Nguyễn Đạo Thành lại hỏi :
- Sư trưởng vịn vào mấy câu thơ hoang đường định đem giang sơn này trao cho Lý Công Uẩn, thật đáng buồn cười. Tài đức của Lý Công Uẩn như thế nào ? Sư trưởng hãy bày tỏ cho mọi người nghe.
Vạn Hạnh đáp :
- Cứ xem như hồi đi bình định Thạch Thành thì đủ rõ tài đức của Công Uẩn. Trong lúc bàn việc quân cơ, Công Uẩn đã tỏ ra nhiều mưu trí, nhận định tình thế một cách sáng suốt. Chỉ một trận nhỏ mà dẹp tan bọn phiến loạn. Khi đánh giặc, không coi rẻ tính mệnh của ba quân. Dùng đức mà cảm hoá được người, đối với bạn thuỷ chung như nhất, nhũn nhặn và không tham lam, xử sự lúc nào cũng công minh chính trực. Một người như thế không đáng làm chủ thiên hạ hay sao ? Trời đã cho Công Uẩn đứng lên khai sáng cơ nghiệp nhà Lý, kẻ nào thuận mệnh trời thì sống, trái mệnh trời thì chết. Nào còn ai có điều gì thắc mắc xin cho biết ?
Trẩm Tam thấy mọi người tranh luận mãi tức giận quát to :
- Trời đã cho Công Uẩn thiên hạ, kẻ nào không theo thì ra khỏi nơi này.
Ba người kia bèn đứng dậy đi ra khỏi phòng. Đang lúc ấy, bỗng có tin thái giám Chu Tâm đến tìm có việc cơ mật. Vạn Hạnh cho vời vào. Chu Tâm hoảng hốt ghé vào tai Vạn Hạnh nói nhỏ mấy câu. Vạn Hạnh thản nhiên nói :
- Bần tăng đoán không sai. Gian tặc âm mưu phản nghịch. Ta sẽ tương kế, tựu kế, làm việc đảo chính đi thôi.
Đoạn sư trưởng dõng dạc tuyên bố :
- Vua Ngoạ Triều đã thăng hà. Bọn Lê Bảo, Thúc Lâm Cang lập mưu định giết hại các quan triều thần.
Chúng ta phải họp sức lại đối phó với gian tặc trong lúc này, nếu ta còn giữ thái độ lừng chừng thì khó lòng thoát khỏi nanh vuốt của bọn sài lang. Hàng triệu con người đang muốn trổi dậy lật đổ nhà Lê. Thời cơ đã đến, chúng ta phải hướng dẫn họ trên con đường giải phóng dân tộc và cương quyết chiếm lấy phần thắng. Những ai hưởng ứng xin gọt tóc cho dễ nhớ và xung vào “Đội quân Phật tử”.
Mọi người giơ tay biểu đồng tình. Vạn Hạnh dặn Cam Mộc cẩn thận rồi trở về Lý phủ.
Lại nói Lê Bảo, Thúc Lâm Cang ngầm đem mấy trăm võ sĩ mai phục trong hoàng cung, và làm giả chiếu chỉ
vời các quan văn võ vào lầu Phượng Nhãn ban yến.
Các quan nhận được thánh chỉ, lục tục kéo nhau đến cổng Ngọ môn, thấy cửa đóng chặt, quân sĩ chia nhau canh gác rất cẩn thận. Đào Tiến Thành và Hoàng Công Nghĩa đầu trọc lóc cưỡi ngựa chắn lối đi. Thành giơ gươm quát to :
- Vua Ngoạ Triều đã thăng hà. Gian thần Lê Bảo và Thúc Lâm Cang mưu sự thoán nghịch. Trong cung hiện có cuộc xung đột dữ dội, xin mời các quan lại nhà.
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu thế nào. Nhưng trông thấy hai viên hổ tướng, hung mạnh như thiên thần, liền bấm nhau giải tán.
Dân chúng được toán vệ binh của Đào Cam Mộc tuyên truyền họp nhau lại trước Ngọ môn hò hét trợ oai. Một cụ già nói to :
- Đã 4 năm nay, chúng ta sống như bọn nô lệ, làm tôi cho một ông vua ích kỷ, tham lam, hoang dâm và tàn bạo. Biết bao sinh mệnh vô tội đã ngã gục dưới bàn tay đẫm máu của bạo chúa. Bọn gian thần được thể, làm lắm điều càn rỡ, vơ vét tiền của dân để làm giàu, nuôi quân sĩ để làm vây cánh, đi ra ngoài dùng nghi vệ thiên tử, bắt con gái lương dân về làm tì thiếp. Ngày nay bạo chúa đã chết. Ngai vàng phải nhường cho quan Điện Tiền Chỉ Huy Sứ là một người xứng đáng với một lòng tin cậy của nhân dân. Chúng ta hãy đến Lý phủ để bái yết tân quân.
Mọi người đều reo ầm lên tán thành, rồi làn sóng người lại cuồn cuộn đổ xô đến dinh Lý Công Uẩn. Vạn Hạnh thấy thế nói rằng :
- Lòng dân đã quyết, tướng công không theo cũng không được. Cờ đến tay thì phải phất chóo để lỡ cơ hội.
Bấy giờ Đào Cam Mộc chỉ huy đội quân phật tử đã dẹp tan bọn võ sĩ trong cung. Lê Bảo và Thúc Lâm Cang đều tử trận. Cam Mộc một mặt sai mở Ngọ môn để đón Lý Công Uẩn. Mặt khác sai quân sĩ khâm liệm thi hài của vua Ngoạ Triều rồi đem mai táng.
Trăm quan tề tựu ở triều đường mời Công Uẩn lên ngôi Cửu Ngũ. Công Uẩn từ chối không được, đành phải nhận lời. Năm ấy ngài đã 35 tuổi.
Lý Công Uẩn lên ngôi cải niên là Thuận Thiên, lại triệu bọn Nguyễn Đạo Thành, Lý Nhân, Phạm Thiên Long đến phủ dụ :
- Trẫm với các ngươi, ngoài là nghĩa vụ vua tôi, trong là tình anh em, vinh nhục có nhau, sướng khổ cùng chịu. Các người nên hết lòng vì nước, chớ có làm gì ngang trái để trẫm khỏi phải mang tiếng bạc đãi công thần.
Nghe xong, ba người khóc lạy tạ ơn.
Nhà vua sai phóng thích các tù nhân, mở kho lấy thóc gạo phát cho dân, tu bổ các chùa và giáng chiếu vời các vị đạo đức cao tăng cho dự việc triều chính, và phong tặng quan chức cho kẻ có công.
Năm Thuận Thiên nguyên niên (1010), ngài thiên đô ra Đại La thành, sau đổi ra Thăng Long thành (Hà nội bây giờ ). Từ đấy trăm họ vui vẻ làm ăn, khắp nơi đều diễn ra một cảnh tượng thái bình, thịnh trị.
HẾT