Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:01:28 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thày Tăng mở nước  (Đọc 33090 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:15:14 pm »

Nguồn sách: vnthuquan.net

LỜI TỰA
Đêm khuya không dám dang chân ruỗi
Vì ngại non sông xã tắc xiêu

Lý Công Uẩn.

Cách đây hơn ba mươi năm, cũng có vài tiểu thuyết gia viết về Lý Công Uẩn. Cốt truyện tuy ly kỳ, câu văn tuy hấp dẫn thực, nhưng các tác giả thường thường đưa vào nhiều chuyện hoang đường để mô tả một nhân vật lỗi lạc với những hành động vượt quá sức tưởng tượng.

Thực ra, theo những tài liệu lịch sử xác thực thâu thập được, thì Lý Công Uẩn cũng chỉ là một người dung phàm,có cha họ Lê, và mẹ họ Phạm (mà không phải là con của thần nhân), nhưng sởdĩ sau này gây được sự nghiệp lớn lao như vậy, là do ở tấm lòng tha thiết với sự tồn vong của dân tộc, ở trí cương quyết bảo vệ đạo Phật và hoằng dương Phật Pháp, ở một hoàn cảnh thuận tiện cho người anh hùng vùng dậy đạp đổ chế độ độc tài của vua Lê Ngoạ Triều.

Hơn nữa, Lý Công Uẩn lại được dưỡng dục ở Thiền môn, một khung cảnh thích hợp cho những tâm hồn sa ngã nào muốn cải thiện, rồi hàng ngày được vị cao tăng Vạn Hạnh truyền thụ những giáo lý cao siêu của đạo Phật, và đạo Khổng, dễ khiến cho con người lúc nào cũng muốn vươn tới cõi toàn thiện, toàn mỹ, quên mình để tạo hạnh phúc cho muôn loài.

Cuốn lịch sử tiểu thuyết “Thầy Tăng Mở Nước” của Nguyễn Quỳnh không rơi vào những lỗi lầm đáng tiếc của các tiểu thuyết trước đó. Tác giả đã gạt bỏ những thuyết hoang đường về sự tích của LÝ CÔNG UẨN và chỉ đưa ra những sự trạng có thể xảy ra được ở một thời đại mà chiếc ngai vàng đang ở họ này đột nhiên chuyển sang tay họ khác (như trường hợp Lê Hoàn cướp ngôi của nhà Đinh), hoặc khi mà Chính Quyền chưa ổn định được tình hình rối ren ở các thôn quê, vì còn bận đối phó với nạn ngoại xâm (trường hợp quân nhà Tống viện cớ ủng hộ nhà Đinh, mang quân sang đánh Lê Hoàn).

Hoàn cảnh nào đã tạo nên Lý Công Uẩn, một cá nhân siêu đẳng, đã dùng “Đức” để duy hệ nhân tâm, gây được sức mạnh ở lòng tin tưởng vào phép màu nhiệm của đạo Phật để mở ra một triều đại kéo dài hơn hai trăm năm, võ công đã hiển hách, văn học lại hưng thịnh, đạo lý được duy trì, cương thường được bảo vệ.
Cuốn lịch sử tiểu thuyết “Thầy Tăng Mở Nước” đã trình bày rõ ràng hoàn cảnh và trường hợp đặc biệt đó.
“Vạn Hạnh” xuất bản cuốn lịch sử tiểu thuyết “Thầy Tăng Mở Nước” không ngoài những mục đích nói trên, mà còn hân hạnh cống hiến đến quý đọc giả một món ăn lành mạnh bổ ích cho tinh thần, đồng thời góp thêm chút ít tài liệu lịch sử để rộng đường dư luận.

Thích Thanh Kiểm
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Ba, 2021, 01:13:51 pm gửi bởi ptlinh » Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #1 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:16:22 pm »

NGƯỢC DÒNG LỊCH SỬ

Khu rừng Báng (thuộc huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh) chạy dài đến Chuôm “Địa phận” giáp giới làng Phù Lưu và ăn rộng mãi gần Phù Đổng, bao trùm một khoảng đất ước được vài chục mẫu. Rừng tuy nhỏ, nhưng từ trước đến giờ ít người dám mạo hiểm đi vào sâu, vì óc mê tín dị đoan của dân các làng chung quanh đã tạo nên những mẫu chuyện hoang đường, khủng khiếp, mà họ đã chắc chắn xảy ra ở giữa rừng xanh. Có người quả quyết đã trông thấy dáng điệu yêu kiều của một mỹ nữ nhỡn nhơ dưới gốc cây, một liệp nhân trong những lúc “trà dư tửu hậu” đã kể với bạn bè chính mình đã được mục kích một toán ma, xoả tóc, trần truồng, nhảy múa chung quanh đống lửa, giữa đêm hồm rằm. Nhưng có lẽ rùng rợn nhất là câu chuyện kể sau đây của một bộ tướng đã già, người của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp :

- Hồi ấy, - lời của viên bộ tướng nói – tôi đóng ở Tiên Du. Sứ quân tôi tính nóng như lửa và có sức khoẻ vô cùng. Những bộ hạ dưới trướng gồm một số đông quân cướp biển, và vài trăm tàn binh Nam Hán ở Đường Lâm về hàng. Tụi này tính tình hung hãn, giết người không ghê tay. Một hôm, chúng tôi sang Siêu Loại, đánh nhau với sứ quân Lý Khuê, bắt được một ít tù binh. Lúc trở về, Sứ quân tôi cho quân nghỉ ở Rừng Báng, giết lợn, mổ trâu, khao thưởng sĩ tốt. Trước khi nhổ trại kéo đi. Sứ quân sai tụi Nam Hán đem tù binh ra chặt từng khúc, lấy gan ăn, rồi cuốn bộ lòng lên trên cành cây. Từ đấy trong những đêm tối âm u, văng vẳng nghe có tiếng oan hồn rên rỉ…

Câu chuyện kể từ miệng người này sang tai người khác, rồi lan tràn khắp vùng như vết dầu loang. Những tháng lạnh buốt xương, mưa phùn lất phất bay giữa cảnh đêm khuya ủ dột, tiếng gió ngàn vi vu thổi, gieo vào óc mọi người một cảm giác hãi hùng…

Giữa rừng có một ngôi chùa cổ. Cứ theo như tin đồn thì chùa này do một nhà sư lập ra, từ đời họ Khúc.
Nguyên trong hồi Bắc thuộc lần thứ ba, đất Giao Châu luôn luôn bị quân Nam Chiếu quấy nhiễu, dân gian thật là sống dở chết dở.

Một đằng quân giặc ra sức cướp phá, đốt nhà, giết người. Một đằng binh sĩ nhà Đường kéo đi dẹp giặc thì sự tiếp tế lương thực đều trông cả vào toàn dân, thành ra một cổ hai tròng, trăm họ lầm than cơ cực. Có nơi ,quân giặc vừa kéo đi khỏi, thì quân Đường lại đến đóng, còn mớ rau, thúng thóc, thảy đều bị vơ vét sạch. Nhiều địa phương, vườn ruộng bỏ hoang, cửa nhà tiêu huỷ, suốt đêm ngày khói lửa mịt mù, tiếng ngựa hí, quân reo ầm ầm như nước thuỷ triều cuồn cuộn chảy. Dân sự, bồng con bế cái trốn tránh vào những nơi rừng rậm núi cao, lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi. Bọn vô lại rủ nhau đi cướp thóc lúa, rồi lại đón các quân Mường, Mán về hợp đảng, đánh chặn binh sĩ nhà Đường. Sau nhờ có Cao Biền sang làm Tiết Độ Sứ, dùng mẹo đánh đuổi quân Nam Chiếu, đem lại sự an ninh cho đất Giao Châu trong một ít lâu. Kịp đến nhà Đường đổ, nước Tàu có loạn Ngũ quý. Ở Giao Châu, họ Khúc nhân cơ hội đó nổi lên chiếm giữ binh quyền; Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên làm Tiết Độ Sứ. Một buổi sáng, khoảng năm Đinh Sửu (917), một vị sư già tìm đến làng Cổ Pháp, và nói với sở tại cho phép lập một ngôi chùa. Một cụ già trong làng ngạc nhiên hỏi :

- Nhà sư định lấy gỗ đâu mà làm chùa?

- Thưa, bần tăng lấy trong rừng.

- Thế còn gạch ngói?

Sư già chỉ tay xuống đất, đáp :

- Ở đây.

Mọi người lấy làm lạ nhưng không dám hỏi nữa.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #2 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:16:52 pm »

Sư già nói tiếp :

- Mô Phật, bần tăng mạn phép xin cho gọi tất cả dân làng ra để bần tăng thưa một câu chuyện.
Nói đoạn, sư già lấy ở trong bọc một cái mõ con và một cái dùi, gõ mấy tiếng. Tiếng mõ vang dội khắp làng tưởng như rung chuyển cả nhà cửa, và có một hấp lực rất mạnh lôi cuốn hết cả nam, phụ, lão, ấu. Đến khi mọi người đã tề tựu đông đủ, sư già đứng trên thềm dỏng dạc nói :

- Mô Phật, bần tăng nhận thấy trên 10 năm loạn lạc, tinh thần của dân ta sút kém đi rất nhiều, đạo đức suy vi, luân thường đảo ngược. Trong hồi Bắc thuộc, đất Giao Châu nhờ được hai vị ân nhân Nhâm Diên, Tích Quang dùng đức mà trị dân, lấy nhân mà cảm hoá lòng người, lấy lễ nghĩa mà cải tạo phong hoá. Một trăm năm sau, Sĩ Vương mở mang việc học, kết nạp anh tài, thu dùng hào kiệt. Nhờ thế mà một số ít dân ta mới được thấm nhuần đôi chút giáo lý đạo Khổng. Nhưng tiếc thay Hán học không được phổ biến trong dân gian thì dẫu có đem từ đất Lỗ sang hàng vạn Tứ Thư, Ngũ Kinh, hỏi có ích gì cho dân Giao Châu ? Bần tăng lúc bé cũng theo đòi Hán học, nhớn lên được một vị cao tăng trong Thiền môn giác ngộ chỉ bảo cho biết cuộc đời là khổ hải, con người luôn luôn ở trong vòng luân hồi, cứ bị các nghiệp báo theo rõi mãi. Bần tăng muốn thoát khỏi bể trầm luân, nên thế phát quy y. Bần tăng định lập ngôi chùa ở rừng Báng, hàng ngày thuyết pháp giác ngộ chúng sinh, nếu các người nhất tâm thành kính tin tưởng ở đức Phật tổ, thì sau này tránh được các bệnh tật hiểm nghèo, và thoát được nạn binh đao, thuỷ, hoả.

Lời nói của vị sư già quả nhiên có mãnh lực cảm hoá được lòng người. Hai hôm sau hơn một trăm trai tráng chặt cây phạt cỏ, mở một con đường vào rừng. Sư già chọn chỗ đất cao cắm hướng. Dân làng gánh gạch, vôi cát, tấp nập suốt ngày, chưa đầy một tháng, ngôi chùa đã xây xong. Sư già tự tay nhào đất nặn một pho tượng sơn son, thiếp vàng, đặt lên Tam Bảo…

Hôm khánh thành chùa, dân chúng ở hạt Đông Ngàn kéo nhau đến vãng cảnh rất đông. Sư già đặt tên là
chùa Ứng Tâm. Năm sau, sư già bị bệnh, tịch ở chùa. Lúc lâm chung, các đệ tử xúm xít quanh giường cầu xin thầy giáo hoá. Sư già nói :

- Năm mươi năm về sau, một vị chân mệnh thiên tử sẽ giáng sinh ở chùa này. Thời ấy đạo Phật chiếm địa vị toàn thịnh. Các người đều là chân tu lo gì chả được Phật Tổ phả độ.

Từ khi sư già viên tịch đi rồi, thì các đệ tử tản mát, mỗi người một nơi; người thì mai danh ẩn tích, người thì quẩy níp hái thuốc phương xa. Còn lại một cao đồ của người là sư Không Thanh ở chùa, nhưng năm sau, bỗng một hôm đi mất. Rồi từ đó cảnh chùa bỏ vắng, lối cũ cây cỏ phủ kín, mặt tường loang lỗ, rêu mọc xanh rì, rồi những chuyện khủng khiếp thêu dệt mãi ra, làm cho khu rừng biến thành một nơi bất khả xâm phạm.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #3 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:18:37 pm »

GẶP GỠ

Năm Canh Ngọ (970), niên hiệu Thái Bình, nguyên niên của Đinh Tiên Hoàng Đế.

Gần 20 năm, mười hai vị Sứ quân đánh giết lẫn nhau, dân gian trộm cướp nổi lên như ong. Đức Tiên Hoàng dấy binh ở Hoa Lư dẹp yên các nơi, thống nhứt giang sơn, lập thành một nước tự chủ ở phương Nam. Dân chúng trong thời kỳ loạn lạc, phiêu bạt ở nơi rừng xanh núi đỏ, lục tục kéo nhau về quê hương mưu đường sinh kế. Làng mạc lại trở nên sầm uất, chợ búa tấp nập, kẻ bán người mua. Ở dọc sông, thuyền bè đậu như
lá tre, phấp phới cánh buồm in trên nền trời xanh ngắt : cảnh tưởng hiện ra vẻ thái bình thịnh trị.

Một buổi sáng, tại làng Cổ Pháp, nhà lão Mộc đông nghịt những người. Mấy cụ già ngồi sổm trên chiếc chiếu giữa nhà, xung quanh xúm xít những trai tráng, người nào cũng cao lớn khoẻ mạnh. Cái điếu cầy chuyển từ người này sang người kia, thỉnh thoảng lại rít lên từng hồi, nghe rất ròn rã. Lão Mộc, tuy đã quá lục tuần, nhưng nom còn quắc thước lắm, và có tiếng là tay thiện xạ ở vùng này. Chỉ có một cái cung và mớ tên, mà lão quanh năm lúc nào cũng phong lưu. Suốt từ cánh rừng Trang Liệt đến dãy núi Tiên Du, rồi vòng về Ve, Húc, Phù Đổng, chỗ nào cũng có vết chân của lão. Chẳng đêm nào lão chịu về tay không. Ban ngày lão dò vết chân thú rừng, xông vào tận hang để bắt.

Thời kỳ các Sứ quân tranh bá đồ vương, lão có giúp Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du, vì có tài bách phát bách trúng, nên lão được quân sĩ gọi là tiểu Dưỡng Do Cơ. Lão thờ Nguyễn Thủ Tiệp làm minh chủ, vì lão tin rằng sau này Thủ Tiệp sẽ thành công. Lão thường nói với các thủ hạ rằng : “Nguyễn Lịnh Công (tức Thủ Tiệp) đi như rồng, bước như cọp, tính hiếu sát, nhưng biết dùng người, đúng là chân mệnh thiên tử. Chúng ta xuất thân áo vải, hết lòng phò chúa, dựng nghiệp lớn cho bỏ lúc nằm gai nếm mật. Ta dẫu chẳng có tài như Ngô Khởi, Hàn Tín, nhưng nếu sau này giang san thu về một mối, Lịnh Công khoác áo Hoàng Bào lên ngôi Cửu Ngũ, thì ta cũng được vào địa vị Khai Quốc Công Thần, liệu kém gì Khương Thái Công, khai sáng cơ nghiệp nhà Chu ?”

Kịp đến khi Nguyễn Thủ Tiệp bị chết về tay Vạn Thắng Vương, lão thấy lòng dân đã ngã về họ Đinh rồi, nhưng muốn đền ơn tri ngộ của chủ, nhất định lão không chịu về hàng Vạn Thắng Vương, trở về quê, lấy săn bắn làm kế sinh nhai. Lão không có vợ con, không người thân thích.

Hôm ấy, lão mời dân làng đến nhà là vì lão vừa có người cho biết có một con hổ đã về rừng Báng được vài hôm nay. Và lão muốn tổ chức một cuộc săn lớn để bắt mãnh thú. Giữa đám đông, lão dõng dạc chỉ tay bảo một thanh niên đứng dựa cột :

- Thế nào! Chú Tư Chiềng, chú hãy kể lại cho chúng ta nghe câu chuyện của chú gặp hổ ra sao! Cứ thực mà nói, nghe chưa!

Bấy giờ mọi người mới để ý Tư Chiềng, hắn trạc độ 19, 20 tuổi, người cao lớn, da ngăm ngăm đen, tóc búi ngược. Hắn mặc một cái áo nâu ngắn cũn cỡn, cộc tay và đóng một chiếc khố bằng vải thâm ruộm bùn. Những bắp thịt cuồn cuộn nổi lên ở cánh tay, dóng chân, trông rắn chắc như thanh sắt nguội. Trông hắn đứng vững vàng như pho tượng đá ở trước cửa chùa, dũng mãnh như con ngựa sung sức có thể một ngày đi được dăm trăm dặm mà không biết mỏi.

Tư Chiềng cất tiếng nói, giọng oang oang như lệnh vỡ :

- Canh ba đêm qua, tôi dạo vào rừng định kiếm ít củi về đun. Khi đến gò Ông Đống thì thoáng nghe tiếng sột sạt, rồi từ trong bụi chiếu ra hai ngọn đèn đỏ rực. Tôi đi rừng nhiều nên biết là mắt hổ. Tôi vội vàng giữ vững chuôi dao đứng thủ thế. Con hổ vụt nhảy qua đầu tôi rồi biến vào rừng mất.

Mọi người đều cười ồ lên. Một cụ già, giơ tay vẫy vẫy mấy cái rồi hỏi :

- Thế chưa giáp chiến à ?

- Chưa! Hổ chạy mất rồi còn đâu mà đánh?

- Chú xem nó có to không?

- Trời tối, trông không rõ, nhưng cũng phải bằng trâu mọng, vì lúc hổ nhảy, luồng gió rất mạnh.

Lão Mộc ngắt lời :

- Được rồi, thế là đủ! Vậy chúng ta bàn cách xem nên bắt sống hay đánh chết. Ai có ý kiến gì, xin cho biết ?
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #4 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:19:20 pm »

Một thanh niên nối lời :

- Chúng ta chia làm 4 toán, mỗi toán độ mươi người, dùng tên nỏ bắn. Đợi khi hổ yếu rồi, bỏ nỏ dùng dao sắc xông vào chém là được.

Có tiếng nói từ dưới thềm đưa lên :

- Không xong rồi. Trong rừng cây cối um tùm, dây leo chằng chịt, tên nỏ bắn không khéo chỉ cắm vào thân cây, chưa chắc đã trúng hổ.

Một thanh niên khác tiếp :

- Ta huy động hết các tráng đinh trong làng chia thành từng toán độ năm người một, dùng toàn mắc sắc, dao nhọn. Hễ toán nào gặp hổ thì xông vào đâm rồi rúc tù và báo hiệu để những toán khác vào tiếp sức.

Một cụ già ngắt lời :

- Cũng không xong nốt. Sức hổ mạnh bằng cả một đội quân, năm ba người thì thấm vào đâu mà đâm với chém. Đánh hổ, ta chỉ nên dùng mưu, chứ cậy khoẻ thì toi mạng ngay. Tôi có cách này : đào hố chông gai để bẫy không sợ nguy hiểm.

Có tiếng phản đối :

- Dùng bẫy lâu lắm, ta nên lợi dụng lúc hổ còn lạ rừng, đánh ngay thì hơn. Muốn tránh sự xung đột với hổ thì dùng tên thuốc độc.

Lão Mộc để mặc mọi người tranh luận, chỉ ngồi hút thuốc vặt. Lão đã có định kiến, nên cứ thản nhiên nghe mọi người bán tán đã chán tai rồi, lão mới cất tiếng nói :

- Các chú bàn cùng có lý cả, nhưng theo ý tôi, nếu đánh nhau với hổ trong rừng, thật vất vả lắm. Thảng hoặc có thắng lợi được, thì bên mình cũng sây sát vài nhân mạng là ít. Chỉ có cách dùng mưu cho hổ lìa khỏi rừng, rồi đánh, mới dễ. Binh pháp gọi là “điệu hổ ly sơn”.

Cả bọn gật gù tán thưởng :

- Phải đấy.

Lão Mộc đắc chí nói tiếp :

- Hổ ví như một dũng tướng, lấy sức địch thì khó bề thủ thắng, nhưng hổ tham mồi nên dễ bị khuất phục.
Khi hổ đã mắc mưu, thì chỉ cần một tay khoẻ và nhanh nhẹn là trói được. Công việc này, phi Tư Chiềng, không ai kham được nổi.

Có tiếng xì xào lẫn với mấy câu văng tục. Lão làm lơ như không biết, tiếp luôn :

- Chỉ nửa tháng nữa, thế nào hổ cũng bị bắt. Hôm nay xin tạm giải tán để mặc tôi với Tư Chiềng.

Mọi người kéo nhau về, bán tín bán nghi, chưa biết già Mộc định dùng cách gì để đối phó với mãnh thú.
Hai ngày liền, sáng nào lão Mộc cũng dắt Tư Chiềng lảng vảng ở gò Ông Đống, hình như để quan sát địa thế. Có lúc hai người cúi xuống hì hục đào…

Trời đã về cuối thu, lá vàng lác đác rơi. Gió lạnh thổi, lướt qua ngọn cỏ còn đọng lại những hạt sương lóng lánh như bạc. Từng đàn nhạn cất cánh bay về phương xa như để tránh những trận mưa sắp đổ sập xuống dài rằng rặc và lạnh buốt, của một mùa thu ảm đạm.

Lão Mộc đứng tựa vào thân cây, ngón tay chỉ cái gò, hỏi Tư Chiềng :

- Hôm ấy chú gặp “hắn” ở đây phỏng ?

- Phải, ở trong bụi cây trước mặt.

- Có lẽ “hắn” thường qua lại chỗ này, nên có nhiều vết chân.

- Đúng đấy.

Lão Mộc đưa mắt nhìn chung quanh rồi ngửa mặt lên trời, lẩm bẩm :

- Trong ba ngày nữa mà không mưa thì công việc tất xong.

Lão vỗ vai Tư Chiềng, thân mật nói :

- Chú nhớ lời tôi dặn, và về nhà luyện tập lại kỹ càng. Tôi tin ở tài năng của chú.

Hai người còn đứng lại bàn tán, tay chỉ chỗ, mắt nhìn ngang nhìn ngửa, quá trưa họ mới thủng thỉnh ra về.
Qua một đêm yên tỉnh. Sáng hôm sau mây đen đùn đùn che lấp cả bầu trời, rồi suốt ngày đêm, những giọt nước, lúc lất phất bay nhẹ nhàng như tấm màn mỏng căng trên nền trời ủ dột, lúc rầm rập như giòng thác đổ dồn xuống khe núi âm thầm. Chốc chốc lại có tiếng sấm nổi lên, vang dội cả không trung, và trên màn đen sẩm của đám mây dầy đặc, những tia chớp ngoằn ngoèo sáng rực lên một chốc rồi tắt làm cho tạo vật lại chìm đắm trong khoảng không mù mịt. Gió ào ào thổi. Từ ngọn cây những chiếc lá lả tả rơi xuống bùn lầy. Thỉnh thoảng giữa luồng gió cuồn cuộn từ khu rừng bốc lên một con chim vụt phóng qua, nhanh như tên, buông tiếng kêu thê thảm.

Trong hai hôm mưa ròng rã, không ngày nào không có chuyện hổ bắt người. Ngay ở làng Cổ Pháp, đã có 3 người đàn bà bị chết về hổ. Có nhà vừa sâm sẩm tối, ác thú đã lần mò vào bắt lợn. Dân chúng kinh khủng đóng kín cửa không dám thò ra đến ngoài. Suốt dọc đường trơn như mỡ, chạy từ Cổ Pháp đến Phù Lưu không một bóng người qua lại. Đến ngày thứ 3 thì mưa ngớt hạt, và hôm sau thì tạnh hẳn. Sáng sớm ở phương đông, vầng thái dương đã le lói sau áng mây hồng. Nắng hanh đánh tan màn sương mù và rắc những bụi vàng trên màu xam xám bẩn thỉu của mái tranh. Xa xa, mặt nước chuôm trắng bạc phản chiếu những tia hào quang rực rỡ, như một tấm gương khổng lồ đặt giữa một vùng cây cỏ xanh tươi. Dưới suối giòng nước ầm ầm chảy, cuốn cả những cành cây khẳng khiu xơ xác cả lá.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #5 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:20:14 pm »

Dân làng Cổ Pháp kéo nhau đến chợ để đổi chác thực phẩm. Trên con đường nhỏ hẹp, vắt qua những ngọn đồi rậm rạp, từng toán người hấp tấp đi, đàn ông cầm cao dài đi hai bên kia đường, bảo vệ bọn đàn bà gánh thóc, ngô, khoai. Tới chợ, mọi người xúm xít quanh lão Mộc để hỏi chuyện. Lão chỉ mỉm cười, không trả lời. Tay cầm vò rượu, đầu đội thúng gạo, lão rẽ đám đông người, toan rảo bước đi, thì bỗng một bàn tay đặt lên vai lão, làm lão phải quay đầu, rồi tiếp đến một giọng nói nhẹ nhàng :

- A Di Đà Phật, bần tăng kính chào lão trượng.

Lão ngạc nhiên khi nhận ra người đứng trước mặt mình là một vị sư già, quần áo tồi tàn, một tay chống chiếc gậy trúc, một tay cầm cái bát chìa ra như cầu xin bố thí. Trong đời giang hồ của mình, lão thường giao thiệp với các tăng đồ, nên đối với hạng người này, lão rất nhiều cảm tình. Lão đã được tiếp xúc với nhiều tay cự phách trong Thiền môn, và nghề bắn của lão được tới chỗ cao siêu, là nhờ ở sự chỉ bảo của một vị sư người Tàu đi truyền đạo Phật ở đất Giao Châu. Lão đặt vò rượu xuống đường, tay bốc một nắm gạo toan đặt vào bát của vị sư, nhưng sư già đã nhanh nhẹn thu bát lại, mỉm cười, nói :

- Bần tăng có đi khất thực đâu! Bần tăng muốn gặp lão trượng để thưa một câu chuyện.

Tiếng nói êm ái như quyến rũ lòng người. Cặp mắt sáng quắc của sư già nhìn thẳng vào mặt lão, có sức thôi miên rất mạnh làm tiêu tan hết sức nghị lực của vị anh hùng gan dạ đã bao phen đùa rỡn với cái chết ở bãi chiến trường. Lão cúi đầu, lễ phép thưa :

- Xin thỉnh sư phụ quá bộ lại tệ xá.

Nét mặt của sư già phút chốc trở nên nghiêm nghị :

- Mô Phật, bần tăng không dám phiền lão trượng. Bần tăng chỉ cần lão trượng hứa cho một điều.

- Xin sư phụ chỉ giáo.

- Lão trượng để mặc bần tăng đối phó với mãnh thú.

Lão ngạc nhiên nhìn sư già, ngắt lời :

- Giống hổ hung ác lạ thường, giết hại người và vật ở vùng này rất nhiều. Chúng tôi có chút tài nghệ, không lẽ làm ngơ để ác thú hoành hành mãi được, nên phải ra tay trừ hại cho dân, không dám phiền đến sư phụ phạm vào sát giới.

- Con hổ này của bần tăng nuôi đã lâu, vì sơ ý một chút nên nó trốn về đây. Xin lão trượng nễ lời bần tăng dung tha nó một phen, bần tăng xin cảm tạ.

- Chúng tôi chót hứa với dân làng, không lẽ mỗi lúc đã thôi ngay được. Sư phụ là người từ bi mà nuôi ác thú để làm hại dân, không sợ Thiền phái dị nghị sao ?

Sư già mỉm cười, nói :

- Bần tăng tự biết mình có lỗi, nhưng sự đã rồi, không sao lấy lại được. Bốn người ở vùng này bị chết dưới vuốt hổ, cũng là số mệnh xui nên thế. Lão trượng một đời sát hại chúng sanh đã nhiều nghiệp báo theo rõi, cũng nên nới tay một phen để làm đẹp lòng thượng đế.

Lão ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi :

- Sư phụ trụ trì ở chùa nào?

- Bần tăng từ khi thế phát theo thầy được hai năm, tu ở chùa Khuất Liêu, đất Đường Lâm. Khi sư phụ của bần tăng tịch rồi thì bần tăng vân du khắp dãy núi Hoành Sơn, tiêu dao ngày tháng, bạn với cỏ cây, vui cùng trăng gió. Hơn mười năm lưu lạc giang hồ, vài quyển kinh, một bầu nước, tấm thân hạc nội mây ngàn, tưởng như gột hết được mọi sự phiền muộn.

- Sư phụ, pháp hiệu là gì ?

- Bần tăng họ Lý, tên là Khánh Vân, còn pháp hiệu thì chưa có.

- Các môn đồ của sư phụ có nhiều không mà lại nhận ác thú làm đệ tử ?

- Đó là duyên nghiệp xui nên thế. Tình thầy trò, bần tăng không nỡ để nó phải chết dưới lưỡi dao oan nghiệt, nên hết lòng cầu khẩn, xin lão trượng dung tha cho một lần.

- Sư phụ đã nói hết lời, mà chúng tôi cứ khăng khăng từ chối mãi cũng không tiện. Vậy xin đặt hai điều kiện : Nếu ngày mai mũi tên vô tình kết liễu đời ác thú thì cũng là số mệnh xui nên. Bằng bắt sống được, xin trao trả sư phụ.

- Xin lão trượng giữ lời hứa.

- Kẻ trượng phu một lời nói bốn ngựa khó đuổi, sư phụ cứ yên lòng.

Hai người từ biệt nhau, mỗi người đi một đường.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #6 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:21:09 pm »

BẮT HỔ

Ánh nắng đã nhạt dần. Trên nền trời xanh biếc, những đám mây vàng bả lả trôi về tây, mềm mại như tấm lụa mỏng trước làn gió lạnh. Vạn vật chìm dần trong màu tím sẩm của hoàng hôn. Xa xa, một hồi chuông chùa ngân nga, rõng rạc. Những chùm lá rì rào lả lướt trong bóng tối càng làm tăng vẻ bí mật của khu rừng âm u, tịch mịch. Trên không trung, mảnh trăng lưỡi liềm treo lơ lững, buông xuống một ánh sáng nhợt nhạt.

- Be…be….be…e….e.

Một con dê con buộc ở gốc cây ruối cạnh gò Ông Đống, đang co hai chân trước, cố dằng dây thừng, đầu luôn luôn hất lên, làm cho mấy cành cây nằm ngả ở trên, xơ xác hết cả lá. Khóm lau mọc ở bên cạnh, bị chân dê dày xéo nát như vò, nằm bẹp dí trong đống bùn.

- Be…be…e…e…

Bị bỏ rơi ở khu rừng, giữa nơi hoang vu ủ dột, con vật kinh sợ, cuống cuồng, kêu thét như để cầu cứu.
Soạt…!

Soạt! Một luồng gió tạt qua, thoáng có mùi hôi hám, những chiếc lá rào rào dẹp xuống khiến cho con vật im bặt tiếng, nằm phục xuống, run cầm cập. Rồi thì từ bụi cây trước mặt, cách đấy 20 bước, chiếu ra ngọn đèn đỏ rực như máu. Chỉ một cái nhẩy nữa là Chúa Sơn Lâm đã nhẹ nhàng đặt trước mặt con vật khốn nạn, bốn chân cứng nhắc như bốn chiếc cột sắt phủ một lượt nhung vàng nuột. Giờ phút nghiêm trọng đã đến. Con vật hèn yếu nằm rạp, đầu gục xuống, trước cái miệng đỏ lòm. Trên không, chị Hằng như tránh không muốn chứng kiến một cuộc máu rơi, thịt nát sắp xảy ra, lặng lẽ nấp sau đám mây đen, làm cho cảnh vật bỗng rơi vào trong khoảng tối tăm kinh khủng. Bỗng một tiếng hú rùng rợn, rồi hai ba tiếng liên tiếp nổi lên, xé tan bầu không khí tĩnh mịch, át hẳn cả tiếng gió vi vu thổi. Nhanh như chiếc tên, một cái bóng vụt nhảy ra ở bụi cây bên cạnh, rơi xuống chỗ đất cách mãnh hổ độ mươi bước. Chúa Sơn Lâm giật mình, quặt đuôi, nhảy lùi lại. Thật là một sự lạ, cái bóng đen lại là một con hổ nữa nhưng nhỏ hơn con kia.

Hổ con, chân vừa đặt xuống đất, vươn tấm thân mềm mại, chờn vờn nhảy nhót chung quanh dê non. Hổ lớn đang lúc tức giận, thấy bị tranh mất mồi ngon, lại thấy địch thủ nhỏ bé không đáng sợ, gầm lên một tiếng vang động cả khu rừng, đuôi quật đi quật lại mấy cái, rồi lao cả cái thân hình to lớn như trâu mọng vào đối phương. Nhanh như cắt, hổ con tránh sang một bên chân trước vồ lấy mồi dê, rồi chạy bằng hai chân sau đến gốc cây đại đã gần trụi cả lá.

Hổ lớn phóng mình đuổi theo.

Nhưng rủi thay, vừa tới gốc cây, hổ lớn đã rơi tụt xuống một cái hố đào sẵn từ trước, trên rải một lượt cỏ, và ngay lúc ấy trên cây buông xuống một cái thòng lọng đúng ngay vào đầu.

Hổ bị vướng hai chân sau chưa kịp vượt khỏi cạm bẫy, đã bị chiếc dây chão siết chặt lấy cổ. Hổ cố vùng vẫy lăn lộn dưới đất, làm rung chuyển cả thân cây, nhưng vẫn không thoát được vì dây chão bện rất dai, hổ càng dẫy, dây càng xiết chặt.

Hổ con bấy giờ đã trút bỏ lốt và hiện thành một tráng sĩ to lớn, vận quần áo nịt đen trong oai nghiêm và dữ dội. Tráng sĩ rút con dao găm cắm cạnh sường, nhằm phía trước mặt phóng mạnh. Một luồng ánh sáng vụt bay sạt vào ngực ác thú, rồi rơi xuống bãi cỏ. Hổ bị đau, hăng máu, sức khoẻ tăng lên gấp bội, chồm lên, rồi lao mạnh về phía tráng sĩ đứng.

Rắc…rắc…rắc….Cành cây buộc chiếc chão, bỗng gãy rời khỏi thân cây, lăn xuống đất. Cái thòng lọng buộc ở cổ tuột ra, hổ nhảy xuống vồ…Một tiếng thét to từ trên cây vọng xuống :

- Tư Chiềng coi chừng!

Tiếp luôn một con dao ném, rồi hai, ba con nữa phóng theo. Chúa Sơn Lâm nhanh nhẹn tránh được cả, “gầm” lên một tiếng dữ dội, nhe răng giơ vuốt, tiến sát đến chỗ Tư Chiềng. Tráng sĩ chờ cho hổ tới nơi, nhảy tránh sang một bên rồi phi thân tung cả hai chân đánh vào mạng sườn địch. Hổ bị cái đá ngã lộn một vòng, nhưng Tư Chiềng dùng sức mạnh quá cũng bị chồn chân ngồi xệp xuống. Hổ ngã nhưng lại vùng dậy ngay, nhảy xổ vào vồ. Tư Chiềng chưa kịp đứng lên, đành phải nhoài người luồn dưới bụng hổ, rồi chập cả hai tay dùng toàn sức đánh thốc lên một quả vào bụng. Hổ bị quả đấm “thôi sơn” ngã ngữa ra đằng sau, lăn hai vòng trên mặt đất. Tư Chiềng đứng phắt dậy, nhảy lên lưng hổ, một tay chặn lấy gáy, còn một tay cử quyền đánh tới tấp. Đồng thời, lão Mộc cũng ở từ trên cây nhảy xuống cầm dao thẳng cánh đâm xuống.
Bỗng một bóng người vụt đến, giơ chiếc gậy gạt mũi dao ra một bên, tiếp đến một giọng như van lơn :

- Xin lão trượng và tráng sĩ hãy dừng tay.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #7 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:22:05 pm »

Lạ thay, con hổ nghe thấy tiếng nói tức thì chuyển mình thật mình, hất tung Tư Chiềng ra xa độ mười bước, rồi bò đến nằm phục dưới chân cái bóng đen.

Tư Chiềng không ngờ con hổ đã bị thương còn có sức mạnh ghê gớm như thế, nên ngã một cái bằng trời giáng, toàn thân ê ẩm, nằm lặng một ít lâu.

Lão Mộc cả kinh, chạy đến đỡ Tư Chiềng dậy rồi nói :

- Su phụ dung túng ác thú làm càn, định hại một người bạn của tôi nữa hay sao?

Sư già điềm tĩnh trả lời :

- Tráng sĩ chẳng qua vô tình bị đau xoàng thôi, không đến nỗi nguy đến tính mạng, để bần tăng chữa cho.
Nói đoạn, sư già lấy trong người ra một lọ thuốc đựng thứ nước màu xanh xanh, đổ một ít ra tay, rồi xoa khắp sống lưng. Chỉ một lát Tư Chiềng tỉnh dậy. Lão Mộc cả mừng nói :

- Thật là thần dược!

Sư già quay lại vỗ về con hổ, rồi cúi xuống nói nhỏ mấy tiếng. Chúa Sơn Lâm gật đầu mấy cái, rồi băng
mình vào bóng tối.

Sư già tươi cười nói :

- Mô Phật, bần tăng xin cảm ơn hai vị.

Lão Mộc đáp lại :

- Phiền sư phụ đến giải cứu hộ, không có thì bạn của tôi đã nguy đến tính mệnh.

- Tráng sĩ tài nghệ siêu quần, sau này tương lai có phần rực rỡ. Bần tăn hân hạnh được làm quen với người.

Tư Chiềng bấy giờ đã khỏi đau. Hắn tính chất thật thà, quê kệch lại vô học, nên không biết dùng lời văn hoa để đáp lại. Hắn lúng túng chưa biết xưng hô thế nào cho phải, nhưng chợt nhớ ra rằng sư già vẫn dùng hai chữ “bần tăng”, và lão Mộc thì gọi là “sư phụ” trong khi đàm thoại, nên hắn thuận mồm đáp :

- Bần tăng giỏi quá, cứu được sư phụ.

Hai người nhìn nhau, mỉm cười.

Lão Mộc chắp tay vái sư già, kính cẩn thưa :

- Lần đầu tiên được tiếp kiến sư phụ, âu cũng là duyên nghiệp xui nên. Đêm đã khuya nếu sư phụ không chê lều tranh chật hẹp, xin quá bộ lại nghỉ ngơi, thì thật hân hạnh cho chúng tôi muôn phần.

Sư già cảm kích tiếp lời :

- Bần tăng lưu lạc trên mười năm trời, bốn bể đâu cũng là nhà, cái cảnh gối đất, nằm sương đã từng trải.
Nếu lão trượng thấy cảnh nghèo, động lòng trắc ẩn, cho nghỉ tạm một đêm, bần tăng đâu dám chối từ.

Ba người thủng thỉnh ra về. Mặt traang đã khuất hẳn. Gió lạnh. Xa xa, tiếng trống cầm canh điểm thùng. Trông lên trời, lác đác một vài ngôi sao, lúc ẩn, lúc hiện trên nền trời đen sẩm như mực.

Về đến nhà, lão Mộc bảo Tư Chiềng xuống bếp đun nước, rồi mời sư già ngồi chơi.

Trên cái bệ xây bằng đất, gối lưng vào mặt vách, đĩa đèn dầu ta toả một ánh sáng yếu ớt và vàng nhạt
trong ba gian nhà nhỏ hẹp. Đồ đạc gồm có một cái giường do ba tấm ván ghép thành, và đặt ngay trên mặt đất, một khúc gỗ to bằng một ôm tay người lớn dùng để ngồi; một ngọn dáo dài dựng ở góc tường, và một chiếc cung bằng sắt nặng ước độ 15 cân vứt ở trên bệ gần ống tên.

Một đời sống cô độc đã tạo nên cái không khí lạnh lẽo luôn phảng phất trong gian nhà, thoang thoảng có mùi tanh tanh lợm giọng của máu…Những oan hồn của người, của vật ngã gục trên bãi chiến trường hay trên đồng cỏ lúc nào cũng như lảng vảng đâu đây, xui khiến cho lão ác cảm với phái đẹp, và rồi để suốt đời lão phải chịu cái nhục không một trái tim ấp ủ trong những ngày tàn tạ.

Hình như lão cũng chẳng thiết đến cái thú thần tiên của gia đình. Lão quen sống giữa rừng gươm cạnh ao máu, đùa rỡn với cái chết, nhảy múa trước thây ma. Trong những chuỗi ngày tàn, lão say sưa với màu xanh tươi của đồng quê, nội cỏ, với tính mạo hiểm noi khe thẳm, hang sâu, với sương mù buổi sáng, với mây bàng bạc của chiều tà, với tất cả cái gì đã rèn luyện nên con người cứng rắn, giàu nghị lực và sở năng.

Sư già gác cây thuyền trượng vào góc tường, bỏ chiếc khăn gói đeo ở vai xuống. Lão đón lấy rồi để lên bệ. Sư già ngồi ở giường, đưa mắt nhìn qua gian nhà rồi nói :

- Cảnh huống của lão trượng cũng tương tự như của bần tăng, không màng đến danh lợi, chẳng bận bịu gì đến gia đình. Bần tăng lê gót giang hồ đã nhiều nơi, cũng muốn tìm nơi am thanh, cảnh vắng để sớm chiều tụng niệm. Nếu lão trượng lòng trần đã dứt, thì nên theo bần tăng cư ẩn một nơi để tìm nguồn hạnh phúc trong tiếng mõ, hồi chuông, có hơn không?
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #8 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:23:02 pm »

- Tôi quen sống một đời hoạt động, bây giờ lại đem giam mình vào cửa “không” thì chịu sao được.

- Đời người sáu bảy mươinăm, chẳng qua như giấc mộng. Sao bằng nấp bóng Từ Bi, tối ngày bạn với quyển kinh cũng rũ sạch hết nỗi phiền muộn.

- Tôi tuy đã ngoài lục tuần, nhưng sức còn mạnh, trí còn muốn dọc ngang vũ trụ, bối đắp sơn hà, đâu há chịu nương mình cửa Phật cầu lấy sự an nhàn.

- Hiện nay đức Tiên Hoàng đang chiêu nạp anh tài, các dũng sĩ bốn phương tấp nập tới Hoa Lư ứng mộ.
Thật là một dịp tốt để lão trượng báo đáp Quốc Gia, sao lại cứ du dú ở ven rừng làm gì nữa ?

Lão Mộc chép miệng thở dài nói :

- Vì chót đã chịu ơn người tri kỷ, nên đành để mai một tài ba. Sự nghiệp đã tan tành, thì tuy chẳng bắt chước được Bá Di, Thúc Tề, không thèm ăn thóc nhà Chu, nhưng cũng chẳng chịu đem thân thờ kẻ khác.

Sư già ngạc nhiên hỏi :

- Không ngờ lão trượng lại còn một mối u tình, vậy có thể cho bần tăng biết được chăng? Vừa lúc ấy Tư Chiềng bưng lên hai bát nước chè tươi nóng, khói bốc lên nghi ngút. Hai người lặng lẽ ngồi cầm bát uống. Lão Mộc vơ lấy chiếc điếu cầy, châm đóm rít một hoi, rồi nhả làn khói xanh đặc; con mắt lờ đờ có vẻ khoan khoái vô cùng.

Sư già giục :

- Xin lão trượng kể tiếp.

- Hẳn sư phụ cũng biết tiếng Nguyễn Lịnh Công ?

- Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp, bần tăng cũng có gặp vài lần.

- Lệnh Công hồi còn nhỏ, cha mẹ mất sớm phải nương nhờ anh. Chị dâu là người có độ lượng, cư xử với em
chồng rất tốt. Tổ họ xưa kia là người Phúc Kiến, sang đất Giao Châu sinh cơ lập nghiệp đã lâu, tính đến đời Thủ Tiệp là năm đời. Lúc Ngô Vương khởi quân ở Ai Châu giết Kiều Công Tiễn, thì lúc ấy Lệnh Công mới lên mười tuổi, lại nhân lúc thân phụ mới từ trần, anh em dắt díu nhau làm ăn ở Tiêu Sơn một ít lâu, rồi lại sang Tiên Du, Lệnh Công lớn lên hay kết nạp với những tay vong mạng. Anh đã hết lời khuyên răn, nhưng lệnh công vốn sẵn có tấm lòng hoài bảo cao cả, khẳng khái đáp lại : “Làm trai ở đời phải làm nên sự nghiệp kinh thiên động địa, lưu lại danh thơm cho hậu thế, có đâu lại bắt chước phàm nhân mưu sống một cuộc đời an nhàn bên cạnh vợ con thì chẳng thẹn với Phục Ba tướng quân lắm ru.” Người anh không dám can nữa. Lệnh Công được thể tha hồ phóng túng, bạn bè đi lại rầm rập suốt ngày, đêm đêm rủ nhau lên núi luyện tập võ nghệ. Trong bọn thực khách cũng có người tài giỏi, nhưng phần nhiều là dư đảng của thảo khấu nên coi sự giết người như trò chơi giải trí. Hồi ấy tôi cũng tìm đến nhập bọn, vì có tài bắn nên rất được mọi người trọng đãi. Kịp đến khi nhà Ngô hết số, anh hùng bốn phương nổi lên, mỗi người chiếm cứ một nơi. Chúng tôi tôn Lệnh Công lên làm minh chủ chiêu binh mãi mã lấy Tiên Du làm sào huyệt rồi mang quân đi đánh các trấn khác.

- Lão trượng xem Thủ Tiệp là người thế nào ?

- Lệnh Công có nhiều mưu trí, lại thêm võ nghệ giỏi, tính đa sát, nhưng biết dùng người. Có lần, một nhà
thuật sĩ đi qua xem tướng cho Lệnh Công xong ra nói nhỏ với tôi : “Sự nghiệp sứ quân cũng chỉ như Hạng Vũ mà thôi. Tướng công nên đến Hoa Lư sẽ gặp nhiều tay anh kiệt. Tôi không tin nhưng sau mới nghiệm lời nói là đúng.

- Lão trượng vì chút ơn tri ngộ, nên không thiết đến danh lợi, đáng khen lắm! Nhưng sao không bắt chước Dự Nhượng tự huỷ tấm thân ngàn vàng để báo thù cho chủ, lại chịu ẩn nấp một nơi, vui sướng cảnh già?

- Sự trả thù không phải là hành động của người quân tử. Trong tay hàng vạn sĩ tốt mà không làm gì nổi người ta ở chiến địa, đến khi cuốn cờ ngã trống quẳng giáp chạy dài, lại toàn mưu sự hành thích, sư phụ cho thế là hợp lý phải không? Vả lại, hồi ấy trong nước ta, các sứ quân tranh nhau từng tấc đất, từng thôn lạc, dân gian lầm than cơ cực, nếu đức Tiên Hoàng không phải là tay kiệt liệt, thì làm sao thống nhất được giang sơn; gỡ được mối nguy cho dân chúng? Tôi tuy quê mùa, thô lậu, không từng đọc sách thánh hiền, chỉ biết múa gươm cưỡi ngựa, nhưng cũng hiểu biết lẽ phải ở đời, đâu há chịu dùng cái kế đê hèn của kẻ tiểu nhân bất đắc chí?

Sư già gật đầu nói :

- Đó mới thật là khí tiết của kẻ trượng phu.

Hai người nói chuyện, mãi vui quên cả mệt. Nhìn lại, thấy Tư Chiềng đã yên giấc trên chiếc da trâu, nửa mình đắp manh chiếu cũ. Sư già chỉ Tư Chiềng nói :

- Hắn ở đâu, thụ giáo ai ? mà võ nghệ khá như vậy?

- Hắn họ Trần, bố mẹ chết cả, ở với người chú. Tôi thấy hắn có sức khoẻ, nên dạy cho biết ít võ nghệ để
phòng thân. Mấy hôm nay, vì bận về việc hổ nên tôi bảo hắn lại ngủ đây để tiện việc dặn dò mưu mẹo.
Gà đã gáy lần thứ hai, lão Mộc mới mời sư già đi nghỉ.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #9 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2010, 07:24:04 pm »

MỘT CUỘC THÁM HIỂM

Đoàn người đi hết con đường đất thì vừa tới khu rừng. Họ dừng chân lại, ngắm nghía, bàn tán rồi lại cất bước đi. Họ luồn qua những cành lá, những dây leo vắt từ cây nọ sang cây kia như chiếc võng. Họ cầm dao phạt tả, phạt hữu, có lúc cúi lom khom, có lúc nằm bò xuống cỏ. Mỗi lưỡi dao hạ xuống là một cành cây gãy, mỗi nhát búa vung lên là hàng nắm lá rơi lả tả xuống. Những tiếng chí chát lúc khoan thai, lúc dồn dập, làm vang động cả rừng, khiến cho từng đàn chim ríu rít vù vù tung cánh bay thành những chấm đen trên nền trời xanh biếc.

Họ kiên nhẫn, dò dẫm, len lỏi giữa đám lau sậy um tùm, những cành gai nhọn hoắt, bị đàn muỗi dầy đặc tấn cống tới tấp, đỉa vát bám vào chân tay để hút máu. Trước cảnh rùng rợn, hùng vĩ của rừng rậm, họ không hề sờn lòng; họ tin tưởng ở sự giúp đỡ của thần linh, ở sức mạnh của con người giàu nghị lực, và nhất quyết đem cánh tay gân guốc gạt hết mọi trở ngại của thiên nhiên đã bày ra.

Người đi đầu là Tư Chiềng. Hắn cầm một chiếc búa lớn, mắc quắc, cằm bạnh ra, hung dữ như thiên thần.
Hắn xông xáo, rẽ lau vạch cỏ tiến sâu vào giữa rừng.

Ánh nắng trên không bị lọc qua những chòm lá; rơi xuống đât thành những chấm vàng nhợt. Một cụm hoa hồng dại, khép nép giữa đám cỏ gà, thoảng đưa một mùi thơm êm dịu. Đàn bướm lượn lờ bay chung quanh mọi người như những cánh hoa sặc sỡ lả tả rơi trước trận gió. Tư Chiềng đang đi bỗng kêu lên một tiếng, rồi đứng dừng lại.

Bọn đi sau nhao nhao lên hỏi :

- Cái gì thế? Chú Tư ?

- Rắn, anh em ạ.

Một giọng nói như gắt gỏng đưa lên :

- Cho một búa là xong. Sao nhát thế?

Tư Chiềng quay gót lại, tay vung chiếc búa, thét to :

- Lui lại mau, chết bây giờ.

Họ rùng rùng kéo nhau trở lại độ dăm bước rồi chia nhau đứng vây tròn chung quanh, tay nắm chặt khí giới
để phòng thân. Hàng trăm con mắt đổ dồn vào chỗ Tư Chiềng chỉ.

Cách hắn độ mươi thước, một con rắn to bằng hai chét tay người lớn, đang cuộn khúc, đầu lắc la, lắc lư, hai mắt đỏ như lửa, trừng trừng nhìn một cách hằn học và dữ tợn. Gần đấy, những khúc sương trắng hồng còn dính thịt, nằm rải rác trên bãi cỏ xanh loang lổ vết máu.

Sư già tiến lên một bước rồi nói :

- Xin tráng sĩ để mặc bần tăng.

Lão Mộc cũng dơ chiếc cung lên, tiếp lời :

- Để tôi giúp sư phụ một tay.

Dây cung vừa buông một mũi tên bay vụt cắm vào mắt bên trái con rắn. Như cuộn giây tơ, dần dần cái
thân hình dài tới hai trượng, bỗng quăng mạnh về phía trước, đuôi cuộn tròn lấy một cành cây dại, còn đầu chúc xuống, há miệng to như cái chậu định ngoạm lấy cánh tay Tư Chiềng. Sư già thét to lên một tiếng, phi bộ nhảy tới, dùng chiếc đao chém hất lên. Con rắn tránh thoát được, lao đầu bổ xuống. Nhanh như cắt, sư già nghiêng mình đâm thóc ngược một mũi dao lên trúng cổ địch thủ. Một tia máu phọt ra bắn cả vào mặt Tư Chiềng. Sư già toan xông vào đâm tiếp một mũi dao thứ hai, thì phát tên đã bay vù đến cắm vào mắt bên phải độc xà.

Ngay lúc ấy, Tư Chiềng nhảy tới, cầm chiếc búa nặng tới hai mươi cân, nhắm trúng đầu con rắn, giáng xuống một búa rất mạnh. Thật là một cảnh tượng rùng rợn, cái đầu đứ phăng bắn tít ra xa, máu ồng ộc chảy như suối, thân hình cuồn cuộn rời khỏi cành cây, lăn xuống đất. Tiếp luôn một búa nữa, một khúc mình đứt lòi cả gan ruột. Mọi người vui mừng hét to :

- Giỏi thật.

Lão Mộc nhìn con rắn, lắc đầu nói :

- Không biết con độc xà này sống từ đời nào mà to lớn thế. Có lẽ nó mới ở đâu lạc về, chứ khu rừng này
làm gì có.

Một người tiếp lời :

- Có thể lắm! Rừng rậm, hang sâu, đường lối hiểm trở. Độc xà ở đã lâu hay mới đến cũng chả ai biết rõ. Nó sống ở khu rừng này có lẻ tới vài trăm năm.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM