừa hạ xuống trước toà Ngự Diên, người ngồi chật cứng từ cổng không có lối vào. Quân thánh dực thét ầm ầm, lính hổ bôn xông vào đám đông ra roi định dẹp. Thái tôn vội ra hiệu cho viên đô giám bắt lính ngừng tay. Nhà vua ôn tồn bảo viên đô giám:

- Các ngươi không dạy quân phải biết giữ lễ với kẻ sĩ. Có biết những người này là như thế nào không? Nhà vua chỉ về phía sĩ tử hỏi, và nhìn viên đô giám với vẻ trách móc - Họ là tinh hoa của đất nước, là bộ óc của cả dân tộc. Mai đây họ sẽ là những người nắm giữ các trọng trách quốc gia mà lũ ngươi dám coi thường, thét mắng như một đám ăn mày. Không nể, vì có giới sĩ phu cả nước về đây, ta phải cho treo cổ ngươi, để làm gương cho những đứa càn dỡ dám coi thường kẻ sĩ. Nói rồi Thái tôn đi vào toà Ngự Diên. Sĩ tử dẹp lối cho nhà vua đi, và mọi người đồng thanh hô: “Hoàng thượng thiên tuế! … Thiên tuế… !”

Thái tôn vừa ngồi vào chiếc ghế cao trên toà giảng, ngài đưa mắt nhìn khắp một lượt từ trong nhà ra ngoài sân. Phần đông họ là những người trai tráng, mặt mũi khôi ngô tuấn tú. Những gì suy nghĩ hoặc lo toan đều hiện hết trên các khuôn mặt. Nhà vua có thể đọc tâm tư họ như đọc các trang tạp biên thực lục(11). Nhìn kỹ, nhà vua thấy có những ông già râu tóc bạc phơ. Loáng thoáng có cả mấy đứa trẻ chỉ trên mười tuổi. Thái tôn lấy làm lạ. Ngài tự nghĩ: “Tài năng gì mà đám trẻ chưa ráo đầu máu đầu kia cũng dám chen vào đây?”. Rồi ngài tự trả lời: “Hẳn là chúng phải vượt được các kỳ thi hương, thi hội rồi quan trường mới cho vào đây chứ. Ôi, nếu quả bọn trẻ kia thật sự có tài thì phúc cho nước nhà lắm lắm”. Nhà vua sung sướng tự hỏi: - “Thời thịnh chăng”- “Thần đồng xuất hiện chăng?”.

Bắt đầu buổi thuyết giảng của mình, Thái tôn không đi hẳn vào một kinh sách nào cả. Vì việc đó, sĩ tử đã nghiền ngẫm thấu đáo. Nhà vua chỉ hỏi xem, có ai còn mắc vướng điều gì chưa hiểu trong năm kinh(12), bốn sách(13), ngài sẽ giảng giải cho. Tức là nhà vua chỉ giải đáp kinh nghi(14) mà thôi. Điều đó, đủ nói kiến thức của nhà vua đã đạt tới chỗ uẩn ảo lắm, thâm viễn lắm.

Suốt một ngày dẫn dụ xong, nhà vua ôn tồn nói:

- Ta vui mừng vì sĩ tử cả nước đều cố công rèn rũa đạo học, ngõ hầu đem tài trí ra phụng sự quốc gia, dân tộc. Để tỏ rõ sự khuyến khích của triều đình đối với sĩ tử. Bắt đầu từ khoa này, nhà nước sẽ lấy tam khôi. Đích thân ta chấm, chọn. Ngoài ra, cứ theo tài năng xếp thứ bậc cho đỗ vào hàng thái học sinh(15). Thái tôn vừa nói tới đây thì thấy sĩ tử có vẻ nhớn nhác nhìn ra ngoài. Nhà vua cũng đưa mắt, chợt thấy Quốc Tuấn và theo sau là công chúa Thiên Thành đang bước vào nội thất. Nhà vua tự hỏi: “Quốc Tuấn đi nghe bình văn đã đành. Lại em gái ta cũng yêu thích thi thư? Thật là một sự lạ. Sự lạ”.

Quốc Tuấn từ khi về kinh, nổi danh là một trang tuấn kiệt. Tài kiêm văn võ. Sáu tuổi chàng đã biết làm thơ. Nay thì lục thao tam lược, không gì là không thông hiểu. Sĩ tử nghe danh Quốc Tuấn đã tỏ lòng ngưỡng mộ từ lâu. Nay được diện kiến, làm gì mà chẳng xôn xao. Chàng có dáng người cao, to. Khuôn mặt vuông vức. Mắt sáng như sao. Cặp mắt to hơi xếch. Lông mày rậm. Nước da sáng lúc nào cũng hồng hào. Môi đỏ như tô son. Quốc Tuấn có giọng nói sang sảng vang ấm như tiếng chuông. Lời nói đanh gọn. Toàn bộ người chàng toát lên một vẻ uy nghi đường bệ, nhưng lại có sức hấp dẫn lạ lùng. Chàng đi tới đâu, từ trẻ đến già đều mến mộ. Nhất là các cô gái con các đại gia, thầm ước ao được gần gũi. Từ khi chàng về ở với công chúa Thuỵ bà, công chúa Thiên Thành tuy sống trong nội điện, nhưng thường lui tới viếng thăm. Hai cô cháu quyến luyến nhau lắm. Thiên Thành tuy là cô ruột, nhưng lại là con út của thượng hoàng Trần Thừa. So ra còn thua Quốc Tuấn tới vài ba tuổi. Thiên Thành đang độ tuổi cập kê, nhan sắc nàng rực rỡ như một đóa phù dung. Bữa nay nàng mặc áo thụng thắt đai ngọc, may bằng thứ nhiễu Hàng Châu màu hồng nhạt, tóc đen mềm mại buông xoã hai bờ vai. Quần màu thiên thanh. Chân dận hài nhung màu tím nhẹ, nạm hạt châu lấp lánh. Cổ đeo vòng ngọc bích nạm vàng. Nom nàng như một đóa hoa biết đi. Nàng tới đâu là hương thơm dìu dịu tỏa ra. Cứ như mùi thơm tho ấy toát ra từ da thịt nàng. Hiện thời nàng là bông hoa rực rỡ nhất kinh thành. Nghe đâu bên nhà Nhân Đạo vương, đã đánh tiếng với hoàng thượng xin nàng về cho Trung Thành vương(16). Giới sĩ tử không những hâm mộ sắc đẹp của công chúa Thiên Thành, mà còn ngưỡng mộ Quốc Tuấn, ai cũng mong được gần gũi, được kết bạn với chàng.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #91 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:44:54 pm »

Khi thấy đám sĩ tử đã ngồi yên, Quốc Tuấn, Thiên Thành cũng chăm chú nhìn về phía nhà vua, Thái tôn lại tiếp:

- Ta mong sĩ tử cả nước hãy gắng gỏi lên. Mùa thu này ta sẽ mở thêm khoa thi tam giáo. Ai đỗ, cho xuất thân(17). Ta nghĩ rằng Đạo học của nước ta dựa trên căn bản của tinh thần tam giáo. Phải biến cái tinh tuý của cả ba đạo lớn đó cùng với nền văn hoá truyền thống của nước ta thành một Chính đạo, một Thiệân đạo của Đại Việt. Các quan chức nắm giữ bộ máy nhà nước của ta, không thể không thông hiểu tam giáo. Nói xong nhà vua xuống đàn. Sĩ tử lại toả ra khắp nơi về nhà trọ.

Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, quan đề điệu cho đọc thể lệ trường qui, để hôm sau sĩ tử vào cuộc đua tài. Cả kinh thành bừng lên không khí của ngày hội…

Qua kỳ thi, Khảo viện lọc tất cả được bảy quyển ưu nhất, đệ trình lên hoàng thượng chọn lấy tam khôi. Cân nhắc suốt hai ngày đêm, Thái tôn lựa được ba quyển mà nhà vua cho là ưu việt nhất, và đã khuyên vào đó các chữ Nhất - Nhị - Tam.

Sợ rằng việc chọn lựa của mình có phần chưa chuẩn mực lắm, nhà vua cho Khảo viện minh xét lại một lần nữa. Các quan giám khảo, đồng giám khảo sau nửa ngày phân giải đều cho rằng sự thẩm định của nhà vua là sáng suốt.

Sau buổi kéo bảng đề danh, các tân khoa được vào điện Thiên An diện kiến hoàng thượng.

Trước cửa điện, quan đề điệu lại xướng từng tên. Bắt đầu từ trạng nguyên.

Tiếng quan đề điệu vang vang:

Nguyễn Hiền(18) – trạng nguyên. Quan đề điệu xướng đến lần thứ ba, thì có một cậu bé mặt mũi khôi ngô
bước vào thềm điện.

Thái tôn sửng sốt nhìn cậu bé đi vào, với dáng đi chững chạc.

Quan đề điệu xướng tiếp:

- Lê Văn Hưu(19), bảng nhãn.

Một chàng trai tuấn tú, mà còn đậm lông tơ, bước tiếp theo quan trạng.

Lại xướng:

- Đặng Ma La(20) thám hoa lang.

Một cậu bé mặt đẹp như một viên ngọc minh châu bước tiếp theo tân khoa bảng nhãn.

Không những nhà vua mà cả Khảo viện đều không tin ở mắt mình nữa. Thái tôn sau một phút bàng hoàng,
nhà vua tự nghĩ: “Đây là trời cho các thần đồng xuống giúp nhà Trần”.

Hoàng thượng sung sướng bước ra khỏi ngai vàng, đích thân ban áo mũ cho quan trạng, bảng nhãn, thám hoa lang.

Không lường trước được lại có hai cậu bé trúng tam khôi, nên áo mũ thuần may sắm cho người lớn. Thành thử quan trạng và thám hoa lang chỉ một chiếc áo đã trùm phủ quá người, rộng thùng thình, còn mũ thì trống trếch trùm sụp xuống cả mặt. Hỏi ra quan trạng Nguyễn Hiền mới có mười ba tuổi. Và thám hoa lang Đặng Ma La, mười bốn tuổi.

Tin đồn chiếm tam khôi kỳ này là ba cậu bé phút chốc bay khắp kinh thành. Dân chúng phố phường đất Thăng Long đổ ra đường để ngóng đợi phút đi dạo của các đại tân khoa, đáp lễ dân chúng kinh kỳ(21). Tin bay đến phủ thái sư. Phu nhân lòng khấp khỏi mừng vui. Bà muốn nhìn tận mắt sự lạ, bèn lên kiệu đi liền. Kiệu của phu nhân vừa tới cổng điêïn Thiên An thì quân cấm vệ ra ngăn lại. Bọn thị nữ và lính hầu phủ thái sư lập tức tiến lên đẩy tên lính ra. Rồi cả đoàn cả lũ cứ nhao nhao sỉ vả tên lính.

- Đồ ngu, mày không biết kiệu của ai mà giám cản.

- Đồ súc sinh dám phạm thượng.

- Chúng tao mà bắt mày về phủ thái sư thì mọt gông con ạ.

Mặc cho bọn người hầu phu nhân ra sức chửi mắng, người lính cấm vệ vội chạy ra kéo sợi dây hạ lá chắn
cổng xuống. Tiện tay giật tiếng chuông. Phu nhân tỏ vẻ bực tức ló ra ngoài kiệu quát mắng.

- Lũ kia! Khôn hồn mở cửa cho kiệu của quốc mẫu vào điện diện kiến hoàng thượng!

Đúng lúc đó viên quan đô giám nghe tiếng chuông đã chạy bổ ra xem xét. Y nghe rõ tiếng thét mắng giận
dữ của quốc mẫu. Y cho quân kéo lá chắn lên rồi phủ phục trước kiệu và nói lớn.

- Tâu lệnh bà. Chúng con không giám trái ý lệnh bà. Nhưng thân vệ tướng quân đã ra lệnh cho chúng con, cổng chính này chỉ có kiệu thiên tử đi qua. Còn kiệu các quan đi cổng bên. Con xin mở liền để kiệu lệnh bà qua ngay bây giờ. Nói rồi viên đô giám tự mình săm săm đi mở cửa ngách.

Khi giận bốc lên, mặt đỏ phừng phừng, phu nhận lại quát:

- Lũ sâu bọ to gan lớn mật. Quân bay khiêng kiệu vào chính môn.

Thấy tình thế nguy ngập. Bên ngoài thì lính phủ thái sư nhao nhao xô đẩy. Chỉ còn vài bước nữa là họ dẫn kiệu qua chính môn. Ngặt vì trong điện Thiên An, nhà vua đang ban mũ áo cho các vị đại khoa, nên không thể kéo chuông cấp báo. Viên đô giám liều mạng đứng chắn trước cổng, kiếm tuốt trần, giọng đanh thép, y nói:

- Ta phụng quân mệnh, trấn giữ cửa này. Ai muốn vào phải bước qua xác ta. Đám thị nữ và lính tráng phủ thái sư thấy y lăm lăm tay kiếm, mặt đỏ như gấc, mắt nhìn nảy lửa, đều có ý chờn không dám tiến nữa.
Phu nhân lửa giận bừng. Song bà tự biết là quân cấm vệ không cho qua. Bà muốn mách với thái sư bắt quân kia về trị tội cho bõ giận.

Ném vào mặt tên đô giám một cái nhìn khinh bỉ, phu nhận thét quân: - Lui!

Vừa thấy phu nhân ra đi, nay đã ầm ầm trở lại, thái sư vội ngó ra xem. Phu nhân vội vàng xuống kiệu săm săm đi vào. Trần Thủ Độ ân cần hỏi:

- Thế nào, bà đã có gì ban thưởng cho quan trạng chưa?
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #92 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:45:44 pm »

Dường như chỉ chờ có thế. Phu nhân oà khóc. Vừa khóc vừa đay nghiến:

- Giời ơi, tôi là vợ ông thái sư thống quốc. Tôi là mẹ vợ, là cô của đức vua. Nhà vua lại ban tặng cho tôi là quốc mẫu. Thế mà cả ông thái sư, cả đức vua để cho bọn lính nó làm nhục vợ mình, làm nhục quốc mẫu của mình.

Trần Thủ Độ không biết đầu đuôi câu chuyện ra sao, còn đang ngơ ngức, phu nhân lại thét gào:

-Vâng thái sư thống quốc ơi, tôi giả ông tất cả. Tất cả cơ nghiệp này, tôi về làng. Cái làng Ngừ của tôi, đứa nào hỗn xược, tôi vặn cổ. Chứ cái triều đình của ông láo nháo lắm.

Trần Thủ Độ đã thấy nóng nóng phía vành tai. Ông gọi bọn thị nữ, lính kiệu đến hỏi. Chúng thuật lại đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra, cũng có thêm thắt chút ít. Cốt là để mượn oai thái sư trị bọn lính cấm vệ dám hỗn hào, dám coi thường bên phủ thái sư. Từ trước, bọn lính hầu bên phủ thái sư có cái kiểu vênh váo thế. Cứ như thái sư và phu nhân là bề trên của đức vua, thì chúng nó cũng tự coi mình được ở trên bọn lính cấm vệ một bậc.

Nghe xong thái sư hầm hầm tức giận, cho đi bắt viên đô giám và tên lính cấm vệ giải về. Được tin thái sư cho lệnh bắt, thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình tự tay đóng gông mấy người đó dẫn sang phủ thái sư. Khuê Kình nói với thuộc hạ của mình:

- Sự việc có thế nào, các ngươi cứ thế mà tâu trình, không thêm bớt nghe chưa?

Mấy người thuộc hạ run sợ dạ ran. Viên đô giám khi đã bình tâm lại, liền hỏi:

- Bẩm tướng quân. Vâng lời dạy của tướng quân, chúng tôi giữ nghiêm phép nước. Sao lại nói là chúng tôi
phạm tội? Sao lại đóng gông chúng tôi như một lũ tội đồ.

- Vẫn biết thế! Vẫn biết thế! Khuê Kình ôn tồn nhắc lại đến hai lần – Các ngươi phải biết phu nhân là bậc quốc mẫu, đến vua cũng phải kính cẩn. Để ta lựa lời nói với thái sư. Ta chịu trách nhiệm cả. Ta không bỏ các người đâu mà lo. Nhưng cũng phải biết cái thế của mình.

Tới phủ thái sư. Khuê Kinh vào bẩm và xin nộp mấy viên thuộc hạ. Khuê Kinh nói:

- Bẩm đức ông, tiểu tướng thật có tội với đức ông.

Trần Thủ Độ vẫy tay cho tất cả vào thềm điện và sai mở gông cho mấy người lính. Đoạn ông nói:

- Khi chưa xét xử ngay gian, chưa biết người ta có tội hay không có tội, sao tướng quân lại đóng gông họ
như là kẻ tội phạm?

Bọn lính tráng và thị nữ phủ Thái sư lúc nãy bị chặn lại, giờ đang lấp ló ở ngoài dè bỉu:

- Cho chúng mày chết.

- Chúng mày cứ là mọt gông con ạ.

- Mất đầu con ạ.

Nghe tên lính cấm vệ và viên đô giám thuật lại với thái độ kính cẩn và run sợ, ăn năn, Thái sư đã thấy dìu
dịu. Trần Thủ Độ bèn phái người tới Đăng văn viện(22), gọi kiểm pháp quan sang xét xử.

Kiểm pháp quan là một ông già đầu hói xúng xính trong bộ áo thụng đen, đầu đội mũ bình thiên, tay chống cây gậy trúc đùi gà nhẵn bóng. Kiểm pháp quan có bộ mặt xương xương, chòm râu dài tới ngực, trắng như bông. Nom quan ngài già nua lắm. Duy có đôi mắt của người là sắc sảo. Đôi mắt trong sáng lạ lùng như có thể nhìn thấu tận tim gan người khác. Đôi mắt ông bộc trực như là hiện thân của công lý. Theo ông là một viên tuỳ phái, bê trĩu tay bộ Quốc triều hình luật.

Kiểm pháp quan làm việc. Ông nói vài lời về việc mọi người từ vua tới dân, ai ai cũng phải tôn trọng luật pháp. Rồi ông cho đối chất.

Lính hầu phủ Thái sư nói trước. Thấy không khí cực kỳ nghiêm trọng, bọn này cũng không dám thêm thắt
như lúc đầu trình với thái sư. Tiếp đến là lính bên phủ Thân vệ tường trình.

Kiểm pháp quan quay về phía phu nhân hỏi.

- Bẩm lệnh bà, chẳng hay đôi bên tâu bầy như vậy có đúng như sự thật đã diễn ra không?

Vẫn chưa nguôi nỗi bất bình. Phu nhân gật đầu xác nhận, và chỉ buông một tiếng: “Đúng!”

Kiểm pháp quan hỏi tên lính cấm vệ:

- Ai dạy ngươi, chính môn chỉ có kiệu thiên tử mới qua được?

- Bẩm pháp quan, thầy đô giám dạy con.

Kiểm pháp quan lại hỏi viên đô giám:

- Ai dạy ông điều ấy? Đô giám vòng tay đáp:

- Trình pháp quan, thân vệ tướng quân dạy chúng tôi. Vừa nói, viên đô giám vừa đưa mắt nhìn về phía Trần Khuê Kình.

Kiểm pháp quan vuốt chòm râu bạc gật gù. Ông từ tốn nghiêng đầu về phía Trần Khuê Kình hỏi.

- Thưa tướng quân. Sở cứ vào đâu mà tướng quân răn dạy thuộc hạ như thế?

Nghe kiểm pháp quan xét hỏi, phu nhân thấy trong lòng đã bảy tám phân hồi tĩnh lại. Bà nghĩ “Kẻ kia không biết trên dưới phải trái là gì. Nay trước cửa công, thầy trò đã phải cúi đầu. Phải, cứ lấy phép công trừng trị, bọn chúng mới mở mắt ra được, kẻo không rồi chúng lại bảo ta, thừa thế uỷ quyền”.

Bọn thị nữ và lính hầu phủ thái sư nghe pháp quan gặng hỏi thầy trò thân vệ tướng quân, trong lòng chúng như nở ra từng khúc ruột. Chúng thập thò, ngấp nghé phía ngoài đại sảnh, đứa nọ nhìn đứa kia nháy mắt, mỉm cười.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #93 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:46:42 pm »

Thái sư Trần Thủ Độ lòng vẫn lặng trong. Chính ông mới là quan tòa cao nhất. Ông không muốn kiểm pháp quan vì ông mà vít cong cán cân công lý. Ông cũng không cho phép người ta đụng đến thanh danh của vợ ông. Bởi chưng, nay người ta coi thường vợ ông, thì mai sẽ đến lượt ông.

Nghe pháp quan hỏi rành rõ từng lời. Thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình đứng thẳng người với tư thế của một vị tướng liền đáp:

- Thưa ngài Kiểm pháp quan thay mặt cho pháp đình tôn nghiêm. Tôi được bề trên thường răn dạy: “Người làm việc nước phải lấy phép nước làm trọng, không được để cho tình riêng hoặc vật dục làm cho mờ tối lương tâm”. Chính vì thế, tôi đã răn dạy các thuộc hạ tôi phải giữ nghiêm phép nước. Đúng là tôi đã dạy họ như thế.

Không khí im phăng phắc mà căng như một sợ dây đàn. Kiểm pháp quan, gõ chiếc gậy trúc ba lần xuống thềm điện, rồi nói:

- Thưa tướng quân, tôi lưu ý tướng quân, khi tòa án pháp đình làm việc, là căn cứ vào luật định, chứ không phải căn cứ vào lời khuyên bảo của bề trên nữa. Một lần nữa, tôi nhắc lại:

- Xin tướng quân cho biết: Căn cứ vào đâu mà tướng quân răn dạy thuộc hạ của mình như vậy?

Thân vệ tướng quân rướn người về phía Kiểm pháp quan, nói từng lời minh bạch:

- Thưa ngài Kiểm pháp quan tôn kính, tôi căn cứ vào thiên Triều nghi trong Bộ hình thư của Quốc triều, ban hành năm Canh dần (1230) đang nằm trong tay quý quan đó.

Nghe Khuê Kình đối đáp, Trần Thủ Độ giật thót mình. Một giây sau, ông đã lại lấy điều đó làm vui. Vì rằng Khuê Kình thân làm tướng mà cũng nắm vững luật pháp. Lại biết dạy thuộc hạ, lính tráng biết giữ nghiêm pháp luật. Ông thật không mong gì hơn điều đó.

Kiểm pháp quan khi nghe Trần Khuê Kình biện bác trôi chảy, khiến ông lúng túng. Rõ ràng là tướng quân và thuộc hạ không có lỗi. Người có lỗi ở đây là phu nhân và bọn gia thuộc ỷ thế lộng hành. Ông khéo lựa lời:

- Bẩm thái sư và phu nhân tôn quý. Sự thể vậy đã rõ ràng. Thân vệ tướng quân và thuộc hạ làm đúng những điều đã ban trong “Quốc triều hình luật”. Xin thái sư thẩm định.

Nói xong, ông ý tứ rút lui khỏi bục. Viên tuỳ phái hấp tấp bê bộ hình thư lẽo đẽo theo sau.

Trần Thủ Độ miễn cưỡng đứng dậy. Mặt ông hơi ửng đỏ. Dường như có sự tự hổ thẹn về người vợ của
mình, ông nói:

- Ta có lời khen thân vệ tướng quân, đã răn dạy thuộc hạ có thể thống. Phép nước vì đó được nghiêm giữ.
Ta sẽ tâu xin hoàng thượng đặc cách ban cho tướng quân tước hai tư. Còn viên đô giám và tên lính kia, các ngươi ở địa vị thấp hèn cũng biết giữ nghiêm phép nước. Ta còn biết nói thế nào nữa. Gọi có một chút quà thưởng cho hai ngươi - Nói rồi, thái sư sai gia thuộc đưa vào bốn tấm lụa, hai đĩnh bạc. Phu nhân đã lủi ra từ lúc nào không ai biết.

==========================================

1.Tam khôi - ba học vị cao nhất thời xưa: Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa lang. Đời Trần lấy tam khôi bắt đầu từ khoa Đinh mùi.

2. Thượng nguyên: ngày lễ vào rằm tháng giêng.

3. Phố tại bến sông. Tương đương với Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Buồm ngày nay.

4. Các vị đỗ đại khoa, từ thái học sinh (tiến sĩ) trở lên, vua ban cho mỗi người một cái biển bằng gỗ có
khắc bốn chữ: “Ân tứ vinh qui” sơn son thiếp vàng. Mỗi người được sắm hai cái lọng; riêng quan trạng
được sắm ba lọng. Thường là việc chi về lễ vinh qui của các đại khoa, đều do các quan đầu tỉnh có các vị tân khoa bỏ tiền công ra chi phí.

5. Di phong: Viên giữ việc dán kín tên ở các quyển thi để người chấm không biết được quyển của ai.

6. Soạn tự hiệu: Viên giữ việc biên số hiệu vào các quyển thi.

7. Đằng lục: Người giữ việc viết lại các quyển thi.

8. Thí viện: Gồm các quan đề điệu, giám thí.

9. Khảo viện: Gồm các giám khảo, đồng khảo.

10. Ngự Diên: Toà nhà để vua giảng các kinh sách cho các quan trong triều nghe. Vì khoa thi này sĩ tử kéo về đông, lại về trước thời hạn để tập văn. Nên nhà vua cho mở cửa toà Ngự Diên và đích thân Thái tôn thuyết giảng để đo lường sức học của nho sinh.

11. Tạp biên thực lục: Ghi chép các việc trong ngày, giống như ghi nhật ký ngày nay.

12,13. Xem chú thích ở chương XIX.

14. Kinh nghi: Hỏi những điều còn ngờ trong các kinh.

15. Tương đương với tiến sĩ sau này.

16. Trung Thành vương là con của Nhân Đạo vương.

17. Có nghĩa là được bổ nhiệm ra làm quan.

18. Nguyễn Hiền 13 tuổi, người huyện Thượng Nguyên (Nam Định).

19. Lê Văn Hưu 18 tuổi, người huyện Đông Sơn (Thanh Hóa).

20. Đặng Ma La 14 tuổi, người huyện Mỹ Lương.

21. Lệ xưa khi các tân khoa nhận sau khi nhận áo mũ vua ban, sẽ được lên kiệu đi một vòng quanh phố xá kinh sư để đáp lễ dân chúng kinh kỳ. Và đêm được dự dạ yến vua ban ngay trong vườn thượng uyển.

22. Đăng văn viện: Là cơ quan giữ việc tra xét các hình án. Đến đời Thiệu phong (1343) mới đổi thành Đình uý tự.

Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #94 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:47:30 pm »

CHƯƠNG 29

Trời hoe hoe nắng. Cái nắng đầu xuân như ngỡ ngàng sau một mùa đông băng giá. Thấy có nắng, Chiêu
Thánh lên tiếng gọi:

- Huyền ơi! Huyền! Huyền ơi, ra đây chị bảo này.

Trịnh Huyền đang loay hoay với mái gà xuống ổ, nghe tiếng Chiêu Thánh gọi, vội chạy túa ra sân.

- Thưa, có điều gì chị sai bảo em đấy ạ.

- Đây này, em đã nhìn thấy gì chưa?

- Ôi, thích quá! Thích quá chị Chiêu Thánh ơi. Tằm sắp nở ra cả rồi. May quá, mấy hôm nọ trời rét, em cứ sợ trứng ung hết. Đem xuống bếp để, em lại sợ nó chết sặc khói. Lứa dâu này là kịp đấy chị nhỉ. Để chiều nay em phải pha nước dải tưới thúc cho nó lên mau.

Chiêu Thánh khẽ lắc đầu:

- Chưa cần phải thúc đâu em ạ. Qua kỳ rét lộc này ấm lên, cứ gọi là hái không xuể. Em không nhớ năm
ngoái đấy à, chị em mình cứ sợ thiếu lá, thúc mãi phân tro vào, dâu vuột lên rồi đứng lá. Đến lúc tằm ăn rỗi dâu quá lứa, tằm chê không ăn. Chị em mình chả phải đi hái khắp làng đấy ư. Theo chị, cứ để từ từ.
Tằm lớn đến đâu, thúc dâu đến đó.

Thấm thoát Chiêu Thánh về ở mảnh đất bên chùa Bảo Quang này đã được hơn chục năm. Chiêu Thánh đã lập riêng một điện để phụng thờ vua cha và Phật tổ. Ngày hai buổi sớm chiều nàng tụng niệm. Nhưng vẫn giữ đều, tháng đôi lần vào các ngày rằm, mồng một sang chùa làm lễ vua cha. Càng lớn, Chiêu Thánh càng khôn nguôi thương cảm nỗi bất hạnh của cha mình. Nhớ mãi cuộc gặp vua cha lần cuối ở Điện chí kính. Những lời khuyên dạy của vua cha như còn văng vẳng. Cả những lời nguyền rủa các người trong phe cánh họ Trần, Chiêu Thánh vẫn còn nhớ rành rõ như mới hôm qua thôi. Nhất là ánh mắt lạnh lùng đầy căm ghét của vua cha đối với mẫu hậu. Đã nhiều lần Chiêu Thánh nguyện trước linh hồn vua cha và xin người tha thứ. Nàng không thể nào thực hiện được lời vua cha, rằng phải trừ khử hết phe cánh họ Trần. Chiêu Thánh tự biết, đó là do sự uất kết của vua cha, chứ tình thế bây giờ khác lắm rồi. Làm sao mà đảo ngược được thế cờ. Vả lại, Thái tôn ít lâu nay đã tự mình giữ lấy then máy quốc gia. Nhà vua đức độ, dân chúng được hưởng ơn mưa móc, còn ai nghĩ đến vua cũ nữa. Ngay đến các đại thần nhà Lý cũng quy phục nhà Trần, tỏ tài mẫn cán, một lòng một dạ thờ vua mới. Thôi thì vua nào cũng được, triều nào cũng xong. Đối với đám dân đen, họ không cần biết đến ai là người nắm giữ quyền hành. Cái mà họ cần là non nước thái bình. Không có giặc giã. Không lụt lớn, cháy to. Tô thuế giảm nhẹ. Lao dịch khoan thứ. Nhà nhà có bát ăn bát để. Khốn nỗi các điều đó, khởi nghiệp nhà Trần đã lo liệu rồi. Và họ làm được. Sống bên nếp chùa thanh tĩnh, sớm tối cầu việc phúc, Chiêu Thánh dần dần nhận ra được sự thật đau lòng đó. Và nàng chấp nhận như là lẽ đời phải vậy. Bởi thế, nàng không có gì ân hận, tủi buồn. Nàng an phận đến nỗi quên cả tấm thân danh giá, mà lam lũ trong việc chăn tằm, ươm tơ. Dệt lấy lụa mà dùng. Cày cuốc lấy lúa gạo mà ăn. Một thầy một tớ, sống cuộc đời đạm bạc, lấy câu kinh, tiếng mõ làm lẽ sống cho mình. Bạn bầu với cây cỏ cho qua ngày đoạn tháng. Thân không thế phát, nhưng tâm đã gửi trọn cửa từ bi. Ấy là nói về phần Chiêu Thánh.

Còn Trịnh Huyền thì lại khác. Trịnh Huyền từ khi quan thừa chỉ bỏ kinh thành ra đi, nàng như bị hụt hẫng, như mất hẳn chỗ dựa tinh thần. Đôi lúc cũng âm thầm ngao ngán. Nàng phải nén dấu tình cảm xót xa đau để Chiêu Thánh đỡ buồn. Hoặc những khi trời đổi gió, chuyển mùa, Trịnh Huyền lại bồi hồi nhớ tới mẹ già. Thương mẹ thân góa bụa cô đơn, lại nghèo túng, lấy ai săn sóc, phụng dưỡng khi nắng hạ, lúc rét đông. Có lúc soi bóng trong gương nàng giật mình thấy nước do sạm mốc, và những vết rạn chân chim nơi khóe mắt, tự xót thương cho thân phận hẩm hiu. Nhưng nàng không hé một lời than, dường như nàng chấp nhận và đón đợi những gì cay đắng mà số phận giành cho nàng.

Ấy vậy, nhưng mỗi khi nhớ về cô chủ của mình, Trịnh Huyền cảm thấy yên phận. Bởi chưng, Chiêu Thánh thân lá ngọc cành vàng, mà kiên tâm chối bỏ cảnh lầu son gác tía, kẻ hầu người hạ, xe kiệu vào ra, yến tiệc linh đình. Dấn thân vào cảnh nông tang lam lũ. Chưa một lần nào nàng thấy cô chủ hé miệng than van. Nhiều khi thấy Chiêu Thánh ủ buồn, Huyền khuyên nàng nên vào cung thăm quốc mẫu. Chiêu Thánh đều thoái thác. Có nhẽ nàng cũng đã có đôi phần nguôi ngoai. Vì nếu như trước kia, mỗi lần Huyền nhắc tới quốc mẫu, thì Chiêu Thánh đùng đùng nổi giận, kể lể, khóc than suốt buổi không thôi. Bây giờ, nàng chỉ ư hừ cho qua chuyện. Trịnh Huyền nhớ cách đây vài năm, thái sư phu nhân có ghé thăm Chiêu Thánh vào lúc sẩm chiều. Và đêm đó, bà ở lại ngôi nhà tranh vách đất lạnh lẽo này với con gái. Bà tỏ ra xót thương cho con gái tự đầy thân vào cảnh khổ. Đôi lần bà gạn ép Chiêu Thánh trở về cung. Lúc đầu cô chủ Trịnh Huyền còn im lặng. Mãi sau nàng nói. Giọng trầm tĩnh của một người dường như không còn biết đến, hoặc giả không cần biết đến cảnh đời bon chen là gì nữa. Nàng nói:

- Phu nhân thử nghĩ xem. Bấy lâu nay phu nhân vẫn ở tại cung, phu nhân có sung sướng gì không. Ngay bây giờ đây, ghé chốn lều tranh tẻ nhạt này, có đúng là tình mẫu tử thôi thúc phu nhân ra đi. Hay chỉ vì trong lòng phu nhân có điều gì u uất? Phu nhân buộc phải ra khỏi cung để được phút giây giải thoát. Và vì thế, phu nhân mới lạc bước tới đây.

Quốc mẫu rùng mình run sợ về những lời nói tàn nhẫn của con gái. Những tiếc thay, nó là sự thật. May nhờ có bóng đêm che giấu giùm khuôn mặt nhợt nhạt, và cặp mắt thất thần của bà. Mãi lâu sau bà mới lên tiếng. Giọng bà lạc đi, như không còn tự chủ được nữa:

- Đúng như con nói. Ta tuy thân ở trong cung, mà tâm không bao giờ được thư tĩnh. Con quả là cao thượng. Như con bây giờ mới là người sung sướng. Bởi con đã làm được điều con sở nguyện. Ta ao ước, ta cũng được giải thoát như con.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #95 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:48:10 pm »

- Thưa lệnh bà. Chiêu Thánh nói với vẻ lạnh lùng, xa lạ - Việc giải thoát là công quả của mỗi người tự tu luyện lấy. Ngay Phật tổ cũng không giải thoát được cho đệ tử của mình. Bởi lẽ, Phật tổ chỉ hướng nẻo cho chúng sinh con đường giải thoát thôi, chứ Phật sao có thể làm thay cho ta được. Nay lệnh bà đang ở địa vị tôn quý, cớ sao lại buông lời sầu não?

- Chắc con còn giận ta, nên con chưa cảm thông được với nỗi đau của mẹ. Con có biết ta ở địa vị cao sang, vậy mà mấy tên quân hiệu nó làm nhục ta, nhưng chú con – một ông thái sư thống quốc, uy quyền át cả vua, mà không bênh vực nổi. Con bảo ta còn sung sướng được cái nỗi gì?

- Sao quốc mẫu lại cho điều đó là một sự nhục mạ? Chắc quốc mẫu muốn nhắc đến đám lính thân vệ, ngăn kiệu quốc mẫu qua chính môn dạo trước?

- Phải đó. Chuyện đó làm ta đau lòng mãi.

- Lẽ ra phu nhân phải mừng, bởi thái sư đã làm một việc cực kỳ chuẩn mực. Chính việc làm của thái sư đã
nêu một tấm gương cao khiết, vì vậy phẩm hạnh của phu nhân càng thêm tôn quý. Việc ấy có chi phải buồn. Sao phu nhân không tự thấy: càng ở ngôi cao, càng phải giữ gìn đức lớn thì thiên hạ mới trọng nể. Ngay đến Thái tôn cũng còn đổi lỗi từng ngày để mưu việc lớn cho trăm họ. Sửa mình là nghiệp thiện xưa nay, có gì mà phu nhân phải trầm cảm tới uất kết ở trong lòng?

Nghe Chiêu Thánh nhân giải, phu nhân lặng thinh không đáp. Không hiểu trong lòng bà đang diễn ra điều gì. Bà vui hay buồn. Giận hay thương. Điều quan yếu là ở chỗ, bà có nhận ra lỗi lầm của mình, và có chịu đổi lỗi, hay lại gây bè kết cánh để mưu hại người trung?

Linh từ quốc mẫu phải đâu là người hẹp lượng. Và có phải một mai một chiều gì mà bà không hiểu tính nết thái sư. Thái sư không bao giờ dung dưỡng sự lạm dụng dụng quyền hành. Nhớ lại việc ông đi tuyển câu đương mà phu nhân nhờ vả, với việc bọn lính thân vệ ngăn kiệu của bà, thái sư không hề bênh che. Điều đó chứng tỏ, ông không để cho tư tình khuất lấp kỷ cương.

Giây lâu sau phu nhân mới lại nối lời:

- Lòng con sáng trong nên con nhận ra ngay điều phải quấy. Ta phải cảm tạ trời đất đã dun dủi ta đến thăm con. Nghe con nói, lòng ta trở nên an tĩnh. Hứa với con, từ nay ta không bao giờ phạm lại các điều ta đã mắc, khiến cho đức ông và hoàng thượng phải phiền lòng.

Đúng là từ dạo ấy, lệnh bà đã tận tâm tu chính, khiến đức tốt của bà lan truyền khắp kinh sư.

Sớm hôm sau phu nhân dậy sớm đánh thức Trịnh Huyền. Bà dúi cho Huyền mười nén vàng và dặn: “Con giữ lấy để hộ thân cho hai thầy trò. Ta cấm con không được hở cho Chiêu Thánh biết chuyện này. Có thể con chôn dấu nó dưới một gốc cây nào đó trong vườn. Rồi như vô tình con đào được. Nếu có điều gì cần kíp, con cứ về cung tìm ta. Nhớ nhé!”.

Ngày tháng trôi mau như vó câu qua cửa sổ. Thấm thoắt đã lại chín một lứa tằm. Bữa nọ có việc Trịnh Huyền phải vào chợ Cầu Đông mua sắm. Nghe dân chúng kinh kỳ xôn xao tới ngày rằm này, nhà vua sẽ mở đại hội bảy ngày đêm. Trong hội lễ sẽ trưng bày các đồ lễ kết tóc, và các của hồi môn của công chúa Thiên Thành, sắp về với Trung Thành vương.

Tới cả tháng nay, bên nhà Nhân Đạo vương kẻ hầu người hạ ra vào tấp nập. Nào sửa sang dinh thự. Nào tỉa xén cây cảnh. Nào mua sắm các thứ ngon vật lạ, để dùng vào tiệc cưới nay mai. Người ta đồn đại, Nhân Đạo vương đã nhờ khách thương Hồi - hột mua thảm quí, sáp thơm, ngọc trai đỏ. Lại cho cả người vào tận vùng biên ải Lão - qua mua ngà voi, sừng tê và vật quý làm đồ dẫn cưới.

Trịnh Huyền đem chuyện này kể lại cùng Chiêu Thánh với niềm hứng khởi chân thành. Chính nàng cũng háo hức mong chờ ngày khai diễn hội lễ.

Suy ngẫm giây lâu, Chiêu Thánh gạn hỏi:

- Em nghe đích thực Thiên Thành công chúa đính hôn cùng Trung Thành Vương chứ?

Huyền mau mắn đáp lời:

- Dạ, đúng. Em không nhầm đâu chị Chiêu Thánh ạ.

- Em nghe nói nhà vua mở hội mấy ngày?

- Dạ, bảy ngày đêm. Bắt đầu từ sáng hôm rằm. Nhưng sao chị lại hỏi em đức phu quân của công chúa có
đúng là Trung Thành Vương không?

- À, à… Chiêu Thánh hơi ấp úng. Đã định nói, nàng lại thôi. Vì rằng nàng cứ tưởng một hai ThiênThành sẽ về với Quốc Tuấn. Bởi hai người quyến luyến nhau lắm. Họ thật đẹp đôi, chỉ hiềm Quốc Tuấn là bậc dưới. Tuấn phải gọi Thiên Thành bằng cô ruột.

Thiên Thành là em út của Thái tôn. Hai thân sớm khuất. Thái tôn thương em côi cút, hết lòng săn sóc, cưng chiều. Bên nhà Nhân Đạo vương đã đánh tiếng xin Thiên Thành từ lâu, ngặt vì công chúa còn nhỏ tuổi. Độ vài năm nay, nàng mới phổng phao lên được. Vì gần đây Thái tôn mới nhận lời dạm hỏi. Lễ cưới này, chắc nhà vua cho mở hội linh đình, và sẽ chia nhường cho em giá nhiều báu vật. Nghĩ tới tuổi xuân của mình, Chiêu Thánh như nghẹn tắc ở trong lòng. Nàng thầm nhủ: “Thời thiếu nữ vàng son của ta đã bị vùi chôn trong cung cấm, với biết bao bão táp chốn cung đình. Hỡi Thiên Thành, ta ghen với em đó! Hạnh phúc của em thật đủ đầy. Nhưng tại sao ta vẫn muốn em đẹp duyên cùng Quốc Tuấn hơn là với người kia. Quốc Tuấn là một chàng trai đầy phách lực. Trung Thành vương sao có thể bén được gót chàng. Hay là em sợ miệng thế gian? Chao ôi, họ Trần nhà em đâu còn có nhân luân nữa mà phải giữ gìn!”.

Thăng Long vào hội. Kinh thành như rực rỡ hẳn lên. Từ phố phường tới cung cấm, đền đài, đình tạ, đâu đâu cũng giăng mắc cờ hội, cờ phướn, đèn lồng, đèn kéo quân. Các giáo phường hát múa thâu đêm, người xem chen chúc như nêm. Góc phố này có một bãi thả diều, những con diều giấy khung tre to như những chiếc thuyền nan bay lờ lững rợp từng không, phát ra những tiếng sáo du dương. Bởi trên mỗi con diều kia đều được đeo một chồng sáo trúc tới năm hoặc bảy chiếc. Chiếc to nhất bằng bắp đùi người lớn, nhỏ nhất bằng ngón chân cái. Mỗi chiếc là một thang âm. Hàng mấy trăm người như nín thở ngước nhìn, tai lắng nghe tiếng sáo bổng trầm dịu dặt, từ trời cao dội xuống như một thứ nhạc tiên. Góc kia là một cụm tới ba bốn cây đu. Từ xa đã nhìn thấy những dải yếm hồng, những tà áo nâu, quấn quít tung bay trên nền trời. Những tay đu giỏi đánh giật tung ròng rọc, bụng chấm lá cờ giải treo trên đỉnh cột đu. Họ cứ vờn như thế tới vài ba lần, để khách xem dưới gốc đu thả sức reo hò, rồi họ mới thò tay ra giật lấy lá cờ. Khi bàn tay của người tranh giải chớm đặt vào mép lá cờ, khách xem nín thở hồi hộp, vừa mừng vừa lo. Khi lá cờ tuốt ra khỏi cán, và chạc đu đung đưa theo nhịp chậm dần, thì tiếng reo hò tưởng như long lở cả kinh thành. Biết bao nhiêu trò chơi khác như đua thuyền, kéo co, vật, đấu võ, múa khiên, múa rồng, chọi gà, chọi chim, chọi trâu, đua ngựa…
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #96 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:48:43 pm »

Trên đây là những trò chơi dân dã mở ra cho dân chúng kinh kỳ, và dân các lộ kéo về dự hội. Còn tại sân Long Trì lại có cuộc chơi riêng của giới quí tộc cung đình. Đó là môn đánh cầu được coi là môn chơi quí phái của giới thượng võ. Trên chiếc sân rộng ở hai đầu đông, tây dựng hai cầu môn. Trước cầu môn là một chiếc giá để cắm cờ có hai mươi bốn lỗ. Cuộc chơi tính điểm theo cách, nếu quân bên nọ đẩy được cầu qua vòng cầu môn bên kia thì được tính một điểm. Viên thông sự xá nhân bèn cắm một lá cờ vào giá. Bên nào giành trước được đủ hai mươi bốn lá cờ, bên ấy thắng cuộc.

Cầu là một quả bóng tròn bằng da, trong nhồi lông căng phồng, bắt đầu cuộcc hơi, quan nội thị mở chiếc hộp vàng, lấy ra quả cầu da sơn đỏ, ném xuống sân Long Trì. Nhạc nổi lên rộn rã. Quân hai bên lần lượt cưỡi ngựa ra sân. Bên đông quân vàng, bên tây quân tía. Đuôi ngựa gióc thắt màu sắc phục của mỗi bên.
Tướng Lê Tần cưỡi con ngựa bạch dẫn đầu quân tía. Tướng Khuê Kình cưỡi con ngựa hồng cầm đầu đám quân vàng. Mỗi tướng tay cầm một cái trượng dài, hai đầu cong và bẹt dùng để lấy cầu. Tay kia cầm cương ngựa. Hai tướng dẫn quân mình ra trước mỗi cầu môn. Trống chiêng khua vang dội. Thái tôn uy nghi trong bộ triều phục, cưỡi con ngựa ô long phủ yên cương vàng. Nhà vua một tay nắm cương ngựa, tay kia xách chéo cây trượng dài, tế ngựa tới trước quả cầu thì nhạc ngừng bặt. Nhà vua thúc cho ngựa lồng lên rồi ngoái lại dùng cây trượng gẩy cho quả cầu tung lên. Trống chiêng lại nổi lên từng bừng. Hai tướng dẫn theo cả một lũ người ngựa ùa ra tranh cầu. Cuộc chơi bắt đầu. Nhà vua bèn lui về kỳ đài ngồi với các đại thần để xem cuộc tranh tài cao thấp…

Dân chúng kinh kỳ không chỉ có nô nức đi xem các giáo phường diễn, hát, mà còn tham dự đủ các trò vui. Nhưng có nhẽ điều gợi cho người kinh sư óc tò mò nhất, là việc cung cấm mở cửa trưng bày các của hồi môn của công chúa, và đồ dẫn cưới của Trung Thành vương. Thôi thì đủ thứ áo quần, vóc lụa, nhiễu gấm sang trọng của Trung Hoa, Ba Tư, Tây Trúc như muốn đua tranh với một số hàng nội địa như the, lụa, đũi, lĩnh… của các vùng cửi canh nổi tiếng như La, Bưởi, Sài …

Những đồ trang sức bằng vàng, bạc chạm trổ tài hoa của các tay thợ nổi tiếng Đồng Sâm, Hàng Bạc. Nào vòng cổ, vòng tai, vòng tay, đai áo, mũ miện la liệt tới hàng trăm thứ, nom lóa cả mắt. Những loại hồng ngọc, bích ngọc, lưu ly, kim cương được nạm vàng thành những hoa tai, vòng cổ, hoặc những con giống nhỏ xinh, khiến người xem không hết kinh ngạc về sự sang giầu, xa phí của chốn quyền môn. Ngoài những đồ lụa, tơ, vàng, ngọc ra, còn phải kể tới áo quần, chăn ủ, lồng ấp bằng các loại lông thú, như hổ, báo, chồn, rái cá… Lại nữa, các đồ gốm sứ rất phong phú như Bát Tràng, của Đông Sơn. Từ những bức tranh sứ về cảnh thuỷ mặc, hoặc tứ dân, hoặc lục súc tranh công, tới các lọ hoa, chậu cảnh, độc bình, thạp, thố, tới các loại chén, bát, đĩa, mâm và các con giống bằng sứ gốm nhiều màu, nhiều cảnh. Những đồ sứ gốm của ta, đặt cạnh đồ sứ gốm của các thời Đường, Tống từ vóc dáng, tới hoa lá, men màu, mỗi bên có một nét đẹp riêng, chẳng thể nào lấn át được nhau. Qua đồ gốm sứ lại tới đồ đồng. Nào mâm, chậu, nồi, xanh, chảo… tới các đồ thờ như cây nến, đỉnh và tượng phật. Đây mới chỉ nói tới của hồi môn. Còn các đồ dẫn cưới, tuy không nhiều bằng, nhưng cực kỳ sang quí, chỉ có thể kiếm được ở các vương quốc giàu có ngoài Đại Việt như La Mã, Trung Hoa, Ba Tư, Thổ Phồn…

Từ bữa nhà vua mở đại hội, Quốc Tuấn không ra khỏi nhà. Không phải chàng tráng sĩ được hâm mộ nhất kinh thành này đang ham mải luyện rèn kiếm cung, hoặc nghiên cứu binh thư đồ trận gì. Con tuấn mã theo thói quen sáng nào cũng được chủ dắt ra khỏi tàu ngựa, thắng yên cương và phi nước đại tới Giảng Võ đường, lượn một vòng quanh trường võ rồi đi vào các bài tập nhảy vượt chướng ngại như: gò, đống, sông, suối. Nhưng đã ba sáng nay, sau một hồi hí dài con ngựa lại gục đầu lắc bờm, đập móng ngóng chờ chủ. Dù người giám mã có vỗ về, nựng nịu thế nào thì con tía mật cũng không chịu bước chân ra khỏi tầu. Và nó
ăn uống cũng chểnh mảng.

Trong thư phòng của Quốc Tuấn, những “Tôn tử binh pháp”, “Ngô gia binh pháp”, “Tôn tử thập gia chú”… xếp chồng đống lên nhau, mờ mờ bụi phủ.

Quốc Tuấn làm gì? Chàng ở lì trong cung, đi quanh quẩn trong bốn bức tường, như một con sư tử vừa bị nhốt vào cũi. Chàng ngao ngán nghĩ về cảnh người yêu sắp đi lấy chồng. Chàng đã yêu mê mệt công chúa Thiên Thành - Bông hoa rực rỡ nhất của Thăng Long hoa lệ. Sắp tới ngày cưới - Thiên Thành còn nói với Quốc Tuấn: “Thiếp sẵn sàng bỏ kinh thành đi trốn cùng vương”. Nhưng trốn đi đâu? Và tại sao phải đi trốn? Quốc Tuấn, một con người trí dũng, tự tin không chấp nhận một cuộc đi trốn. Không cùng nhau đi trốn, nhưng cũng không thể để mất nàng vào tay Trung Thành vương được.

Quốc Tuấn cũng mệt mỏi, cũng tù túng, chẳng khác gì con tuấn mã của chàng. Tất cả những dằn vặt của Quốc Tuấn không lọt qua mắt của công chúa Thụy bà. Vừa là cô ruột, vừa là mẹ nuôi, bà hiểu tâm trạng Quốc Tuấn, cũng như bà biết mối tình thầm lén giữa Quốc Tuấn và em gái bà. Song duyên phận của Thiên Thành đã được đích thân hoàng thượng chọn lựa. Nay đã tới lễ kết tóc, sao có thể đổi thay được nữa. Đôi lần bà đã toan khuyên can Quốc Tuấn. Rồi lại nghĩ: cứ để lễ cưới của Thiên Thành qua đi, Quốc Tuấn khắc biết tự xử. Còn như bây giờ, mọi sự khuyên bảo, chẳng khác gì tưới thêm dầu vào ngọn lửa si tình đang bùng cháy trong lòng chàng, nên Thuỵ bà vẫn cứ im lặng dõi theo.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #97 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:49:27 pm »

Điều làm cho Quốc Tuấn băn khoăn, giữa lúc cần gặp gỡ Thiên Thành nhất, thì nàng đã được đón vào ở ngôi biệt điện trong cung Nhân Đạo vương. Mặc dù nàng đã hứa không chung thân với Trung Thành vương. Nhưng làm sao chàng có thể yên tâm được. Thiên Thành đến ở trong cung nhà Nhân Đạo vương, để tiến hành lễ kết tóc với Trung Thành vương, có khác chi đem mỡ đặt trước miệng mèo.

Quốc Tuấn cứ loay hoay suy đi tính lại mãi, chưa biết định liệu ra sao. Nom chàng ủ dột như một con ngựa chiến bị trọng thương, đứng rũ bờm tiếc nuối cảnh tung vó chốn sa trường giữa rừng thương, biển lửa. Quốc Tuấn vẽ ra hàng trăm kế trong đầu, song nó cứ mông lung mờ ảo như khói như sương, chưa biết liệu tính ra sao. Giữa lúc đó tên gia nô đẩy cửa bê mâm cơm chiều vào dâng Quốc Tuấn. Chàng đã toan vẫy tay cho y trở lui, giống như bữa sáng, bữa trưa chàng đã làm. Nhưng chẳng biết thế nào chàng lại vẫy tay gọi y vào. Tên gia nô hớn hở đặt mâm cơm vào kỷ, chắp tay đứng hầu.

Quốc Tuấn uống một hơi hết ba bát rượu, thấy đã nong nóng phía vành tai. Chàng đưa cặp mắt sáng rực nhìn về phía cửa sổ, thấy trắng xoá một trời trăng. Lòng bâng khuâng nhớ tới Thiên Thành, Quốc Tuấn đứng dậy toan lao ra cửa. Tên gia nô hốt hoảng kêu:

- Bẩm tiểu tướng, người chưa dùng cơm.

Như sực tỉnh, Quốc Tuấn lại ngồi xuống mỉm cười. Gia nô xới cơm. Chàng miễn cưỡng ăn mà hồn như phiêu
lãng đâu đâu. Chợt ngẩng nhìn gia nô, chàng khẽ gọi:

- Nô!

- Dạ. Bẩm tiểu tướng dậy con điều gì ạ?

- Nếu vào cảnh ngộ ta, mi sẽ làm gì?

Gia nô ngơ ngác nhìn tiểu chủ, rồi đáp với vẻ hết sức tự nhiên:

- Bẩm, nếu con ở cảnh ngộ của tiểu tướng, thì con đã uống cạn be rượu kia, và ăn hết mâm cơm này từ
lâu rồi ạ.

Quốc Tuấn bật cười, hơi gắt:

- Đồ con tườu. Ta có hỏi mi việc ăn uống đâu.

- Dạ, bẩm tiểu tướng, con tưởng người ở vào cảnh ngộ nhịn đói suốt một ngày, thì bây giờ phải ăn thôi
chứ còn có chuyện gì nữa?

- Nô! Nghe ta hỏi đây.

- Dạ, con đang nghe.

- Mi có biết chuyện ta với công chúa Thiên Thành không?

- Dạ, trước con biết lơ mơ ạ.

- Thế còn bây giờ thì sao?

- Dạ, bây giờ thì tiểu tướng đã nhịn đói suốt cả một ngày, còn bên cung, công chúa đang mở hội. Công
chúa trang điểm rực rỡ, đẹp như một nàng tiên và chỉ mong cho chóng tới ngày làm lễ kết tóc với Trung Thành vương.

- Đồ súc sinh! Quốc Tuấn đập tay xuống kỷ, quát lớn:

- Có đúng như mi nói không?

Tên gia nô làm ra bộ ngơ ngác, khép nép thưa:

- Bẩm tiểu tướng, sao lại không đúng ạ. Cả kinh sư này ai mà không biết chuyện ấy.

Dường như Quốc Tuấn đã nhận ra sự thật cay đắng, chàng dịu giọng hỏi gia nô:

- Cứ cho rằng, điều mi nói là thật đi.

- Dạ, bẩm tiểu tướng, gia nô vội cướp lời Quốc Tuấn - Bẩm tiểu tướng, hiển nhiên là thật rồi chứ còn giả
nữa hay sao. Còn hai ngày nữa là đến lễ kết tóc rồi.

- Thôi được, Quốc Tuấn mệt mỏi thừa nhận - Cứ cho rằng đó là sự thật đi. Nhưng nếu ngươi ở vào cảnh ngộ ta, người sẽ làm gì?

Mặt gia nô ngây ra với vẻ đần độn. Một thoáng y ngó ra cửa, nhìn thấy trăng rằm dãi trắng cả trời đêm. Y gật gù với vẻ thận trọng, như nói với chính mình:

- Nếu vào cảnh ngộ con. Dù có xả thân con ra thành trăm mảnh, con cũng không bỏ người đẹp.

Nom bộ mặt nghiêm trang của y, Quốc Tuấn hiểu y nói thật lòng. Chàng tự nghĩ: “Vậy là nhân cách ta không bằng tên nô bộc”. Trong óc chàng vụt lóe một âm mưu. Chàng quay ra nói gia nô:

- Mi dọn ngay đi. Quốc Tuấn chỉ tay vào mâm cơm - Ta mệt, đêm nay ta muốn đi nghỉ sớm.

Gia nô vừa ra khỏi cửa, Quốc Tuấn vội mặc áo quần gọn ghẽ, nai nịt chặt chẽ, rồi dắt thanh đoản đao vào
thắt lưng, tắt đèn lên giường nằm. Chừng canh ba, chàng nhỏm dậy rồi lao vút vào đêm sáng nhòe trăng.
Mờ sáng, gia nô về bẩm với công chúa Thụy bà các việc xảy ra trong đêm. Công chúa hốt hoảng, mặt tái mét như không còn giọt máu, hấp tấp lên kiệu vào ngay nội điện.

Nội tẩm cửa vẫn còn đóng im ỉm, nhà vua chưa tỉnh giấc vàng. Do dự một lát, Thụy bà giơ tay đập cửa thình thình.

Ngỡ có biến, Thái tôn vội choàng lên người chiếc áo vóc, quơ lấy thanh trường kiếm phía đầu giường, rồi nhón gót nhìn qua hàng con tiện phía trên cánh cửa bức bàn.

Chỉ thấy có một mình công chúa Thụy bà, nhà vua bèn mở cửa ra hỏi:

- Có việc gì mà chị vào cung sớm thế? Sao mặt chị tái nhợt thế kia?

Thụy bà, giọng run run:

- Không ngờ Quốc Tuấn nó điên cuồng, rồ dại, đêm qua, dám vượt rào lẻn vào chỗ Thiên Thành ở. Nhân Đạo vương đã bắt giữ lại rồi. Sợ nó bị giết. Xin bệ hạ thương cho, sai người đến cứu!

Thái tôn “hừm” một tiếng, rồi quở:

- Quân càn giỡ!
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM