Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:50:22 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nhà Tây Sơn  (Đọc 47309 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #80 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 07:15:05 pm »

Ðể tránh nạn tru di, con cháu những người có liên hệ ít nhiều đến nhà Tây Sơn, phần nhiều đều phải thay tên đổi họ, đi ẩn náu ngoài xứ lạ nơi xa.

Chính sách dẫy cỏ thật sạch gốc của Gia Long làm lụy chẳng những người mà còn đến cả vật, nhất là vùng Tây Sơn.

Sách vở, giấy tờ đều bị tiêu hủy. Ðiển hình là những tập gia phả của họ Võ ở Phú Phong, họ Bùi ở Xuân Hòa, họ Ðặng ở Dõng Hòa, họ Trần ở Trường Ðịnh... Cho đến những bộ sử, những tập thơ văn... sản xuất đời Tây Sơn cũng cấm không được lưu hành, tàng trữ, như bộ Trần Triều Thông Sử Cương Mục của Lê Văn Nhân ở An Nhơn, phụng chiếu soạn năm Quang Trung thứ tư (1791), bộ Lê Triều Thực Lực do Võ Xuân Hoài tổng tu dưới triều Cảnh Thịnh... Những tập thơ Hán có Nôm có của nhóm Tứ Tài Tử ở Tuy Viễn và Song Hoài Thi Xã ở Bồng Sơn, tập thơ ca văn tế bằng chữ Nôm của La Xuân Kiều ở Phù Cát v.v...

Những môn võ thời Tây Sơn thường dùng, một số bị cấm. Thời Tây Sơn võ nghệ rất thịnh. Có bốn môn nổi tiếng là Côn, Quyền, Kiếm, Cổ. Nhưng khi đem áp dụng vào việc binh thì quyền thay thế bằng kỳ.

Côn, quyền, kiếm thời nào cũng có nơi nào cũng có. Chỉ có môn kỳ và cổ e chỉ Bình Ðịnh mới có và chỉ đời Tây Sơn mới dùng.

Kỳ là cờ - lá cờ vuông mỗi bề rộng chừng hai sải dệt bằng thao càn rất dày rất chắc, trừ phía kết vào cán cờ, ba phía kia đều móc sắt thay tua. Lá cờ vừa dùng để chỉ huy vừa dùng để giết giặc.

Phải là người có sức mạnh và có võ giỏi, mới sử dụng được.

Cổ là trống. Trống lớn như trống chầu. Khi tập luyện thì đứng trên hai khối gỗ tròn lớn gấp đôi quả bưởi. Ðôi chân phải điều khiển hai khối tròn đó một cách lanh lẹ. Còn cùi chỏ, bàn tay, vai, đầu đều phải dùng để đánh và đỡ mấy cái trống, theo từng bài luyện võ. Khi thì dùng hai trống, khi thì dùng bốn, khi thì dùng tám, khi thì dùng mười ai, tùy trình độ và sức vóc của võ sĩ. Trống treo ở trước mặt. Biểu diễn một lần từ một đến sáu người. Mỗi người hai trống. Không phải người nào đứng chỗ nấy, mà luôn luôn đổi chỗ lẫn nhau.
Khi ra trận thì dùng hai trống, đặt trên xe đẩy, và dùng dùi trống thay tay. Dùi trống không phải chỉ dùng để đánh trống thúc quân mà còn dùng làm khí giới giết địch.
Gia Long cấm kỳ, kiếm, cổ.

Kỳ không bị cấm cũng không ai dùng nổi và cũng không ai học làm gì trong lúc không chiến tranh.

Kiếm chẳng những cấm dạy cấm học, mà trong nhà có kiếm cũng bị tội.

Cấm kiếm lẽ tất nhiên cũng cấm luôn đao.

Cho nên nghề kiếm và đao ở Bình Ðịnh bị mất hẳn.

Còn cổ thì cũng thất truyền. Và môn võ biến thành môn nhạc. Võ thì đánh trống chầu và đánh trống treo.
Nhạc thì đánh trống chiến và trống để đứng. Nhưng những bài luyện võ vẫn được đem dùng vào việc đánh nhạc.

Nói tóm lại là tất cả những tinh ba của đất nước sản xuất thời Tây Sơn, đều bị Gia Long tìm đủ cách để tận diệt. Tận diệt để không còn gì làm cho người đời nhớ đến Tây Sơn.

Tên vùng đất phát tích ra nhà Tây Sơn cũng bị đổi ra An Tây.

Diệt tận gốc, nhổ sạch rễ!

Nhưng chỉ bên ngoài thôi.

Lòng người Việt Nam yêu nước, nhất là người Bình Ðịnh, đâu có quên nhà Tây Sơn.

-----------------

[100] Thơ của Nguyễn Bá Thuận đề sách Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Trì. Thơ 8 câu, đây là cặp luận. Câu thơ đại ý nói: Ðền ơn nước, một tấm thân đầy cả mật (can đảm đầy mình). Nghìn năm giao tình với nhau, chỉ lấy tấm lòng mà luận thị phi.

[101] Chắc có lỗ thông hơi trong đá nên đèn không tắt.. Khoảng 1929-1930, Tản Ðà tiên sinh có đến viếng mộ. Lúc ấy hai tảng đá vẫn còn. Cuộc viếng mộ có đăng trên báo. Nay không còn thấy.

[102] Những vôi đá của ba ngôi mộ bị quật vẫn còn sót ít nhiều. Ba ngôi mộ không bị phá vẫn còn, nhưng nắng mưa làm hư nhiều lắm. Một ngôi ở trong vườn họ Từ, một ngôi nằm ở trước ngõ họ Phan, một ngôi nằm ở nơi gò Vườn Xoài, cạnh con đường liên hương từ Kiên Mỹ đi xuống. Không ai dám nhận những ngôi mộ này là của gia đình, vì hình phạt của nhà Nguyễn rất tàn khốc.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #81 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:07:51 pm »

LÒNG DÂN ÐỐI VỚI NHÀ TÂY SƠN

Danh người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, người đã hai phen thảo quân xâm lược do Duy Kỳ thỉnh về, Nguyễn Phúc Ánh rước tới, cứu nhân dân Việt Nam thoát vòng nô lệ của ngoại quốc, cùng mặt trăng mặt trời rạng rỡ trên sông núi Việt Nam.

Và nghĩ rằng nếu không có Vua Thái Ðức mở đường, Ðông Ðịnh Vương giúp sức thì chắc gì đã có những chiến công oanh liệt của Vua Quang Trung, nên người Bình Ðịnh, nhất là người Bình Khê, ghi nhớ cả ba người anh hùng áo vải

Bởi vậy, sau khi ngôi từ đường của nhà Tây Sơn ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn phá hủy thì ngôi đình làng thay thế vào.

Ðình làng dựng lên để thờ thần. Nhưng nhân dân địa phương đem sắc thần để một ngôi miếu khác, còn đình thì bí mật thờ ba Vua Tây Sơn. Xuân kỳ thu tế, nhưng chỉ vái thầm chớ không đọc văn.

Ngoài xuân kỳ thu tế, còn ngày kỵ của ba vua vào tháng 11 âm lịch. Ðể che mắt vua quan nhà Nguyễn, ngày kỵ gọi trại là ngày cúng cơm mới.

Lâu ngày chánh quyền địa phương biết được, nhưng một mặt sợ thần linh bẻ họng, một mặt sợ thất nhân tâm, nên bóp bụng làm lơ.

Lòng kính yêu nhớ tiếc ba Vua Tây Sơn thấm thía và bền bỉ, chẳng những ở trên tầng lớp sĩ phu mà cả dưới mọi tầng lớp nhân dân. Bất kỳ trẻ già trai gái, hễ đi qua đình Kiên Mỹ, là lấy nón cúi đầu. Khách đi ngựa đi võng đều phải xuống ngựa xuống võng.

Và ca dao địa phương có câu:

Ðá Hàng cữ nước không sâu

Hàng Thuyền lai láng mặc dầu cá đua.

Có đua sông trước thì đua

Sông sau mắc miễu thờ Vua xin đừng[103].

Lòng kính yêu nhớ tiếc nhà Tây Sơn chẳng những ở thời trước, mà cho đến năm 1945 vẫn nồng nàn như cũ. Xuân kỳ thu tế, ngày kỵ cúng cơm mới trong năm 1945 vẫn cử hành theo thường lệ. Ðến năm 1947 có lệnh tiêu thổ kháng chiến, đình miễu bị phá hủy, việc cúng tế mới thôi.

Năm 1960, nhân dân Bình Khê chung tiền chung sức lập lại đền thờ Tây Sơn nơi đình cũ.

Ðền không lấy gì làm rộng lớn, song trang nghiêm. Ðối với sự nghiệp anh hùng thật không xứng. Nhưng đối
với hoàn cảnh thiếu thốn của nhân dân địa phương lúc bấy giờ, thì chừng ấy cũng là một cố gắng vượt mức.

Ðền có ba gian.

Gian giữa thờ vua Quang Trung.

Hai bên thờ vua Thái Ðức và Ðông Ðịnh Vương.

Trước sân có tượng bán thân của Vua Quang Trung và có bi đình khắc bài ký tán tụng công đức nhà vua:

Ðức Vũ Hoàng,

Họ Nguyễn, húy Huệ.

Ứng hùng năm Quý Dậu (1753),

Thừa long năm Nhâm Tý (1792)

Thọ 40 tuổi, ở ngôi 5 năm.

Niên hiệu Quang Trung.

Miếu hiệu Thái Tổ Vũ Hoàng Ðế.

Tổ tiên vốn người Châu Hoan, dời vào ấp Tây Sơn được bốn đời. Trước ở Phú Lạc, sau xuống Kiên Thành
buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ.

Vũ Hoàng có ba anh em.

Anh là Vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc, thiệp thế đa mưu.

Em là Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, thành tín nhân hậu.

Còn Vũ Hoàng: Sức mạnh cử đảnh, tài dụng binh như thần, lại sùng thượng kinh văn, quý trọng đạo lý. Kẻ cao tài đại đức được tôn kính vào bậc thầy. Văn võ dưới cờ đều những trang khai quốc tuấn kiệt.

Thân bố y, tay trường kiếm, Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng họ Lưu.

Quả là cái thế anh hùng vậy.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #82 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:08:41 pm »

Năm Tân Mão (1771), thống tâm vì cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay chân, ba anh em Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa binh, chịu gian nan mà dấy nghiệp. Lấy thành Quy Nhơn làm căn cứ. Rồi đánh vào Nam, tiến ra Bắc. Lòng xa gần đều theo. Trăm trận trăm thắng. Thanh thế nhà Tây Sơn lẫy lừng.

Riêng Vũ Hoàng. Bốn lần bạt thành Gia Ðịnh, ba lần vào thành Thăng Long. Thắng chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Võ Thang.

Lại hai phen thảo quân xâm lược:

Năm Giáp Thìn (1784) quét sạch 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong rước tới.

Năm Kỷ Dậu (1789), đánh tan 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ khất lân lĩnh về.

Nhờ vậy mà dân tộc thoát ách vong nô.

Nhờ vậy mà tổ quốc vững nền độc lập.

Công thật cao như Trường Sơn.

Ân thật sâu như Nam Hải.

Non sông đãng định, Vũ Hoàng chăm lo việc trị bình.

Ðắp quốc cơ theo tôn chỉ phú cường. Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm túc. Dùng chữ Nôm làm quốc gia
văn tự. Lập Sùng Chính viện để đào tạo nhân tài.

Và cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa xong, Vũ Hoàng luyện tướng nuôi binh, quyết khôi phục phần đất Lưỡng Quảng.

Nhưng than ôi!

Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá,

Chín tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa.

Khiến nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong!

Khiến nước Việt Nam lỡ mất cơ cường thịnh!

Tuy nhiên,

Danh Vũ Hoàng vẫn cùng mặt trăng mặt trời mà sáng. Ân Vũ Hoàng vẫn cùng núi Trưng núi Tượng mà cao.
Và nhân dân Việt Nam vẫn ca rằng:

Non Tây áo vải cờ đào

Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.

Tiết Trọng Xuân năm Tân Sửu (1961)

Nhân dân Bình Khê cẩn ký.

Sau khi đền lạc thành, cứ mỗi năm, đến ngày lễ Ðống Ða, nhân dân toàn tỉnh Bình Ðịnh hợp nhau tại đền
làm lễ kỷ niệm. Lễ kỷ niệm cử hành theo cổ lễ, nhưng những cuộc vui thì có mới có xưa. Người đến dự lễ vô cùng đông đúc. Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Và riêng nhân dân Bình Khê, rằm tháng 11 âm lịch, lại tổ chức ngày kỵ ba Vua theo thường lệ.

Trong buổi lễ Ðống Ða và ngày kỵ đều có đọc văn tế và cử nhạc theo cổ lễ.

Hai bài văn tế đầu tiên:

Văn Tế Ðống Ða:

“ Than ôi!

Dòng Côn thủy mây lồng thức gấm, mãn vui tình mai liễu độ xuân;

Ðỉnh Trường Sơn gió cuộn sóng tùng, chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.

Nhớ tôn linh xưa:

Khí cốt lăng tằng,

Anh tư khôi đặc.

Sức điều binh khiển tướng, Hạng Võ Lưu Bang Lòng trọng sĩ tôn hiền, Văn Vương Huyền Ðức, Tình đất nước
giận cơn chia xẻ, lưỡi gươm thần dẹp loạn cứu dân; Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn, thân áo vải giúp anh dựng nước.

Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường vân,

Thuận Hóa trời cao, chói chang vầng bạch nhật. Xiêm phê áp phủ, trên chín trùng toan mối trị bình, Vuốt
dũa nanh mài, ngoài muôn dặm rắp tâm xâm lược. Cõng rắn tội kìa ai?

Bắt hùm tay sẵn chước.

Tế Trời Ðất đàn Giao cao vút vút, bóng tinh kỳ sáng dọi buổi đăng quang.

Nhìn non sông khí giận ngất từng mây, tiếng hiệu lệnh sấm vang giờ xuất phát. Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh!

Chiến tượng hai trăm tinh trường trận mạc.

Lòng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn nước non ca khúc khải hoàn sau.

Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang, cùng tướng sĩ chung vui Nguyên Ðán trước.

Cạn lời ủy lạo, trống giục cờ giong:

Dốc dạ truy tùy, non băng biển vượt.

Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh;

Ðêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hãm giặc.

Ðánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng:

Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá nát.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #83 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:09:26 pm »

Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt lương rừng lửa đỏ, khiến ba quân liều chết chớ lui;

Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn cổ thước khăn vàng, quyết một trận chẳng hơn thì thác.

Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ, thuốc súng chôn quanh thành, chông sắt cắm khắp lũy, thêm bốn bề đạn rạc rào mưa;

Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván dày cột thành cốt, rơm ướt phủ làm bì, hò một rập sức cuồn cuộn thác,
Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kịp hạ, sông máu láng lai; Thúc chân voi, Khương Thượng liều thân, núi thây chồng chất. Nghi Ðống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ Ðống Ða! Sĩ Nghị may tìm được lối ra, hớt hải thoát thân mạn Bắc. Ngoài ải sói gió tan mùi sát khí, niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên; Vào thành Long cờ rợp bóng vinh quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược. Mười ngày hẹn trước, trời đất chứng lời vàng;

Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc.

Lửa tạnh hề biên cương

Nền cao hề xã tắc,

Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy sấm,

Triều Mãn Thanh bóp bụng sống chung trời;

Chí đấu tranh gan sắt vững vàng non,

Niềm Lưỡng Quảng quyết tâm đòi lại đất,

Nhưng than ôi!

Tấm gan rèn đá, trời chửa vá xong;

Ðỉnh Ngự chìm mây, rồng sao vội khuất!

Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,

Cửi dòn thoi phút để mối tơ chùng!

Nghiệp đế vương đuối sức giữ gìn,

Thuyền thuận bến trúc theo cơn gió lật!

Trời Phú Xuân sương gió lạnh lùng!

Biển Thị Nại bèo mây tản mác!

Bút chép sử múa men tay đắc thế: trang oanh liệt son nhòa! Nền ghi ân khuất lấp bóng cô thôn: gương
anh hùng thủy nhạt!

Nối chí cả người sau toan lấp hận,

Lao công Tinh Vệ, ngậm ngùi thương.

Gìn dấu linh chốn cũ khó nguôi tình,

Lắng giọng đề quyên tê tái ruột,

Cũng may thay!

Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,

Ách chuyên chế giống nòi nay đã thoát,

Trăng hào kiệt bấy lâu u ám, ngọn đông phong mát mẻ vén màn sương;

Vườn anh hoa đua nở tự do, bút thanh nghị ngọt ngào rơi giọt móc

Chúng tôi nay:

Chung gội ơn xuân.

Kính dâng lễ bạc,

Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ màng,

Nội thắm ngàn xa, hương tinh thành bát ngát.

Dòng lịch sử mở ra ôn lại, dịu dàng chữ gấm dệt lời hoa. Tranh vĩ nhân trải rộng xem chung, lộng lẫy chỉ
vàng treo bóng ác.

Hầm hô con cá nhảy, trong bóng mây thấp thoáng bóng rồng

Trưng Lĩnh cánh diều bay, theo tiếng gió lẫy lừng tiếng nhạc.

Linh thiêng xin chứng.

Bài văn nhân dân Bình Khê tế Tây Sơn tam kiệt ngày rằm tháng 11.

“Duy!

Nước bị qua phân,

Nhà sanh tam kiệt,

Non Tây áo vải, phất nghĩa kỳ dẹp loạn an dân.

Ðất Việt khí thiêng, tung bửu kiếm diệt thù cứu nước.

Nền đế nghiệp xây cao trời một cõi,

Bước tiền đồ hoa cỏ đón mừng xuân;

Tiếng anh hùng vang dội sấm mười phương,

Miền biên tái sài lang im lặng dấu.

Ví thử bóng rồng không vội khuất

Thì chi đuôi ngạc dễ mà tung.

Biển nên cồn thời vận khéo xui, tay bé không xoay trời đất lại;

Ðất vá khuyết cơ duyên chưa gặp, dấu linh còn tạc nước non đây.

Nhân dân Bình Khê chúng tôi:

Lắng hơi quyên trằn trọc giấc canh chầy.

Mơ bóng hạc thẫn thờ đêm nguyệt rạng.

Ðền cũ dâng lòng hương một nén;

Bia xanh tạc đức ngọc muôn hàng.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #84 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:10:27 pm »

Cá nhớ nguồn lên xuống nước Côn giang, dạ nhắc dạ mồi thơm chẳng tưởng;

Chim mến cội đi về cây Tượng Lĩnh, đàn gọi đàn gò thấp chớ nương.

Một lòng nguyện giữ sắt son,

Muôn gội dám quên mưa móc.

Nay:

Niệm kỳ húy nhật, lá vàng điểm tiết hàn đông;

Chứng tấc thành tâm, lễ bạc dâng trời dị lộ.

Trăm thước trầm hương cuồn cuộn gió,

Ðôi hàng bạch lạp ngập ngừng châu.

Nâng kim bôi rượu đủ ba tuần, phảng phất long nhan dường thấy đó;

Trước linh án lễ rồi bốn lạy, mơ màng loan giá trở về đây. Gương nghìn thu lai láng ánh quang huy,

Trong khuất tịch cũng không còn hắc ám;

Ðất ba cõi sáng soi vầng bạch nhật,

Dẫu vô cùng vẫn được hưởng vinh quang.

Lời cầu xin mong thấu cõi u huyền,

Lòng thành kính ngửa nhờ ơn chiếu giám.

Phục duy,

Thượng hưởng “

Từ khi đền Tây Sơn lập lại, năm năm đều tế lễ. Lễ Ðống Ða thay thế lễ Xuân Thu. Lễ húy nhật vẫn giữ y
như cũ. Và tuy đời đổi mới, lễ vẫn cử hành theo lề lối xưa. Nhưng lần lần, người đọc văn tế có tài qua đời
hết, và cứ đọc đi đọc lại mãi một bài nghe cũng chán, nên cứ vài ba năm, thay văn tế một lần, không thiếu những điểm quan trọng, nhưng gọn gàng dễ đọc.

Có hai bài thường được dùng đến:

Văn Tế lễ Ðống Ða:

Non Tây áo vải,

Trời Việt khí thiêng;

Ngọn cờ đào gió thuận lòng dân,

Mối ly loạn dẹp yên dòng Trịnh Nguyễn;

Thanh kiếm báu chớp ngời thế trận,

Ðường xâm lăng quét sạch giặc Xiêm, Hoa.

Ðài vinh quang rạng rỡ giống nòi,

Nền độc lập vững bền đất nước.

Mây áng Trường Sơn rồng dẫu khuất,

Trăng lồng Quế Hải gấm còn giăng.

Ðền ghi ân ngào ngạt nén tâm hương, đá tạo nghìn thu vững núi;

Bút chép sử ung dung ngòi chính luận, son pha từng nét đơm bồng.

Nay chúng tôi:

Ðón tiết dương xuân,

Nhớ ngày kỷ niệm.

Ngửa dâng lễ bạc,

Cúi trải niềm son.

Mơ màng trận thắng Ðống Ða, hồn chiến sĩ thơm lây chiều gió mới;

Lai láng dòng trong Côn Thủy, gương anh hùng sáng dọi ánh trăng xưa.

Nén tinh thành mong thấu cõi u linh,

Cơ huyền diệu sớm xoay thời thịnh thái.

Giống Hồng Lạc đơm hoa kết trái, sương nắng chung, mưa móc cùng chung.

Tình Bắc Nam líp thịt liền xương, dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.

Linh thiêng xin chứng.”

Bài Văn tế ngày kỵ 15 tháng 11:

Tây lĩnh tài cao,

Côn giang đức cả.

Giận Trịnh, Nguyễn cắt tình đất nước,

Thêm Phúc Loan đọa kiếp giống dòng.

Tuốt gươm thần phạt ngụy điếu dân, danh Tam Kiệt nướcnon lừng lẫy sấm.

Thu mối nước bình Nam định Bắc, công nghìn thu sử sách rõ ràng son.

Nay chúng tôi:

Ðối cảnh đông thiên.

Niệm kỳ húy nhật,

Ngọn gió hương đưa hồn Tổ Quốc,

Ðầu non thông vút khí anh hùng.

Rượu ba tuần rót chén tinh thành.

Lễ bốn lạy dâng trời dị lộ,

Phảng phất đài mây điện ráng, ngưỡng vọng giáng lâm,

Chít chiu con lạc cháu Hồng, huệ diên phước tải

Thượng hưởng “

Những bài văn ký đã nói lên được trung thực lòng người yêu nước đối với nhà Tây Sơn.

Nhưng trong đó lòng chỉ dám biểu lộ sau khi nhà Nguyễn đã bị nhân dân đứng lên lật đổ.

Dám biểu lộ trong lúc ách cường quyền còn đè nặng trên cổ nhân dân, thì long kính yêu nhớ tiếc mới thật là mạnh liệt.

Nguyễn Bá Huân viết:Cân Quắc anh hùng truyện, Tây Sơn văn thần liệt truyện, Nguyễn Trọng Trì viết: Tây Sơn danh tướng chinh Nam truyện, Tây Sơn lương tướng ngoại truyện v.v...

Các tác phẩm trên ghi chép sự tích, hành trạng của các anh hùng hào kiệt văn võ phò tá nhà Tây Sơn. Sách viết thời Tự Ðức. Dụng ý đề cao nhà Tây Sơn.

Không phải là danh sơn sự nghiệp mà sách được phổ biến trong giới trí thức đương thời, trong đó có một đại thần nhà Nguyễn là Ðào Tấn ở Vĩnh Thạnh.

Ðiều đó chứng minh rằng lòng người dân yêu nước đối với nhà Tây Sơn dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.
Ðến năm 1975, Bắc Nam thống nhất, đền Tây Sơn ngót 15 năm thuộc quyền quản trị của nhân dân Bình Khê, giao lại cho Nhà nước cách mạng. Ðền được mở rộng thêm, và mỗi năm lễ Ðống Ða vẫn được tổ chức trọng thể.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #85 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:11:43 pm »

THAY LỜI KẾT

Nhà Tây Sơn

Khởi nghĩa năm Tân Mão (1771).

Lấy thành Quy Nhơn làm căn cứ chiến đấu năm Quý Tỵ (1773).

Lên làm vua:

+ Thái Ðức từ Mậu Tuất đến Quý Sửu (1778-1793)

+ Quang Trung từ Mậu Thân đến Nhâm Tý (1788-1792)

+ Cảnh Thịnh từ Quý Sửu đến Nhâm Tuất (1793-1802)

Trong 24 năm (1778-1802), nhà Tây Sơn phải đánh Nam dẹp Bắc, không mấy lúc rảnh việc chiến tranh,
nên chưa làm được việc lớn lao về mặt kinh tế, văn hóa, chính trị.

Sau khi bị diệt vong, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn đời này sang đời khác gần 150 năm (1802-1945) ra sức phá hủy không còn một dấu tích gì trên lãnh thổ Việt Nam!

Ði ngang qua di chỉ nhà Tây Sơn, một nhân sĩ Bình Ðịnh là Nguyễn Trọng Trì có bài thơ Cảm Hoài:

Loạn thế anh hùng sản xuất đa

Bắc Nam dược mã dự huy qua

Thập niên huyết chiến thành hà sự

Không thính ngư tiều túy tửu ca.

Bài thơ viết vào khoảng Ðồng Khánh, Thành Thái (1885-1907) triều nhà Nguyễn, cho nên đậm nét bi quan.
Chớ sao lại không nên việc gì. Bởi việc gì đó há phải là những cái tồn tại trên mặt đất, mà chính những cái còn mãi mãi trong lòng người Việt Nam, trong văn chương Việt Nam.

Ngót 150 năm, nhà Nguyễn cố làm cho người người quên nhà Tây Sơn. Những người yêu nước vẫn luôn nhớ đến nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm tòi trong nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về nhà Tây Sơn.

Và tiếng Anh hùng áo vải, Anh hùng dân tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc.

Còn nhà Nguyễn đã làm được gì?

Có người bảo rằng đã thống nhất Bắc Nam.

Ðó là quên rằng chính nhà Tây Sơn đã thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm trên tay
Ðông Ðịnh Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao phen bể nổi dâu chìm nhà Nguyễn còn để lại tiếng Rước voi, cõng rắn.

Trăm năm bia đá thời mòn

Nghìn năm bia miệng mãi còn trơ trơ.

HẾT

-------------------------------------------

[103] Câu này thường nghe hát ở nhiều nơi rằng: Ruộng đồng mặc sức chim bay Biển hồ lai láng mặc tài cá đua. Câu này có tánh cách phổ thông. Câu kia, màu sắc địa phương đằm thắm. Ðá Hàng là phụ lưu của sông Côn, chạy từ Nam ra Bắc, ở giữa làng Trinh Tường và Phú Phong. Từ chỗ giao thủy Ðá Hàng và sông Côn thì sông chia làm hai chảy xuống phía đông, một gọi là sông Trước chảy sát địa phận làng Phú Phong, Xuân Hòa, một gọi là sông Sau chảy xuyên qua Phú Lạc, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa. Nơi sông Sau từ Phú Lạc xuống Kiên Mỹ nước rất sâu, khoảng đó gọi là Hàng Thuyền. Trên bờ có miễu, miễu ấy là miễu của làng Phú Lạc lập để thờ ba anh em nhà Tây Sơn. Có người lầm tưởng trong miễu này để sắc thần làng Kiên Mỹ. Sự thật thì sắc thần để tại nhà viên thủ chỉ. Còn miễu thờ thần ở phía sau đình Kiên Mỹ.

[104] Hỷ là tên tộc của Tạo.

[105] Ông thân tôi làm thông ngôn cho hãng dệt Délignon, tuy là vai em nhưng vẫn được gọi các cậu gọi bằng thầy vì kính nể.

[106] Bùi Sơn Nhi là con cháu bà Bùi Thị Xuân và biết rất nhiều về nhà Tây Sơn.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #86 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:12:39 pm »

PHỤ LỤC

- Phận mệnh sách vở viết về nhà Tây Sơn. (Quách Tấn)

- Ảnh hưởng Tây Sơn trong gia đình họ Quách. (Quách Tấn)

- Trích thư Nguyễn Hiến Lê về Nhà Tây Sơn.

- Cảm tưởng sau khi đọc Nhà Tây Sơn. (Nguyễn Ðồng)

- Trích thư của Giản Chi về Nhà Tây Sơn.

- Trích thư của Quách Tạo về Nhà Tây Sơn.

PHẬN MỆNH SÁCH VỞ
VIẾT VỀ NHÀ TÂY SƠN

Bà thân tôi thuộc sử Tây Sơn như các nhà Nho thuộc sử Hán, Ðường. Ðó là nhờ trong Từ đường họ Quách có hai bộ sử chép tay về nhà Tây Sơn, Tây Sơn Dã sử và Tây Sơn Liệt truyện.

Hai bộ sách này là sách cấm. Lúc ông nội tôi còn sống thì ông giữ. Trừ ông thân bà thân và các bác tôi ra, không ai được mượn đọc. Ông nội tôi qua đời, sách vở đều dồn về Từ đường. Hai bộ sử ấy cũng được ông bác ở Từ đường là bác Quách Lý Ðạo cất giấu cẩn thận.

Khoảng đầu thập niên 1920, sợ sách để lâu ngày bị mối mọt, bác tôi đem tất cả sách treo trên các giá trong nhà lẫm ra phơi. Tình cờ một ông khách đến chơi. Ông khách là người quen tên Mạc Viên tục gọi là Xã Suyền ở thôn Kiên Mỹ. Từ đường họ Quách ở Thuận Nghĩa nằm về phía đông Kiên Mỹ, cho nên Xã Suyền cùng bác tôi thường qua lại với nhau. Thấy bác tôi đương trở sách, Xã Suyền bèn giúp tay. Trông thấy hai bộ sử Tây Sơn, Xã Suyền hỏi mượn. Bác tôi tìm lời thoái thác. Xã Suyền giận dữ nói:

- Ðồ hung của dữ đó quý báu gì mà làm bộ! Ðoạn bỏ ra về.

Mấy hôm sau viên tri huyện Bình Khê là Hoàng Yến cỡi ngựa xuống Từ đường họ Quách, 1 tên lính đánh trống cán đi trước, 1 tên lính nữa cầm hèo tua theo sau. Không biết việc gì mà quan đến nhà, bác tôi hết sức lo sợ. Quan vào nhà, đãi trà không uống, đãi rượu không uống, nghiêm nghị nói:

- Nhà ông có hai bộ sử Tây Sơn, tôi muốn mượn xem ít hôm có được chăng? Bác tôi rụng rời chân tay!
Ðứng sững không mở miệng được! Quan thét:

- Sao không đáp? Vào lấy ra đây. Mau! Như một cái máy, bác tôi vào lấy hai bộ sách ra, hai tay dâng lên, cả mình run lẩy bẩy, áo ướt đầm mồ hôi. Hoàng Yến lấy sách, không nói không rằng, bước lên ngựa ra về, trống cán đi trước, hèo tua theo sau, thái độ hách dịch.

Lúc bấy giờ ông thân tôi làm việc ở hãng dệt Délignon ở Phú Phong. Bác tôi liền đến cầu cứu. Qua thái độ và hành động của viên tri huyện, ông thân tôi đoán biết rằng y viên chỉ muốn làm tiền chớ không cố ý làm hại. Sau khi thảo luận cùng bác tôi, nên lấy của che thân, bác tôi liền đi nhờ tay chuyên môn lo thu xếp công việc.

Quan đòi 2 cây bạc, tức 100 đồng bạc Ðông Dương.Bác tôi phải bán ruộng..., việc mới yên.

Năm 1947, tôi gặp ông Hoàng Yến trong một cuộc hội nghị Liên Hiệp Quốc Dân tại Bình Khê. Tôi có hỏi
thăm về hai bộ sử ấy. Ông đáp:

Lâu quá ai nhớ được. Mà giữ làm gì những thứ sách ấy.Hoàng Yến là một người có học, bên chữ Hán đậu Phó Bảng, bên chữ Pháp đậu bằng Cao đẳng Tiểu học (Primaire supérieur), mà không biết quý sách, đối với tôi thật là một điều bất ngờ! Cũng may không phải là người Bình Ðịnh.

Trong thập niên 1960, sau ngày Ðền Tây Sơn được nhân dân Bình Khê xây cất xong, Hồ Hữu Tường ra dự lễ lạc thành, có tìm được một bộ Tây Sơn Dã Sử ở Cây Da Tuy Phước. Tôi nghe nói, muốn tìm họ Hồ để xem thử phải bộ sách của Từ đường họ Quách chăng, nhưng chưa có dịp. Không biết bộ sách ấy hiện nay có còn chăng và nằm vào tay ai. Ngoài hai bộ Tây Sơn Dã Sử, Tây Sơn Liệt Truyện, khuyết danh tác giả, Bình Ðịnh còn có:

- Cân Quắc Anh Hùng truyện của cụ Nguyễn Bá Huân.

- Tây Sơn Văn Thần truyện của cụ Nguyễn Bá Huân.

- Tây Sơn Lương Tướng truyện của cụ Nguyễn Trọng Trì.

- Tây Sơn Danh Tướng Chinh Nam truyện của cụ Nguyễn Trọng Trì.

- Ngụy Triều Chư Tướng truyện của cụ Nguyễn Khuê.

Các tác giả đều là người trong một nhà ở Vân Sơn huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Cụ Nguyễn Khuê đậu ba
khoa tú tài thời Minh Mạng, Thiệu Trị, hay chữ nổi tiếng. Cụ Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì là con, đều học cụ mà thi đậu Cử nhân dưới triều Tự Ðức.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #87 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:13:45 pm »

Cụ Tú Khuê soạn Ngụy Triều Chư Tướng truyện, cụ Nguyễn Trọng Trì (tục gọi là cụ Nghè Trì, vì cụ có làm việc ở nội các cuối triều Tự Ðức) bảo: Tây Sơn há phải là ngụy triều hay sao?. Bởi thế cụ mới soạn tập Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện, chép kỹ hành trạng các tướng tài đã giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp.
Còn Cân Quắc Anh Hùng Truyện và Tây Sơn Danh Tướng Chinh Nam của cụ Huân và cụ Trì ghi chép sự tích Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng. Hai tập ấy bổ khuyết tập Tây Sơn Lương Tướng Ngoại
Truyện vì trong tập này không nói đến chiến công của ba tướng họ Bùi, họ Trần, họ Võ.

Những bộ sách nói trên, sau khi các tác giả qua đời, đều giao cho bà Tú Năm con gái cụ Nghè Nguyễn Trọng Trì, làm dâu nhà họ Ðào ở Phú Phong (Bình Khê) giữ. Nhưng thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954), ở Phú Phong thường bị tản cư vì giặc ở An Khê thường xuống phá rối, bà Tú bèn đem về Vân Sơn những bộ sử ấy và hơn 100 vở tuồng hát bội do cụ Nghè sưu tầm có, do cụ sáng tác có, giao lại cho người con trai cụ Nghè là ông Tám Chu (em ruột bà Tú) để tránh nạn binh hỏa. Ai ngờ...! Lúc bấy giờ đương lúc khan giấy hút thuốc, ông Tám Chu, người vô học, lần lượt xé quấn thuốc và bán cho người quấn thuốc sạch trơn! Tránh lửa binh gặp lửa thuốc! Lửa tàn bạo cũng như lửa ngu dốt đều là con cháu của lửa Tần.

Nhưng văn chương chưa đến nỗi vô mệnh: Gần đây có người tìm thấy tại nhà của võ sư Hồ Ngạnh - một tay vô địch về roi ở Bình Khê, sau khi họ Hồ tạ thế - một hòm sách chữ Hán, trong đó có một số sách của họ Nguyễn Vân Sơn, như Tây Sơn Văn Thần truyện, Tây Sơn Lương Tướng truyện... Song sách vừa bước chân đến Quy Nhơn liền gặp rủi, phải trở vào danh sơn để đợi người tri kỷ.
Hùng khí Tây Sơn vẫn còn.

Mùa hoa sen Ất Sửu (1985)

QUÁCH TẤN
ẢNH HƯỞNG TÂY SƠN
TRONG GIA ÐÌNH HỌ QUÁCH


Ông thân tôi, Quách Phương Xuân, thông Pháp văn (đậu bằng Thành Chung - Primaire Complémentaire) nhưng chỉ đọc được viết được chữ Hán. Còn bà thân tôi lại giỏi chữ Hán và chỉ biết đọc biết viết chữ Quốc ngữ. Tánh hai ông bà tương phản. Bà thân tôi thì nghiêm nghị. Ông thân tôi lại ưa hài hước, mọi việc trên đời không coi việc gì là quan trọng, cả đến cái CHẾT.

Tôi lại có 3 ông cậu rất yêu quý ông thân bà thân tôi:

- Cậu chánh tổng Trần Trác, con trưởng bác ruột của bà thân tôi.

- Cậu tú Trần Khương, em ruột cậu Chánh.

- Cậu cửu Ðoàn Nhuận, anh con bà cô ruột của bà thân tôi.

Ba cậu chỉ hơn kém ông thân tôi một vài tuổi và đều ở Trường Ðịnh. Những lúc rảnh rang ba cậu thường
đến chuyện trò cùng hai thân tôi. Vì từ nhỏ đến lớn ba cậu lo học để đi thi, sử chỉ đọc Hán, Ðường, chớ không thông sử Việt Nam, nhất là sử Tây Sơn, khi nói chuyện thường bị bà thân tôi đả kích. Nhưng ba cậu tánh hiền lành lại thương em, nên không bao giờ giận. ột hôm nhân bàn về nhà Tây Sơn, ông thân tôi nói:

- Sự nghiệp nhà Tây Sơn nay không còn gì hết. Vua Quang Trung còn để lại được tiếng Anh Hùng Áo Vải.
Vua Thái Ðức còn để lại được câu nói chí tình Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn.

Lúc ấy có đủ ba cậu tôi. Tuy ngồi chung với nhau một chiếu, song giữa cậu Chánh và cậu Tú có điều xích mích nhau vì binh vợ mà đầu mối bất hòa là do mợ Chánh gây ra. Nhân đó bà thân tôi bèn diễn nôm lời nói của Vua Thái Ðức:

Lỗi lầm anh vẫn là anh Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em.Vừa dịch vừa khóc. Ông thân tôi cùng ba cậu cũng khóc theo. Từ đó gia đình cậu Chánh và cậu Tú trở lại hòa thuận như cũ. à câu Nồi da xáo thịt trở thành câu hát ru con của những bà mẹ hiền trong thôn Trường Ðịnh.

*
* *

Lại một hôm, vào khoảng giữa năm 1926, bà thân tôi đòi cắt lưỡi em tôi là Quách Tạo. guyên năm ấy Tạo vừa đậu Primaire, được bà thân tôi rất chiều. Tạo nằm nơi giường kê gần cửa sổ nhà dưới, hát nghêu ngao những câu hát trong tuồng Võ Tánh Tự Thiêu mà nhà trường Quy Nhơn tổ chức để lấy tiền cứu tế. Tạo hát đến câu: ...Lũ Tây Sơn muông cẩu... thì thình lình nghe tiếng bà thân tôi gọi một cách giận dữ:

- Hỷ, le cái lưỡi tao coi[104].Tạo giật mình quay lại. Bà thân tôi đương ngồi vá áo nơi góc giường, ngừng tay nhìn Tạo một cách nghiêm nghị. Trước đôi mắt nghiêm lẫn giận của mẹ, Tạo cảm thấy rờn rợn, nhưng không hiểu duyên do, còn đương ngơ ngác, thì bà xẵng giọng nhắc:

- Le lưỡi ra.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #88 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:14:55 pm »

Tạo vội ngồi dậy, lè lưỡi. Bà đưa một tay chụp lưỡi Tạo, một tay chụp cây kéo làm cách chụp lưỡi để cắt.
Tạo hết hồn vội bước xuống giường. Bà hét:

- Tao cắt lưỡi mầy đi! Ai dạy mầy hát như vậy? Tạo lúc bấy giờ mới 14 tuổi, sợ quá òa lên khóc, rồi thưa:

- Ðó là bài hát cải lương, các anh lớn ở trường hát cứu tế. Bà trừng mắt nói:

- Ai hát mặc nẫu, mầy không được bắt chước. Tao còn nghe câu hát đó, tao cắt lưỡi đi. Không hiểu tại sao hát câu đó lại làm cho mẹ giận, nhưng không dám hỏi, mà cũng không dám hát nữa dù là hát một mình.
Mãi khi lớn lên, biết rõ lịch sử nước nhà, mới hiểu được tấm lòng tôn kính tuyệt đối của bà thân tôi cũng như của phụ huynh Bình Khê đối với Tây Sơn Tam Kiệt, và mới thấy rõ mình đã vô tình và ngu dốt xúc phạm một cách thô bạo như thế nào!

*
* *

Cậu tú Trần Khương mượn được một quyển sử nói về triều Nguyễn, đọc xong nói chuyện cùng hai cậu và hai thân tôi. Trong khi nói chuyện, cậu Tú theo sách gọi Gia Long bằng Ðức Thế Tổ và gọi ba Vua Tây Sơn là Ngụy Tây. Bà thân tôi phản đối:

- Nguyễn Ánh thì gọi là Nguyễn Ánh, có kính nể lắm thì gọi là Gia Long, chớ sao lại gọi Ðức Thế Tổ? Còn NGỤY là cái gì? Cậu Tú thất kinh, đương ngồi trên phản liền nhảy xuống đất chạy bụm miệng bà thân tôi:

- Vách có tai, ở tù mọt gông, cô ơi! Thái độ cậu tôi làm cho bà thân tôi bật cười. Ông thân tôi cũng cười:

- Nhà tôi tuổi tý mà lại gan hùm, còn anh tú tên Khương nên thích yên ổn. Như thế là vui. Nhân nhà tôi đã hỏi Ngụy là gì, thì chúng ta thử bàn xem. Ba Vua Tây Sơn có phải là Ngụy chăng.

Cậu cửu Ðoàn Nhuận nói:

- Ðược làm vua thua làm giặc. Giặc là Ngụy. Nhà Nguyễn được, nhà Tây Sơn thua, thì nhà Nguyễn gọi nhà Tây Sơn là Ngụy là phải rồi. Bà thân tôi bẻ:

- Chúng ta có phải nhà Nguyễn đâu mà cũng gọi nhà Tây Sơn là Ngụy Tây? Cậu chánh Trần Trác nói:

- Thì ăn cây nào rào cây nấy chứ. Bà thân tôi đáp:

- Chúng ta có ăn cây nào của nhà Nguyễn đâu mà lo rào? Cậu Chánh có ý bất bình:

- Ðất của Vua chùa của làng, cây nào mọc trên đất này lại không phải là cây nhà Nguyễn . Ông thân tôi
giảng hòa:

- Bàn để cho vỡ lẽ chớ không phải để tranh hơn thua. Chúng ta hãy dựa vào sách vở của cố nhân để lại
mà bàn cho ra chân ngụy. Cậu tú Khương nói:

- Thầy Thông[105] luận như vậy rất hợp ý tôi. Xin thầy nói tiếp. Cậu Cửu, cậu Chánh cũng biểu đồng. Ông
thân tôi tiếp:

- Các sử gia Tàu cũng như ta chia các nhà vua ra Chính thống và Ngụy triều. Nhà nào có công đánh giặc dựng nước, hoặc được chính thức kế truyền, được thần dân đều tùng phục, thì gọi là Chính thống. Còn nhà nào làm tôi cướp ngôi vua, hay xưng đế xưng vương ở nơi núi non, rồikéo quân đánh chiếm nước..., thì gọi là Ngụy triều. Nhà Ðinh, nhà Hậu Lê đánh giặc dựng nghiệp, nhà Lý, nhà Trần được truyền ngôi, sử gọi là Chính thống. Họ Hồ họ Mạc soán đoạt ngôi nhà Trần, nhà Lê thì gọi là Ngụy triều. Còn nhà Tây Sơn diệt bọn tham ô của Trịnh, Nguyễn để cứu dân, đánh đuổi quân Xiêm trong Nam, đánh đuổi quân Tàu ngoài Bắc, cứu nước ra khỏi nạn xâm lăng, rồi lên làm vua, thống nhất đất nước, từ Bắc đến Nam đều thần phục. Như thế sao gọi là Ngụy? Ðến như Nguyễn Phúc Ánh vì quyền lợi riêng, đã rước voi Xiêm, rồi cõng rắn Pháp về dày xéo quê cha đất tổ. Như thế đối với dân tộc Việt Nam có công hay có tội, mà chúng ta phải tôn thờ? Ba cậu tôi vốn là người có học thức nên lẽ phải dễ lọt tai thấm lòng. Từ ấy đối với nhà Tây Sơn rất mực tôn kính. Lòng tôn kính lại càng tăng càng vững sau khi bà thân tôi cho biết thêm rằng họ Trần có nhiều người ra phò nhà Tây Sơn lập được công lớn. Một vị chết chôn tại Gò Xoài ở đầu thôn Trường Ðịnh. Ngôi mộ bằng vôi to lớn và rất kiên cố. Có bia đá xanh ghi đủ tên họ chức tước, nhưng khi nhà Tây Sơn bị dứt thì phá bia cũ thay bia mới, lấy tên bà họ Mạc để tránh sự trả thù của Gia Long. Mộ ấy hiện còn, và Từ đường cao của họ Trần lo việc giỗ chạp.

*
* *

- Bà thân tôi hết lòng kính phục Vua Quang Trung, nhưng có lần nói cùng ông thân tôi và ba cậu:

- Vua Quang Trung có công lớn trong việc dựng nước, song cũng có phần trách nhiệm trong việc mất nước. Ba cậu tôi, cả ông thân tôi đều ngạc nhiên, vì xưa nay chưa nghe ai nói. Bà thân tôi tiếp:

- Nếu Vua Quang Trung đừng nghe lời bà họ Bùi truất ngôi Thái tử của con trưởng dòng đích là Nguyễn Quang Thùy đã được Vua Càn Long phong Thế tử, thì ngôi cửu ngũ đâu có lọt vào tay Nguyễn Quang Toản con dòng kế, mới 13 tuổi, khiến sanh việc lủng củng trong triều, làm cho thế nước mỗi ngày một yếu. Tiếp đến việc cháu giết bác để cướp đất đai làm cho môi hở răng lạnh. Ông thân tôi khen là một khám phá mới.
Nhưng ba cậu tôi nói:

- Mất nước là cơ trời.Nguyễn Quang Thùy lên ngôi chưa chắc đã giữ nước khỏi lọt vào tay nhà Nguyễn. Bà thân tôi cãi:

- Ý dân là ý trời. Nguyễn Quang Toản quá trẻ không phân được phải quấy, nghe lời bọn nịnh thần làm mất lòng dân, nên khi Phúc Ánh đánh mạnh, phía Tây Sơn không được dân ủng hộ, tức là Trời không thương. Còn Nguyễn Quang Thùy khi Vua Quang Trung băng thì đã 23, 24 tuổi và đã từng tham dự việc quân việc dân. Lại là người có đức. Bằng cớ:

+ Khi có người cho biết rằng vua cha đã đưa em mình lên ngôi Thái tử thay mình thì thản nhiên đáp: Tôi lên ngôi hay em tôi lên ngôi cũng thế thôi. miễn sao nước thạnh vượng, nhà được vững bền là được. Bá Di, Thúc Tề ngày xưa cũng không hơn.

+ Khi vua cha thăng hà, phò vua em vẫn hết lòng hết sức.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #89 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2010, 09:15:57 pm »

Ðến lúc sa cơ thì tuẫn tiết chớ không như Nguyễn Quang Toản cam chịu nhục dưới tay quân thù. Nếu Vua Quang Trung để cho Nguyễn Quang Thùy nối ngôi thì Bùi Ðắc Tuyên đâu có cơ hội làm mưa làm gió, đâu có việc công thần sát hại lẫn nhau, đâu có việc Lê Trung bị giết oan, Lê Chất bỏ Tây Sơn đem những cơ mật trong thủy quân vào nói hết cho Phúc Ánh biết, đâu có chuyện bọn tham quan ô lại thừa cơ cấp trên lộn xộn mà ra tay bóc lột nhân dân...

Cậu Tú và cậu Cửu mất trước ông thân tôi năm 1923, trước sau mấy tháng. Khi tôi khôn lớn, bà thân tôi thường đem sự tích nhà Tây Sơn kể cho tôi và em tôi nghe. Và sau khi bà thân tôi qua đời (1928), gặp tôi cậu Chánh và người em rể của cậu là dượng Bùi Sơn Nhi ở thôn Xuân Hòa (Bình Khê) thường nhắc nhở đến bà và hết lời ca tụng[106]. Những lời bình luận của bà thân tôi về nhà Tây Sơn thường được cậu Trần Trác và dượng Bùi Sơn Nhi đem ra làm giai thoại.

Mùa hoa sen Ất Sửu (1985)

QUÁCH TẤN

Kỳ Ðồng 14-8-84

Mới cách đây 4-5 ngày, tôi nhận được tập Nhà Tây Sơn, trên 10 bài H.P.N.H, 1 bức thư chung cho tôi và Giản Chi với một bức thư riêng cho G.C.... Xin thưa anh rõ kẻo anh mong: Tôi ở đây đã tháng rưỡi, uống thuốc Tây thuốc Bắc mà không thấy khá: Cứ trị được chứng này nó lại sanh chứng khác, ngủ kém, ngại vận động, cứ suốt ngày nằm dài, phải tạ khách vì nói chuyện lâu thì mệt... Không biết tôi còn phải trị bao lâu nữa.

Nhà tôi thì cũng phải đi Y Dược Học Dân Tộc để họ trị cho chứng huyết áp cao... Nhà thì không có ai mà hai vợ chồng đồng đau, thật lúng túng... Ðau thì đau, tôi cũng ráng đọc cho hết

- nếu không thì không yên lòng

- những tập của anh. Về những bài H.P.N.H. tôi chẳng thêm ý gì cả. Về tập Tây Sơn, tôi có đánh dấu bằng
viết chì những chỗ đánh máy lầm, sót, chép lầm chữ Hán, và những chữ sai chính tả.

Ngoài ra tôi góp ý với anh mấy điểm này:

1. Bài tựa anh vẫn giữ trọn những ý của anh, nhưng để cậu Giao viết, ký tên thì hơn.

2. Có nhiều bản đồ vẽ sông mà không đề tên. Ví dụ huyện Tuy Viễn, sông Côn, mà tôi không kiếm ra được
sông Côn.

3. Trước khi Nguyễn Nhạc ra quân có bài Cáo với quốc dân hoặc bài hịch kể tội chúa Nguyễn không? Bài đó nhờ ông giáo Hiến làm cho được mà.

4. Cần giải thích một số chữ thổ âm như Thao Càn chẳng hạn.

5. Hai bài văn tế dài quá rồi, không cần chép thêm hai bài ngắn nữa.

6. Trang cuối, chê nhà Nguyễn đúng đấy, nhưng nên nương tay với họ một chút, đừng đạp thêm nữa, vì ở
trên đã đập họ nhiều quá rồi.

Tập Tây Sơn này viết kỹ lắm, nhất là:

- Nguồn gốc Tây Sơn - Chương 1

- Anh hùng nghĩa sĩ phò tá Tây Sơn - Chương 4

- Cảnh nứt rạn trong nhà Tây Sơn viết rất rõ

- Chương 10

- Quang Trung đại phá quân Thanh đọc thấy hồi hộp và khoái

- Chương 13

- Trần Quang Diệu đánh thành Bình Ðịnh - Chương 20

Lòng dân đối với nhà Tây Sơn - Chương cuối Một đặc điểm nữa là có nhiều bản đồ. Người viết có flamme. Cảm tưởng của tôi là họ Quách ở Bình Ðịnh gần được như họ

Tô ở Tứ Xuyên (Trung Hoa). Họ Tô có 4 người nổi tiếng: Cha, 2 con trai và 1 con gái (Tiểu Muội). Họ Quách cũng có 4 nhà văn, nhà thơ: Anh, ông Tạo, cậu Giao và cháu Mộng Hoa. Một nhà 4 người có văn tài, hiếm đấy.

Mừng rằng cậu Giao hoàn thành một tác phẩm có giá trị. Chỉ buồn một nỗi là bao giờ mới in được. còn 4-5 tập nữa chứ?...

NGUYỄN HIẾN LÊ
(Thư gửi Quách Tấn, Quách Giao trích lục)
CẢM TƯỞNG SAU KHI ÐỌC
NHÀ TÂY SƠN


Hơn mười năm nay, từ ngày tuổi lên trên nhân sinh thất thập, tôi thường buâng khuâng lo nghĩ đến lịch sử nhà Tây Sơn. Tôi sanh trưởng trên đất Tây Sơn. Từ lúc thiếu niên, tôi đã từng được nghe tiên nghiêm và các vị phụ lão có uy danh tỉnh Bình Ðịnh cho nghe, một cách tỷ mỷ sự tích nhà Tây Sơn, hành trạng các anh hùng nghĩa sĩ của tỉnh nhà ra phò tá ba vị anh hùng họ Nguyễn. Có nhiều sự kiện không thấy các quyển sử hành thế ghi chép, hoặc có ghi chép mà ghi chép trái ngược. Các cụ thường phàn nàn về việc thiếu sót và sai lạc này, song không đủ điều kiện để bổ khuyết, đính chính bằng bút mực. Tôi cũng thế. Người trước đã qua, lớp người trên 70 tuổi cũng lần lượt ra đi kẻ sau người trước. Một khi đã ra đi hết, thì những điều được cha ông truyền lại cũng sẽ tiêu tan lần lần. Lớp thanh niên hậu học, muốn tìm, tìm đâu ra? Vì vậy mà tôi đâm lo ngại, lắm đêm không ngủ được.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM