Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:46:17 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tây tiễn viễn chinh  (Đọc 52411 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 25 Tháng Sáu, 2008, 09:05:07 pm »

18-6-1979

Buổi chiều, trời mưa tầm tã không ngớt hột, nước lai láng khắp cả cánh đồng. Cái lều tranh nơi tôi ở trở nên dột dữ dội, khiến tôi phải lấy tấm tăng căng phía trên mới ngồi yên được.

Bây giờ khoảng đâu 4 giờ 30, thế mà trung đội của tôi đã cơm nước  xong xuôi từ lâu. Bữa cơm của lính quá đơn sơ: một xoong cơm không nhiều lắm, một khay rau to tướng mà anh em vừa hái ngoài ruộng về. Nhìn vào phát khiếp vì nó nhiều và nhiều quá sức tưởng tượng. Phải nói rằng tỉ số rau ở đây gấp 5/1 cơm. Mà phải thế mới no được, "cơn đỡ dạ, rau là chủ yếu” mà.


Nói thiệt, thì có nó cũng còn là may? Ở cái đất này, rau muống thì thật là nhiều. Hễ nơi nào có ruộng hơi ướt ưót tí, là có rau muống. Mà dân ở đây lại chẳng buồn ăn rau muống, nên mới còn lại cho bộ đội ta. Bữa nào lười không đi hái rau cải thiện, bữa đó cái bao tử của tôi nó gào mãi không thôi...


Đời lính chiến là phải thế, gặp lúc thịt không muốn ăn như lần trước khi đơn vị tôi đánh vào cái buôn sát biên giới Thái. Lần ấy, vịt nhiều vô kể, mỗi ngày thịt phải đến gần 20 con, mà trung đội chỉ còn có 10 người. Lần ấy, tôi nhìn thịt vịt là phát ớn. Còn bây giờ thì thèm khát. Bữa ăn chỉ có nước muối chấm rau luộc, may mắn lắm thì được mấy gói bột canh bỏ vào. Có lúc ăn cơm xong nhưng tôi chẳng muốn đứng dậy tí nào. Tôi không hiểu vì cái bao tử của tôi hôm nay nó lớn thêm hay là vì cơm ít.


Khi đêm nằm mơ tôi thấy tôi trở về nhà gặp lại gia đình, gặp lại mẹ và em tôi. Tôi lại có vợ và có con nữa, vui và ấm cúng. Tôi đang đùa nghịch với đứa con nhỏ vui quá. Chợt cu Thành kêu tôi dậy gác. Giật mình dậy, giấc mơ tan biến, bay vèo vào hư không, chỉ còn trơ trẽn một mình tôi với khẩu súng kê trên đầu. Tôi bực cu Thành quá, vì đã phá tan giấc mơ tuyệt diệu của tôi, nhưng đành chịu, không thể gắt với cu cậu được vì nhiệm vụ của lính mà.


Tôi bước chân xuống đất vớ khẩu súng đeo lên vai, ra vị trí với nỗi bàng hoàng tiếc mãi cái hương vị ấm cúng trong mơ đã đến với tôi. Thế là suốt một giờ rưỡi ngồi dựa lưng vào gốc cây thốt nốt gác, đôi mắt tôi cứ dim dim, đầu óc chập chờn theo cơn mộng. Tôi thấy bị lạc lõng giữa vòng đời bao la rộng lớn này.


Lắm lúc ôm súng ngồi gác dưới khuya, ánh trăng chập chờn nghiêng vành mũ tôi thấy buồn buồn làm sao. Tôi nghiêng đầu nhìn xa xôi về phương trời ấy với nhiều nỗi suy tư chồng chất. Màu trăng buồn làm cho tôi càng buồn hơn. Tôi nhớ lắm những kỷ niệm êm ấm đã trôi qua trong tôivĩnh viễn. Quãng đời hiện tại đã xua đuổi tất cả ước mơ nhỏ bé của tôi tan vào hư không. Cho tôi nhớ và buồn buồn khi ánh trăng vàng soi rọi. Cái tuổi mơ vừa hé nở trong tôi chưa kịp khoe thắm sắc hương, đã tàn lụi một cách quá nhanh. Để mỗi lần bắt gặp một ngoại cảnh êm đềm trước mắt, tôi lại vật vờ như vừa đánh mất đâu đây...


Có lúc tôi chẳng muốn nhớ đến làm gì. Đêm đêm, tôi không mơ dù một giấc mơ ngắn ngủi. Để đôi mắt tôi không phải vướng buồn, khi nhìn màu trăng vàng thắm. Để tôi yên lòng với nhiệm vụ của một người thanh niên thời chiến. Nhưng tôi đành chịu bất lực bởi tôi không có trái tim bằng đá. Tôi không có một phép màu huyền diệu để trấn an. Vì thế nên cấl kỷ niệm êm đềm quái ác kia cứ len lén ùa vào tôi. Cho tôi phải buồn, phải nhớ, phải luyến tiếc và ngẩn ngơ.


Khi trong giấc ngủ thả hồn bay về xa xàm ấy, hay lúc ngồi buồn một mình nhìn dải mây chiều giăng ngang ở cuối chân trời xa tít. Nơi ấy tôi đã một lần bập bẹ câu nói đầu tiên. Nơi ấy có mảnh vườn, ngôi nhà đã che nắng che mưa cho tôi suất quãng đời thơ dại. Nơi ấy có mẹ và em tôi. Nơi ấy đã ấp ủ biết bao là kỷ niệm mến yêu của tôi trong thời niên thiếu. Thời mà tôi còn vô tư, chưa biết nhìn đời bằng đôi mắt oán hờn, hay lúc nhìn dải mây chiều lang thang không làm tôi buồn nhớ. Nơi ấy một lần tôi giã từ mẹ hiền, giã từ bạn bè thân thuộc, giã từ những cuộc vui chơi của lứa tuổi giã từ cái ước mơ mà tôi hằng mơ ước để âm thầm bước vàouộc đời quân ngũ.


Có nhiều khì tôi nằm hát nghêu ngao một mình như người lãng trí, nhưng mặc kệ! Tôi hát cho quên đi ngày tháng trôi qua. Tôi hát không cần hay, không có đầu đề hay đoạn cuối. Tôi hát cho chính tôi nghe, hát cho tôi quên ngày tháng nhớ. Hát để nỗi buồn thực tại không làm tôi thấy trống trải hoang vu.


Mấy đứa bạn cùng tiểu đội với tôi giờ đã đi chơi đâu hết. Có lẽ chúng lên chơi với mấy cậu cùng quê ở các "Bê" (trung đội - ĐVH). Bây giờ chỉ còn lại mình tôi. Sở dĩ tôi không buồn đi chơi, vì chẳng quen thân thiết với ai trong cái đại đội của tôi. Chỉ có 1 thằng bạn học cùng trường ra và về ở với tôi cùng đại đội nhưng hôm nay nó đã nằm ở viện vì cơn sốt rét ác nghiệt đến ám ảnh. Ở đây tôi chẳng có ai là đồng hương cả, nên buồn chẳng muốn bước chân ra khỏi nhà và lại còn phải ở nhà để cảnh giới địch nữa. Địch ở đây thì không gọi là nhiều, hơn nữa với trời quang như vầy thì nó chẳng bao giờ dám vào tập kích cả. Tôi bỏ liều vào nằm viết nhật ký cho qua đi chút thời gian.


Với cuộc sống là một thằng lính bộ binh như tôi thì chẳng có gì gọi là đáng nhớ. Súng đạn cứ lạch cạch theo sau mỗi chuyến hành quân dài ngày. Còn bây giờ thì quanh đi quẩn lại có mấy việc: đi truy quét, đi phục, đi tuần, đi công tác lẻ. Có vậy thôi mà nó cứ quanh đi quẩn lại mãi. Lúc có lệnh là tôi đi, xong đợt lại về nghỉ, rồi lại đi. Lấn quấn cũng không ngoài mấy cái buôn có địch hay những khu rừng bị nghi là có lính Pol Pot hoạt động, thế thôi.


Tôi thầm nghĩ, nếu như một kẻ nào đó có công ghi lại từng cây số mà đôi chân nhỏ bé của một người lính bộ binh đã bước qua thì trong suốt cuộc đời của lính nó sẽ là con số khổng lồ và khủng khiếp lắm.

Tôi từ giã cái đơn vị 17 truyền tin hôm 28-3-79 bước vào C5 của E 812 này làm nhiệm vụ chiến đấu đến nay cũng gần 3 tháng.

Trận lớn, trận nhỏ tuy không nhiều nhưng tôi cũng đã tham dự đầy đủ. Đạn AK tôi bắn đâu khoảng 100 viên, B40 đã 3 quả. Nhưng tôi không bắn trúng được tên giặc nào để gọi là lập nên chiến công. Có lẽ là tại tôi bắn súng quá dở và hồi hộp quá, nên mới trật thôi. Tôi phải xách ca đi ăn cơm cái đã kẻo mấy lằng bạn réo um rồi.


Ăn bữa rau muống luộc no quá, gần vỡ cái bụng ra, giờ lại nằm viết nhật ký tiếp. Buổi sáng rau muống luộc, buổi trưa rau muống nấu canh, buổi chiều lại luộc rau muống... Cứ thế món rau muống xoay quanh mãi chẳng có gì khác hơn. Mà ở đây có loại rau gì ngoài rau muốn đâu!


Thỉnh thoảng ngán rau muống quá, lính ta kéo thau đi tìm rau dền, đọt bí, dền gai, dền cỏ, đọt bí già… ăn hết, chả ngán thứ nào. Nhưng rau dền hay đọt bí ở đây cũng hiếm lắm, thế là lại trở về với rau muống thôi. Không biết tại ăn rau nhiều quá, hay cái bao tử của tôi đêm nằm nghe như máy nổ? Nhưng không ăn thì không ổn với cái ruột rồi, nó gào và réo dữ lắm. Thôi kệ, ăn nhào. Ông bà mình có âu "đói ăn rau, đau uống thuốc" mà? Khi chiều, vì thích thú quá, tôi xách súng ra “ăn chim”. Không may cho tôi, bị đại đội phó Trường bắt được quả tang. ông "quạt" cho tôi một trận mát mẻ. Chẳng biết còn chống chế thế nào, tôi đành đứng im chịu trận. Tức lắm, nhưng vì tôi làm sai, nên phải im thin thít thôi.

Đời quân ngũ mà, cấp trên "quạt" cấp dưới là sự thường. Nhưng sao tôi cứ áy náy mãi đến bây giờ, tính tôi hay tự ái lắm. Vì thế trong cuộc sống tôi không muốn ai nói ra nói vào với tôi một tiếng nào, như cái sự việc khi chiều xảy ra cho tôi. Nó sẽ làm tôi suy nghĩ không ít.

Tôi phải tạm dừng ở đây, đi sửa soạn mấy thứ cần dùng để mai đi phục vụ cái đã.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 25 Tháng Sáu, 2008, 09:06:04 pm »

25-6-1979

Lại phải rời xa B1 để sang A cối. Tôi không thích mấy, nhưng cũng vui vui. Tôi không thích sống ở B1 là vì trong B có mấy anh lính xứ Nghệ chỉ biết cục bộ địa phương, nên suốt từ lúc tôi về ở B1 họ không làm tôi thoải mái tí nào.

Hôm nay tôi từ giã B1 bước sang A cối, cũng làm tôi hơi buồn một tí, vì sống ở môi trường nào quen với môi trường ấy. Nhưng bù lại, tôi được sống cùng anh em miền Nam không lộn vào mấy anh xứ Nghệ "cục bộ". Lúc ra đi tôi tức lắm, muốn chửi cậu Thịnh một trận. Nhưng tôi cố kiềm lại, vì nghĩ lúc ra đi đừng làm gì để anh em trong B nghĩ mình thế này thế khác Bây giờ tôi vẫn còn tức cậu Thịnh B phó.

Cậu "cục bộ" và tồi quá, chỉ biết lo cho bản thân và đồng hương của cậu ta.


2-7-1979

Cho tôi xin tuổi thơ một lần trở lại để tôi được nô đùa thoả thích. Màu thời gian không nhuộm mờ ánh mắt vô tư, để nụ cười rộn rã luôn nở rộ trên môi. Tôi được sống vui tươi bên mẹ, bên em, bên bạn bè thân ái. Để tôi được ngồi trong vòng tay âu yếm của mẹ hiền vào những chiều đông lạnh buốt bên bếp lửa hồng ấm cúng. Để tôi được nũng nịu và dỗi hờn khi không vừa ý. Để mẹ phải dỗ dành gạ mua những thứ đồ chơi đẹp nhất cho tôi. Để đêm đêm mẹ ru tôi vào giấc ngủ say sưa trong vòng tay ấm. Tôi không còn sợ gì nữa vì đã có mẹ rồi ?

Cho tôi xin tuổi học trò thân ái trở lại cùng tôi. Để tôi được khoát lên mình chiếc áo màu trắng thương yêu ngày hai buổi cắp sách đến trường, bên thầy, bên bạn, bên chiếc bảng đen ngoằn ngoèo nhiều chữ số. Để những lần mải rong chơi, không thuộc bài bị thầy quở mắng và được lãnh một cặp "hột gà" vào quyển sổ điểm xanh xanh to tướng. Để chiều chiều trên con đường từ trường về nhà, tôi mải mê đánh bi cùng chúng bạn, quên mất bữa cơn chiều mà mẹ đang chờ. Để tôi giận và rượt đuổi mấy đứa bạn, khi chúng lấy tên tôi ghép vào tên một đứa bạn gái nào đó, rồi gọi ầm ĩ lên.

Cho tôi xin một mùa phượng nở trong tuổi học trò, để tôi phải bùi ngùi bắt tay tạm biệt cùng bạn bè. Để quyển nhật ký nhỏ bé của tôi có thêm những dòng chữ và những cái tên quen thuộc đầy quyến luyến. Để tôi nhớ mãi tiếng ve sầu hát khúc biệt li. Tuổi học trò ơi ! Màu áo thư sinh ơi? Ta đã một lần đánh mất? Cho tôi xin tuổi mộng mơ một lần lại đến, dưới ánh trăng vàng nhuộm sáng con đường cát, tôi lang thang cùng người yêu bé bỏng đi tìm hương vị của tình ái. Cuộc sống sẽ là giấc mơ đẹp nhất, khi đôi môi kề sát bên nhau. Vòng tay âu yếm tôi đan vào tay em không rời. Tóc em hòa theo gió bay bay, vướng vào mắt tôi, vướng vào môi tôi. Ôi! Hương tóc em thơm quá. Tôi say mất! Cho tôi một lần hẹn hò rồi em không đến, để tôi chờ trong khắc khoải, để tôi giận em và yêu em hơn.

Cho tôi một ngày Chúa nhật đẹp trời rong chơi nơi phố cảng quê hương. Tôi sẽ lang thang mãi trên đường để ngắm thành phố đẹp và tôi thấy yêu cuộc sống hơn. Để chiều chiều khi tan sở, tôi đạp xe trên con đường tráng nhựa thẳng tắp về nhà, gặp người yêu nhỏ bé của tôi đi về ngược chiều. Em cười, ôi nụ cười xinh quá tôi ngắm đến say sưa. Để màu mắt tôi không vướng buồn khi nhìn dải mây chiều lang thang ở cuối chân trời xa tít. Để tôi chẳng bao giờ rơi một giọt lệ nào trên lứa tuổi đôi mươi khi đêm nằm tôi nhớ về người mẹ hiền của tôi nơi quê hương xa mù đó. Ôi? ước mơ của tôi đã bay vào hư không mất rồi.

Cho tôi xin một ngày giã từ bộ chiến y màu lá rừng xanh thẳm. Để súng đạn, kỷ luật, giờ giấc không đè nặng trên đôi vai trong những chặng đường hành quân dài ngày. Để tiếng nổ của đạn bom không làm tôi kinh sợ, để cánh rừng xanh thẳm không che kín ước mơ. Để những chiều mưa nơi đất bạn không làm tôi ướt và lạnh cóng.

Cho tôi xin một giấc ngủ yên lành trong đêm, không lo nghĩ và sợ sệt, không phải thức giấc để đứng gác, để bầy muỗi đói không ào đến hút máu tôi, để tôi say sưa trong mơ mộng.

Tuổi hai mươi ơi? Một lần nào từ giã ra đi biền biệt. Bao giờ tôi trở lại với ngày tháng cũ năm xưa? Vào một chiều, khi đơn vị đóng quân nơi bờ hồ-Buồn quá!
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 25 Tháng Sáu, 2008, 09:06:52 pm »

7-7-1979

Cái mệt mỏi cứ đè nặng và lấn áp tôi mãi, khiến tôi chẳng muốn làm một cái cử động nào của thân thể. Đến việc đi tắm và giặt cặp đồ quá nhớp nhúa, mặc kệ, phải nghỉ cái đã.

Suốt một ngày nay đôi chân tôi cứ đi mãi lúc qua ừng, lội suól, lúc băng đầm lầy bùn nhão nhoẹt. Mà ở cái đất này về mùa mưa thì thôi khỏi phải nói, bước chân ra khỏi nhà không gặp nước ắt đụng bùn, tránh đâu cho khỏi.

Bây giờ về nằm nghỉ tôi mới thấy mệt mỏi, các khớp xương như rã rời. Chán quá, chả thèm ghi nữa, nghỉ cho khỏe tí đã.


20-7-1979

Ghi vắn tắt mấy dòng cho chú sáo nhỏ xinh xinh của tôi. Tôi mới nuôi chú sáo nhỏ này khoảng 10 ngày. Tuy vậy, chú sáo đã thân với tôi ghê lắm bởi vì khi người ta bắt buột chú phải rời chiếc tổ nhỏ về sống và làm bạn với người, chú chỉ mới là một cục thịt đỏ hau, chưa có sợi lông và cũng chưa biết suy nghĩ về những điều hơn thiệt. Chú chỉ biết há chiếc mỏ to tướng, chờ đón những con dế, con cào cào do người thay cha mẹ chú bón cho.

Nếu nói về công dưỡng dục, thì chú sáo này phải mang ơn đến 3 người. Đầu tiên, một người bạn của tôi trèo lên tận ngọn một cây cổ thụ đem chú ra cùng lượt với 5 anh em của chú. Lúc ấy chú chỉ ngúc ngoắt được cái đầu rồi kêu inh ỏi suất ngày. Lúc ấy chú ăn nhiều lắm. "Dưỡng phụ” (cha nuôi) của chú phải vất vả lắm mới đủ số dế cho chú ăn hằng ngày. Thế rồi thời gian trôi, chú cũng lớn dần theo thời gian, đủ lông, đủ cánh nhưng chú vẫn phải nhờ con người bắt từng con dế bón cho chú.

Làm "dưỡng phụ” mấy ngày, có lẽ chán quá, người bạn tên Lượt của tôi lại bàn giao cho một người người khác tên Sĩ cùng tiểu đội với tôi làm "dưỡng phụ kể'. Nhưng không may cho chú sáo nhỏ, người "dưỡng phụ kể” này lại mắc cái chứng bịnh đau bụng liên miên. Làm "dưỡng phụ kể” đâu được mấy ngày, một hôm, anh bạn Sĩ gọi tôi và bàn giao chú sáo cho tôi. Tôi bắt đầu làm người dưỡng phụ cuól cho chú sáo nhỏ.

Xác định là người "dượng phụ” cuối cùng nên tôi yêu chú sáo nhỏ này lắm. Đã từ lâu, phải nói là từ lúc tôi còn nhỏ kia, tôi đã mơ có một chú sáo để nuôi. Và thật ra thì hôm nay tôi mới bắt đầu nuôi chú sáo này là lần đầu tiên. Tôi quý chú lắm?

Mặc dù là "dưỡng phụ" của chú, nhưng tôi vẫn coi chú là bạn, vì chú là nguồn vui của tôi. Kể từ lúc có chú tôi như vui thêm ra, bận bận thêm chút, lo lo thêm chút. Mỗi lần đi đâu xa chú, tôi thấy nhớ ghê, lại còn lo cho chú. Tôi sợ chú đói, sợ người ta bắt chú mất. Có lúc đang ngủ trưa rất ngon, chú bay lại đậu gần bên tôi kêu lên inh ỏi. Biết chú đói, thế là tôi phải dậy dẫn chú đi bắt cào cào cho chú ăn. Tuy chú phá giấc ngủ ngon của tôi, nhưng tôi không sao giận và gắt với chú ta được, vì tôi yêu chú lắm.

Giờ đây chú sáo của tôi lớn thêm nhiều, đã biết bay xa. Tôi chưa đặt tên cho chú, vì tôi chưa tên ra cái tên nào hay hay. Chú có bộ lông đen mượt từ đầu đến đuôi chỉ nơi ven cánh có mấy sợi lông trắng làm nổi bật đôi cánh khi chú bay. Cũng vì cái sự bay bay kia mà có lắm lúc tôi bực chú ghê. Chú bay đậu trên ngọn dừa cao vút, tôi huýt gió hoài chú cũng chả thèm xuống. Tôi sẽ nhốt chú vào lồng suốt ngày cho chú biết tay. Thế nhưng khi đói chú lại làm lành, tôi kêu tức thì chú sà đôi cánh xuống và đậu trên vai tôi. Tôi lại thấy thương thương chú làm sao. Tôi lại hết giận và tiếp tục đi bắt cào cào cho chú ăn.

Chú sáo của tôi là vậy đó. Tôi quý chú sáo của tôi lắm. Tôi hứa sẽ cố công nuôi nấng và dạy dỗ để chú nói được tiếng người. Ôi! Lúc ấy thì tôi sẽ vui lắm?

Có lúc nhìn chú sáo nhỏ của tôi mà lo, vì tôi là thằng lính chiến nay đây mai đó, nhiều khi hành quân cả tháng trời. Bởi vậy, tôi lo chú sáo của tôi suất đoạn đường hay lại bỏ dở nửa chừng. Tôi sợ mất chú sáo nhỏ xinh xinh này của tôi, nhưng tôi biết làm sao? Thôi mặc kệ, tới đâu hay đấy. Đường đời mà!

Chú sáo nhỏ xinh của tôi ơi! Hãy theo tôi nhé! Tôi sẽ bắt cào cào, dế cho chú ăn suốt ngày. Chú cần gì tôi sẽ làm vừa lòng chú ngay, đừng bỏ tôi mà đi nghe chú sáo thương yêu. Tôi sẽ nhớ chú lắm đấy, vì chú là bạn của tôi, là nguồn vui mà tôi đã bỏ công ra để tạo nên. Xa chú, tôi sẽ buồn, sẽ nhớ chú nhiều lắm?

Hỡi chú sáo nhỏ xinh xinh của tôi, đừng bao giờ xa lánh tôi nghe chú.
(Viết để kỷ niệm tôi nuôi con sáo đầu tiên).
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2008, 08:35:29 pm »

Phần thứ chín
Từ khi phong hàm hạ sĩ

"Cứ mỗi chiều, khi chút nắng vàng còn đậu lại trên chóp đầu cây thốt nốt trước nhà, là tôi lại một lần lo lắng: không biết đêm nay địch có tập kích vào nơi tôi ở không? Đó là câu hỏi thường hiện lên trong tôi vào những lúc trời chập choạng tối. Để đến lúc ông mặt trời ló chiếc đầu đỏ hói từ phương đông nhìn sang, thì câu hỏi của tôi mới được trả lời đêm qua địch không tập kích, tôi vẫn còn sống và tiếp tục một ngày  mới. Cứ thế ngày này nối ngày kia trôi nhanh qua trong sự lo lắng, khiến tôi chẳng nhớ rõ ngày nào là ngày nào cả."
(Trần Duy Chiến, 21-8-1979).


27-7-1979

Ghi vài dòng để kỷ niệm ngày mà tôi nhận thêm một hạt 2-6-1979).

Sở dĩ mãi hôm nay tôi mới ghi, là vì hôm nay tôi mới biết. Đời lính mà! Mỗi một sự thay đổi đến với tôi dù nhỏ bé hay to tát, nó cũng làm tôi nhớ nhớ, quên quên.

Được thêm một cấp, nói rõ hơn nghĩa là tôi bắt đầu từ giã "chú Binh" để bước qua và làm quen với họ hàng "nhà sỉĩ”. Hôm nay tôi là Hạ sĩ. Kể ra cũng thấy vui vui mặc dù cái vui chỉ nhỏ nhoi và bé tí của một thằng lính chiến.

Tám giờ tối, những cậu lính vừa được thêm 1 hạt với vẻ mặt xuề xoà, có vẻ vui vui, tụ họp quanh chiếc nhà tranh nho nhỏ của đại đội. Trong đó dĩ nhiên là có tôi. Chẳng cần lễ mễ lộc cộc làm gì, ngó quanh nhà thấy hơi đủ mặt, Chính trị viên Thủy có bộ râu quai nón trông cũng đẹp, bắt đầu hắng giọng. Ông đọc ro ro một hồi họ và tên những cậu lính có trong giấy quyết định. Đọc xong ông quán triệt một hồi với mục đích cũng chẳng có gì lạ. Thế thôi, xong, ai về nhà nấy!

Gọn gàng và ngắn ngủi như thằng lính. Mà phải thế mới được, xúm xúm cùng nhau lâu lâu thì ớn lắm, địch nó tập kích cho bỏ xừ. Cái làng quê "a Long-cóp" của đất nước Ăng-ko này chứ đâu có phải là ở Đà Nẵng, Sài Gòn mà xúm lại để vui được?

Thế thôi? Tôi là thằng lính chiến mang quân hàm hạ sĩ mới phong. Từ nay phải nở mặt một chút mới được. "Ta đây là Hạ sĩ, ha ha!".
Vui quá là vui chúng mình vui quá
Vui quá là vui chúng mình quá vui
Vui quá là vui chúng mình vui quá
Vui quá là vui chúng mình hệt vui!
Tại vui quá nên gãy răng rồi mà
Hệt vui đáng đời - Thế thôi!


29-7-1979

Thế là hết ức quá, tôi ức cho tôi, ức cho cuộc đời và tức giận ghê gớm mấy "chú Tí" hôi. Tôi ức cho tôi vì quá chủ quan, thiếu trách nhiệm với chú sáo nhỏ xinh để chú phải chết. Tôi ức cho đời vì đời đã tạo ra nhiều khúc khuỷu quá để cho tôi phải xa chú sáo của tôi. Tôi ức cho mấy "chú Tí", vì mấy chú đã xơi mất chú sáo nhỏ xinh của tôi làm cho tôi phải nhớ thương vẩn vơ.

Mà có ai lại không thương không nhớ cho được. Chú sáo xinh xinh của tôi là người bạn, là nguồn vui to tát của tôi. Nay đã tự nhiên vụt biến khỏi tầm tay tôi làm sao tôi không khỏi thấy nhớ nhớ vu vơ. Tôi biết làm sao đây? Tôi cất tiếng huýt sáo với vẻ mặt thờ ơ, nhưng giờ đây không còn một con sáo nào bay tà tà đến đậu trên bờ vai tôi nữa. Con sáo của tôi đã chết, thế là hết. Công trình nuôi dưỡng và ước mong của tôi với chú sáo giờ đây đã tan biến. Những buổi sáng, buổi chiều, buổi trưa, tôi đâu còn bắt dế, bắt cào cào cho chú nó ăn. Thế là hết, con sáo nhỏ của tôi đã chết. Tôi thương và nhớ chú nhiều lắm?

Tôi nhớ con sáo nhỏ của tôi quá!
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2008, 08:36:17 pm »

2-8-1979

Đem quyển nhật ký ra, tôi chẳng muốn ghi lại một sự việc gì vào đây, bởi nhẽ cây viết bíc bấm của tôi nó đã hết mực. Hơn nữa, chẳng có gì gọi là đáng nhớ. Buồn thì có lẽ nhiều, nhưng vui thì không timf đâu ra.

Tôi ngồi chép nhật ký bên chiếc bàn làm bằng cái thùng xăng của một chiếc máy hư nào đó, mà chính tay tôi đã lăn vào đây từ cái lúc tôi mới bước chân về A cối này.

Gió chiều thổi mạnh, những tàu lá to tướng giống như chiếc quạt khổng lồ của hàng cây thốt nốt trước nhà tôi bị gió làm rung chuyển, va vào nhau phát ra những tiếng rào rào đến inh tai. Con đường cái bên bờ hồ nằm lặng yên buồn thảm.

Cảnh vật hôm nay khác hẳn với mấy ngày đầu khi đơn vị tôi vừa về đóng ở nơi cái thum Long-cóp này, những chiếc xe bò, xe trâu bánh gỗ đi qua lại liên tục trông nó cũng vui vui.

Bây giờ đây, con đường trước mặt nhà tôi ở cũng đổi khác rồi, vì đơn vị tôi sợ lộ bí mật quân sự nên chẳng cho một ai đi ngang qua đây. Con đường và bờ hồ trước mặt nhà tôi ở từ đó cũng lặng yên, không còn rầm rộ. Nhưng đối với riêng tôi, cấm dân chúng đi trên con đường này làm tôi giảm đi cái phấn chấn. Bởi vì tôi là một thằng nghiện thuốc, mà ở đây thì tôi chỉ biết xin dân chứ tôi không tìm đâu ra được. Thế nhưng
dân không đi qua lại thì tôi xin đâu ra? Có những lúc buồn quá, tôi tà tà ra những vị trí mà trước đây dân hay nghỉ trưa, ngóng cặp mắt lao láo tìm nhặt cái mẩu thuốc rơi. Dần dà rồi những cái mẩu của dân lia quanh đó cũng hết, không tìm đâu ra, đành nhịn. Tôi vẫn biết rằng đi nhặt từng cái mẩu của dân là một điều hết sức sỉ nhục và chẳng có vệ sinh tí nào, nhưng tôi vẫn lượm bởi vì tôi thèm. Tôi thèm nên đâu còn nghĩ đến những cái sỉ nhục kia.

Chiều nay tôi ngồi đây ghi vài dòng nhật ký cho trôi qua cái giờ phút nhàn rỗi này. Tôi suy nghĩ mông lung về cuộc đời của thằng lính, hay nói cho rõ hơn là về cuộc đời cầm súng của chính tôi. Tôi đâm ra bi quan rất nhiều, không phải vì tôi chán ghét chế độ, cũng không phải vì tôi không am hiểu về chính trị của nước nhà và nhiệm vụ của người thanh niên. Song tôi đâm ra nản nhiều, thằng lính chiến nay sống mai chết, có gì đâu mà phải suy nghĩ nhiều.

Cứ mỗi chiều, khi chút nắng vàng còn đậu lại trên chóp đầu cây thốt nốt trước nhà, là tôi lại một lần lo lắng: không biết đêm nay địch có tập kích vào nơi tôi ở không? Đó là câu hỏi thường hiện lên trong tôi vào những lúc trời chập choạng tói. Để đến lúc ông mặt trời ló chiếc đầu đỏ hói từ phương đông nhìn sang, thì câu hỏi của tôi mới được trả lời-đêm qua địch không tập kích, tôi vẫn còn sống và tiếp tục một ngày mới. Cứ thế, ngày này nối ngày kia trôi nhanh qua trong sự lo lắng, khiến tôi chẳng nhớ rõ ngày nào là ngày nào cả.
Và mỗi lần đem quyển nhật ký ra ghi, tôi phải hỏi mấy đứa bạn hay đoán mờ mờ, rồi ghi vào liền, chẳng rõ đúng sai. Với cuộc sống mà tôi đang có bây giờ chỉ vậy thôi.


7-8-1979

Hôm nay, lần đầu tiên tôi đến chợ Mung. Tuy cái chợ này chỉ cách Long-cóp khoảng 5 cây số. Nếu như không có mục đích là đến để xem thử và đổi tấm áo mưa lấy ít gói thuốc Thái Lan về hút thì tôi cũng chả đến làm gì.

Tôi đi theo con đường cái nằm ven sông mất đâu tiếng rưỡi. Chợ Mung từ từ hiện dần ra trước mắt tôi theo nhịp bước chân, càng lúc càng rõ cái quang cảnh nhộn nhịp của nó.

Lách qua mấy rổ cá bày bán ven đường, tôi cùng cậu Huế đi dọc theo chợ để xem. Qua mấy dãy hàng xén, tôi đâm ra ngỡ ngàng hết sức. Tôi không ngờ là nó đầy đủ và đẹp như vầy. Đủ thứ mặt hàng, những chiếc xà rông hoa màu sặc sỡ bày bán la liệt, những ve dầu thơm, những cục xà phòng thơm, những gói thuốc thơm, những viên kẹo thơm... Nhiều quá? Toàn là những mặt hàng của Thái Lan được bày bán ở đây chiếm đâu khoảng 90%.

Từ đáy lòng lại rộn lên nhiều cái vui vui. Tôi đi qua, đi lại, đi để được nhìn thấy cái cảnh nhộn nhịp của một buổi chợ mà đã gần 4 tháng nay tôi mới thấy lại ôi? Sao mà đẹp thế, sao mà vui và dễ yêu đến thế? Khi đi ngang qua cái hàng bày bán thuốc lá, tôi dừng lại, đứng tần ngần nhìn những gói thuốc thơm mang hiệu Gold City của Thái Lan sản xuất được bày bán ở đây một cách rộng rãi. Những gói thuốc đẹp quá nằm trước mắt tôi dễ thương ngần nào. Nhân dân ở đây chưa có tiền để dùng vào việc mua bán. Họ trao đổi hàng hóa cho nhau qua trung gian là gạo. Tôi lấy tấm áo mưa đem theo ra đổi, được 3 gói Gold City.

Bóc gói thuốc lá đầu lọc ra hút. Nó ngon ngon làm sao. Mùi thơm của khói thuốc như quyện vào mũi, vào môi tôi. Vui miệng, tôi nói với cậu Huế một câu:

-Có đi đánh giặc "K" mình mới được hút mấy hơi thuốc thơm này.

Hai đứa cùng ngẫm nghĩ, rồi cùng cười như thông cảm cho câu nói đùa vô tình của tôi.

Chúng tôi cứ quanh quẩn chơi mãi, đến lúc cái bụng nó nhắc, hai đứa mới quay về. Đi ngang nhà ông bạn Thon (người Cam-pu-chia), biết tiếng Việt bập bẹ. Trông thấy tôi, Thon gọi vào chơi. ông Thon đang làm cơm, thế là ông bảo hai đứa ở lại ăn cơm cho vui. Thôi cũng chiều, chỉ từ chối vài câu qua loa cho vui. Tôi cũng ăn với ông bạn một bữa để biết mùi vị Việt Nam-Cam-pu chia.

Buổi chiều lại đi bộ 5 cây số về, mệt đừ! Tôi vừa đi vừa suy nghĩ về cái chợ Mung mà tôi đã được tận mắt nhìn. Tôi bật cười vu vơ như bắt được tin vui, phải chăng tâm hồn tôi đang có nhiều cái vui mới?!
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2008, 08:37:42 pm »

14-8-1979

Tin đồn Trung đoàn 812 sắp về nước được lan truyền đi một cách nhanh chóng. Dù đây chỉ là cái tin vu vơ, cái tin "hành lang" không có gì làm bằng chứng cụ thể, nhưng tôi vẫn mải miết chờ trông. Mong sao cho cái tin "hành lang" kia trở thành sự thật thì vui biết là bao!


Tôi và bạn bè cùng màu áo, cùng nhiệm vụ đều ao ước được trở về quê hương, về lại đất nước. Để làm gì? Mỗi người đều có cái suy nghĩ riêng của họ nên tôi không biết. Còn riêng tôi, mơ ước được về lại bên đất nước hẳn là cái mơ ước lớn lao. Còn về nước để làm gì thì đó là cái điều tôi đang suy nghĩ. Về nước để chính con mắt tôi được nhìn lại quê hương sau gần nửa năm xa vắng, mà bây giờ tôi thấy mến yêu sao. Để tôi được nhìn lại dòng sông xanh biếc, nhìn lại cánh đồng bát ngát và được nhìn lại túp lều tranh lụp xụp nấp mình sau rặng tre xanh. Về nước để tôi được ngồi trong cái quán nhỏ bên phố, uống cốc cà phê đượm tình dân tộc và nhìn cái cảnh nhộn nhịp của phố phường quê tôi.


Về nước... ôi biết bao nhiêu là việc như xếp thành hàng và chờ sẵn trong đầu óc tôi. Mỗi lần vụt nghĩ đến hai tiếng "về nước" là nó ùa ra, khiến tôi nhớ không sao hết được.

Ai đi xa quê hương mình mới thấy yêu quê hương một cách thắm thiết Tôi đây cũng vậy. Lúc còn sống trên cái mảnh đất chôn nhau cắt rốn, tôi nhìn quê hương một cách bình thường và vô tư như trẻ con. Tôi thấy quê hương tôi không đẹp và cũng chẳng dễ yêu như khi tôi nhìn trên màn ảnh. Thế rồi vì sự ham muốn khám phá mới lạ của cái lứa tuổi thanh niên, tôi đâm ra ước ao một ngày nào đó tôi sẽ rời xa quê hương đi nơi khác. Để cặp mắt tôi được nhìn những cảnh mới lạ, cuộc sống mới lạ mà tôi chưa thấy. Và cái ước ao của tôi đã trở thành sự thật. Tôi được sang đất nước Cam-pu-chia. Hôm ấy là ngày 29-11-1978.


Tôi đã từ giã quê hương bằng cặp mắt hững hờ, không vướng bận. Tôi đã không một chút gì luyến tiếc bởi trong tâm trí lúc ấy có nhiều sự thay đổi.

Thế rồi thời gian cứ nối tiếp trôi qua, đôi chân nhỏ bé của tôi cũng ghi được nhiều, nhiều lắm những điều mới lạ khiến tôi không nhớ hết nổi. Nơi nào đôi chân tôi đã đi qua: Tà-keo, Lâm Phát, buôn Lung, Bat-tam-băng, Lô-via, Mung, Phô-xít, Trà-mốc, Phờ-ray-chít, Tà-lá, Phum-phênh, Xay-cờ-rơn và bây giờ là Long-cóp.


Đôi mắt và khối óc cỏn con của tôi đã ghi được những gì? Cánh rừng dài và dày san sát, lội qua mấy ngày đường chưa ra khỏi, không có một giọt nước. Những quả đồi trọc nằm chồng lên nhau, cánh ừng cao su xanh um, trải rộng. Nắng bụi bám vàng cả áo, trời mưa đất nhão nhoẹt, phải lê từng bước chân mệt mỏi, nhớp nhúa. Mấy xóm nhà sàn lợp bằng tranh cỏ hay bằng lá cây ghép lại nằm rải rác ven đường cái.


Đó là lúc tôi còn ở buôn Lung, còn từ khi tôi bước chân sang cái tỉnh Bat-tam-băng này, tôi lại ghi thêm vài cái mới nữa: Những chiếc xe đóng theo kiểu cổ xưa hai bánh bằng gỗ có niềng sắt bao quanh chống mòn. Tôi không biết là nó mạnh bao nhiêu mã lực? Chỉ thấy rằng khi chạy thì phải nhờ một cặp trâu, hay bò nai lưng trườn tới để kéo.


Còn nhiều và nhiều lắm, nào là thành phố Bat-tam-băng chết lịm, không một bóng người dân hiền lành (đó là lúc tôi mới đặt chân đến, chứ bây giờ thì nó đã sống lại rồi). Đó là những cánh đồng rộng mênh mông bát ngát, cộng với những con đê to, chạy dài, thẳng tắp. Có lần tôi phải rùng mình khiếp sợ và cảm phục cho cái sức lực nhỏ bé của con người, chỉ dùng hai bàn tay đắp từng thỏi đất nhỏ mà tạo nên.


Nào là màu da đen, sạm nắng, mái tóc cắt ngang tai ở các cô gái từ nhỏ đến lớn, cộng thêm bộ đồ đen, hay chiếc váy đen, cùng chiếc khăn rằn quàng cổ. Nhưng bây giờ cái mặc của nhân dân cũng có đổi khác đôi chút, nhìn vào dễ coi hơn đó là chiếc xà-rông hoa màu sặc sỡ, chiếc áo chiếc quần có vẻ hiện đại hơn. Đó chẳng qua cũng chỉ là hàng của Thái Lan do người buôn lậu mua về, chứ nhân dân thì chàng có cái
gì khác ngoài đôi trâu, cái cày.


Nào là quang cảnh cái chợ Mung rộn rịp bày bán đủ thứ mặt hàng của Thái Lan, nào là những mảnh vàng con con bị chặt xiên xẹo để đổi chác cho nhau...

Tôi còn ghi những gì nữa?

Có lần, tôi bị thằng địch phục bắn trượt 2 viên đạn suýt chết. Trận đánh dai dẳng trên đường hành quân, trái cối 82 nổ cách tôi chưa đầy 5 mét, địch vây tứ phía, xả đạn dày đặc về phía chúng tôi, cả đơn vị rượt địch chạy dứt hơi nhưng cũng thú vị. Những lần lội qua bàu, qua suối, nước lút đến ngang cổ; những chiều mưa ướt đẫm và dai dẳng... Nhiều lắm, cái đầu óc bé con của tôi không sao nhớ hết nổi.


Suốt dặm đường gian khổ ở cái đất nước mà lúc đầu tôi đã ao ước được đặt chân đến để biết thêm cái mới cái lạ, bây giờ nó không thu hút tôi như cái lúc đầu nữa. Đâu phải tôi đã đi khắp, nhìn thấy hết cái đất nước Ăng-ko này rồi nên tôi không thích ở đây nữa. Thử đặt câu hỏi: Vì sao tôi không thích?


Vì bây giờ đây tôi thấy mến, nhớ và yêu quê hương tôi một cách kinh khủng? Ở cái quê hương Chùa Tháp này không làm cho tôi khuây khỏa với ngày tháng buồn tẻ của đời lính. Không có tà áo dài trắng thướt tha, mái tóc thề ôm kín đôi vai nhỏ của người con gái, chiếc nón lá bài thơ dịu dàng, thuỳ mị, cặp má hây hây, nụ cười dễ mến, dễ yêu. Một cái làm tôi chán nản đó là sự bất đồng tiếng nói của hai dân tộc Cam-pu-chia và Việt Nam.


Tôi nói tôi nghe, họ nói họ nghe, thế thôi. Lẽ ấy cho nên tôi không muốn và không thích ở cái đất nước này dù chỉ một giờ một phút.

Không biết nên cho số phận của tôi là may hay rủi khi có mặt ở E 812 anh hùng? Nó càng rõ nét hơn là tôi lại có mặt ở cái C5 của E 812 cũng anh hùng với các C khác trong E. Có lúc tôi cũng tự hào với cái truyền thống của C tôi. Nhưng đôi khi tôi cũng nản không ít. Bởi vì cái C5 của E 812 không phải là toàn hảo. Và chính tôi luôn có nhiều sự thay đổi về tư tưởng, lúc này, lúc khác, thế thôi?


Mơ sao một ngày nào sắp đến với tôi. Đơn vị tôi lên xe về lại quê hương dù một thời gian không dài lắm cũng được. Mơ sao cái tin dễ mến kia trở thành sự thật, đừng để tôi phải cụt hứng, phải điên đầu.

Ở cái đất thị trấn Mung này càng lâu, tôi càng nhận thấy những điều lộn xộn của nó. Từ bề ngoài nhìn vào trông nó có vẻ hiền lành và yên ổn đối với người lính, thế nhưng có cầm súng đứng trong cuộc mới thấy được cái phức tạp chất chồng. Những tin tức đầy sự lo âu: Địch sắp dùng lực lượng lớn về đánh Mung, địch về cách Mung 3 km, địch đã áp sát Mung với số quân 2.000 tên, ngày... địch sẽ tấn công Mung vân vân và vân vân


Lo âu chất chồng lo lâu, suy nghĩ cộng thêm suy nghĩ. Mỗi lần có cái tin như vậy là đơn vị tôi lại phải lên đường truy quét. Và dĩ nhiên là có tôi với khẩu cối 60 lục cục trên vai, lại băng rừng, lội suối, cơm vắt, nước lã, muỗi đốt.


Mấy cái thum nằm quanh Long-cóp này như Phôm-phênh, Tà-ná, Phô-xit, Trà-mốc, Phờ-ray-chít, Xay-cờ-rơn cộng thêm những cái tôi không nhớ tên. Xa vài ngày đường có gần đôi ba cây số có, hình như tôi đã thuộc gần hết.


Đời lính là một chuỗi ngày chất chứa đấy rẫy sự khổ cực và lo âu. Ai là người cầm súng mà không có cái suy nghĩ như tôi, có chăng là những con người không bao giờ thật thà với lương tâm của mình và một số người mệnh danh là cầm súng nhưng chưa bao giờ cầm súng mới không cùng cái suy nghĩ ấy. Bởi nhẽ họ cũng đổ mồ hôi, nhưng vào những lúc lao động, họ cùng đi hành quân từ nơi này đến nơi khác nhưng bằng xe. Quá lắm, nếu có vận dụng đến đôi chân thì bù lại chiếc ba lô sau lưng họ chứa những thứ đồ dùng cá nhân hằng ngày. Chúng nặng đến độ thả xuống nước có thể làm chiếc phao cho những ai chưa biết bơi dìu đó mà qua sông.


Họ cũng nghỉ trên đất giặc, nhưng không bao giờ giặc đến được nơi họ ngủ, bởi vì quanh họ có một lớp rào nhạy bén và nguy hiểm gấp trăm lần hàng rào điện tử tiên tiến trên cái thế giới văn minh hiện nay.

Còn lại, ai chắc cũng cùng một suy nghĩ như thế vì hành động của họ và của tôi chắc là không khác nhau mấy. Cũng hành quân dài ngày, cũng chiếc ba lô nặng, cũng mồ hôi nhễ nhại, cũng ngủ rừng lội suối, cơm vắt, muối rang...
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2008, 08:38:32 pm »

Đêm đêm cũng thức vài tiếng ngồi lặng thinh nơi gốc dừa, gốc xoài, gốc thốt nết hay lại là một gốc me ven đường nào đó để nghe tiếng "sáo muỗi" trỗi khúc nhạc "hút máu người" vo ve bên tai. Họ giấu kín mình vào bóng đêm, họ yên lặng chờ đợi.


Họ đang làm gì nhỉ? Ngồi ngắm cái cảnh tĩnh mịch của một đêm chăng? Không đúng bời họ đâu phải là nhà thơ, là thi sĩ. Họ đang ngồi tịnh tâm cho hình hài yên tĩnh chăng? Càng không phải bởi họ đâu là một nhà tu hành hay một nhà võ thuật.


Họ đang làm gì? Bên mình họ lại còn có khẩu súng nữa kia. Họ đang canh chừng sự sống cho đồng đội. Họ chờ đợi ai? Họ chờ đợi cái bóng đen như ma quái đi lom khom trong đêm tối, rình cướp đi sự sống của đồng đội. Cho nên họ phải yên lặng, kiên nhẫn đến lầm lì và chờ đợi.


Trên cái mảnh đất mà hiện giờ tôi đang sống, thì màn đêm không là cái êm dịu và sự yên tĩnh. Tôi nhìn cái màu đen kia bằng nhiều cảm giác và cũng nhiều suy nghĩ. Nó không hiền từ hay êm ái như cái cách nhìn của các nhà thơ. Nó chứa trong mình nhiều cái chết chóc. Nó che giấu sự rình mò và lén lút đáng sợ. Nó làm cho người lính thấy gờn gợn và lo âu.


Tôi sợ chết? Phải? Bởi hình hài hiện tại của tôi là bằng xương bằng thịt, bằng sự sống, nên tôi sợ chết. Nhưng cái chết nó không làm tôi suy nghĩ nhiều, chỉ có sự lo âu làm tôi thao thức.

Trong giấc ngủ chập chờn, biết bao nhiêu câu hỏi hiện trong đầu: Đêm nay địch có tập kích không? Lực lượng địch đông không? Có đánh vào hướng tôi không? Tôi phải xử trí thế nào? Ngoài thùng đạn của mình có được bao nhiêu quả, đủ bắn không? Nếu địch nổ súng vào hướng nhà tôi, tôi phải làm thế nào? Bò hay chạy khom cho nhanh để ra công sự Cứ thế, tôi tự đặt cho tôi những câu hỏi và tôi cũng tự trả lời. Có lúc tôi nghĩ liều cho qua đi những cái lo âu. "Thôi kệ, khéo lo xa, được đến đâu hay đến đấy. Đời lính mà, có lúc nào yên đâu. Chỉ trừ khi bên mình không còn cây súng?".


Có lắm lúc tôi buồn cười cho tôi quá. Bởi khi có một mãnh lực nào đó tác động vào tâm trí là tôi lại xác định tư tưởng rõ ràng: muốn phấn đấu hơn nữa với nhiệm vụ của mình? Như khi chiều qua họp nghe Đại đội phó Trường thông báo về tin chiến thắng và tin C tôi được tặng thêm một Huân chương Chiến công hạng Nhất. Lúc đó, cái suy nghĩ và cái gương mặt tôi không như bây giờ đâu. Nó rạng rỡ, vui tươi như một chú bé được quà. Phải nói rằng tôi rất tự hào và hãnh diện về đơn vị C5 mà tôi đang ở. Tuy rằng tôi chỉ là 1 phần nhỏ bé đối với 50 phần to tướng kia.


Lúc ấy tôi phấn khởi nhiều lắm. Giá như cái bụng dễ chịu đôi chút, thì tôi cũng đã lên đường đi truy quét với anh em rồi. Thế nhưng bây giờ thì tôi không nghĩ như khi chiều qua nữa. Gương mặt rầu rầu với cái suy nghĩ cũng chẳng khác gương mặt là bao. Người ta nói "tư tưởng con người diễn biến liên tục qua từng giây từng phút" đối với tôi nó chả sai tí nào.


Đừng bao giờ nghĩ lầm cho tôi rằng tôi không thông suốt đường lối và tôi không xác định được nhiệm vụ của lứa tuổi thanh niên đối với đất nước hiện nay... Không đúng, nếu thế tôi đã né tránh không đi nghĩa vụ quân sự rồi và tôi có thể nói chính trị không vấp váp cơ mà.


Nhưng sao tôi không thích làm một người lính từng giờ chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc? Tôi thích làm người dân để được gần thành phố, gần quê hương, bạn bè thân thiết, gần những cái mà người lính không sao có được. Phải chăng tôi hèn nhát, không đủ nghị lực để gạt bỏ những cái quá khứ, những kỷ niệm êm đềm của tuổi mơ để bước vào một cuộc sống mới đầy gian khổ?


Với tôi cũng chẳng tin được câu trả lời nào để giải đáp cho tôi cả. Thế nên tôi vẫn buồn, vẫn nhớ, vẫn thương cho mình. Tôi thương cả cho mẹ, cho em, cho bạn bè và quê hương. Mỗi khi hình ảnh khách quan nào bên ngoài tác động vào là đôi mắt tôi lại vướng buồn trong khoảng nhớ.


Mấy đứa bạn đã đi chơi từ lúc nào tôi không biết. Có lẽ chúng ra ngoài kia để chọc mấy cô bận váy với vài câu tiếng Miên vừa học thuộc. Ngôi nhà giờ chỉ còn lại mình tôi, nó trở nên lặng lẽ, trống trải thêm. Bây giờ mới khoảng hơn 4 giờ 30, nhưng tôi cứ ngỡ đã chiều lắm rồi.


Tôi ngước mắt nhìn ra phía đường cái, chán rồi nhìn ngược lại cánh đồng ruộng đằng sau xanh thẳm. Một vài đám mây trôi lang lang không định hướng, bầy vịt nước bay ngang kêu lên chim chíp như muốn phá tan sự yên tĩnh của không gian. Bên kia hồ, mấy chiếc xe bò đi về, tiếng gỗ nghiến ken két khó chịu. Mấy luồng bụi đất bốc lên bởi cái móng chân cứng ngắt của đôi bò, càng làm khó chịu cho những người dân đi bộ theo sau. Họ vội vã, hấp tấp vì sợ tối. Trông người nào cũng nặng nề vì cái bao trái cây trên đầu.


Một luồng gió nhè nhẹ từ phía tây thổi tới, làm tôi khoan khoái dễ chịu. Gió làm mấy tàu dừa, tàu thốt nốt đong đưa, tạo ra cái âm thanh rồn rột. Bây giờ nghe tôi chả thấy gì, nhưng ngược lại trong phiên gác nó làm tôi sởn da gà không ít.


Những gì còn lại sau cuộc chiến? Đó là câu hỏi và sự trả lời lại là hiện thực: Nhà cửa bị tàn phá, nhân dân đói khổ. Có thể người dân ở đây thông cảm cho hoàn cảnh đất nước mình. Họ cặm cụi làm việc suốt ngày. Họ đi vào những phum vắng người để tìm thức ăn, có gì ngoài mấy đám ruộng lúa chắt, mấy cây đu đủ, cây sắn, mãi tối mới về. Có đêm về tối quá, không dám đi, họ đốt lửa để xua muỗi. Thế là đơn vị tôi tưởng địch, lại xả súng bắn vào. Tôi không trách đơn vị tôi được bởi đơn vị tôi sợ bọn Pôn-pốt lợi dụng để tập kích. Tôi chỉ thương cho cuộc sống của dân thôi.

Nhưng tôi đành chịu, chỉ biết nhắc họ là không nên đi về tối nữa.

Nhưng cũng có lúc tôi cảm thấy chả thích tí nào về họ. Nói đúng hơn là tôi ghét họ, điều này thì chính tôi cũng chả hiểu tại sao.

Buồn quá. Cuộc sống nơi đây với tháng ngày buồn tẻ của đời lính chiến không ăn sâu vào tiềm thức tôi một kỷ niệm nào. Rời xa tôi sẽ không luyến nhớ, có khi còn mong thích nữa. Hôm trước đọc cuốn sách "Đoạn tuyệt" của Nhất Linh có một câu phương ngôn mà mãi đến bây giờ tôi còn nhớ: "Khi nào không có một cái gì làm cho mình vui, thì mình nên vui với cái mình có". Thế nhưng tôi chả có cái gì gọi là "có" để mà "vui". Không nhẽ vui với giấc ngủ, vui với cuộc sống, với khẩu súng-những cái mà tôi đang có được ư? Nếu thế, tôi cũng thử vui với chúng xem sao.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2008, 08:39:08 pm »

1-9-1979

Lại sắp phải rời xa cái phum Long-cóp này.

Kể ra cũng nuối tiếc. Ai mà không động lòng một chút, khi mình chia tay với con người, cây cỏ và những cảnh vật quen thuộc hằng ngày, dù con người hay cảnh vật nơi đó có đáng ghét nhiều đi nữa.

Cái ngày chính thức đơn vị di chuyển khỏi nơi này tôi chưa được biết, vì chưa thông báo. Chỉ đoán mò qua những cái tin hành lang đầy sự cấp bách.

"Ngày mai đi, ngày mốt đi", vân vân và vân vân...

Bây giờ, lúc sắp rời xa cái phum Long-cóp này, tôi mới thấy yêu và quyến luyến nó ghê. Đầu óc tôi như bị cái ngoại cảnh chung quanh níu kéo, nửa muốn đi cho khuất mắt cái phum cô quạnh này, nhưng nửa còn lại chẳng muốn xa nơi đây tí nào.


Tôi muốn xa cái phum Long-cóp này vì ơ lâu tôi đâm chán với cảnh vật và con người quá quen thuộc tôi muốn được thấy cái mới và cái lạ. Còn tôi không muốn xa, cũng là vì tôi sợ đến nơi khác biết đâu lại là không có được những cái như ở nơi đây. Biết đâu nơi mà tôi chưa đến nó sẽ hiu quạnh, buồn tẻ và hoang vắng đến ghê sợ. Nó sẽ không có cái hồ nước trong vắt cho tôi tắm nghịch cùng bạn bè suốt buổi. Thế nên tôi cũng luyến tiếc không ít.


Với những giờ phút quí giá còn lại, tôi như thấy nó trôi qua một cách quá mau lẹ. Mới trưa đó, bây giờ đã chiều rồi.

Tôi luyến tiếc ra đứng tựa bờ hồ nhìn lại cảnh vật lần cuối. Tôi đăm chiêu suy nghĩ. Tôi cố ghi lại những kỷ niệm của ngày tháng ở đây trong cuộc đời binh nghiệp, dù nó không êm đềm như những ngày tháng cũ năm xưa.


Không biết cảnh vật trước mắt tôi đang buồn, hay là tôi đang buồn? Mưa lại bay bay, mấy luồng gió lạnh ùa vào người, chui vào ngực áo, khiến tôi cảm thấy lành lạnh. Xa xa, cánh đồng mù trong mưa chiều, một vài cây thết nốt đứng lẻ loi, rũ xuống mấy tàu lá khô buồn tẻ.


Xa xa hơn nữa, là phum Tà-ná, phum Phệnh, phum Cà-rân-xay và những cái phum mà tôi đã đi qua rồi, nhưng không nhớ tên. Nơi đó đã ghi dấu những bước chân nhỏ bé của tôi trên chặng đường truy quét, để bây giờ đi xa tôi thấy nao nao...


Bảy giờ sáng mai, đơn vị tôi chính thức rời xa nơi đây. Bây giờ thì không còn hồi hộp nữa, vì đơn vị đã thông báo khi nãy. Tôi ngồi sắp xếp đồ đạc cho gọn gàng vào chiếc  ba lô mà suy nghĩ mông lung "Đời quân ngũ nay đây mai đó, nơi nào có bóng quân thù nơi ấy có ta".


Ngày mai ta lại có mặt ở một nơi nào đó, ngày kia ta lại có mặt ở một nơi nào khác nữa? Cứ thế, ta vẫn đi không dừng và thời gian vẫn trôi qua không ngừng. Cứ thế và cứ thế... Ta chỉ sẽ dừng chân lại ở một nơi nào, lúc mà trên mình ta không còn khoác bộ chiến y màu lá rừng xanh thẳm nữa.

Cuộc đời binh nghiệp là thế và thế thôi?
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 04 Tháng Bảy, 2008, 07:17:02 pm »

Phần thứ mười
Tà-sanh, xứ sở của muỗi và những trận sốt rừng

"Phải công nhận là thằng Pôn-pốt nó quá ác, giết người hàng loạt. Hôm ở Long-cóp, khi đi truy quét qua một khu rừng, tôi có dịp chứng kiến những cảnh tượng ghê rợn: Người bị chết dưới hục nước chưa tan, có kẻ thịt đã bấy ra như mắm. Con nít có, người lớn có, chín mười xác người bị chất chồng lên nhau để đốtl Có người chỉ cháy cái đầu, cái mình còn lại khô queo và vàng cháy như một khối thịt quay. Nhiều lắm, cả một khu rừng chớ đâu phải ít. Đi ngang khu rừng, cả đơn vị như chạy. Cái khăn ướt luôn che kín mũi, tuy thế mùi thối nồng nặc vẫn xông lên tận óc".
(Trần Duy Chiến, 15-9-1979).


4-9-1979

Hôm nay tôi có mặt ở một vùng đất xa xôi, lần đầu tiên đặt chân đến. Khi đi ngang qua thành phố Bát-tam-bang, làm rộn lên trong tôi nhiều cái vui và cũng xen vào đó nhiều nỗi nhớ xa xăm. Thành phố Bát-tam-bang mà tôi tưởng mình đang đi trên đường xa quê hương ngày nào.

Theo con đường 10, xe cứ chạy thẳng, xa dần thành phố, xa dân cư, xa cuộc sống nhộn nhịp và bây giờ tôi đang sống giữa rừng.

Buồn ơi là buồn, sao mà buồn lắm thế? Cảnh vật hoang vắng, im lờn như không hề biết là đơn vị tôi đã có mặt nơi đây.

Tôi đưa cặp mắt nhìn quanh chỉ thấy ừng và rừng nối tiếp trùng trùng. Hình như ở đây chỉ có thế, biên giới chỉ có thế.

Ai mà vui cho được với cảnh núi ừng hoang vắng này, dù người đó có vô tư gấp trăm lần trẻ thơ đi nữa.
Rời Long-cóp, xa thị trấn Mung, tưởng đâu sẽ đến một nơi nào dễ yêu dễ mến hơn, nào ngờ lại là như vầy…
Có còn nơi nào khác hơn như nơi này nữa nhỉ? Buồn lắm cho cuộc đời thằng lính bộ binh?

(Đầu tháng 9-1979, theo yêu cầu của nhiệm vụ, đơn vi của Trần Duy Chiến-Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 812-đã cơ động về hướng Tà-sanh, đia danh nổi tiếng khắc nghiệt về địa hình và thời tiết. Tà-sanh-Pai-lin sát với biên giới Thái Lan. Đây là trọng điểm dịch sốt xuất huyết của khu vực Đông Nam Á. Toàn bộ tàn binh địch dồn về khu vực Tà-sanh. Trong một trận quyết chiến, quân ta đã tiêu diệt phần lớn quân địch tại đây, thu hàng chục xe tăng, đại bác, rất nhiều quân trang quân dụng, cùng con dấu của Chinh phủ phản động Cam-pu-chia. Số địch còn lại, trong đó có bọn chỉ huy đầu sỏ đã vượt biên, bỏ chạy sang Thái Lan-Chú thích của Đại tá Nguyễn Văn Hồng).


6-9-1979

Buổi chiều trời mưa tầm tã, buồn mà nó cũng thú ghê. Thú là tôi được tắm một trận, còn buồn thì khỏi phải nói.

Chiếc nhà âm nho nhỏ chỉ đủ sức chứa được sáu người, khiến tôi cứ ngồi im một chỗ. Nhìn ngoài trời mưa như trút nước, khu rừng trước nhà bị chìm đắm trong mưa.

Khi trưa nghe đài, biết được hôm nay là ngày khai trường, lòng tôi rộn lên nhiều nỗi nhớ xa xưa. Ngày tháng cũ của đời học trò hiện về trong tôi. Có hàng phượng vĩ trước cổng trường khoe sắc đỏ, có những gương mặt rộn rã vui tươi, có màu áo trắng trong xinh như một bầy chim non đang tụ họp dưới mái trường êm ái. Những mẩu chuyện nho nhỏ của tháng ngày xa cách lại nở ran khắp sân trường...

Ngày ấy tôi còn vô tư lắm, chưa biết yêu hoa lài nên hương thơm không làm tôi nhớ hay mơ mộng xa xôi. Chỉ có một nỗi mong sao cho ngày tháng qua mau, cho qua hết ba tháng hè oi bức, để tôi được cắp sách trở lại mái trường, bên thầy, bên bạn, bên những cuộc vui êm đềm của lứa tuổi mộng mơ.

Thời gian trôi nhanh như trong chiêm bao, khiến tôi bàng hoàng và có cảm tưởng như vừa thức dậy. Mới đó đã là một khoảng thời gian dài của cuộc sống. Cái ngày mà tôi còn vô tư, luôn vui đùa với chúng bạn, với màu áo trắng thư sinh đã biến mất tự bao giờ, khiến tôi khống còn nhớ.

Chúng bạn cùng lớp cùng trường với tôi bây giờ có đứa còn đang theo học và sắp sửa thành ông bác sĩ, bà kỹ sư. Có đứa đã là mẹ, là ba của những em bé. Còn tôi bây giờ vẫn là con số không rỗng tuếch. Tôi không hận cho đời và cũng chẳng oán trách gì cho người. Tôi chỉ thương cho số phận của tôi. Thượng đế đã không ban phép lành cho riêng tôi, nên bây giờ tôi mới khổ.

Khi đêm ngồi gác dưới trăng khuya mờ ảo, tôi nhìn trăng tưởng mình đang sống giữa tuổi mơ. Phải chăng màu trăng buồn hay tôi đang buồn? Chắc có lẽ là tôi buồn thì đúng hơn. Phiên gác đêm sao mà dai dẳng không muốn dứt, tôi chờ đợi thời gian đến như chờ người tình trong chiều hẹn.

Có ai qua rồi trong cuộc chiến
Mới nghe lòng thương kiếp sống chinh nhân.
Đêm trên điển chốt.

Bốn tiếng không dài, nghe qua rất bình thường, nhưng có bước chân qua rồi mới biết, mới hiểu trong đó có biết bao nhiêu là điểm khác với cuộc sống bình thường của con người.

Núi chập chùng núi, rừng nối tiếp rừng. Chiều mưa giông buồn nhớ, đêm hoang vắng lạnh lùng, có thế thôi và còn nhiều nữa...

Mỗi lúc khi đêm về, cái màn đen trùm kín thì suy nghĩ của tôi cũng đổi khác. Có ai biết trong cái màn đen im lờn kia đang giấu kín những gì? Sự hồi hồi hộp của tôi cũng tăng dần theo tiếng sột soạt của những con chồn hay con chuột nào đó chạy phót đi.

Nhất là vào những đêm mưa bay, ngồi trong ca bin của chiếc xe hư do bọn "K" bỏ lại, nhìn ra phía bìa rừng... Tôi như thấy nơi đó có nhiều sự nguy hiểm đang rình mò và sẵn sàng xả vào tôi những viên đạn quái ác không ngờ trước được .

Mới nhận được tin ngày mai đi truy quét ở Tà-sanh. Tôi nghe phong phanh là ở Tà-sanh nhiều địch lắm, vì ở đó gần sát biên giới Thái Lan. Đơn vị K3 đóng ở gần đó đi bứt đu đủ, chuối vẫn thường hay gặp địch luôn. Nghe qua cũng ớn, nhưng phải làm một chuyến thử xem. Có đi đến mới biết mà. Khi còn đóng quân ở Long-cóp, mỗi lần nói đến hai chữ Tà-sanh, tôi hình dung và tưởng tượng ra biết bao là điều dữ dằn lắm. Thế nhưng khi đặt chân đến vị trí này, tôi thấy là không như tôi tưởng. Suốt thời gian qua địch chưa gây phiền nhiễu gì đến đơn vị tôi cả. Thế nên tôi cũng chẳng sợ gì, cứ đến nơi xem thì sẽ rõ. Đi cho biết đó biết đây, tôi phải đi khắp mới được. Có khổ mới thấu được nỗi khổ, mới thấy cuộc sống yên bình là giá trị và mới yêu quê hương đất nước hơn.

Tôi có cái suy nghĩ đó bởi tôi đã bước vào cuộc chiến, đã thấm sâu nỗi khổ và thiếu thốn của người lính chiến, thế thôi?
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 04 Tháng Bảy, 2008, 07:17:42 pm »

15-9-1979

Mấy ngày đi truy quét về mệt đừ. Phải nói rằng từ trước đến nay tôi đã đi truy quét nhiều lần rồi nhưng chưa có lần nào mệt như đợt này.

Toàn đi trong rừng, lên đồi, xuống dốc, chui qua gai. Chiếc áo, chiếc quần của tôi có nơi tôi mạng đến 3 lần thế mà vẫn rách bươm, gai tre đan chằng chịt thế mà phải chui qua. Có lúc mệt quá, chẳng thèm cúi để luồn qua, tôi bươn càng, nhưng đâu thoát. Mấy sợi dây rừng dai nhách níu khẩu cối 60 nhùng nhằng, lúc ấy tôi bực lắm muốn vức khẩu súng cho xong nhưng không được vì khẩu súng này không phải là của riêng tôi. Nếu là của ông già tôi thì cũng dễ tính biết mấy. Đằng này nó là của Nhà nước, của nhân dân. Tôi đành phải vác theo suốt đoạn đường. Khổ nhất là lúc lội qua sông, nghe đồng chí Đại đội trưởng quán triệt "Không để rơi mất vũ khí, có chết cũng không được rời?".


Nước chảy quá mạnh, thoắt cái có thể đẩy người tôi đi xa trên chục mét nếu tôi sơ hở (Bây giờ nhớ lại lúc ấy tôi ớn sợ ghê). Mấy đồng chí bộ binh họ được gọn thế, là từng bước từ từ họ qua, còn tôi vác khẩu cối 60 nặng 13 cân nằm chàng ràng trên vai, mất một tay vịn nó, chỉ còn một tay để vịn qua, thật khó khăn. Nhất là tối đến trời lại mưa, áo quần ướt đẫm, tăng, võng, cái gì cũng ướt vã, vừa ngủ vừa run.


Hôm trước vào đánh ở Tà-sanh làm tôi chưng hửng. Tôi tưởng đâu Tà-sanh sẽ là một thị trấn, hay một cái gì đó sẽ đẹp đẽ hơn những cái phum ở Long-cóp. Nào ngờ đi đến nơi, mới thấy nó chẳng như những gì tôi nghĩ tốt lành về nó. Nhà cửa tiêu điều, mấy cái xác bị cháy, nằm trong ngôi nhà sàn cũng cháy, chỉ có cây cau là nhiều, chắc chúng nó cũng buồn tình nên chẳng thèm ra trái.


Và tôi lại đi tiếp một cái phum ven sông mà tôi chẳng biết tên. Đơn vị tôi đã bắn chết bốn tên địch ở đây. Chả có tên nào còn súng cả. Tôi lượm một trái dưa gang to nằm cạnh xác của một cô gái vừa bị địch bị bắn chết. Mấy giọt máu đỏ chót dính vào vỏ dưa, tôi chùi đi đem ra mấy đứa bạn cùng tôi ngồi xơi ngon lành.


Phải nói rằng từ lúc khoác lên người chiếc áo trận tôi thay đổi nhiều về tình cảm. Ngày trước, tôi thấy người người chết chả dám nhìn, có lúc nằm mơ thấy họ hiện hồn về dọa tôi. Cái đầu lâu là thứ mà tôi ghê sợ, mỗi khi nghĩ đến tôi cứ nổi da gà. Thế nhưng bây giờ thì tôi không còn một chút gì gọi là sợ sệt với những thứ ấy nữa. Cái đầu lâu bây giờ trở thành một vật tầm thường hết sức trước mắt tôi. Tôi có thể đá để nó lăn như một quả bóng cho vui. Tôi đã từng thấy những người sắp chết, hay một bãi xương người lẫn đầu lâu chồng xéo lên nhau trong một khu rừng vắng.


Phải công nhận là thằng Pôn-pốt nó quá ác, giết người hàng loạt. Hôm ở Long-cóp, khi đi truy quét qua một khu rừng, tôi có dịp chứng kiến những cảnh tượng ghê rợn: Người bị chết dưới hục nước chưa tan có kẻ thịt đã bấy ra như mắm. Con nít có, người lớn có chín mười xác người bị chất chồng lên nhau để đốt. Có người chỉ cháy cái đầu, cái mình còn lại khô queo và vàng cháy như một khối thịt quay. Nhiều lắm, cả một khu rừng chớ đâu phải ít. Đi ngang khu rừng, cả đơn vị như chạy. Cái khăn ướt luôn che kín mũi, tuy thế mùi thối nồng nặc vẫn xông lên tận óc.

Không hiểu vì đôi mắt của tôi đã bắt gặp các hình ảnh đó nên nó quen dần đi chăng, hay là các con ma kia sợ khẩu súng của tôi, nên chúng chẳng dám mò đến ám ảnh và doạ nạt tôi? Nói chung, bây giờ thì tôi không còn thấy sợ nữa. Tuy tôi chưa giết người, nhưng tôi có thể giết được, bởi tôi không còn có cái suy nghĩ bâng quơ như ngày trước. Bộ đồ trận bốc lên mùi mốc nồng nặc khó chịu tôi còn treo bên xó nhà đó, chưa đi giặt được. Mệt quá! Cứ mỗi lần nghĩ đến là cơn mệt lại lên, đè áp tôi xuống và mỗi lần như vậy bao giờ cái mệt cũng thắng. Thế nên cặp đồ trận vẫn còn nằm buồn thiu bên xó nhà trông đến thương hại. Thôi cứ để nguyên đó, sẽ có lúc tôi phải giặt, thế thôi?
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM