Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 04:13:04 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thày Tăng mở nước  (Đọc 33172 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #10 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:24:40 pm »

Có tiếng người phản đối :

- Không chắc. Cách đây 50 năm, dân mấy làng chung quanh, đã có lần vào giữa rừng để xây chùa. Nếu bảo nó sống đã được hai trăm năm, thì trong khoảng thời gian chùa còn có người đèn nhang, khách thập phương đi lại lễ bái cũng đông, lại không có một người nào bị hại về nó, thì lạ quá! Lấy lý ra mà xét thì nó mới về đây chỉ độ mười năm là cùng.

Một người lên tiếng :

- Cũng không đúng. Nếu nó ở đây đã mười năm, thì vùng Đông Ngàn đã bị nó tàn hại rồi còn gì. Đến như con hổ kia, mới có mấy hôm, mà dân chúng đã nháo cả lên, huống hồ 10 năm với một con rắn to lớn như thế kia, thì có lẻ người và vật đều chui vào bụng nó cả.

Cả bọn đều nhao nhao lên bàn tán mỗi người một câu. Trong lúc ấy, sư già đang đi đi lại lại cạnh vũng máu đào, mắt đăm đăm nhìn dưới đất như đang tìm tòi vật gì. Chợt thấy một khúc ruột rắn rơi gần đấy, sẵn chiếc gậy cầm ở tay, sư già chọc chọc vài cái thì thấy một nắm rễ cây lòi ra ngoài. Nhìn kỹ một lúc, sư già bỗng kêu lên ra ý vui mừng :

- Phải rồi.

Mọi người ngạc nhiên, dồn dập hỏi :

- Gì thế?

Sư già tươi cười nói :

- Bần tăng cũng ngờ rằng con rắn này không phải ở đây đã lâu, nhưng chưa tìm ra được chứng cớ cụ thể
nên chưa dám quyết đoán. Thì đây nắm rễ cây nhỏ mọn này cũng đủ đánh tan hết mối nghi ngờ của chúng
ta.

Nói xong, sư già quay lại hỏi lão Mộc :

- Lão trượng là tay lịch lãm giang hồ đã nhận ra được rễ cây gì chưa?

Lão Mộc lắc đầu.

Sư già thong thả tiếp lời :

- Hồi bần tăng ở Đường Lâm đã có lần sang Bạch Hạc chơi, và ngẫu nhiên gặp một người cho xem một thứ rễ cây. Rễ cái to bằng hai ba chét tay, những rễ con mọc tua tủa chung quanh, sắc hoi vàng. Rễ cây đó đào được ở sườn núi Tản Viên, nhưng vì không biết nó thuộc về loại cây gì và công dụng của nó ra sao, nên đành phải đem vùi ở sau vườn, phó mặc cho mưa nắng. Sau bần tăng có dịp về Bình Kiều gặp sư trưởng Trọng Minh, có nhắc đến thứ rễ cây lạ lùng đó. Sư trưởng ngạc nhiên nói : “Ta cũng thường được nghe đồn ở núi Tản Viên có thứ rễ cây rất quý, nhưng thực chưa được trông thấy. Ăn vào, thân thể khoẻ mạnh, tránh được những bệnh tật hiểm nghèo và có thể hưởng thêm được tuổi thọ. Nhà người trông thấy mà không được dùng. Đáng tiếc thay!”

Thứ rễ cây này chỉ ở sườn núi Tản Viên mới có, con rắn này chắc chắn là ở trên ấy rồi, mà nó đã nhiều lần ăn, nên trong ruột còn lại một ít rễ chưa tiêu hết. Xem như thế thì ta có thể kết luận rằng nó mới về độ vài ba hôm nay thôi. Từ núi Tản Viên về đây, đường xá hiểm trở, có tới non một trăm dặm, mà nó vượt một cách dễ dàng thì đủ biết nó có sức khoẻ vô cùng.

Cả bọn đều lấy làm kinh dị. Sư già nói tiếp :

- Từ đây đến chùa cũng chỉ còn một thôi ngắn nữa, chúng ta chia làm 2 toán : một toán cứ việc rẽ lau,
vạch cỏ, mở đường; còn một toán ở lại tìm cách mang những khúc rắn này về làng, xả thịt, nấu nướng,
bày cỗ để đến chiều ăn mừng ngày chiến thắng.

Mọi người biểu đồng tình. Lão Mộc chọn vài chục người khoẻ mạnh và can trường cho theo Tư Chiềng đi trước. Còn bao nhiêu, để lại làm công việc bện chão, làm quang gánh khiêng rắn về làng. Tư Chiềng lại vác búa hăm hở đi đầu. Đến quá trưa thì họ tới nơi.

Sư già dắt lão Mộc đi thăm chùa. Trên một gò đất rộng độ nửa sào, hai dãy nhà dựng chung quanh một cái sân hẹp, hiện ra một cảnh tượng điêu tàn giữa nơi hoang vu ủ dột. Những đống gạch vụn ngổn ngang đè lên một vài cái dui, hoành đã mục nát, hay những gióng tre rời rạc, lẫn với bùn và lá cây. Trên Tam Bảo, mái ngói đã sụt một nửa, chỉ còn trơ lại mấy cái bệ gạch long lở. Chiếc chuông đồng han rỉ nằm chỏng gọng dưới đất. Riêng mấy chiếc nhà ngang lợp rạ dùng làm tăng phòng thì hoàn toàn bị hư hỏng. Ở ngoài vườn, sừng sững giữa đám cỏ gai rậm rạp, một chiếc tháp màu xám tro đứng vươn mình nhìn trời như muốn thi gan cùng tuế nguyệt. Ngọn thép này xây rất cẩn thận, bằng thứ đá rất tốt nên không bị đổ nát.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #11 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:25:27 pm »

Sư già nhìn vào trong tháp. Một bát bình hương đã bị lật đổ, nằm nghiêng nhưng không vỡ, lá cây rơi xuống che lấp cả cái bệ con. Chợt sư già khẻ thốt một tiếng kêu, nửa như ngạc nhiên, nửa như sợ sệt, rồi sẽ kéo tay lão Mộc, nói :

- Một bài thơ, lão trượng ạ.

Lão thò đầu vào trong tháp, cặp mắt để ý ngay đến một phiến đá nhẵn thín, rộng độ bằng bàn tay, gắn chặt vào cái bệ con. Trên mặt phiến đá, khắc lờ mờ mấy dòng chữ bị đất và vôi bám vào che lấp quá nửa. Lão cầm phiến đá, lắc lắc mấy cái, rồi nhấc lên mang ra ngoài. Lão lấy dao cạo sạch bùn, rồi sẵn có vũng nước bên cạnh, lấy vạt áo sấp nước lau cẩn thận. Hai dòng chữ khắc nét đậm, nét nhạt, rõ rệt tinh vi, hiện ra dưới con mắt tò mò của hai người. Sư già lẩm nhẩm đọc :

“ Khánh Vân thu dưỡng tử

Vạn Hạnh thu đệ tử

Thập bát tử xuất thế

Thăng Long phân bát diệp

Lập nghiệp nhị bách niên”.


Lão Mộc giật mình nói :

- Sao lại có cả tên của sư phụ, lạ lùng quá.

Sư già gật đầu đáp :

- Đây là lời tiên tri của vị Hoà Thượng đã viên tịch ở chùa này, bần tăng thử đoán qua loa xem có hợp ý
lão trượng không nhé! Câu đầu dễ hiểu lắm. Khánh Vân nhận con nuôi. Câu thứ hai : Vạn Hạnh nhận học trò. Vạn Hạnh là tên vị tăng tu ở chùa Tiêu Sơn. Câu thứ ba : mười tám người con ra đời. Câu thứ tư : Thăng Long chia ra tám lá, không biết Thăng Long là danh hiệu người nào? Câu thứ năm : gây dựng cơ nghiệp hai trăm năm Vậy tán sơ lược mấy câu sấm như thế này : Khánh Vân và Vạn Hạnh thu con nuôi và học trò được mười tám người. Thăng Long nhờ có những người này mà dựng nghiệp lâu dài những hai trăm năm - Mấy câu này ứng vào việc đã qua hay việc sắp xảy ra ? Ta hãy tính đến việc đã qua.

- Vậy sư phụ có người con nuôi nào chưa?

- Chưa có người nào!

- Được, sư trưởng Vạn Hạnh ở Tiêu Sơn vốn là chỗ quen biết với sư phụ, chắc sư phụ biết rõ. Hiện nay sư
trưởng bao nhiêu học trò ?

- Sư đệ Vạn Hạnh năm nay mới có ngoài hai mươi tuổi, làm gì có học trò?

- Vậy ta có thể kết luận rằng mấy câu sấm này ứng vào việc sắp xảy ra, chứ không phải vào việc đã qua.
Có nhiều chữ nhắc đi nhắc lại như dưỡng tử, đệ tử, bát tử, bát diệp, khó hiểu quá. Còn như Khánh Vân, Vạn Hạnh, Thăng Long, thì chẳng biết tên người hay tên đất? Ngẫu nhiên trùng danh, trùng hiệu chứ chắc đâu đã phải dụng tâm của tác giả ám chỉ vào sư phụ?

Sư già ngẫm nghĩ một lát, rồi nói tiếp :

- Xin lão trượng giữ kín việc này, đừng lộ cho ai biết vội. Tai vách, mạch rừng, nguy hiểm lắm, không phải
chuyện bỡn đâu. Lão trượng hãy đem trả phiến đá này vào chỗ cũ, rồi cùng với bần tăng đi tìm Tư Chiềng.

Lão Mộc cúi đầu vâng lời. Bỗng có tiếng chân người đi thình thịch ở đằng xa, rồi thấy Tư Chiềng vùn vụt chạy lại, vai mang một tấm gỗ to bằng nửa chiếc chiếu. Sư già ngạc nhiên cất tiếng hỏi :

- Cái gì thế, tráng sĩ ?

- Cụ xem thì biết.

Hắn nhẹ nhàng đặt tấm gỗ xuống. Sư già nhìn thấy ba chữ “Ứng Tâm Tự”, gật đầu nói :

- Đây là tên chùa.

- Cụ có dùng làm gì không? Hay để tôi làm phản nằm.

- Tấm biển sau này còn dùng đến. Tráng sĩ hãy cất lên chùa, rồi gọi các anh em sửa soạn ra về…

Quá chiều họ mới tới làng. Cơm nước xong, mọi người cáo từ sư già về nhà. Tư Chiềng dọn dẹp xong cũng xin phép rút lui. Lão Mộc vì quá chén nên nằm lăn ra ngủ lúc nào không biết, tiếng ngáy vang…Gần nửa đêm, sư già chợt mở mắt nhìn quanh nhà, ánh đèn dầu ta nhập chùng trong bóng tối, ném những tia sáng mờ nhạt trên bốn bức tường. Trên sà nhà, con thạch sùng mấy lần tắc lưỡi, nghe não nùng ảm đạm.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #12 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:26:14 pm »

Sư già bước xuống giường, sỏ chân vào đôi dép rồi quay lại, vừa lay vừa gọi lão Mộc :

- Lão trượng! Lão trượng! Tỉnh dậy có việc khẩn cấp.

Lão Mộc choàng dậy, mắt nhắm, mắt mở, hỏi luôn :

- Có việc gì vậy sư phụ ?

- Cứ dậy rồi sẽ biết.

Lão Mộc vớ lấy chiếc áo bông cộc, sỏ tay vào, rồi vùng nhẩy xuống đất.

- Lão trượng cùng tôi ra ngoài sân.

Lão nhấc cánh cửa liếp đẩy ra một bên rồi lách mình ra ngoài. Sư già theo sau.

Gió lạnh thổi. Trên trời, sao dầy đặc lấp lánh, như những hạt châu gán trên màn vải. Xa xa tiếng tù và rúc từng hồi dài điểm xuyết vào cảnh đêm khuya tịch mịch.

Đứng trên thềm, sư già vỗ vai lão Mộc cười nói :

- Đùa lão trượng một chút, xin đừng giận.

- Sư phụ dạy quá lời, tôi đâu dám.

- Lão trượng có biết xem thiên văn không?

- Tôi là kẻ vũ phu, chỉ biết cưỡi ngựa múa gươm, chưa từng được cao nhân dạy cho biết sự vận chuyển
của các ngôi sao cùng các hiện tượng trong vũ trụ. Sư phụ, bụng chứa năm xe làu thông kim cổ, nho, y, lý, số, đều hay, bách gia chư tử tam giáo cửu lưu đều thuộc, ắt hẳn có nhiều điều hữu ích dạy bảo.
Sư già ngửa mặt lên trời, ngắm một lúc, rồi chỉ tay về phương nam hỏi :

- Lão trượng có thấy gì không?

- Có một ngôi sao rất to.

- Đó là ngôi bản mệnh của đức Tiên Hoàng đang thời kỳ thịnh trị, xung quanh các vì tinh tú tả phù hữu
bật, ứng vào các tướng tá thủ túc đã giúp Tiên Hoàng dựng lên nghiệp đế. Nhưng sao bản mệnh đáng lẻ phải sáng rực át hẳn các sao khác thì hình như bị lấn át mà mất vầng ánh sáng, ứng vào điềm trong các bề tôi có người lộng hành muốn chiếm ngôi cao.

- Sư phụ xem cơ nghiệp nhà Đinh thế nào ?

- Bề tôi mà lấn vua, thì là sắp có sự thoán nghịch. Khi số nhà Đinh cũng sắp hết, mầm hoạ tự trong nhà
gây ra, rút cuộc cơ nghiệp lại về tay người khác.

- Ai sẽ nối ngôi nhà Đinh?

- Có lần tôi đi qua Hoa Lư, thấy trẻ con thường hát câu này :

“Trứng rồng sinh một bọc.

Năm gái ở cùng nhà.

Rồng non vừa quẫy khúc.

Một lưỡi kiếm vung ra.

Máu loang người Nam Việt

Mười cột chồng sơn hà".


- Mấy câu đồng dao rõ ràng ám chỉ vào thời hiện tại : đức Tiên Hoàng lập năm ngôi Hoàng Hậu. Các con trong nhà tranh nhau địa vị Đông Cung, nên Nam Việt Vương Liễu giết em, giang sơn sau này sẽ vào tay quan Thập Đạo Tướng Quân, chính là câu : Mười cột chống sơn hà”.

- Còn mấy câu sấm khác ở phiến đá trong tháp liệu có liên quan gì đến thời cuộc không?

- Việc trời bí hiểm, khó đoán trước được.

- Sư phụ, xem câu đồng dao đã đúng phần nào chưa?

- Sự việc xảy ra đã ứng nghiệm cả rồi, còn đoạn sau nói về tương lai, chắc cũng không sai đâu.

- Tôi nay đã già, cuộc thế thăng trầm từng trải mùi phong lưu, tân khổ đã nếm qua, ý muốn bắt chước Tử
Phòng theo Hoàng Thạch Công xa lánh bụi trần, chỉ hiềm không có người tri kỷ sớm khuya bầu bạn.

- Bần tăng có mấy lời tâm sự muốn ngỏ cùng lão trượng.

- Xin sư phụ hết lòng chỉ giáo.

- Bần tăng xem thiên tượng thấy sao Tử Vi chưa giáng trần nên thiên hạ chưa thể yên được. Khi số nhà
Đinh hết đến nơi rồi, họ khác sẽ lên làm vua nhưng có nạn ngoại xâm, dân lê lại một phen thống khổ. Lão trượng mượn cửa thiền tạm cư ở ẩn ít lâu, xem sự thế xoay vần ra sao, rồi sẽ liệu. Ngày mai, bần tăng sẽ thỉnh cầu với dân làng xúc tiến việc trùng tu chùa Ứng Tâm. Lão trượng sẽ thay bần tăng trông nom chùa, thắp hương thờ Phật, vừa cầu phước, vừa vui thú cảnh già.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #13 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:26:53 pm »

- Sư phụ đi đâu ?

- Bần tăng sang Tiêu Sơn ở với sư đệ Vạn Hạnh.

- Sư phụ bỏ tôi một mình ở đây à?

- Thỉnh thoảng bần tăng sẽ sang hầu bạn với lão trượng.

Lão Mộc cúi đầu yên lặng.

Chùa Ứng Tâm được dân làng hợp tác tu sửa thành một nơi khang trang mỹ lệ. Cây cối xung quanh dần phạt rộng ra, ước độ vài ba mẫu, những nếp nhà tranh mọc lên san sát bao bọc lấy khu chùa. Một ít dân nghèo túng kéo nhau ra ở, ngày ngày vào rừng đốn củi, vỡ đồi để cấy cầy, trồng trọt. Dần dần khu rừng thu hẹp lại; những thửa ruộng lúa lan rộng, ôm kín dãy đồi nhô lên ở giữa cánh đồng cỏ chỉ còn lơ thơ vài bụi cây tầm cửi thấp lè tè. Từng đoàn trâu bò bình tĩnh gậm cỏ ở sườn đồi hay thơ thẩn trên những con đường nhỏ hẹp, đánh xuyên qua rặng cây còn sót lại. Đứng trước cánh rừng, người ta không lén lút sợ hãi nữa. Người ta hiểu rằng : nhân lực một khi được huy động một cách triệt để, có thể san bằng hết mọi chướng ngại. Nơi này đã chứa chấp một nguồn sinh lực dồi dào mà không ai nghĩ đến sự khai thác để nâng cao mực sống cho dân chúng, vì quá tin ở những chuyện hoang đường đã xâm chiếm tâm hồn chất phác của mọi người.

Người sung sướng nhất trong công cuộc này có lẽ là Tư Chiềng. Hắn bây giờ nghiễm nhiên trở thành chủ một trang trại lớn mà sư gài đặt tên là Trang Liệt. Trại này gồm có năm sáu chục gia đình ở rải rác trong những căn nhà tranh xinh xinh xây thành hình cánh cung, như đứng làm bức bình phong cho một ngôi chùa Ứng Tâm. Dưới quyền hắn có hơn hai mươi thanh niên để giúp vào công việc phòng thủ trang trại.

Còn lão Mộc thì được sư già uỷ thác cho việc trông nom chùa Ứng Tâm và đổi pháp hiệu là Thượng Lâm. Đời sống ở cửa Thiền thật là vô cùng khắc khổ. Lão không được tự do săn bắn trong những cánh rừng còn sót lại, hay lang thang trên đồi cỏ rậm rạp để tìm vết chân thú rừng. Lão được sư già giác ngộ, và tin tưởng ở phép mầu nhiệm của đạo Phật, nên tự giam mình vào cuộc đời phẳng lặng và buồn tẻ của kẻ đã chán mùi tục luỵ, muốn mượn quyển kinh để thông cảm với thế giới vô hình, cao siêu và bí mật. Lão tìm thấy ở triết lý sâu xa của đạo Phật một nguồn sống vững vàng cho tinh thần. Lão tự nhận thấy mình đã phí cả một thời niên thiếu, tài ba để phụng sự một lý tưởng chính trị cuồng dại : là làm hậu thuẫn cho bọn người khát máu vụ lợi, chém giết lẫn nhau. Cái dĩ vàng đẫm máu đó đã dần dần xoá nhoà trong óc lão; và ở tình trạng hiện tại, lão cố tìm lấy một sự an ủi trong hồi chuông đã rung động tâm hồn lão, cũng như trước kia, dưới làn mưa tên, gió đạn, tiếng gươm đao chạm nhau, đã làm cho lão say sưa, hăng hái, như uống phải cốc rượu nồng…

Ngày tháng trôi qua…

Trong vườn hoa phù dung đã mấy lần rã cánh, và trên cành cây, tiếng khắc khoải của chim quyên đã nhiều
lần chào mừng những bông sen, hồng nở.

Sau năm năm, trại Trang Liệt đã trở nên sầm uất và phồn thịnh khác thường. Thóc lúa thu hoạch đủ cho dân trại dùng quanh năm. Ngô, khoai, sắn, tiêu thụ không hết, lại đem bán cho các làng lân cận. Đàn ông chăm nom việc đồng áng, xay thóc giã gạo; đàn bà dệt vải, chăn tằm.

Tối đến các thanh niên tụ họp nhau ở nhà trại chủ để luyện tập võ nghệ. Mọi người hợp tác chặt chẽ, chịu nhẫn nhục làm việc, biết thương xót giúp đỡ lẫn nhau, nên hoà khí trong trại không đến nỗi bị thương tổn.
Sư già Thượng Lâm thỉnh thoảng xuống thăm, vỗ về khuyên nhủ dân chúng, rồi lại chỉ bảo thêm về võ nghệ cho trại chủ và các thanh niên.

Đời sống thật là tươi đẹp, sáng sủa như buổi nắng sớm của một ngày xuân êm
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #14 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:27:55 pm »

TAI BAY VẠ GIÓ

Một hồi trống vừa dứt, trên chiếc chòi canh ở cổng huyện, một tên lính tay cầm loa, dạng hai chân chõ xuống đất ậm oẹ gọi :

- Truyền các xã trưởng, trại chủ ba huyện An Phong, Đông Ngàn, Tiên Du được vào hầu…ầu…ầu…

Hơn hai trăm lính nai nịt gọn ghẽ, cung, giáo sắc, kéo nhau xếp hàng tề chỉnh, trên một thửa đất rộng trước dinh huyện .

Hai cánh cổng lớn rít lên một tiếng rồi mở rộng. Các xã trưởng, trại chủ, chia ra làm hai hàng tiến vào, dưới một dẫy cờ bay phất phới, trông uy nghiêm như một đám rước thần. Đợi cho dân sự vào hết rồi toán lính mới từ từ kéo vào sau.

Dinh thự của viên Huyện Lệnh gồm có hai căn nhà gỗ năm gian, một làm công đường, một làm tư thất. Liền ngay công đường là một gian lợp ra, rộng, lúc nào cũng có lính canh gác cẩn thận, vì là nơi chứa lương thực của ba huyện. Giữa công đường kê một tấm sập để Huyện Lệnh ngồi xử kiện. Hai bên chạy dài hai dãy phản khổ hẹp hơn, trên bầy nghiên, mực, bút, giấy. Bên cạnh, một gian để xếp những hình cụ tra tấn : túi roi, hèo, trượng, kìm, và xích sắt, làm cho người can đảm đến đâu khi bước chân vào cũng phải rùng mình kinh sợ. Nhưng có lẽ rùng rợn hơn hết là chiếc bảo kiếm đặt ngay trên cái giá bằng gỗ sơn son, kê ở trước tấm sập. Vỏ kiếm nạm vàng, chỗ tay cầm, chạm hình con rắn cuộc khúc, miệng ngậm một hạt minh châu sáng loé… Chung quanh dinh là một hàng cọc tre nhọn hoắt, cao độ một trượng, cắm chi chít. Cứ cách 10 bước lại lập một chòi canh. Ngoài hàng rào, trại lính lập san sát như hình cánh cung ôm lấy huyện. Ngoài ra, lại còn những đoàn hương dũng ở các làng, lớn thì dăm chục, nhỏ vài chục, luôn luôn sẵn sàng cung, nỏ, giáo, mác, để tiếp ứng cho toán quân ở huyện. Tại sao lại có sự canh phòng cẩn mật như vậy? Là vì, đức Tiên Hoàng tuy dẹp được 12 sứ quân, nhưng trong nước hãy còn ít nhiều thảo khấu ẩn nấp ở rừng núi, thỉnh thoảng lại quấy rối dân sự. Hạt Đông Ngàn tuy không bị nạn giặc cướp phá, nhưng hai hạt Tiên Du và An Phong thì luôn luôn xảy ra chuyện đốt nhà, giết người rất kinh khủng. Mấy vị văn quan về trấn nhậm hai nơi đó, đều bị giặc bắt mang đi mất tích. Các nha lại trốn hết, huyện đường bỏ vắng, những kẻ vong mạng thừa cơ nổi lên, ngang nhiên hoành hành coi thường cả pháp luật của triều đình.

Từ khi viên Huyện lệnh Đào Cam Mộc về đóng ở Đông Ngàn, kiêm cả hai huyện kia, thì nạn giặt cướp đã thấy bớt nhiều. Cam Mộc vốn là võ tướng xuất thân nhưng chính trị rất giỏi, coi quân lính như ruột thịt, thương dân như con, nên được mọi người kính phục. Những phạm nhân nặng thì mười phần cũng giảm cho ba, bốn, nhẹ thì tha bổng hay phạt roi, ít khi dùng đến trượng, lúc xử án không dùng đến hình cụ tra tấn mà chỉ lấy lời lẽ khuyên bảo bắt phải thú tội.

Dân sự ba huyện có một vị minh quan, trọng nghĩa, khinh tài, nên cũng được an cư, lạc nghiệp.

Mấy hôm trước, Cam Mộc sắc lệnh cho các xã trưởng phải cấp tốc tuyển thanh niên khoẻ mạnh để bổ sung vào số quân già yếu, đã bị thải về, và để tăng cường sự phòng thủ ở biên giới và nội địa. Vì hình luật hồi bấy giờ rất nghiêm khắc, nên sắc chỉ của nhà vua ban ra đều được mọi người tuân theo răm rắp. Hôm ấy, Cam Mộc muốn vời các xã trưởng, trại chủ đến để hiểu dụ và thu danh sách các tân binh làm cho quang cảnh huyện lại một phen rộn rịp.

Một hồi trống dõng dạc điểm, tiếp theo một tiếng pháo lệnh nổ vang trời. Dân sự đứng xếp hàng dưới sân hướng mặt về công đường, quân lính chia nhau đứng quây tròn chung quanh.
Huyện Lệnh ngồi trên sập, nha lệ đứng hầu hai bên, uy nghiêm và tề chỉnh. Một tên lính bưng chồng giấy khom lưng, tiến gần sập, nói nhỏ mấy câu, rồi lùi ra.

Cam Mộc cất tiếng sang sảng nói :

- Hôm mồng hai, bản chức có sắc lệnh cho ba huyện phải tuyển mỗi huyện một ngàn lính, và hẹn đến hai
mươi thì phải đệ trình danh sách. Hôm nay đã hai mươi lăm rồi mà chỉ có hạt Đông Ngàn đệ, còn hai hạt Tiên Du và An Phong thì chưa có là tại làm sao?

Có tiếng dưới thềm, thưa :

- Trình quan !… Hạt Tiên Du đã đủ rồi, nhưng danh sách thì chưa làm kịp, xin đệ sau…

- Còn An Phong?
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #15 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:28:33 pm »

Một người trạc ngoài bốn mươi tuổi, rẽ đám đông người, tiến lên thềm, cúi mình chào huyện quan, rồi nói :

- Dạ! …Trình quan…Hạt chúng con đất hẹp, dân thưa lại không may bị mất mùa hai năm liền, nhiều gia đình phải di cư đi nơi khác, xin thượng quan thương lại…

Huyện Lệnh cau mặt đáp :

- Rõ ràng các ngươi coi thường lệnh trên, nên cố tình viện cớ che đậy cho nhau… Các ngươi tưởng lưỡi
gươm của ta không sắc hay sao?

- Dạ!…Thượng quan trọng nhậm hạt này, uy đức vang dội khắp vùng, lòng nhân thấm nhuần dân chúng, trên hoàng đế mến yêu, dưới hài tâm xích tử. Việc tuyển lính là lệnh của triều đình, Thượng quan chỉ biết thừa hành công vụ, chúng con đâu dám vì tình riêng mà bỏ mất ích công. Hiềm vì hạt An Phong đói, kém, mất mùa, trai tráng cầm nổi cây đao thì lưu lạc phương xa để mưu đưòong sinh kế, còn lại những người trói gà không chặt, đem ra chỉ sợ đắc tội với Thượng quan và làm trò cười cho thiên hạ.

- Hiện nay số tân binh hạt An Phong đã được bao nhiêu ?

- Dạ! Cố lắm chỉ được năm trăm là nhiều.

- Bản chức ra hạn cho nửa tháng nữa phải tìm cho đủ số. Nếu trái lệnh, chớ trách bản chức là khắc nghiệt.

- Chúng con thiển nghĩ, nước Đại Cồ Việt ta trên mười năm huynh đệ tương tàn, cái cảnh xương phơi ngập
đất, máu loang đỏ sông, nghĩ đến mà rùng mình kinh sợ. May được đức Tiên Hoàng dấy binh ở Hoa Lư, oai thần vũ dẹp loạn sứ quân, trong vỗ yên trăm họ, ngoài giao hiếu Tống triều, gây dựng nên giang sơn gấm vóc này. Hiện giờ bốn phương thảo khấu đã tan, dân chúng mừng tránh được mũi tên, hòn đạn. Quân lính mừng được cởi giáp, hạ yên. Nào ngờ lại được tin lệnh trên bắt buộc trai tráng phải nhập ngũ để đủ số một triệu quân, thì không biết số quân đó dùng để làm gì ? Đối với Tống triều, đức Tiên Hoàng đã chịu thụ phong tước Giao Chỉ Quận Vương; nạn ngoại xâm chắc cũng không đáng lo ngại lắm. Còn trong nước, ở một vài nơi, bọn lưu manh côn đồ, vẫn tác oai thật, nhưng sức đom đóm chống sao nổi vầng Thái dương, chỉ cần một ít quân ở địa phương cũng đủ phá tan giặc cỏ. Xét tình trạng dân ta thì thật là thương tâm ái ngại, nhà cửa bị đốt phá, vườn ruộng bỏ hoang, từ manh quần, tấm áo đến bát gạo, củ khoai, thảy đều khó kiếm; còn lương thực đâu mà đóng góp cho triều đình để cấp dưỡng sĩ tốt. Thượng quan là cha mẹ dân, tai mắt của triều đình, cũng nên vì dân vì nước giải tỏ điều phải, thì thật là phúc cho chúng con lắm…
Cam Mộc đỏ mặt quát to :

- Nhà người đã trái lệnh hoàng thượng lại đem ba tấc lưỡi định lung lạc ta. Bây đâu!…Giam cổ nó lại.
Quân lính dạ ran, xông vào trói nghiến và dắt đi. Mọi người đứng sợ xanh mặt, run lập cập.

Cam Mộc vẫn chưa nguôi giận, đập tay xuống sập nói :

- Bản chức trọng nhậm hạt này, hết lòng thương yêu, không hề tơ hào một lá rau, một hạt gạo, hết lòng
thương dân, bản chức không dùng đến hình phạt, có ý khinh nhờn. Bắt đầu từ nay, đối với phạm nhân, bản chức cứ chiếu theo sắc chỉ của Thánh Hoàng và tuỳ theo nặng nhẹ mà bắt tù tội, dùng trượng hay xử giảo. Nghe!

Dân sự đứng dưới thềm ngơ ngác nhìn nhau, im lặng. Họ thầm oán trách kẻ không biết vô tình hay hữu ý đã xúc phạm đến vị ân nhân của mọi người.

Chờ cho cơn sấm sét đã qua, một cụ già ra đứng khom lưng trước công đường :

- Dạ!…trình Thượng quan! Con xã trưởng Phù Đổng xin thưa mấy lời : hiện nay kỳ hạn đã hết, mà số tân
binh vẫn chưa đủ, nếu cứ trùng trình sợ triều đình bắt tội. Hạt Đông Ngàn chúng con xin lấy thêm năm trăm, là nghìn rưỡi để bù vào số thiếu của hạt An Phong.

Huyện Lệnh gật đầu tỏ vẻ hài lòng.

- Bản chức y lời thỉnh cầu của các ngươi.

Mọi người đều thở dài khoan khoái.

Bỗng viên đề lại, rón rén đến, cúi đầu nói nhỏ mấy câu. Huyện Lệnh mỉm cười, nói :

- Cho gọi lên.

Viên đề lại tiến ra trước thềm gọi to :


- Trại chủ Trang Liệt lên hầu.

Tư Chiềng “dạ” một tiếng thật to, bước vội vàng lên thềm, quỳ xuống làm lễ.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #16 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:29:28 pm »

Huyện Lệnh vẫy tay nói :

- Ta miễn lễ cho trại chủ.

Tư Chiềng chắp tay đứng dẹp sang một bên.

Huyện Lệnh nhìn Tư Chiềng từ đầu đến chân, tỏ vẻ rất bằng lòng.

- Tráng sĩ niên canh bao nhiêu ?

Tư Chiềng ngơ ngác nhìn không hiểu.

Viên đề lại nhắc : “Bao nhiêu tuổi?”

- Dạ, …23 tuổi…

- Song thân còn tại đường chứ!

Tư Chiềng đực mặt không biết thế nào mà trả lời.

Viên đề lại nhắc : “Bố mẹ còn không?”

- Dạ!…Chết hết rồi…

Mọi người bấm bụng cười thầm. Cam Mộc nói :

- Bản chức thấy nói tráng sĩ có tài hàng long, phục hổ, xứng đáng là một dũng tướng của nước nhà. Hiện
nay, bản chức cần một viên đoàn trưởng để luyện tập quân lính ở Huyện. Xét ra chỉ có tráng sĩ là đáng tài.
Tráng sĩ nghĩ thế nào?

Tư Chiềng luống cuống chưa biết nên ưng thuận hay từ chối, thì Huyện Lệnh nói tiếp :

- Vì quyền lợi chung của dân chúng, nên bản chức muốn thu nạp các anh hùng nghĩa sĩ để cộng tác với bản chức trong công cuộc phòng thủ địa phương. Bản chức kêu gọi lòng ái quốc của các tầng lớp nhân dân, hãy vì sự hưng vong của nước Đại Cồ Việt đem hết sở năng phục vụ đức Tiên Hoàng. Trong thời đại thập nhị sứ quân, dân chúng nhầm lẫn đã làm hậu thuẫn cho bọn người ích kỷ tham tàn, vụ lợi, rồi bị thúc đẩy ra sa trường chém giết lẫn nhau. Cùng là dân đất Việt, cùng dòng máu chảy trong huyết quản, mà họ lại coi nhau như thù địch, như ngoại bang, khác nào như đời chiến quốc bên Tàu, Tề, Hán, Nguỵ, tuy cùng một màu da, cùng một lịch sử, chỉ vì quyền lợi nhỏ nhen, mà thù nhau thâm căn, cố đế, tìm cách khuynh loát nhau.

Ngày nay giang sơn đã thu về một mối toàn dân không thể sống chia rẻ như trước nữa; phải biết thương xót bênh vực nhau, để bảo tồn lấy nòi giống. Bản chức sẵn sàng hưởng ứng những lời chỉ trích chánh đáng về hành chính cũng như về quân sự để sửa đổi cách cai trị, cho hợp với nguyện vọng của dân chúng. Nhưng bản chức sẽ không tha một hành vi nào xét ra có hại cho an ninh của đất nưóoc và phản lại quyền lợi của cá nhân. Các ngươi chớ có khinh suất trong công việc làm, và phải dè dặt trong lời ăn, tiếng nói, đừng có nhố nhăng, khinh mạn người trên, đàn áp kẻ dưới, trước là mang tội với pháp luật, sau để di luỵ cho gia đình.

Mọi người đều cảm động vì lời thành thực của quan phụ mẫu.

Một hồi trống dõng dạc điểm. Huyện Lệnh truyền :

- Thôi, cho các ngươi về.

Tư Chiềng đứng tần ngần ngẫm nghĩ một lát rồi quỳ xuống.

Huyện Lệnh dơ tay đỡ dậy rồi nói :

- Thế nào, tráng sĩ đã quyết định chưa ?

- Thưa vâng.

- Thật là may mắn cho hạt Đông Ngàn, bản chức rất vui lòng. Tráng sĩ hãy tạm về nhà, sáng mai lên huyện
nhận nhiệm vụ.

*
* *

Đào Cam Mộc quê ở Đằng Châu, cha mất sớm, mẹ là Từ Thị có tiếng là hiền thục, lại am hiểu nghề võ, và tinh thông lý số. Thuở bé, Cam Mộc rất thông minh, đĩnh ngộ, học một biết mười, lớn lên được truyền thụ võ nghệ, rồi theo giúp sứ quân Phạm Bạch Hổ được vài tháng thì Đằng Châu thất thủ. Bạch Hổ tự tử chết. Cam Mộc trở về nhà thì vợ là Hoàng Lê Vân đã nở một trai vừa đầy tuổi tôi. Cam Mộc nhìn con, mừng rỡ
hỏi vợ :

- Đã đặt tên chưa ?

- Thân mẫu đặt tên cho con là Đào Tiến Thành.

- Thằng bé này ngày sau có thể nối được nghiệp của cha…
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #17 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:30:22 pm »

Vợ cười đáp :

- Tưởng nối được nghiệp của ai thì khó, chứ nối được nghiệp của phu quân thì cần gì phải mong.

Cam Mộc ngạc nhiên hỏi :

- Sao lại thế?

- Phu quân tài học năm xe, đem thân thờ kẻ dũng phu, rút cuộc lại chỉ gây tai hoạ cho dân chúng, chẳng
nên cơm cháo gì. Sự nghiệp của cha đã như thế, lại mong cho con theo vết cũ thì mong làm gì?

Cam Mộc cũng cười đáp :

- Thân mẫu thường bảo tôi sau này giúp một vị đế vương khai sáng cơ nghiệp lâu dài; hiện nay, đức đương kim hoàng đế đối với mình là cựu thủ, mình ra hàng khỏi tội là may, mà có giỏi ra thì đóng được cai đội dưới cờ quan Thập Đạo tướng quân, chứ thú vị gì mà được tước khai quốc nguyên huân.

- Sự đời biến chuyển đương vũng thành đồi biết thế nào mà nói trước được.

- Thân mẫu ốm yếu luôn luôn, tuổi già như ngọn đèn trước gió. Sách có chữ : “Phụ mẫu tại bất viễn du, du
tất hữu phương". Tôi phải ở nhà phụng dưỡng người cho phải đạo.

Từ đó Cam Mộc chỉ quanh quẩn với gia đình dường như không còn nghĩ đến công danh nữa.

Một năm sau Từ Thị mỗi ngày thân thể suy nhược biết mình khó sống, gọi dâu con đến đầu giường nói :

- Mẹ năm nay đã ngoài sáu mươi, kể như thế cũng là thọ rồi, dẫu có chết cũng đáng đời. Khi mẹ mất, các
con làm ma phải hết sức giản tiện. Con đến Hoa Lư tìm quan Thập Đạo tướng quân là Lê Hoàn thì sẽ được thu dụng. Sau này, con trọng nhậm ở miền Bắc, nên để ý kết nạp anh tài, chiêu mộ hiền sĩ, đến khi giàu sang tột bực, thì nên quay về, đừng có tham quyền cố vị mà mang hoạ…con…

Từ Thị nói đến đây thì bỗng nấc lên mấy tiếng rồi lịm đi. Cam Mộc sở đến tay mẹ thì đã lạnh rồi, oà lên khóc. Vợ chồng lo liệu ma chay xong, bán hết nhà cửa đất cát rồi mang con đến Hoa Lư tìm nhà Lê Hoàn.
Hoàn cho lính gọi vào hỏi :

- Nhà ngươi ở đâu ? đến hầu ta có việc gì ?

- Bẩm tướng quân, chúng tôi quê ở Đằng Châu.

- Người ở Đằng Châu có biết Từ lão mẫu không?

- Bẩm tướng quân chính là thân mẫu của chúng tôi.

Lê Hoàn giật mình nói :

- Ủa, thế ra người là con ân nhân của ta. Chẳng hay lão mẫu có được khoẻ mạnh không?

Cam Mộc ứa nước mắt đáp :

- Bẩm thân mẫu chúng tôi đã từ trần.

Lê Hoàn ngậm ngùi, sa lệ :

- Đáng tiếc thay! Ta trước kia, nếu không gặp lão mẫu nuôi nấng ít lâu thì đâu đã được đến ngày nay? Ta
hằng vẫn nhớ mong nhưng việc nước bận quá, nên chưa có dịp về hỏi thăm. May gặp lại ngươi đến đây, âu
cũng là một dịp để ta trả nghĩa. Nhà ngươi đã có vợ con chưa?

- Bẩm đã.

- Nhà ngươi là con trai Từ lão mẫu thì võ nghệ chắc giỏi.

- Bẩm chúng tôi biết qua loa đôi chút.

- Hôm nay người hãy tạm ra ngoài nghỉ ngơi, đến mai ta vào tâu Hoàng thượng phong quan chức cho.

Nói xong, Lê Hoàn sai lính đưa ra khỏi dinh.

Năm hôm sau, Cam Mộc được đi bổ làm huyện lệnh ở Đông Ngàn. Năm ấy chàng vừa đúng 20 tuổi.

*
* *

Cam Mộc lùi vào tư thất, Lê Vân bế con ra đón tươi cười hỏi :

- Hôm nay phu quân làm gì mà giận dữ thế?

Cam Mộc kể chuyện cho vợ nghe rồi nói :

- Đất Bắc cũng nhiều tay cứng cổ và lý sự.

- Ở đời, kẻ có tài thường hay khinh mạn người trên, ta cũng nên nhẹ tay đôi chút để khỏi mang tiếng là
bạc đãi kẻ hiền sĩ.

- Phu nhân nói cũng phải, ta sẽ có cách xử trí.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #18 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:31:15 pm »

Cái tin một người ở An Phong bị tống giam phút chốc đã loan truyền đi khắp ba huyện. Họ xì xào bàn tán đến thái độ cứng cỏi của người đó, đã cả gan phản kháng mệnh lệnh của triều đình.

Vậy người ấy là ai mà dám ngang nhiên đùa giỡn với cái chết như thế? Người đó họ Phạm tên là Kim Chung tự là Kiến Minh, quê ở Liễu Trang, huyện An Phong, cha là Phạm Kim Song, tự Kiến Long, nguyên bộ tướng của Dương Diên Nghệ. Lúc bé, Kim Chung không thích nghề võ, chỉ ham đọc sách, cha thường bảo :

- Thời đại nhiễu nhương, mạnh được yếu thua, mày không chịu luyện tập võ nghệ để phòng thân, chỉ suốt ngày nghêu ngao “chi hồ, dã giả”. Liệu giặc đến mày có thể đem “Khổng Tử Viết” ra mà đuổi giặc được không?

Kim Chung thản nhiên trả lời :

- Thưa cha, thế nhân, kẻ luyện võ, người học văn, nếu ai cũng thích cưỡi ngựa múa gươm, thì sách vở
Thánh Hiền có lẽ thành vô dụng cả. Ông tướng cầm trăm vạn quân ra chiến trường, bầy binh bố trận, vào sinh ra tử, trải bao nhiêu gian hiểm mới đoạt được thắng lợi. Công lao hãn mã, kể cũng là giỏi nhưng không bằng chàng “bạch diện thư sinh” ngồi trong màn tính việc ngoài nghìn dặm, hạ ngọn bút, giặc phải lùi, dùng văn chương mà bình được thiên hạ.

Kiến Long phì cười nói :

- Mày chỉ được cái bẻm mép. Tao chỉ sợ mày sau này lại ăn hại vợ con, dài lưng tốn vải, chớ chẳng làm nên trò trống gì đâu.

Kim Chung có ý không bằng lòng, đáp :

- Rồi cha xem.

Nói xong vùng vằng đi ra ngoài.

Người cha nhìn theo lắc đầu than rằng :

- Thằng này ăn nói viễn vông, tính tình ngang ngạnh, không khéo mang hoạ sau này.

Khi Kiến Long khuất núi. Kim Chung thừa hưởng gia sản của cha để lại, trở nên một phú hộ ở hương thôn.
Năm 21 tuổi, Kim Chung lấy vợ, và năm sau sinh một gái đầu lòng, đặt tên là Phạm Hồng Thanh, rồi từ đấy cũng không sinh nở gì nữa. Hồng Thanh lớn lên nhan sắc xinh đẹp, học giỏi, trong làng cũng nhiều anh ngấp nghé muốn bắn sẻ.

Kim Chung có một gái tài cao, nên kén rễ kỹ lắm. Năm Hồng Thanh 19 tuổi, Kim Chung nhận lời gã cho môt anh học trò họ Lê, định để cuối năm thì cho cưới. Vì cuộc nhân duyên này mà sinh ra sự hiềm khích giữa Kim Chung với một số đông “chàng rễ hụt” ở làng, trong số đó có Hoàng Phủ Nhâm.

Nguyên làng Liễu Trang xưa nay vẫn có tiếng là trù phú nhất trong huyện. Trong làng có bốn họ to nhất : Hoàng, Phạm, Trần, Lưu. Họ Hoàng ba đời làm quan to, quyền thế hách dịch, đến đời Hoàng Phủ Cân, vì không thích ra làm quan, ở nhà thừa hưởng cái gia sản bách vạn của ông cha để lại. Hoàng Phủ Cân muộn mằn, đến năm 40 tuổi mới sinh hạ được một trai là Hoàng Phủ Nhâm, yêu quý như hòn ngọc trên tay.

Hoàng Phủ Nhâm tuy mặt mũi khôi ngô, nhưng tính tình hung hãn, thường ỷ thế cha áp bức kẻ dưới, nên mọi người đều kinh sợ như hổ lang, lại cậy mình là con nhà giàu nên chơi bời phóng túng, hàng ngày đàn đúm với mấy tay “công tử bột”.

Một hôm, Phủ Nhâm bày một tiệc rượu cho vời hai người bạn chi thiết là Trần Hoà và Lưu Tấn Đường đến chè chén. Rượu đến nửa chừng, Hoàng Phủ Nhâm buông chén thở dài. Trần Hoà ngạc nhiên hỏi :

- Hoàng huynh có điều gì phiền muộn thế?

Phủ Nhâm chỉ ngồi lặng yên không nói.

Lưu Tấn Đường buông đũa, đứng phắt dậy, sắc mặt hầm hầm :

- Chúng ta coi nhau như ruột thịt, lại còn dùng lối khách sáo, nửa kín, nửa hở, thì còn ngồi đây làm quái gì
nữa.

Nói xong, toan bước đi, Phủ Nhâm vội giữ lại xin lỗi :

- Đại huynh hãy bớt giận, đệ có một chút khổ tâm chưa biết thổ lộ với ai, nên chỉ âm thầm một mình. Nhân tiện hôm nay, đệ xin thành thực dốc hết bầu tâm sự để đại huynh hiểu rõ trạng huống của kẻ bị lửa tình đốt cháy ruột gan.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #19 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:31:56 pm »

Tấn Đường cười khà tiếp lời :

- Trời ơi! Tưởng chuyện gì to tát, té ra vì chuyện con “tườu” ấy mà đại huynh phải rào trước đón sau mãi. Đệ xin cam đoan với huynh rằng, nếu phải lên rừng trói cọp hay xuống bể bắt rồng thì đệ đành chịu, còn ngoài ra công việc dù khó khăn, can hệ đến đâu, đệ cũng chỉ gãy móng tay là xong hết. Nào nào nếu đại huynh muốn sang Giang Đông cầu hôn thì phải cần đến cẩm nang của Gia Cát này mới được.

Trần Hoà gật gù nói tiếp :

- Phải! Kể bày mưu lập mẹo thì Lưu huynh chẳng chịu nhường tài Gia Cát… Nhưng này, Hoàng huynh được trời phú cho bộ mặt khả ái, nỏn nà như thế kia, lại thêm cái gia sản “phú gia địch quốc” thì tưởng trên bước thang tình ái, Hoàng huynh cứ đều bước còn vấp gì nữa mà thở vắn than dài? Thật là khó hiểu, thật là lạ lùng quá.

Phủ Nhâm lắc đầu đáp :

- Món này thì khó xong lắm. Tiền tài danh vọng cũng chả làm gì? Nếu có lấy thế lực đức Đương Kim Hoàng Đế thì may ra mới có hy vọng.

Phủ Nhâm nói xong, nhìn ngang nhìn ngửa, như sợ có người nghe trộm, rồi se sẽ hất đầu, nháy mắt, tay chỉ chỏ huyên thuyên.

- Phạm…Phạm ấy mà.

- A, con gái Phạm Kim Chung

- Còn ai nữa.

Trần Hoà vỗ đùi đánh đét một cái, sằng sặc cười :

- Lão đồ gàn ấy thì khó nói lắm.

- Khốn nạn, đệ biết thế, nên mới chán như cơm nếp nát. Nào Lưu huynh, có thu xếp xong món này, thì đệ
mới phục là giỏi.

Lưu Tấn Đường ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi, tay mân mê chén rượu một lúc rồi hỏi :

- Đại huynh đã thưa chuyện với cụ chưa ?

- Cái đó không lo lắm, vì đệ được toàn quyền kén chọn. Chỉ sợ đằng kia thôi!

Tấn Đường quả quyết nói :

- Được, đệ sẽ trổ tài ngôn luận, thuyết phục bằng được Kim Chung mới nghe. Hễ sau này, đại huynh được
đẹp duyên cùng người ngọc thì chớ có quên ơn đệ nhé!!

- Vâng, đệ xin cảm tạ trước.

Xong câu chuyện, ba người lại chén chú chén anh, ba hoa khoác lác hết chuyện văn chương lại đến
chuyện võ nghệ, giọng cười câu nói tỏ ý khinh đời, tự cho mình có cốt cách hơn người, tài ba lỗi lạc.

Hôm nay Lưu Tấn Đường sang chơi bên nhà Kim Chung, vênh vang tự đắc, ngỏ ý muốn làm mai cho Hồng Thanh lấy Phủ Nhâm, thì bị Kim Chung cực lực cự tuyệt…mắng cho một trận kịch liệt. Tấn Đường xấu hổ lủi mất, không dám vác mặt đến nữa.

Hoàng Phủ Nhâm thấy việc hôn nhân không thành, đem lòng tức giận; sau lại nghe thấy Kim Chung gả con cho người khác thì phẫn uất, ghen tức, chỉ mong có dịp trả thù. Kịp đến khi có lệnh tuyển lính, dân xã An Phong chỉ gọi được hơn 500 người, có đủ điều kiện tòng quân, còn phần nhiều là rách rưới ốm yếu cả. Mọi người lo lắng bàn tính cách cử đại biểu lên huyện để phân trần. Phạm Kim Chung khẳng khái nhận trách nhiệm. Mấy lời cương trực đã xúc phạm đến uy quyền của Huyện Lệnh, và đem lại cái kết quả không hay cho một người chỉ vì muốn tranh đấu cho hạnh phúc và quyền lợi của dân mà mang hoạ.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM