Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 07:21:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bão táp cung đình  (Đọc 42528 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #80 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:35:04 pm »

- Ôi thế thì thích lắm. Chị đi đi. Không phải lên núi làm gì. Cứ về quê em, vui lắm. Mọi người sống với nhau thuận thảo như chị em mình vậy thôi, chứ không có cảnh lèo lá, tráo trở đê tiện như mấy ông quan lớn ở kinh sư đâu.

- Nói thật với em, nếu không vì ở lại để gần phụ vương của chị sớm chiều hương đăng, thì chị cũng chẳng thiết sống làm gì nữa. Chị chỉ ân hận, không làm trọn được lời phụ vương chị ký thác. Chắc phụ vương thương chị là phận gái, nên người cũng tha thứ.

- Chị Chiêu Thánh à, chị có muốn em ở với chị nữa không?

- Sao Huyền lại hỏi chị vậy. Chị có gì không phải với em. Hay chị em mình nghèo quá, em không muốn ở với chị nữa. Chiêu Thánh nói với vẻ mặt rầu rầu.

- Em hỏi thế không phải em chê chị nghèo. Nghèo của các ông hoàng bà chúa, bọn dân quê chúng em có nằm mơ cũng chẳng thấy được. Em hỏi chị thế, là bởi em không muốn chị phải lam lũ như bọn em. Nếu chị thích em ở đây hầu hạ chị, thì các việc từ cuốc đất, trồng cây, đến hái dâu, chăn tằm, cơm nước các thứ, chị để mặc em. Chị chỉ có mỗi một việc lo tụng kinh thôi. Tụng hai xuất vào, cho cả em một xuất nữa. Thế là công bằng, chị làm dứt đi một việc, em dứt đi một việc khác.

Chiêu Thánh cười hồn nhiên đáp lời:

- Chị mang ơn Huyền nhiều lắm. Em cứ để chị làm cho vui. Trước đây các hoàng cô nhà Lý, ai mà chẳng
thạo việc tằm tang. Ngay cái nghề trồng dâu, chăn tằm, dệt lụa cũng do công chúa nhà Lý dạy cho con gái phường Yên Hoa này đấy chứ. Và đức tị tổ1 cũng tự mình dạy cho cung nữ dệt được gấm vóc, kể từ năm Canh thìn. Các đức ở nghiệp của nhà Lý đều là bậc khai sáng. Nay nếu chị làm lại cái nghề này, cũng là nghề của tổ tiên truyền lại, có gì mà ngại hả em?.

- Không phải thế đâu, chị Chiêu Thánh, em thương chị gầy yếu quá, cứ làm vào rồi ốm mất. Mấy lại không ai đi làm cái việc của bọn đầy tớ thường làm.

- Trịnh Huyền, chị cấm em từ nay không được nói cái chuyện chủ tớ ấy nữa nhé. Chị đã bảo bây giờ là chị em rồi cơ mà.

- Cám ơn chị cho em được bằng vai phải lứa. Nhưng người đời thì phân biệt rõ lắm. Cứ ra đường là họ biết ngay chị là chủ, em là tớ.

- Đấy là việc của người đời. Chỉ biết chị em mình từ nay gắn bó. Mà sao chị thấy bồn chồn quá em ơi. Em ở nhà, chị sang bên chùa một lát nhá. Chị phải trình với phụ vương, việc người ta tàn sát đám lính vô tội. Em biết không, đêm đêm chị vẫn mơ thấy phụ vương chị về đấy.

Lại nói về bà Trần Thị Dung, hoàng hậu nhà Lý, bấy giờ là phu nhân của thái sư thống quốc Trần Thủ Độ. Sau khi bà đã khéo lựa để biến được những toan tính của bà thành các chính lệnh của ông, và suýt nữa thì gieo tai hoạ cho cả dòng họ, bà thấy hú vía. Bà tự nhủ, từ nay chỉ làm các việc trong nhà thôi, chứ không dám can dự vào chính lệnh nữa. Mà thái sư cũng nghiêm lắm. Sau vụ xảy ra đó, thái sư chèo chống thật vất vả. Bà nhận thấy đức ông ít nói, nhiều lúc buồn đến thẫn thờ. Nom khuôn mặt ông ấy hiện lên một nét gì u tối, cứ như là chuyện giết đám dân binh của Liễu, đã ám ảnh ông. Nhưng thôi, mọi sự rồi sẽ qua đi. Chẳng có cơn bão nào kéo dài mãi. Bão tạnh gió tan, khắc đến mưa đền cây. Ngay như Chiêu Thánh dù có giận bà, nhưng nó cũng đã yên phận ở gần linh hồn vua cha. Còn Thuận Thiên, cũng đã vui vầy với ngôi hoàng hậu. Lại vừa sinh cho nhà vua được một mụn con trai. Thôi thì con anh con em, cũng là dòng máu họ Trần cả. Lọt sàng xuống nia, chẳng đi đâu mà thiệt. Nhà vua cũng đã nguôi quên. Đã tự mình chăm lo công việc triều chính, lại thường săn sóc cả hoàng hậu lẫn đứa bé. Thế là tốt rồi. Bà không đòi hỏi gì hơn nữa. Gần đây, nghĩ tình mẫu tử thế nào, nhà vua lại phong ta làm quốc mẫu. Ta cho việc đó là ưu hậu lắm.
Vì tước ấy chỉ tặng phong cho các bà thái hậu.

Về phía Trần Thủ Độ, qua việc này, ông thấy những thành tựu đạt được, là do sự cưỡng bách của ông, không ai chống lại được. Ngay cả đức vua cũng không cưỡng nổi ý ông. Chính vì thế mà ông bắt đầu run sợ. Bởi người trong nước sẽ cho ông là một kẻ tàn bạo, bức bách nhà vua, thao túng triều đình. Cũng vì việc này mà quan thừa chỉ bỏ đi. Việc quan thừa chỉ bỏ đi, ông tự lấy làm hổ thẹn. Ông đã ngấm ngầm sai người đi dò tìm khắp nơi. Vẫn chưa thấy tăm hơi gì. Bữa có việc đi qua một ngôi làng trên mạn Quốc Oai, thấy làng nọ mới dựng một ngôi đình lớn, mái ngói còn đỏ au. Ông dừng lại ngắm xem, và thầm khen kíp thợ mộc ở đây tài hoa quá. Chợt thấy đôi câu đối trước cửa đình, ông nhẩm đọc:

LẬP THÀNH HỒ, CẠNH TRANH HỒ, PHÁ HOẠI HỒ, MẠC THỊ CƠ QUAN DO KHÍ HOÁ.
PHỤ TỬ DÃ, TRƯỞNG ẤU DÃ, PHU PHỤ DÃ, NGUYỆN Ư ĐÌNH BẢNG TÁ PHÂN MINH.


Trần Thủ Độ giật mình biết quan thừa chỉ có qua đây. Và lời lẽ này, chính là khẩu khí của ông. Rõ là ông chấp nhận việc thay đổi triều đại là lẽ thường của tạo hoá, đúng cái ý của vế trên. Còn vế dưới, ông muốn trách việc nhân luân sao không đem ra mà bàn bạc, ngõ hầu đem lại sự sáng trong của công lý. Đúng là một người có cái tâm chí thiênj, ngay cả lúc đã bỏ ta mà đi, ông vẫn có lòng muốn nhắn gửi lại để khuyên bảo ta. Tuy vậy, Trần Thủ Độ cũng không dò tìm được dấu vết của ông.

Năm tháng qua đi, những vết thương dần dần kín miệng. Nhưng dù có gặp thầy hay thuốc tốt, chữa trị giỏi giang thì các nơi thương tích kia vẫn còn hằn lại những vết sẹo. Với các người lớn tuổi, như thái sư Trần Thủ Độ và phu nhân hoặc Trần Liễu thì vết sẹo to, bóng nhẫy. Còn với các người trẻ trung như Trần Cảnh, Thuận Thiên, Chiêu Thánh, vết sẹo cũng chóng đầy và mờ dần theo năm tháng.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #81 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:36:09 pm »

Thái tôn là một người đức độ, nên cũng dễ bỏ qua những lầm lỗi của người khác. Nhà vua không chấp trược, không dò tìm nguồn gốc sâu xa rồi để bụng thù hằn. Với một người đã chẳng coi ngôi vị đế vương là cái gì, và sẵn sàng từ bỏ, thì ở đời chẳng có gì đáng giá, ngoài đức thiện và lòng nhân.

Thái tôn được mấy người thầy học và các bậc lão thần tài đức khai tâm mở tính, trau dồi kiến thức cho, cùng với lòng nhà vua lúc nào cũng cầu sự tinh tiến, nên vào tuổi ngoài hai mươi, nhà vua đã chững chạc lắm. Ngài bắt đầu để tâm đến việc thi cử, bổ dụng người hiền tài cho đất nước. Ngài cũng luôn chăm lo đến đời sống của người dân không chỉ riêng ở kinh sư, mà còn ở nơi thôn ấp hẻo lánh. Không những thế, còn chăm lo đến việc cải hoá phong tục, khuyến thiện, trừng ác. Nhà vua đã nhiều phen đàm đạo với các bậc quốc sĩ về các điều trọng yếu trong tam giáo.Cứ theo ý nhà vua lĩnh hội được, thì rường mối chính trị quốc gia phải dựa trên căn bản của tam giáo. Cũng có người tranh biện với Thái tôn, chỉ cần Nho giáo là đủ. Không nên tham bác các đạo khác, nó sẽ mất đi sự ngay chính của Khổng học.

Nhà vua nói:

- Ta vốn trọng đạo Nho. Vì nó chỉ cho ta nhiều điều quan yếu trong phép trị nước. Nhưng nếu chỉ thiên về
Nho giáo, ta e khắc bạc quá. Mà đẩy cái sự khác bạc ấy lên một tí nữa, là đi vào con đường chuyên chế tàn bạo của nhà Tần. Chi bằng ta lấy cái chuyên sâu của đạo Nho, cái thiện nghiệp của đạo Phật, với các dung dị bất tranh của đạo Lão, lại hoà vào nền văn hoá truyền thống của Đại Việt, ta được một cái đạo hoàn bị hơn. Thế là tam giáo cùng đua tranh nảy nở, phương chi cứ phải gò mình chịu trói trong một học thuyết ngoại lai, chưa phải đã thập phần hoàn hảo.

Nghe nhà vua nói, ai cũng thấy Thái tôn đã có một kiến thức hơn đời, và ngài đã có chủ kiến định hướng cho nền chính trị quốc gia. Đấy là tầm vóc của các bậc đế giả. Một bữa nọ, nhà vua đang cắm cúi hoàn thiện mấy bài giáo huấn, nhằm vào việc giáo hoá cho các hoàng tử sau này thì thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình ló vào.

Nhà vua gọi Khuê Kình lại, đọc cho nghe. Đọc xong, nhà vua nói thêm:

- Đây mới là việc ta răn dạy con cái trong nhà. Rồi ta sẽ ra hẳn một đạo luật, khiến các nhà phải có trách
phận nuôi dạy con cái cho thuận thảo; và biết đủ các bổn phận đối với nước. Mỗi nhà lại phải lo sao cho ít nhất có một người biết chữ. Các gia đình cũng phải lo việc chăm chỉ làm sao cho nhà nhà đều đầy đủ, dư dật. Được vậy, hẳn là xã hội sẽ đua nhau làm việc thiện. Ta cho rằng, muốn tạo dựng một xã hội tốt đẹp, phải bắt nguồn từ mỗi gia đình tốt đẹp. Vì vậy, ta cũng phải lo cái gia đình của chính ta. Nếu làm được điều ta mong muốn, thời xã hội làm gì còn có nạn lưu manh, trộm cướp. Ta e rằng, bộ hình luật của ta sẽ có cơ không dùng đến nữa. Nói xong, Thái tôn mỉm cười, quay sang hỏi Khuê Kình:

- Khanh thấy thế nào?

- Tâu bệ hạ, theo chỗ hạ thần nhận biết, thì bệ hạ muốn đức hoá, thiện hoá các hoàng tử và cả xã hội.
Tâm của bệ hạ đã đạt tới cõi sạch trong rồi đó.

Thái tôn cười:

- Khanh chỉ được cái khéo nịnh ta.

- Tâu bệ hạ, bình sinh thần chưa nói một điều gì trái lòng mình cả. Đã thế, thần sẽ nói luôn điều bấy lâu
nay thần để tâm suy ngẫm, xem có phải lòng thần trung hay nịnh?

- Ôi, ta khao khát được nghe những lời ngay thẳng. Dù những lời đó có đau đớn, ta cũng không hề trách phạt khanh. Khuê Kình biết đấy, khi ta đã ở ngôi cao, mọi sự việc ta làm, ta không kiểm xét được nó tốt xấu ra sao. Ích dân lợi nước, hay lại phiền nhiễu cho dân, mà cũng vô bổ cho nước. Ta biết, dù ta có dở, mọi người vẫn cứ bảo ta hay. Ít ai dám nói ra sự thật. Ngay đến các gián nghị đại phu cũng vẫn còn dè dặt lắm. Ta tự xét, từ lúc tám tuổi đã ở ngôi cao, đứng trên các bậc lão thần, quốc sĩ, lòng luôn run sợ. Ta cũng như những đứa trẻ kia, chứ có khác gì đâu. Chẳng qua, cái ngai vàng nó làm cho ta trở thành lỗi lạc. Nhưng cái ngai vàng là vật vô tri, còn ta vẫn chỉ là một đứa trẻ. Nếu ta không ý thức được điều đó, mà lại hợm mình nữa, chắc là sẽ dẫn dắt cả dân tộc này đi đứng quàng xiên bậy bạ. Khanh với ta nghĩa là vua tôi, tình là bè bạn, lại là chỗ huynh đệ thân tín trong nội tộc nữa, ta mong khanh hãy vì bách tính, nói cho ta hay những điều ta còn mù mờ. Những chính sách không được lòng dân. Hoặc những gì theo khanh cần phải tu chính. Nào khanh hãy nói đi.

Khi bị nhà vua chạm tới lòng tự trọng, Khuê Kình muốn tỏ ra mình là người trung thực. Nhưng tới lúc bình lặng, xét suy về những lời mình sắp nói ra, không phải Khuê Kình không đắn đo cân nhắc. Bởi những lời chàng sắp nói, hệ trọng lắm. Đụng tới cả bậc quyền uy nhất nước, mà ngay cả đến hoàng thượng cũng còn phải trọng nể. Đúng như nhà vua nói: “Ít ai dám nói ra sự thật lắm”. Nhất là nói trước những người quyền cao chức trọng, về những điều yếu kém hoặc lầm lỗi trong họ. Quả vậy, sự thật là một cái gì giản đơn lắm. Nhưng cũng khó nói ra lắm. Xưa đã thế, nay cũng thế và muôn đời sau vẫn còn như thế. Nhưng nếu không nói, thì ta cũng chỉ là một tên hèn nhát như tất cả những tên hèn nhác khác. Khuê Kình cứ đắn đo cân nhắc mãi.

Thái Tôn liền bảo:

Nếu khanh vẫn còn chưa muốn nói ra, ta không ép.

Như có tiếng chuông thức tỉnh lương tâm, Khuê Kình nhìn thẳng vào mắt nhà vua, nói:

- Tâu bệ hạ, từ lâu nay thần vẫn áy náy một điều. Rằng bệ hạ còn rất trẻ. Mà quyền hành lại tập trung
quá nhiều vào tay thái sư. Việc ấy chẳng biết rồi sẽ dẫn tới đâu. Cho nên hạ thần trộm nghĩ, những dự liệu của bệ hạ, liệu có thi thố được không. Hay lại bị thái sư cản phá. Ngay cả ngôi báu nữa, liệu có trường tồn không?
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #82 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:37:33 pm »

Nghe Khuê Kình nói, Thái tôn bậm môi suy nghĩ giây lâu. Chợt nhà vua bật lên nói:

- Hay là thế này Khuê Kình nhé. Ta với khanh cùng đến cung Thủy Tĩnh. Và khanh nói lại điều đó cho cả thái sư cùng nghe. Tiện hơn. Ta thấy thái sư cần phải được biết điều này.

Khuê Kình thấy hơi ớn lạnh ở sống lưng. Tướng quân không ngờ sự thể lại diễn ra như vậy. Chàng tự nhủ:
“Đây là suy nghĩ chân thực của ta. Đã nói được cho đức vua nghe, thì cũng sẽ nói cho thái sư nghe”.
“Quân tử bất sự nhị ngôn”. Người đứng đắn, không nói hai lời. Chàng vui vẻ đứng dậy theo nhà vua. Nhưng chưa lường được hậu quả sẽ dẫn tới đâu.

Quân vào bẩm có hoàng thượng tới dinh. Trần Thủ Độ lật đật chạy ra đón mãi cổng ngoài. Ông đon đả nói:

- Chẳng hay bệ hạ có việc gì ngự giá đến nhà thần. Hạ thần không biết trước để làm lễ cung nghinh. Thật
đắc tội.

Thái tôn khiêm nhường nói:

- Miễn lễ. Quốc công cứ bày vẽ làm trẫm thêm phiền.

Trần Thủ Độ vừa ngẩng đầu, đã thấy kiệu sau hạ xuống. Nhìn con người to, cao như một đô lực sĩ, thái sư
vừa “à” lên một tiếng, Khuê Kình đã kịp tới trước ông cúi chào.

- Thân vệ tướng quân vẫn mạnh chớ. Bữa nay được đón hoàng thượng cùng tướng quân, thật là một may
mắn bất ngờ cho bản chức.

Khuê Kình lễ độ thưa:

- Bẩm đức ông, nhân có câu chuyện thưa với bệ hạ, nhà vua dậy tiểu tướng cùng lại đây để trình đức ông
tường.

Nội nhân đưa trầu, nước ra dâng nhà vua rồi lui.

Thái tôn nói:

- Khuê Kình với trẫm và Quốc công đều là người trong nội tộc. Nhân Khuê Kình có điều tâm huyết vừa dãi
bầy. Trẫm bảo Khuê Kình lại đây nói để Quốc công cùng nghe. Xin Quốc công bình tâm, nếu câu chuyện có làm cho Quốc công phiền lòng.

- Bệ hạ đã rộng lượng. Thủ Độ tôi còn có điều gì phải lo nghĩ nữa.

Khuê Kình nói lại điều mình băn khoăn, như lúc trước đã nói với nhà vua.

Thái tôn theo dõi câu chuyện và sắc diện của cả hai người. Nhà vua thầm khen: “Đáng trọng thay nhân cách của Khuê Kình. Chàng ta nói không sai một lời, không tỏ ra xun xoe, sợ sệt”. Và nhà vua cũng nhận thấy, Quốc công tiếp nhận lời Khuê Kình một cách bình thản. Xem vậy đủ biết bụng dạ cả hai người đều trung chính, chớ không có một ly nào tà vạy. Điều đó khiến nhà vua yên tâm. Và tin rằng, Quốc phụ xưa nay vẫn xứng đáng là một phụ chính đại thần - một trụ cột của cả triều đình và trong hoàng tộc.

Nghe xong lời Khuê Kình, Trần Thủ Độ lấy làm cảm kích. ÔÂng nói lại với nhà vua:

- Tâu bệ hạ, đúng như lời Khuê Kình nói. Bấy lâu hạ thần thường lo lắng đến các trọng trách quốc gia.
Thần chịu cố mệnh của tiên quân, khuông phò bệ hạ từ ngày thơ ấu. Chỉ mong bệ hạ sớm trưởng thành để trao lại quyền bính. Nhân đây, thần xin bày tỏ: Bệ hạ cũng nên lo gây dựng nhân tài. Trao dần sự nghiệp cho mọi người cùng gánh vác. Các bậc lão thần thật đáng trọng. Song quả thật các vị không còn đủ năng lực gánh vác việc lớn quốc gia. Có khi còn cản trở. Xin bệ hạ nên ban thưởng tước cao lộc hậu, và xếp các vị cố lão ấy vào hàng nhàn tản. Còn công việc điều hành thực thụ, phải trao vào tay những con người còn khí huyết sung mãn, lại có đức có tài như Lê Tần hoặc thân vệ tướng quân đây. Bởi chưng thời bình, còn phải lo tới cả thời chiến. Hạ thần đêm ngày đau đáu nghĩ về cái họa Thát-đát. Sớm muộn gì thì họ cũng chinh phục xong Trung nguyên. Sau Trung nguyên, họ chẳng để ta yên. Cho nên phải lo giữ nước từ khi chưa có mầm loạn. Và phải có kế sách làm cho dân giàu nước mạnh cấp kỳ, nếu không thì trở tay không kịp, hối không kịp.

Nghe Thủ Độ nói, nhà vua xúc động đến ứa nước mắt. Thái tôn nắm tay Khuê Kình và Thủ Độ nói:

- Thế nước đứng được, là nhờ có bề tôi lương đống như các khanh. Nhà vua buông tay hai người ra, nhìn sát vào Trần Thủ Độ, nói tiếp:

- Nhà Trần mở được nghiệp lớn huy hoàng, là nhờ có chú. Đúng như chú nói, việc tiếp theo phải làm cấp kỳ là lo cho dân giàu, nước mạnh.

- Còn một việc nữa, xin bệ hạ lưu tâm. Trần Thủ Độ nói - Cứ như ý thần, thằng cháu Quốc Tuấn sau này sẽ trở thành một tướng tài kiệt hiệt. Bệ hạ nên đỡ đầu cho cháu về kinh sư học hành, cho cháu mở mang nhãn giới. Cháu phải được trau dồi kỹ càng cả về đường võ bị lẫn văn chất. Chứ cứ như thần, chữ nghĩa dở dang, mọi đàng dốt nát, chẳng mấy chốc lại trở thành một thứ đó rách ngáng chỗ.

Nhà vua chân thành nói:

- Xin vâng lời quốc phụ. Xin vâng lời quốc phụ!

=======================================

1. Chiêu Hoàng muốn nói đến Lý Thái tôn.

2. Canh thìn(1040).

3. Đại ý: Việc tạo lập cũng như việc huỷ hoại đều do sự biến đổi của thời gian (ý nói thiên nhiên) mà thành.
Còn như các mối quan hệ xã hội như cha con, già trẻ, chồng vợ mọi việc đều nên lấy chốn đình trung (ý nói pháp luật) làm nơi phân giải cho tỏ sáng.

Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #83 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:38:30 pm »

CHƯƠNG 27

Nhà vua triệu Quốc Tuấn về kinh sư theo học. Cầm tờ cáo(1) trong tay, Trần Liễu băn khoăn. Ông không hiểu đây là hảo ý của Thái tôn hay là ác ý của Thái sư? Họ định cho con ông theo học để đào luyện thành tài, hay họ trừ trước các mối lo? Thằng bé mới mười lăm tuổi, nhưng chững chạc như một chàng trai hai chục tuổi.

Bao nhiêu năm qua, ông đã không ngại gian lao, tốn kém, đón thầy về dạy Quốc Tuấn đủ các môn võ thuật, quyền pháp, binh pháp và cả văn chương nữa. Mới sáu tuổi đã có thơ hay, chữ tốt. Ai cũng khen thằng bé có quí tướng, và sau này sẽ trở nên một tay hữu ích cho đời. Tiếng là anh vua, nhưng bị trầy trật thăng lên giáng xuống. Nay coi như bỏ. ÔÂng mong mỏi Quốc Tuấn sẽ nối chí ông, làm việc lớn ông chưa làm được. Bây giờ người ta định bứt thằng bé ra khỏi tay ông, thế thì ông còn răn dạy, còn thôi thúc nuôi chí cho nó làm sao được.

Nếu ta ỉm tờ cáo này đi, không cho Quốc Tuấn biết, tức là không cho nó về kinh sư thì có nghĩa là, ta đã chống lại mệnh triều đình. Họ sẽ khép ta vào tội “khi quân”. Chà chà, Trần Liễu chép miệng: “Có nhẽ ông Thái sư mong điều này lắm!”. Tay cầm tờ cáo, hết đọc mặt trước lại lật sang mặt sau, rồi giơ lên trời soi xem có thấy thêm điều gì không. Sự thật, vương vẫn nghi đây là mẹo của ông chú. Bắt thằng Quốc Tuấn đi, tức là ông ấy dứt được mối lo sau này. Hai là, nếu ta cưỡng mệnh vua, ông chú sẽ cứ chiểu theo hình luật mà trị. Nếu việc đó xảy ra, ông sẽ cộng thêm cái tội họp quân ở sông Cái năm trước - Hừ, Trần Liễu cười khẩy - Đã thế thì điều đó không bao giờ xảy ra nữa, ông chú ranh ma của tôi ơi!

Đưa mắt nhìn về phía lầu thưởng nguyệt, chợt thấy Quốc Tuấn ở nhà tàng thư đi về tầu ngựa. Trần Liễu gõ hai tiếng chuông. Rồi ông sửa lại khăn, áo ngồi ngay ngắn trên kỷ.

Quốc Tuấn ló đầu vào cửa, vòng tay lễ phép nói:

- Thưa cha, gọi con.

- Phải, con vào đây có chút việc ta muốn bàn.

Quốc Tuấn hơi bối rối. Vì từ trước chưa làm gì có chuyện bàn bạc. Ý cha thế nào, Quốc Tuấn cứ răm rắp
tuân theo. Nay cha cho bàn, có nghĩa là mình đã lớn chăng? Cha cho mình đã đủ trí lực để trở thành người lớn chăng?

Quốc Tuấn khoanh tay đứng bên mép kỷ, chờ lĩnh ý cha.

- Con ngồi. Trần Liễu vừa nói vừa chỉ tay về phía chiếc đôn sứ kê cạnh kỷ.

Khi hai cha con đã ngồi đối diện, Hoài Vương đưa tờ cáo cho Quốc Tuấn.

Quốc Tuấn cầm tờ giấy Long tiên màu vàng, có điểm các vẩy bạc lưa thưa vẽ hình rồng, chữ viết đẹp như
khắc và nhẩm đọc. Mắt chàng thiếu niên vụt sáng lên, đôi má ửng đỏ. Dường như chàng cho đó là một ân sủng của nhà vua dành cho chàng.

Thấy niềm vui hiện trên khuôn mặt tuấn tú thơ trẻ của con, khiến Hoài Vương đau lòng. Dường như đây là một sự tranh chấp nguồn hy vọng của ông. Ngay cả đứa con đẻ đứt ruột ra, chăm bẵm, nuôi dạy thế mà nó cũng không hiểu được ông. Trong lòng ông như có một sự rạn nứt. Nhưng ông lại nghĩ: “Quốc Tuấn sẽ là một người hiếu, nghĩa, trí, dũng. Không. Con ta không thể làm trái ý ta. Chẳng qua tuổi trẻ hiếu kỳ,
chúng thích được bay nhảy. Nhất lại về kinh sư với chú rụôt là đức vua, và ông họ làm thái sư thống quốc, điều đó đáng cho nó hãnh diện lắm chứ”.

Thấy con đã đọc xong, Hoài vương liền hỏi:

- Ý con thế nào? Ông nhìn con thăm dò.

Với tính hồn nhiên của tuổi trẻ, Quốc Tuấn nói:

- Thưa cha, con nghĩ đây là một ân huệ lớn nhà vua ban cho con. Quốc Tuấn nhìn lại Hoài vương với vẻ ý
nhị - Và cũng là món quà của chú tặng cha.

Vương Liễu làm như không để ý lời con, ông lại hỏi:

- Cha muốn biết con có thích về kinh không?

- Dạ, thưa cha, con nghĩ đây không chỉ là ơn vua, mà còn là lệnh của hoàng thượng.

- Nếu con muốn, ta sẽ có biểu trần tình với nhà vua.

- Thưa cha, con không hề nói là con không muốn. Lòng con còn ước ao được về kinh sư để mở mang sự
hiểu biết của con. Nhất là đường học vấn, kể cả võ lẫn văn. Nay chú con đã có lòng như thế, con nghĩ không nên phụ. Dạ thưa cha, đối với con, đây lại là nghĩa quân thần.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #84 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:39:09 pm »

Đắn đo giây lát, Hoài vương nói:

- Thôi đựơc, con lo soạn sửa hành lý để sớm mai về kinh. Song có một vài điều, ta cần nói với con. Trước hết, cha muốn nói về binh pháp Tôn - Ngô, con đã nắm được những điều then máy. Nhưng như thế không có nghĩa là con đã đủ tài làm tướng. Con phải để tâm nhiều lắm đến địa hình của đất nước, chắc mai đây phải dùng đến. Phép làm tướng, trong khi bầy thế trận hoặc lâm trận mà không nắm vững địa hình, tức là thủ bại. Con đừng hoài vọng quá nhiều về những giáo điều trong sách. Sách chỉ mang tính ước lệ, nó gợi mở cho suy nghĩ của con, chứ nó không thể quyết định được. Thấy con chăm chú lắng nghe, Trần Liễu lấy làm hài lòng và có phần yên tâm - Thôi được, đêm nay ta sẽ viết vài lời về cho chú.

Về tới kinh sư, Trần Quốc Tuấn vào ngay nội điện trình thư cha, và được Thái tôn ân cần thăm hỏi. Quốc
Tuấn thấy ấm áp như ở nhà. Có điều rằng trong cung điện của đức vua, cái gì cũng sang hơn, quí hơn, đẹp hơn những thứ mà trong vương phủ Quốc Tuấn có. Quốc Tuấn nhìn những thứ lạ lẫm ở kinh kỳ, ở nội điện. Còn Thái tôn lại nhìn Quốc Tuấn với tấm lòng ưu ái. Quốc Tuấn có dáng vóc to khỏe. Da dẻ tươi nhuận, sắc mặt hồng hào. Nhà vua tự nhủ: “Thằng bé còn ít tuổi, mà trông có vẻ đường bệ khác thường. Cháu ta dường như có được cái uy thiên bẩm. Vài tuổi nữa, chắc còn khá hơn nhiều”. Thái tôn đem lòng yêu mến. Nhà vua thầm khen: “Thái sư có con mắt tinh đời. Chính Thái sư tâu xin cho Quốc Tuấn được về kinh”.
Chợt có một điều làm nhà vua băn khoăn: “Vậy thì Quốc Tuấn sẽ ở đâu? Ở với ta là điều không phải nói. Nhưng... nhà vua thấy nhói buốt trong lòng. Thật là khó xử. Trước đây Quốc Tuấn cũng đã có lui tới dinh phủ của Hoài vương. Từng tiếp xúc với Thuận Thiên, khi ấy là mẹ kế. Nay thì ngôi bậc đã đổi. Thuận Thiên đã là hoàng hậu. Vậy nếu Quốc Tuấn ở với ta, sẽ gây lúng túng cho cả ba người. Vừa nghĩ tới nhà công quán hoặc quốc tử viện, Thái tôn bèn gạt phắt. Cuối cùng nhà vua nghĩ tới bà chị ruột - Công chúa Thụy bà. “Phải, Quốc Tuấn ở với cô ruột nó là hay nhất. Ta sẽ nhờ công chúa săn sóc”.

Thụy bà là một người khoan nhân, đức độ. Quốc Tuấn xa mẹ, cần có bàn tay dịu hiền chăm sóc. Để Quốc Tuấn nghỉ tạm trong nội điện, nhà vua lên kiệu đến thẳng dinh công chúa Thuỵ bà. Thái tôn vừa ngỏ lời, công chúa cười vui, nhận lời ngay. Bà còn dò hỏi:

- Nếu em bằng lòng, chị sẽ nhận thằng Quốc Tuấn làm con nuôi.

Thái tôn không còn mong gì hơn thế nữa. Nhà vua cảm động nói:

- Nếu sau này cháu Quốc Tuấn nên người, công ấy là của chị.

Công chúa nhả miếng bã trầu vứt đi. Hai ngón tay vội tém vành môi, rồi nhổ phì phì những vụn trầu dính ở
mép, ở môi. Bà từ tốn đáp lời em:

- Bệ hạ ban ơn cho chị sớm quá. Cứ để khi cháu nó trưởng thành đã.

Thái tôn mừng rỡ, hai chị em chuyện trò mãi không thôi.

Thụy bà, bấy lâu vẫn có chỗ áy náy ở trong lòng. Nghĩa là hồi Thuận Thiên hoàng hậu sinh được hoàng tử
Quốc Khang. Chẳng nói thì ai cũng biết Khang là con ai rồi. Nhưng từ khi hoàng đích trưởng tử Trần Hoảng sinh, và được sách lập ngay làm Đông cung thái tử. Bà chưa hiểu danh phận của Quốc Khang sau này ra sao, bèn hỏi:

- Hoảng được lập rồi, còn Khang thế nào? Có phải họ Trần ta rồi thành lệ không em? Chị sợ không chính được vị rồi sau này khó lắm. Như Vương Liễu đấy, Liễu cứ hục hặc mãi, suýt binh biến.

Thái tôn buồn rầu nghĩ lại các việc đã qua. Nhà vua không trách chị, nhưng tự trách mình. Với vẻ mặt rầu
rầu ngài hỏi.

- Thưa chị, nhìn bề ngoài thì thế đấy. Chị còn lạ gì, Khang có phải con đích của em đâu. Nhưng lớn lên, tuỳ tài định chức. Bây giờ đã biết thế nào mà dám nói trước. Để cho qua chuyện này, em xin chị lo dùm việc nuôi dạy, bảo ban cháu Quốc Tuấn. Em sẽ tìm thầy văn, thầy võ thật giỏi để rèn dạy cháu. Không biết sao em thấy mến thằng bé quá. Và em cứ hoài vọng nó sẽ là chỗ dựa trụ cột nhất của triều đình mai sau.

- Bệ hạ khỏi lo, dù cực nhọc đến mấy, chị cũng không ngại. Vả lại, chị cũng phải có trách phận với cháu nữa chứ. Ngay cả khi bệ hạ không uỷ thác cũng thế thôi.

- Dạ, được thế, em cũng yên tâm. Thôi kính chị, em về. Đã bước gần tới kiệu, Thái tôn còn quay lại hỏi công chúa Thuỵ bà:

- Thưa chị, bao giờ thì cháu Quốc Tuấn có thể về bên này được ạ?

- Bệ hạ cứ về đi. Mai chị sẽ sửa một cái lễ sang bên ấy để xin Quốc Tuấn. Phải làm cho có đầu có đuôi kẻo
cháu nó tủi thân. Đừng để cháu nghĩ nhầm về chị em mình, rằng nó bị rẻ rúng.

- Vâng, chị nghĩ thế là phải. Kính chị, em về.

- Kính bệ hạ, mai chị sang
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #85 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:39:44 pm »

Được Quốc Tuấn về ở, công chúa Thuỵ bà vui lắm. Thuỵ bà săn sóc, quí mến như con ruột, khiến Quốc Tuấn yên tâm như khi còn đang ở ấp Yên Sinh vậy. Hàng ngày Quốc Tuấn vào điện Tập Hiền, để nghe quan Tư nghiệp quốc tử giám giảng kinh sách. Và mỗi tháng giành hẳn ra mười ngày để sang điện Giảng Võ, nghe giảng về binh thư và tập bầy, tập phá các thế trận.

Trần Thủ Độ đích thân giám sát việc học binh thư, đồ trận của Trần Quốc Tuấn. Một hôm Thái sư chứng kiến cảnh Quốc Tuấn phá trận. Khi thầy đã bầy xong, hỏi Quốc Tuấn:

- Đây là trận gì?

Quốc Tuấn nhảy phắt lên mình ngựa, ra roi đi vòng quanh trận một lượt, rồi trả lời thầy:

- Thưa sư phụ, đây là trận “bát quái”

- Tiểu tướng nói ta nghe cách phá.

Quốc Tuấn nói cách phá thế trận mạch lạc, khúc triết lắm. Thầy bảo.

- Vậy con phá đi. Nhưng nghe ta dặn trước khi vào trận. Điều cốt yếu con phải xác định cho thật rõ phương hướng chính của bốn cửa Đông - Tây - Nam - Bắc. Lâm trận phải bình tĩnh, gan dạ và vững tin vào cái mệnh của mình.

Quốc Tuấn cúi đầu, tỏ vẻ biết ơn sư phụ, lên ngựa xông thẳng vào trận. Vừa vào trong cửa, tự nhiên cổng thành khép lại rồi có tiếng nổ vang ầm. Cả người, ngựa lăn xuống hố. Rồi không biết bằng cách nào, chàng lại vọt từ hố lên. Ai nấy đều có cảm giác đó là một viên thiên tướng. Vì chỉ có tướng nhà trời mới lên được như thế.

Ngay từ khi Quốc Tuấn tế ngựa vào phá trận, Trần Thủ Độ đã biết ngay rằng cháu ông xác định nhầm phương hướng. Nhẽ ra phải đánh từ cửa chính đông sang cửa chính tây, rồi đánh vòng từ chính nam sang chính bắc, thì phá xong ngay. Nhưng Quốc Tuấn lại đánh vào cửa đông – nam. Thế trận trở nên rối loạn. Quốc Tuấn bèn đánh trở lại, nhưng cửa thành đã bịt kín. Tuy vậy, Quốc Tuấn vẫn tỏ ra bình tĩnh. Dường như chàng thiếu niên này biết rõ, chàng không đánh vào cửa tử, nhất định không nguy hiểm gì cho tính mạng. Song gặp rắc rối là chắc. Điều quan trọng nhất lúc này, là phải bình tĩnh mới tìm được lối ra. Xem xét thế trận xong, Quốc Tuấn bèn thúc ngựa đánh thẳng sang cửa chính tây. Lập tức lửa bốc cháy như một bể dầu sôi, ngựa không dám nhích lên nửa bước. Liều, Quốc Tuấn đánh gấp sang cửa bên cạnh. May thay, đó chính lại là cửa tây - bắc, đối diện với cửa đông - nam.

Thế là cửa thành bật mở. Và chàng thoát ra được ngoài.

Đám thiếu niên trong hoàng tộc, cùng con cái các thế gia, được theo học tại Quốc học viện và Giảng Võ đường, Quốc Tuấn nổi lên như một ngôi sao chói sáng. Thật là một trang văn võ toàn tài. Không những Quốc Tuấn được các bậc bề trên yêu trọng, mà cả đám thiếu nữ con các nhà gia thế gia vọng tộc, cũng ném theo con mắt xanh ngưỡng mộ. Nhất khi Quốc Tuấn ở võ trường trở về, ngạo nghễ ngồi trên lưng con tía mật được phủ bằng cỗ yên nạm bạc, đầu đội mũ trụ vàng, chân dận hia đen, thêu đôi con chim hạc đỏ, lưng dắt thanh bảo kiếm, và cây cung đeo vắt ngang vai, thì có hàng đàn hàng lũ đám con gái, con trai trong thành chạy theo. Và cứ thể đồn thổi cái tin con trai của Hoài vương Liễu, một trang tuấn kiệt vừa xuất hiện tại kinh sư. Ngay cả điều đó cũng làm cho thái sư Trần Thủ Độ và nhà vua hài lòng.

Phu nhân thái sư, cũng luôn lui tới cung của công chúa Thuỵ bà, thăm viếng và uý lạo Quốc Tuấn. Người đẹp lòng và tỏ ta kiêu hãnh nhất là công chú Thuỵ bà. Thật ra mỗi người đều có một sở cứ riêng để yêu thương Quốc Tuấn, cũng như có trăm ngàn lẽ để tự hào về chàng thiếu niên tài kiêm văn võ ấy. Các bậc quốc sĩ cũng như các bậc cố lão trong đám quan văn quan võ, đều quả quyết rằng: nếu qua thi tuyển, Quốc Tuấn có thể đứng đầu bảng võ bảng văn. Hay ít ra văn cũng phải đạt tiến sĩ, võ thì tạo sĩ (2). Nhưng có ai hay, ở hương ấp Yên Phụ xa xôi kia, Hoài vương Liễu đang nở từng khúc ruột mà bấy lâu quặn thắt. Ông sung sướng nhất là việc ông xét đoán con không lầm. Vì vậy, việc nuôi dạy, và đón thầy về trợ giúp ông, trong sự rèn luyện tài năng và nhân cách của Quốc Tuấn, quả là không vô ích một chút nào. ÔÂng hy vọng, mai đây Quốc Tuấn có thể làm nên sự nghiệp lẫy lừng. Nhưng vương cũng tự cười thầm mình, vì có chút hơi đa nghi. Vậy là cũng rõ, thái sư thường không chấp trước các việc đã qua. Rõ ràng ông ta là một người khắc bạc đến tàn bạo, song cũng là con người độ lượng khác thường. Ở ông ta có gì thật khó hiểu, chứ không nhất quán như chú em ta. Một đấng thiện vương. “Mà cùng phải, nếu không có thái sư rắn tay cầm cương thì không biết cỗ xe dân tộc này, đất nước này đã rẽ theo ngả nào, hay lại lao đầu xuống vực”. Khi đã không can dự vào các việc rối rắm, để cho cái tâm thư tĩnh, thường người ta có được những phút suy nghĩ đúng đắn, gần đạt tới cõi thiện, tức là đạt tới sự giản đơn của chân lý. Và có lẽ trong đời Trần Liễu, sau bao cuộc toan tính không thành, đây là phút giây đúng đắn nhất mà ông có được.

Một bữa nọ, Trần Thủ Độ thấy rộn lên ở trong lòng những ý tưởng bấy lâu ông hằng suy nghĩ. Ông bèn lên kiệu tới thẳng nội tẩm gặp nhà vua. Đang lúc Thái tôn chơi trò trốn tìm với hoàng tử Hoảng(3). Thái tử lúc này gần bốn tuổi. Đã chạy nhanh, nói sõi. Thái tử vận chiếc áo dài màu đỏ, đội chiếc mũ trắng có đính hồng ngọc, cổ tay, cổ chân đều đeo vòng ngọc bích, vòng bạc để kỵ nắng gió. Thái tử có nước da trắng hồng, đôi mắt lóng lánh, cũng phát sáng chẳng kém gì mấy viên ngọc trên mũ. Nom thái tử đẹp như một tiên đồng.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #86 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:40:25 pm »

Nhìn cha con nhà vua đang vui đùa, thái sư vui lây cái tình thơ trẻ. Ông cứ đứng ngắm nhìn mãi, cho tới khi thái tử chợt nhìn thấy Thủ Độ, bèn khoanh tay: “Chào ông!”. Lúc ấy thái tôn nấp ở sau gốc cột mới ló ra. Nhà vua có vẻ hơi lúng túng.

-Thưa chú…

- Bệ hạ cứ chơi với thái tử đi. Chú rảnh, ghé thăm các cháu thôi. Không có việc gì hệ trọng đâu.

Nhà vua liền gọi mấy tuỳ nữ dẫn thái tử đi chơi. ÔÂng mời thái sư vào bàn trà, rồi sai pha loại trà quí. Cầm chén nước trên tay, thái sư cứ hít hà mãi mùi hương. Đoạn mặt ông ngẩn ra như đang muốn nhớ lại một cái gì đó chưa rõ nét.

Ngầm đoán được ý thái sư, nhà vua lựa lời hỏi:

- Thưa, chắc chú thấy vị trà này hơi quen quen?

- Đúng thế - Trần Thủ Độ mỉm cười - Chú cứ ngờ ngợ trà này chú đã được uống ở đâu, mà nghe có mùi
sương móc. Hẳn là không phải trà Hàng Châu(4).

- Chú có trí nhớ tốt thật. Đây là loại trà quí trên Yên Tử, Phù Vân quốc sư mới gửi về cho mấy bịch. Cháu cứ để dành, dùng vào lúc có khách quý. Hoặc giả khi nào trong lòng náo động, dùng ấm trà này, tự thấy trong lặng khác thường. Để rồi đưa sang biếu chú một bịch.

- Chả hoá ra chú lại có được cái duyên may - Trần Thủ Độ vui lắm. Ông vừa nói vừa cười hồ hởi - Bữa nay chú cũng tự thấy lòng trong lặng, nên muốn đến bàn với bệ hạ đôi điều.

- Chắc Quốc công có điều gì răn dạy.

- Nghĩa vua tôi, bệ hạ nói thế, chú khó nghĩ quá. Hôm nay định đến tâu với bệ hạ vài việc.

- Dạ, chú cứ dạy, Thái tôn nhìn Thủ Độ và thầm đoán xem có điều gì hệ trọng lắm không. Nhưng nhà vua
xét đoán sao nổi một con người từng trải như thái sư.

- Theo sự thẩm định của hoàng thượng, hiện tình nước ta như thế nào? Trần Thủ Độ hỏi nhà vua với vẻ thăm dò, xem sự trưởng thành của Thái tôn đã tới mức nào, để ông còn liệu.

Thái tôn bị hỏi bất ngờ, nhưng vốn là người thông tuệ, lại nắm vững công việc triều đình, nhà vua vui vẻ
nói luôn một hồi khiến quốc công lấy làm thích thú. Rõ ràng là nhà vua đã điều hành được bộ máy quốc gia một cách vững chắc. Và người dân khắp nước đều hướng về kinh sư bái vọng.

Tuy nhiên, nhà vua đôi lúc còn băn khoăn chưa rõ nội tình đất nước khi ông còn nhỏ tuổi, Thái tôn bèn hỏi:

- Thưa Quốc công, xin Quốc công gia ân cho cháu được biết vào các năm đầu của triều ta, có những điều
gì quan yếu nhất?

Quốc công chậm rãi thưa:

- Tâu bệ hạ, nếu kể từ khi bản triều ta nắm quyền đại thống, việc làm đáng kể trước tiên là san định được
bộ hình luật. Điều đáng nói là việc san định bộ hình luật này, tiến hành ngay trong lúc vừa thống nhất được thiên hạ. Mọi sự còn ngổn ngang. Nạn đói đe doạ. Trộm cướp đầy đường. Lòng người chưa ổn. Chính nhờ có bộ luật vừa nghiêm chính, vừa khoan thứ, nên ta ổn cố xã hội được mau chóng. Tiếp đó ta lại tha bớt tô thuế, tạp dịch. Vét kênh, đào mương, đắp đê, phòng lụt. Liền năm được mùa, người dân phải đóng góp ít. Đời sống dân chúng từ phường phố đến thôn ấp, đã thoát được cảnh lầm than đói khổ. Theo đó, ta ban hành bộ Quốc triều thường lễ. Nhờ có bộ sách này mà ta thống nhất được nghi lễ, phong tục. Có lệ tục mới được hình thành, lại có các tục lệ phiền toái, cổ hủ phải bãi bỏ. Người dân lúc đầu chưa quen. Sau thấy thuận tiện, mọi người nô nước làm theo. Thành thử thuần phong mỹ tục đã in được vết Trần trong nền văn hoá Đại Việt. Còn các việc về sau này chắc bệ hạ đã tường.

- Thưa chú, các việc gần đây như soát tù, đại xá và miễn một nửa số tô ruộng cho thiên hạ, là vì mùa hè đại hạn, màu đông lại mưa lũ. Sợ có điều gì thất đức, Trời giáng hoạ, cháu cảm thấy run sợ, nên phải sửa mình. Còn như việc tu bổ Quốc tử giám là việc làm để vừa lòng các bậc lão thần, và các tầng lớp nho sĩ trong nước. Vả lại, một nước văn hiến, phải lấy việc chăm lo đạo học làm đầu. Các việc ấy, tự tay cháu làm, nên hiểu được giá trị của nó. Nhưng đến việc chia nước làm mười hai lộ như ý chú, thay vì hăm bốn lộ như triều Lý đã chia. Điều đó quả thật cháu không hiểu. Nhưng cháu nghĩ, việc gì chú đã làm đều là có chủ ý và có lợi cho dân, cho nước. Thoáng một chút băn khoăn, Trần Thủ Độ thầm khen: “Biết nghi hoặc trước mỗi việc làm, là điều cần thiết đối với những ai có trách nhiệm, có lương tâm. Vậy là cháu ta đã đủ sức lèo lái được con thuyền quốc gia. Phải. Đã đến lúc cần phải trao lại toàn bộ quyền bính cho nhà vua”. Thái sư cười, nói :

- Việc bệ hạ băn khoăn thế là phải. Chú chỉ muốn nói một điều. Việc chia nhỏ ra cho vừa tầm tay với, như nhà Lý làm trước đây là đúng. Nó đúng với nhà Lý hồi quốc sơ. Bởi chưng, nhà Đinh - Lê tiếng rằng đã hình thành một quốc gia, song vẫn còn non yếu lắm. Việc phòng thủ phải dựa vào núi rừng, hang động. Việc tổ chức bộ máy nhà nước, đều nhất loạt nằm trong tay một viên đô giám. Từ châu quận lên đến triều đình đều theo đó mà làm. Vua là một tổng đô giám. Mọi việc còn đơn sơ lắm. Vì sao vậy? Là vì dân trí còn mù mờ. Ngay cả những người đứng đầu bộ máy nhà nước cũng mù mờ, chữ nghĩa chẳng có, lễ giáo cũng không.

Sang đến nhà Lý, cõi bờ mở rộng. Văn hiến tỏ sáng. Kỷ cương lễ nghĩa rõ ràng. Thế nước đã vững, đủ sức hùng cứ một phương. Có thể sánh ngang với nước lớn lân bang. Hóa nên kinh sư phải là nơi giữa thanh thiên bạch nhật. Là nơi tụ hội của bốn phương. Do đấy nhà Lý đã dời đô về thành Đại La. Bộ máy hành chính lập tức được lập ra, để điều hành công việc quốc gia. Các lộ phải chia nhỏ như thế thì quan mới sát dân, mới điều khiển được dân. Ấy là bởi năng lực quan lại thời ấy còn có hạn. Nhiều người làm quan mà chưa biết chữ. Việc sổ sách giấy tờ: sổ đinh, sổ điền, sổ binh, sổ lương, tô thuế, mọi thứ giấy tờ phải tính toán, phải nhập tâm, mà châu to lộ lớn kham sao nổi.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #87 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:41:00 pm »

Thấy Thái tôn chăm chú lắng nghe, Trần Thủ Độ ngừng lời, chiêu một hụm nước, lại nói:

- Tâu bệ hạ, triều ta, dựa trên các việc nhà Lý đã làm. Nhưng có cải biên đi cho hợp với hiện tình đất nước. Ta đã lập được bộ máy từ làng xã đến triều đình. Các chức sắc đều được chọn lựa chặt chẽ, lại được triều đình cấp cho lương, bổng. Các xã quan đều là những người ít nhiều có chữ nghĩa. Các quan lại từ châu, quận trở lên, phải là những người xuất thân có học. Bộ máy của ta đã tinh vi, lại được người có học thức nắm giữ. Hóa nên gom lại có lợi hơn. Vừa bớt được số chức dịch, vừa dựa vào đó để tổ chức các đơn vị dân binh lớn, khi cần nhà nước điều động nhanh hơn. Lương thảo cũng tập trung vào những kho đụn lớn hơn, tiện cho việc cung cấp hoặc chuyển vận. Chia lại bộ máy không những tiện cho việc hành chính, mà còn tiện cho việc dụng binh. Tâu bệ hạ, bấy lâu nay thần canh cánh lo việc nhà Tống với việc quân Thát- đát dòm ngó. Mừng rằng bệ hạ đã đủ trí lực, tài đức, thần xin thành thật tâu trình. Từ nay mọi việc trong ngoài: Phán, xử ra sao xin trao lại để bệ hạ điều hành, thần không dám dự quyết nữa. Nếu bệ hạ còn tin yêu, chỉ xin dự bàn. Duy có một việc, thần cho rằng thần cần phải giúp bệ hạ, ấy là việc binh nhung. Tuy nhiên, nếu cất nhắc được đám tướng trẻ tài đức, xin bệ hạ cho thần được lui về di dưỡng tinh thần là hay nhất. Bởi từ khi nhà Trần ta mở nghiệp, hạ thần đã theo hầu đức tiên quân đánh dẹp từ thuở còn niên thiếu. Lại kíp tới khi tiên quân uỷ thác cho việc phụ chính, trong nước năm bè bảy mối, trong triều cũng rối rắm nhiều bè, lúc nào thần cũng lo sợ như ngồi trên miệng núi lửa. Nay nhờ hồng phúc tổ tiên, mọi việc đều có mối rường, kỷ cương. Xin bệ hạ hãy nắm lấy.

Trần Thủ Độ dứt lời, chợt thấy nét mặt Thái tôn buồn rười rượi. Nhà vua nói:

- Dạo trước cháu đem Khuê Kình đến thưa với chú điều tâm huyết đó, là cốt tránh thiên hạ dị nghị. Chứ không phải lòng cháu có chút hồ nghi. Phụ hoàng đã bỏ cháu đi từ buổi còn thơ dại. Nhờ có chú chèo chống, thế nước nay đã vững. Chú cháu họ tộc đến lúc cùng hưởng lộc thái bình, chú lại định bỏ cháu bơ vơ chăng? Cháu cứ muốn chú sống lâu, mạnh khoẻ, minh mẫn và mãi mãi nắm giữ trọng trách quốc gia.

Trần Thủ Độ rưng rưng cảm động:

- Vẫn biết bệ hạ có lòng quý mến chú, nhưng tình thế bây giờ khác lắm rồi. Bộ máy nhà nước cần phải được mở rộng cho những người tài đức bên ngoài tham gia. Không thể chỉ chuyên chế trong tay một số người họ Trần ta được. Kẻ sĩ bất mãn. Dân chúng cũng bất mãn. Nước là của trăm họ. Trời cho họ Trần ta có phúc lớn thì được ở trên trăm họ. Nhưng còn bộ máy, phải mở rộng hơn nữa cho người ngoài vào. Nếu không, các khoa thi Nhâm thìn (1232), Kỷ hợi (1239) ta tuyển lựa các thái học sinh để làm gì? Mong bệ hạ xem xét cho kỹ, kẻo vì tình riêng mà quên cả việc lớn thiên hạ.

- Dạ thưa chú, chú đã dạy thế, cháu xin chú coi sóc cho việc binh nhung. Nhưng mỗi khi quyết việc gì hệ trọng, cháu sẽ thỉnh chú để chú xem xét. Thưa chú, có tin tức gì bên kia biên ải đưa về không ạ? Nhà Tống với quân Thát xâu xé nhau đến đâu rồi.

- Tâu bệ hạ, Nhà Tống ươn hèn cứ lùi dần. Vừa đây, Tống Lý tông vì lòng tham muốn lấy lại phủ Khai Phong do quân Kim chiếm đóng, nhưng không đủ lực. Đã nhận lời hiệp tác cùng đánh Kim với quân Thát
-đát. Nhưng diệt xong Kim, Thát-đát quay sang diệt Tống. Vua tôi đại bại chạy dài xuống phía nam.
Thái tôn gật gù vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Một lát, nhà vua hỏi:

- Thưa Quốc công, theo ý cháu, trước sau rồi người Thát-đát cũng chiếm được Trung Hoa. Song, chiếm cho hết được dải đất mênh mông ấy không phải là chuyện một mai một chiều có thể làm nổi. Vì vậy ta vẫn còn có thời cơ lo việc giữ nhà.

- Tâu hoàng thượng, đúng như vậy. Nhà Tống tuy yếu hèn, nhưng dân Tống và lớp sĩ phu không dễ gì khuất phục nổi họ. Bên kia biên ải im ắng lắm. Lính Tống nhút nhát, nhu nhược. Lỡ có việc gì tranh chấp xảy ra ở vùng biên thuỳ, các biên tướng Tống thường làm ngơ hoặc nhượng bộ. Còn biên ải phía tây nước Đại Lý do quân Thát-đát chiếm giữ, cũng không có động tĩnh gì. Có điều ta phải đề phòng. Thát-đát có lối đánh kỵ binh sở trường. Quân tinh nhuệ lại thiện chiến, mỗi ngày chúng có thể tiến hàng trăm dặm, thoắt tới, thoắt lui, xuất quỷ nhập thần, khiến quan quân Tống phải lao đao. Tâu hoàng thượng, bấy lâu thần đang canh cánh lo cách đánh, đỡ thế nào để quân kia không phát huy được cái sở trường của nó.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #88 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:42:42 pm »

- Dạ, việc đó chú nên hiệp các tướng lại mà bàn. Chú phải lo cử lính viễn thám cải dạng đi sâu vào đất Thát, xem xét việc tổ chức binh, lương, quân mã, quân bộ, quân thuỷ và phương lược dụng binh của họ thế nào, để còn liệu cách chống đỡ. Thưa chú, việc này lớn lắm, quan hệ đến sự mất còn của nhà nước Đại Việt. Chú thử xem sức quân, lòng dân như thế, liệu quân Thát vào cõi, ta có đủ sức đánh không?

- Tâu bệ hạ, lòng bệ hạ yêu dân như con. Luôn lo lắng chăm chút cho họ. Chắc họ cũng chỉ mong có dịp để tỏ lòng trung với nước. Xin bệ hạ cứ bình tâm. Thần xin tận lực lo việc này. Dạ, bữa nay đến gặp bệ hạ, xin tâu có mấy việc như vậy. Chào bệ hạ, chú về.

Thái tôn toan đứng dậy tiễn Trần Thủ Độ, chợt nhớ ra điều gì. Nhà vua giơ tay ngăn lại:

- Thưa Quốc công, hai khoa thi trước, nhà nước cũng lựa được khá nhiều anh tài. Nay bổ dụng đã hết. Vả lại để cho kẻ sĩ đua tài ra sức giúp nước, cháu định từ nay, việc thi thái học sinh cứ bảy năm một lần. Dạ, theo cháu sớm hơn nữa e không được, mà muộn hơn chắc nhiều người nản. Nếu chú thấy thế là được, sang năm triều đình sẽ ban lệ này, để lớp sĩ phu an tâm rèn rũa việc học.

- Bệ hạ nghĩ thế nào là đúng, cứ thế mà quyết. Chú chữ nghĩa lõm bõm không dám lạm bàn việc văn. Chỉ mong sao nước có nhiều người tài đức.

- Xin Quốc công từ nay đừng nhắc đến việc chữ nghĩa nữa. Quốc công không có thời gian để nghiền ngẫm tam giáo, cửu lưu đó thôi. Cớ sao Quốc công lại tự nhún mình thái quá làm vậy. Nhà vua nói và nhìn trên khuôn mặt quắc thước của ông chú, để dò tìm xem ý tứ Quốc công ra sao. Trần Thủ Độ vừa nở một nụ cười tươi, làm khuôn mặt ông bừng sáng. Nhà vua nói tiếp:

- Quốc công chẳng thấy, biết bao người chữ nghĩa giỏi đến phát rồ lên, nhưng có làm được việc gì ra hồn. Chung qui cũng chỉ là bọn thợ nói, ích gì cho thiên hạ. Còn như Quốc công, chữ nghĩa tuy ít thật, nhưng Quốc công đã làm biết bao việc lớn. Có nhẽ trước Quốc công, chưa ai làm được như thế. Và sau Quốc công, chắc gì có người theo được. Quốc công là bậc kỳ tài có một không hai trong lịch sử nước nhà mà không tự biết, hoặc không cần biết đến.

Trần Thủ Độ cười lớn. Tiếng cười vang lên với vẻ sảng khoái khác thường. Đoạn ông im bặt và nói dằn từng tiếng.

- Vương thượng ơi, sao lại coi thường người có chữ nghĩa được. Nhớ hồi mới dấy nghiệp, thế nước rối như một búi bòng bong, nếu không được Hoàng tiên sinh - một bậc cao sĩ dạy bảo cho đường đi nước bước, thời thần cũng chỉ là một tên võ phu, với một số võ công nhì nhằng. Rồi nhắm mắt lao vào con đường tranh chiến với các phe phái, đẩy đất nước vào cảnh nồi da xáo thịt. Chớ làm sao có thể tạo dựng được nghiệp lớn cho nhà Trần hôm nay.

Bỗng Trần Thủ Độ có vẻ bùi ngùi. Cặp mắt ông mơ màng nhìn vào một cõi xa xăm nào đó. Một lúc sau, ông mới lại cất được nên lời:

- Tới nay, thần vẫn còn hận vì đức mỏng nên không lưu giữ được tiên sinh. Không, ngày ấy hoàng thượng còn nhỏ lắm. Thần đã thờ tiên sinh như một bậc quốc phụ, lại mời tiên sinh tham dự triều chính. Nhưng tiên sinh một mực chối từ. Người chỉ nhận làm môn khách của thần, chứ không chịu làm chính khách của nước. Đúng là những người có đức lớn, không dễ gì lấy quyền uy và phú quí, vinh hoa để lôi kéo họ được. Sai khiến họ, quả là một điều khó. Cực khó.

Thái tôn tỏ vẻ bùi ngùi vì nuối tiếc đã không giữ lại được một bậc quốc sĩ.

Thái tôn cũng cảm thấy chạnh lòng khi nghĩ tới sự thiếu vắng quan thừa chỉ - người đã khai mở cho nhà vua nhiều điều tốt đẹp. Thái tôn nói đầy vẻ tiếc nuối:

- Thưa Quốc công, việc Hoàng tiên sinh bỏ đi là tự ý ông ta không muốn ở lại giúp đời. Còn như việc ra đi của quan thừa chủ, mới làm trẫm ân hận. Suốt đời ân hận. Xin quốc công từ nay hãy vì trăm họ mà trồng cây đức, sao cho người hiền không bỏ chúng ta đi nữa.

Trần Thủ Độ tự nghĩ: “Quan thừa chỉ bỏ đi, chẳng riêng gì nhà vua ân hận, chính ta còn cảm thấy tủi hổ và đau lòng khôn nguôi. Bởi chưng kẻ nắm giữ trọng trách quốc gia, mà để cho người tài đức phải bỏ nước ra đi, đấy là sự phỉ nhổ, sự khinh thị của họ đối với bộ máy nhà nước. ÔÂi, ta cho đó là một vết nhơ, một sự nhục mạ đối với thái sư thống quốc như ta”. Chợt nhớ, nhà vua vừa dặn. Với vẻ nghiêm trang kính cẩn, Trần Thủ Độ đáp:

- Tâu thánh thượng, nếu việc đó còn xảy ra, xin bệ hạ hãy chém đầu thần để giữ nghiêm phép nước.

===================================

1. Cáo : Một loại văn hành chính cung đình. Tuỳ theo mức độ quan trọng khác nhau mà dùng các thể khác nhau như: Chiếu, chế, cáo, biểu v.v….kiểu như thông tri, chỉ thị, giấy triệu tập….của ta bây giờ.

2. Tạo sĩ: một bằng cấp về ngạch võ, tương đương với bằng tiến sĩ bên văn.

3. Trần Hoảng sau là Thánh tôn. Anh là Trần Quốc Khang không được lập, vì khi Thuận Thiên về với Trần Cảnh, đã có mang với Trần Liễu ba tháng. Khang chính là con của Liễu.

4. Thủ đô cũng là đất ăn chơi của nhà Nam Tống.

Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #89 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2010, 08:43:29 pm »

CHƯƠNG 28

Lệ thi Thái Học Sinh vừa được vua ban năm trước. Năm sau mở khóa thi đầu tiên theo lệ mới. Sĩ tử cả nước nô nức đua tài để vào mùa xuân này đọ sức. Nghe nói khoa này sẽ lấy tam khôi(1), và nhà vua đích thân chấm, chọn các bậc tiền tài cho đất nước.

Vừa ăn tết xong, kinh thành Thăng Long còn chưa tan hết khói pháo, sĩ tử các nơi đã dập dìu kéo nhau về quốc học viện để dự các buổi bình văn. Một bữa nọ, Thái tôn ghé qua nhà Quốc tử giám, mới từ cổng nhìn vào đã thấy đám nho sinh ngồi la liệt chật sân, vẫn còn phải đứng ém trong góc vườn để nghe quan tư nghiệp thuyết giảng. Nhà vua nhìn đám sĩ tử đông nghịt, chen chúc nhau, nhưng vẫn im phăng phắc, lòng ngài vui như mở hội - Đây là dấu hiệu của thời thịnh. Giọng quan Tư nghiệp quốc tử giám sang sảng: “… Cái phần chiêu minh ở trong người ta gọi là tâm. Tâm là cái thần minh ở trong vạn vật, là cái tia sáng của Trời phú cho ta để hiểu biết các sự vật. Vũ trụ sở dĩ có là bởi có cái tia hồi quang ấy, chứ không thì dẫu có cũng như không mà thôi. Người ta có cái phẩm giá tôn quí, là cũng nhờ có cái tâm. Cho nên hễ bỏ cái tâm đi, thì vũ trụ chỉ là một khối vật chất vô giác. Bởi vậy, người ta phải giữ cho cái tâm được trong lặng. Tâm có trong lặng thì mới mẫn nhuệ mà cảm ứng được các điều thiện, ác để hành hóa việc người cho hợp với thiện đạo của Trời…” Thái tôn rất bằng lòng với lời thuyết giảng của quan tư nghiệp, về lẽ hằng mà đức Khổng Tử đã từng rao giảng trên thế gian, cách đây từ mấy ngàn năm trước.

Có người vào bẩm, đức vua ngự giá tới thăm quốc học viện. Quan quốc tử giám tế tửu lập cập từ nhà học đường chạy ra, rập đầu lạy tạ, xin nhà vua tha tội.

Thái tôn ôn tồn nói:

- Quan tư nghiệp hãy bình thân. Mau trở lại tiếp tục cuộc bình văn. Ta rất vui, thấy sĩ tử cả nước đã sớm
về kinh tụ hội, mặc dù còn lâu mới tới hạn kỳ thi tuyển. Nhìn đám nho sinh trong sân quốc tử giám, lại nhìn quan tế tửu với vẻ ái ngại, nhà vua nói.

- Quốc tử giám chật quá! Chật quá! Để các sĩ tử đã về kinh đều được nghe giảng trước ngày thi, ta sẽ cho mở cửa Chiêu Văn quán, Sử quán, Tập Hiền viện để các quan vào đấy bình văn, các sĩ tử chia nhau đi nghe giảng. Ngay cả toà Ngự Diên, ta cũng cho mở cửa, đích thân ta sẽ bình giảng. Nói rồi nhà vua quay đi. Khuôn mặt ngài ngời sáng như lấp lánh ánh hào quang.

Thăng Long rét muộn. Sau lễ thượng nguyên(2) rồi mà trong các ngõ xóm, các vườn nhà, đào, mai vẫn còn phô sắc thắm. Nhất là trong vườn ngự uyển, thôi thì đủ sắc đủ hương, trăm hồng ngàn tía. Đào phai, đào thắm xen lẫn hồng trà, bạch trà, hải đường. Lại có cả hoàng mai, bạch mai điểm xuyết một cách kín đáo nhưng không kém phần rực rỡ. Và kìa, những khóm quất, quả còn sai trĩu trịt, thắm một màu vàng. Nhưng các cành nhánh lại bật nở những nụ hoa trắng phau như những hạt bỏng thoang thoảng đưa hương. Hương quất, hương bưởi, hương nhài, hương lan… cùng các loại hoa thơm khác hoà quyện với nhau. Và gió đem mùi thơm đi khắp kinh thành.

Quan đại an phủ sứ của kinh sư khuyến cáo dân chúng kinh kỳ dọn dẹp đường phố, sửa sang tư thất để đón khách bốn phương.

Người Thăng Long vốn hiếu khách, nên nhà nào có máu mặt một tí đều lo chăng đèn, kết hoa, sửa sang nhà cửa. Thật ra thì cũng không phải sửa sang gì cho lắm. Bởi mới tết ra, nhà cửa còn sạch gọn. Chỉ cần treo lại cây đèn lồng. Soạn sửa lại phòng văn. Các đồ văn phòng tứ bảo còn thiếu gì mua sắm thêm. Mực, son, giấy, bút lông thỏ. Mua sắm sẵn đấy cho lịch thiệp thôi, chứ các nho sinh đã về kinh, thì họ cũng đem theo đầy đủ cả. Phố phường chỗ nào cũng rực sáng ánh đèn ban đêm, tấp nập người qua lại ban ngày. Hết giờ bình văn, các sĩ tử từ các cửa Đại Hưng, cửa Diệu Đức, cửa Tường Phù, cửa Quảng Phúc trong hoàng thành tỏa ra phố phường đông nghì nghịt. Đông nhất vẫn là các phố Hàng Giấy, Hàng Bút. Các cửa hàng đua nhau trang hoàng rực rỡ. Các cô gái ngồi bán hàng duyên dáng chào mời các quan trạng, các tiến sĩ tương lai. Trong số các sĩ tử ấy, chắc chắn sẽ có người đoạt tam khôi. Bảng vàng, bia đá, danh thơm muôn đời. Các cô gái ngồi sau những quầy hàng kia, trong lòng cô nào chẳng thầm mơ ước mình lọt vào mắt xanh của các vị đại khoa, mà tương lai chẳng còn xa xăm gì nữa. Các phố Hàng Vải thâm, Hàng Khăn lúc nào cũng nườm nượp người vào ra mua sắm. Nhưng đông hơn cả vẫn là phố chợ Cầu Đông(3). Đây vốn là một phố buôn bán sầm uất, trên bến dưới thuyền. Đây cũng là phố có nhiều nhà trọ, hàng quán. Suốt từ sáng sớm đến tối khuya, không lúc nào qua đây không thấy mùi thơm xào nấu, mùi thịt nướng, thịt quay … Tiếng cười giòn giã, tiếng chào mời chèo kéo, tiếng í ới gọi nhau lên đò, xuống đò. Tiếng xe ngựa rậm rịch. Vắng nhất trong các phố phường vào những ngày thi cử, là phố Hàng Lọng. Các sĩ tử không một ai ló mặt qua đây. Vì ai cũng sợ lỡ ra, các chủ hàng mời mua lọng, thì thật là xui. Bởi vậy, Hàng Lọng các nhà đều đóng cửa im ỉm. Nhưng đằng sau những khuôn cửa đóng kín kia, các tay thợ, các gia nhân làm túi bụi ngày đêm không hết việc. Và tới khi kéo bảng để danh rồi, các nhà ở đây đều mở tung cửa đón khách. Tới lúc này, lại không một phố nào lộng lẫy và đông vui bằng phố Hàng Lọng. Vì rằng các quan trạng, thám hoa, bảng nhãn… một khi đã nhận ÂN TỨ VINH QUI(4) ai chẳng phải mua cho mình một chiếc lọng, để về bái tổ gia hương.

Tháng hai, hoa xoan nở tím cả kinh thành, muỗm đã kết trái xanh non. Hoa chanh, hoa bưởi vẫn còn ngan ngát hương thơm. Người tứ xứ kéo về kinh thành đông nghẹt. Lều chõng, gánh gồng, bầu, níp giăng giăng. Tới lúc này sĩ tử đều phải có mặt hết ở kinh sư, để độ mươi ngày nữa là khoa thi bắt đầu. Dân kinh thành náo nức mong chờ xem quan trạng đầu tiên sẽ là ai. Và người ấy tài giỏi đến mức nào. Tin đồn đích thân hoàng thượng sẽ chấm các bài xuất sắc nhất để chọn tam khôi, càng làm cho kinh thành chộn rộn lên cái không khí của hội đua tài.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM