Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 02:57:36 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nhà Tây Sơn  (Đọc 47386 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #50 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2010, 07:56:17 pm »

Tướng Mãn Thanh hay tin, kéo kỵ binh ra chận đánh. Nhưng vừa trông thấy voi, ngựa sợ cuống, hí lên những tiếng kinh hoàng, rồi chạy tán loạn. Quân Thanh bị rối hàng ngũ, không dám giao chiến, phải rút lui vào giữ đồn.

Ðồn quá kiên cố. Mặt ngoài lũy đều cắm chông sắt và đặt phục lôi. Trong đồn lại bắn súng ra như mưa xối.
Vua Quang Trung truyền lấy 60 tấm ván dày, cứ ba tấm ghép vào thành một phên ván, ngoài phủ rơm trộn với đất ướt. Rồi cứ mười người, lưng đeo đoản đao, khiêng một tấm phên ván đi trước, tiếp theo hai mươi người cầm vũ khí, tiến theo thế trận chữ nhất. Nhà vua cỡi voi theo sau đốc suất.

Ðạn bắn rào rào. Quân ta không hề lui một bước, vượt chông sắt, phá tan cửa lũy, tràn vào đồn. Quân địch không còn dùng súng được nữa. Quân ta quăng ván, đánh xáp lá cà, nhanh như chớp, mạnh như bão, giết quân địch như thái rau. Quân địch không cự nổi, bỏ chạy, lớp dày đạp lên nhau, lớp chạm phải địa lôi, lớp chết lớp bị thương, còn bao nhiêu bị bắt sống. Tướng Thanh là Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long và Tả Dực Thượng Duy Thăng đều tử trận.

Ðồn Ngọc Hồi giữ vị trí quan trọng nhất trong hệ thống phòng ngự của địch. Lực lượng có trên 3 vạn quân tinh nhuệ. Ðồn bị tiêu diệt, quân tử trận và bị bắt hơn hai phần. Còn chừng một phần sống sót kéo nhau chạy ra ngã Thăng Long, chẳng ngờ đến gần Văn Ðiển thì bị quân Tây Sơn bố trí sẵn, chận đánh. Quân địch phải thối lui, chạy qua cầu Vinh sang vùng Ðầm Mực. Ðầm Mực là một vùng đầm lầy rộng lớn thuộc huyện Thanh Trì.

Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo từ Sơn Minh đem tượng binh đến Ðại Áng. Khi có tin quân địch từ Ngọc Hồi chạy lên thì đem voi ra bao vây. Quân địch lớp chôn thây trong bùn lầy, lớp bị voi chà, không còn một tên sống sót.

Lực lượng Ngọc Hồi bị tiêu diệt toàn bộ.

Trong khi Ngọc Hồi bị tiêu diệt thì đồn Khương Thượng cũng bị tiêu diệt luôn.

Khương Thượng nằm phía tây nam thành Thăng Long. Ðồn bị quân Ðại Ðô Ðốc Long tiêu diệt. Ðại Ðô Ðốc
Ðặng Văn Ðông có viên phó tướng là Ðặng Tiến Ðông, trí dũng hơn người, trước kia làm quan cùng chúa Trịnh, sau quy thuận nhà Tây Sơn, Ðặng Tiến Long quê ở Lương Xá gần Thăng Long, am hiểu địa hình và đường lối trong khắp vùng Thăng Long và lân cận, hướng dẫn quân đi đường tắt.

Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn Long từ huyện Chương Ðức đến Thanh Trì, trước hết chiếm đồn Yên Quyết và Nhân Mục, nằm phía tây bắc đồn Khương Thượng. Hai đồn này là hai đồn nhỏ làm tiền đồn cho Khương Thượng. Hai đồn bị hạ một cách nhanh chóng và im lặng. Quân Ðô Ðốc Long kéo vây đồn Khương Thượng từ lúc chưa tinh sương. Trong đồn không hay biết. Quân Ðô Ðốc Long được nhân dân ủng hộ, dùng rơm khô bện thành con cúi, tẩm dầu, chực lửa. Rồi một tiếng hô, muôn nghìn tiếng ứng, đồng thời lửa bật cháy. Bốn mặt đều có ánh lửa hừng hực và tiếng hô hét vang trời. Quân trong đồn khủng khiếp, không còn sức chống cự. Tướng chỉ huy là Ðề Ðốc Sầm Nghi Ðống chưa kịp đối phó thì quân của Ðô Ðốc Long đã phá đồn tràn vào như nước vỡ đê.

Ðống khiếp sợ, trốn ra Hoa Sơn tức gò Ðống Ða thắt cổ tự tử. Binh sĩ trong đồn bị giết quá nửa.

Một nửa còn sống sót lớp chạy ra hướng Bắc, lớp theo sông Tô Lịch chạy vào Nam. Chạy đến Ðầm Mực bị quân Ðô Ðốc Bảo tiêu diệt hết.

Tại bản doanh, Tôn Sĩ Nghị đương theo dõi mặt trận phía Nam, bỗng được tin đồn Ngọc Hồi rồi đồn Khương
Thượng bị tiêu diệt, và binh Vua Quang Trung đương kéo đến kinh thành. Còn đương lúng túng chưa biết liệu thế nào, thì binh Ðô Ðốc Long từ Khương Thượng đã kéo vào Thăng Long, sát khí ngùn ngụt.

Nghị sợ quá không kịp mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa, hớt hải cùng toán kỵ binh hầu cận bỏ cung Tây Long, vượt cầu phao chạy qua sông Nhị. Tướng sĩ thấy chủ tướng bỏ chạy, rùng rùng chạy theo, lấn nhau qua cầu phao. Cầu không chịu nổi sức nặng bị đứt, ném tung hàng vạn quân địch xuống sông.
Tôn Sĩ Nghị cùng đám tàn quân nhắm ải Nam Quan mà chạy. Nhưng chạy đến đâu thì cũng bị quân của Ðô Ðốc Lộc đánh giết. Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín để lo chạy thoát thân. Chạy bảy ngày đêm mới đến trấn Nam Quan, đói cơm khát nước.

Vua Chiêu Thống cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị.

Ðạo quân Thanh đóng ở Hải Dương cũng bị Ðô Ðốc Tuyết đánh bại.

Riêng đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây, tuy không bị tấn công, nhưng cũng hoảng sợ, rút chạy về nước.
Quân Mãn Thanh bị quét sạch.

Bắc Hà hoàn toàn được giải phóng.

Chiều mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789), Vua Quang Trung kéo quân vào thành Thăng Long trong không khí tưng bừng. Chiếc chiến bào của nhà vua đỏ thắm đã bị thuốc súng nhuộm thành màu đen.
Nhà vua vào thành Thăng Long trước kỳ hẹn hai ngày.

Trăm họ chật đường nghênh tiếp.

Tiếng reo hò của nhân dân và của binh sĩ vang dội một góc trời.

Theo đúng lời hẹn, Vua Quang Trung cho tướng sĩ ăn tết một lần nữa.

Nhân dân trong thành và ngoài thành cũng đua nhau mở tiệc vui, tưng bừng nhộn nhịp.

Và trên kỳ đài thành Thăng Long, ngọn cờ đỏ mặt trời vàng bay phấp phới.

------------------

[62] Ðại Nam Quốc Sử diễn ca có câu nói về binh Tây Sơn: Quân dung đâu mới lạ thường Mũ mao áo đỏ chật đường kéo ra.

[63] Ngạnh công: Cương quyền. Nhuyễn công: Nhu quyền.

[64] Tam Ðiệp tục gọi là núi Ba Dội ở giữa Thanh Hóa và Ninh Bình.

[65] Các sách chép là Ðô Ðốc Mưu.

[66] Theo lời của giáo sĩ Jumilla de Diego, trong Bulletin de la Socíeté des Etudes Indo Chinoises.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #51 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2010, 07:56:58 pm »

VUA QUANG TRUNG ÐỐI NGOẠI

Lúc dồn binh ở Tam Ðiệp, Vua Quang Trung đã nói cùng chư tướng:

- Trung Quốc lớn gấp mười nước ta, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm nhục mà báo thù. Ðến lúc ấy chỉ
có người khéo đường từ lệnh mới dập tắt được lửa chiến tranh. Ngoài Ngô Thời Nhậm không ai làm nổi.
Ðến khi thắng được quân Mãn Thanh rồi, xem trong giấy tờ Tôn Sĩ Nghị bỏ lại có tờ mật dụ của Vua Càn Long đại khái nói rằng: Việc quân nên từ từ mà lo liệu chớ nên hấp tấp. Hãy đưa hịch truyền thanh thế đi trước. Cho cựu thần nhà Lê về nước tập hợp nghĩa binh và tìm Tự Quân nhà Lê đem ra cầm đầu để đối địch cùng Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê mà có quân ta kéo đến, thì ai mà chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui. Ta sai Tự Quân đuổi theo trước đại binh ta kéo theo sau. Như thế không khó nhọc mấy mà thành công to. Ðó là thượng sách. Ví bằng người trong nước, nửa theo bên nọ nửa theo bên kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui quân. Ta sẽ đưa thư vạch rõ đường họa phước xem Huệ đáp ứng thế nào. Ðợi thủy quân ở Mãn, Quảng đi đường bể vào đánh dẹp Thuận Hóa, Quảng Nam xong, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ hai đầu thọ địch, tất phải quy phục. Chừng đó ta làm ơn cho cả hai bên: từ Thuận Hóa trở vào Nam thì cho Nguyễn Huệ. Từ Châu Hoan Châu Ái trở ra thì phong cho Tự Quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên, sau xử trí.

Vua Quang Trung bảo Ngô Thời Nhậm:

- Mưu đồ của Vua Càn Long, ta đã biết trước rồi. Nay bị thua chắc không nhịn nhục. Hai nước đánh nhau chỉ làm khổ dân. Nếu dùng lời nói khéo để tránh việc binh đao việc ấy nhờ khanh chủ trương cho mới được.
Ngô Thời Nhậm vâng mệnh thảo thư, đại khái nói rằng: Nước Nam vốn không dám chống cự với đại quốc. Chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm lỡ việc nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng hòa. Vua Quang Trung sai sứ mang thư sang Tàu, và truyền đem những quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước. Xong xuôi mọi việc, tháng 2 năm Kỷ Dậu, nhà vua đem quân về Phú Xuân, lưu Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại Thăng Long thống lĩnh việc quân quốc. Còn việc giao thiệp với Trung Hoa thì ủy thác cho Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích. Cho tất cả tùy nghi xử sự, hễ không có việc quan trọng thì không phải tâu.

Vua nhà Thanh hay tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, đùng đùng nổi giận, lập tức giáng chỉ sai quan nội các là Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị là Tổng Ðốc Lưỡng Quảng, đem binh mã 9 tỉnh sang chinh phạt Việt Nam.
Nhưng nhờ Ngô Thời Nhậm có chính sách xã giao khôn khéo đối với Phúc Khang An ở bên ngoài và các cận thần là Hòa Thân ở bên trong, và lời trần tấu mềm dẻo dịu dàng đối với Vua Mãn Thanh, cho nên Vua Mãn Thanh là Càn Long thuận cho giảng hòa và sai sứ sang phong Vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương.
Vua Càn Long lại tặng cho Vua Quang Trung một chuỗi trân châu và truyền sang năm Canh Tuất (1790) sang chầu.

Còn Lê Chiêu Thống và các quan tòng vong đều bị Vua nhà Thanh truyền đem an trí mỗi người mỗi ngả.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #52 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2010, 07:57:45 pm »

Thế là Vua Quang Trung được chính thức công nhận là Vua nước Việt Nam. Vua Quang Trung làm biểu tạ ơn, trong có câu:

- Thần hữu mẫu hữu thân, báo đáp ngưỡng bằng ư đại tạo;

Quân vi sư vi phụ, sanh thành thượng kỷ ư long ân Nghĩa là:

- Tôi có cha có mẹ, báo đáp ngửa nhờ đức cả; Vua vừa nuôi vừa dạy, sanh thành mãi nhớ ơn sâu Vua Càn Long khen:

- Lời nói có hậu, trẫm phải coi Huệ như con.

Xuân năm Canh Tuất (1790), Phúc Khang An giục Vua Quang Trung sang chầu Vua Càn Long. Nhà vua bèn chọn người dung mạo phảng phất mình, trá làm quốc vương. Phạm Văn Tr70]

Cửu kinh nhu viễn kỳ trùng dịch

Gia hội ư kim miễn thể nhân

Võ yển văn tu thuận thiên đạo

Ðại Thanh vĩnh tộ vạn niên xuân.

Cụ Bùi Văn Lang dịch:

Dâng lời chúc tụng gặp thời tuần

Mới thấy mà in trước đã thân

Lễ cống khá khen lòng tượng quốc

Triều xưa nghĩ thẹn chuyện kim nhân

Phương xa từng gội ơn nhu viễn

Hội tốt càng khuyên nghĩa thể nhân

Dẹp võ dồi văn là thuận đạo

Nghiệp Thanh bền vững ức muôn xuân

Trong lúc sứ bộ đang ở Yên Kinh thì bọn giặc biển đánh phá miền duyên hải Trung Quốc giáp giới nước ta. Tuớng Trung Hoa là Trần Diệu Cầu nhờ viên biên tướng Việt Nam là Phạm Quang Chương giúp sức, tiêu diệt được bọn giặc biển. Vua Càn Long ban thưởng cho Quang Chương rất hậu và ngỏ lời tin tưởng lòng thành thật của Vua Quang Trung.

Ngày 20 tháng 8 (28-9-1790) Vua Thanh hạ chỉ cho sứ bộ về nước. Lúc bấy giờ là mùa thu, gió sương lạnh lẽo, Càn Long ban cho Quang Trung một tấm áo cầu để mặc ấm và một đồng tiền vàng chạm chữ Phúc to lớn để làm của truyền thế. Lại đòi lại gần long tháp, vỗ vai, ôn tồn ủy dụ, rồi cho người vẽ chân dung Quang Trung làm kỷ niệm.

Sứ bộ được tướng Trung Hoa là Trần Dụng Phu hộ tống suốt dọc đường. Và ngày 29 thágn 11 (3-1-1791) thì đến ải Nam Quan.

Qua năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung sai Võ Kỉnh Thành, Trần Ngọc Thụy sang triều đình nhà Thanh hiến thiệp, xin mở cửa ải Bình Thủy ở Cao Bằng và cửa ải Du Thôn ở Lạng Sơn để cho Bắc Nam qua lại buôn bán với nhau được miễn thuế. Lại xin lập nha hàng [71] ở phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây để người Nam qua đó sinh sống, Vua Càn Long đều chấp thuận.

Lại trước kia 6 châu thuộc Hưng Hóa và 3 động thuộc Tuyên Quang, bị bọn thổ ty nhà Thanh xâm chiếm đem sáp nhập vào lãnh thổ Lưỡng Quảng. Vua Quang Trung viết biểu nhờ Phúc Khang An chuyển lên Thanh triều, thỉnh cầu phân định lại cương giới. Khang An lấy cớ cương giới đã định mà bác khước. Nhà vua có ý bất bình, nên lo dưỡng uy sức nhuệ để rồi đòi lại đất đai của tổ tiên.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #53 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2010, 07:59:00 pm »

Ðối với Trung Hoa như thế là tạm yên.

Và Quang Trung còn phải đối phó với Xiêm La, Ai Lao và Miến Ðiện.

Khi Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Lê Duy Chỉ ở lại Tuyên Quang, nương nhờ thổ tù Nùng Phúc Tân và Huỳnh Văn Ðồng. Chỉ liên kết với thổ dân ở Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao, Quy Hợp, Xiêm La chuẩn bị đánh lấy thành Nghệ An.

Vua Quang Trung hay tin, sai Trần Quang Diệu làm Ðại Tổng Trấn, Lê Trung làm Ðại Tư Lệ, phát binh đi tảo tr[67] Phạm Văn Trị là anh bà họ Phạm mẹ Nguyễn Quang Thùy.

[68] Mười bài từ đó là: Mãn đình phương, Pháp giá dẫn, Thiên thu tuế, Lâm giáng tiên, Thu ba tế, Bốc dưỡng tử, Yết kim môn, Hạ thánh triều, Lạc xuân phong, Phượng hoàng các.

[69] Bảo tất là ôm gối: con ôm gối cha để đón niềm vui vẻ (tất hạ thừa hoan). Ðó là Vua Càn Long muốn cụ thể hóa lời nói của Vua Quang Trung trong bài chiếu tạ ơn, và lời của chính mình khi xem xong tờ chiếu.

[70] Câu này chép theo cụ Bùi Văn Lang. Có người đọc là: Tiền triều kham tiếu đại kim nhân. Lại có người đọc: Thắng triều vãng sự đại kim nhân. Chuyện Người vàng: Trong trận Chi Lăng, Lê Lợi bắt giết tướng Minh là Liễu Thăng. Sau Vua Minh buộc Vua Lê phải cống người vàng để thường mạng. Các triều Lê, Mạc đều nộp hàng năm. Ðến đời Lê Trung Hưng, triều Lê Dụ Tông Nguyễn Hãn dùng tài ngoại giao xin bãi bỏ. Ðến đời Quang Trung, Tổng Ðốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An viết thư nhắc lại lệ ấy. Vua Quang Trung phản đối. Vì nể kẻ chiến thắng Vua Thanh làm ngơ.

[71] Nha hàng: Cơ quan giới thiệu về việc mua bán.

[72] Lê Trung, người Phù Mỹ phủ Quy Nhơn, văn võ gồm tài. Ði lính ở Phù Ly, theo Vua Quang Trung ra Thuận Hóa, lập nhiều chiến công làm lên đến chức Ðô Ðốc. Tính trung nghĩa thường ngâm câu thơ của Văn Thiên Tường: Nhân sanh tự cổ thùy vô tử Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #54 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2010, 08:00:16 pm »

VUA QUANG TRUNG VÀ VẤN ÐỀ NỘI TRỊ

Phần đất thuộc Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung đã được minh định ngay sau khi có sự bất hòa giữa hai anh em: từ Hải Vân Quan trở vô là của Vua Thái Ðức. Từ Hải Vân Quan trở ra là của Vua Quang Trung.
Nước nhà tuy hai trên thực tế nhưng vẫn là một trên danh nghĩa: hai miền Nam Bắc vẫn lấy niên hiệu Thái Ðức.

Khi Vua Quang Trung lên ngôi Hoàng Ðế, nhất là sau khi chiến thắng quân Thanh, Bắc Nam mới trở thành hai nước riêng biệt, không xâm lấn lãnh thổ nhau cũng không can thiệp nội bộ nhau.

Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1789), giao phó việc cai trị Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhậm, Vua Quang Trung trở về Phú Xuân, lo sửa sang việc nước.

1. HÀNH CHÍNH

Chọn kinh đô.

Vua Quang Trung đã có ý đóng đô tại Nghệ An từ lúc còn làm Bắc Bình Vương. Nhà vua đã nhờ La Sơn Phu
Tử chọn đất để lập đô. Ban đầu nhà vua định chọn Phù Thạch trên sông Lam, gần núi Nghĩa Liệt, sau đổi ra Yên Trường (Vinh), cuối cùng chọn Dũng Quyết tức vùng núi Phượng Hoàng.

Ðịa thế hùng hiểm.

Phía Nam có sông Cồn Mộc và Sông Lam, phía đông bắc có núi Phượng Hoàng.

Ðều là hào và thành thiên nhiên che chở cho kinh thành.

Thành không rộng mấy. Bắc Nam chỉ dài chừng 300 mét. Ðông Tây dài chừng 450 mét. Ðó là nội thành.
Ngoại thành chưa xây.

Thành Nghệ An gọi là Phượng Hoàng Trung Ðô.

Cải thành Thăng Long là Bắc Thành.

Vì Phượng Hoàng thành chưa xây xong, nên Vua Quang Trung về ngự tại núi Phú Xuân suốt thời gian trị vì.

Tổ chức chánh quyền trung ương.

Vua Quang Trung có ba bà vợ chính thức:

- Bà họ Phạm[73] ở thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Quy Nhơn, mất sớm, sanh hạ được hai trai là Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn.

Bà họ Phạm mất rồi, nhà vua kết duyên cùng bà họ Bùi ở thôn Xuân Hòa (Bình Khê). Bà họ Bùi là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang Khanh và hai người con gái.

- Ngọc Hân công chúa mới có một con.

Quang Thùy và Quang Bàn lúc bấy giờ đã 17, 18 tuổi.

Quang Toản mới 9, 10 tuổi.

Con Ngọc Hân mới 2 tuổi.

Vua Quang Trung phong bà họ Bùi làm Chánh Cung Hoàng Hậu, bà Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng Hậu và
lập Nguyễn Quang Toản làm Thái tử.

Bà họ Phạm được truy phong là Nhân Cung Ðoan Tĩnh Trinh Thục Như Thuần Vũ Hoàng Chánh Hậu, phong cho Quang Thùy làm Khanh Công Lĩnh Bắc Thành, Tiết Chế Thủ Bộ Chư Quân, phong cho Nguyễn Quang Bàn làm Tuyên Công Lĩnh Thanh Hóa Ðốc Trấn, Tổng Lý Quân Dân Sự Vụ.

Nguyễn Quang Thùy đã được Vua Càn Long phong là An Nam Quốc Vương Thế Tử. Vua Quang Trung sai sứ đem biểu sang tâu rằng Thùy là con dòng thứ.Càn Long nghe theo, phong Toản làm An Nam Quốc Vương
Thế Tử thay Thùy. Có người bất bình, ngỏ ý cùng Nguyễn Quang Thùy, Thùy nói:

- Em tôi hay tôi làm Thái tử cũng thế thôi. Ðiều cốt yếu là làm thế nào cho nước Ðại Nam được mỗi ngày mỗi thêm giàu mạnh, nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi thêm vững bền, là tốt.

Hàng trí thức đương thời khen là đại nhân.

Quan chế vẫn tương tợ như cũ. Ðại khái trên thì có Tam công là Thái Sư, Thái phó, Thái bảo; Tam cô là Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Ðại chủng tể, Ðại tư đồ, Ðại tư mã, Ðại tư không; Ðại đô đốc, Ðại đô hộ. Lại có Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Lục bộ Thượng thư... Thị lang, Tư vụ...
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #55 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2010, 08:01:15 pm »

Tổ chức hành chính địa phương.

Ðời nhà Lê nước chia làm 13 trấn: Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam.

Ðời Quang Trung, trấn Quảng Nam thuộc về Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung chia Sơn Nam ra làm hai thành Sơn Nam Hạ và Sơn Nam Thượng.

Trấn chia làm nhiều phủ; Phủ chia làm nhiều huyện; Huyện chia làm nhiều tổng; Tổng chia làm nhiều xã; Xã chia làm nhiều thôn.

Trấn thì có Trấn Thủ (võ) và Hiệp Trấn (Văn) điều khiển. Phủ, Huyện thì có Tri phủ, Tri huyện cùng chức Phân tri coi việc kiện cáo, chức Phân xuất coi việc binh lương. Tổng thì có Chánh tổng, Phó tổng. Xã thôn thì có Xã trưởng, Thôn trưởng.

2. QUÂN SỰ

Tổ chức quân đội.

Theo các triều đại trước, quân đội gồm có 5 quân. Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Vua Quang Trung tổ chức thêm những đội quân đặc biệt, gọi Tả Bật, Hữu Bật, Ngũ Chế, Càn Thanh, Thiên Cán, Thiên Trường, Hổ Ðôn, Hổ Hầu, Thị Lân, Thị Loan.

Mỗi quân gồm 5 bậc là Sư, Lữ, Tốt, Lượng, Ngũ như xưa.

Ở các phủ, huyện, quân đội lại chia ra từng đạo, cơ và đội.

Ðạo thống cơ, cơ thống đội.

Tất cả đều ở dưới quyền viên võ Phân xuất.

Triều Vua Thái Ðức thì lính mộ chớ không bắt.

Vua Quang Trung dùng chính sách cưỡng bách.

Ðể tiện việc kiểm soát trong khi bắt lính, nhà vua đặt ra tín bài.

Tín bài là một chiếc thẻ, một phía thì ghi tánh danh, quản chỉ và dấu lăn tay hay chữ ký của chủ nhân
chiếc thẻ, một phía có đóng dấu ấn có bốn chữ Quốc gia đại tín. Người nào không có tín bài thì bị bắt sung vào phòng dịch.

Nhà vua còn đặt ra hộ tịch, chia dân ra làm bốn hạng: từ 9 đến 17 tuổi gọi là Vị Cập cách hạng; từ 18 đến 55 tuổi gọi là Tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi gọi là Lão hạng; từ 61 tuổi trở lên gọi là Lão nhiêu. Bốn hạng người đó phải ghi tên vào hộ tịch. Những người từ 18 đến 55 tuổi phải đi lính. Nhưng không phải tất cả những người trong tuổi ấy đều phải đi lính. Những gia đình độc đinh thì được miễn. Trong gia đình đông con thì cứ ba tráng đin phải đi nhập ngũ một người. Những khi cần thiết lắm mới phải nhập ngũ hai người. Nhờ có ghi rõ tên tuổi trong hộ tịch nên tránh bớt sự bất công.

3. KINH TẾ TÀI CHÍNH

Ðúc tiền

Từ trước nhân dân Thuận Hóa cũng như Bắc Hà dùng tiền nhà Lê. Sau khi lên ngôi Hoàng Ðế, Vua Quang Trung cho đúc tiền mang danh hiệu Quang Trung thay thế cho tiền Cảnh Hưng, Chiêu Thống.

Dinh điền.

Nền kinh tế vẫn đặt trên cơ sở nông nghiệp.

Sau những cuộc chiến tranh kéo dài giữa Trịnh - Nguyễn, Tây Sơn - Trịnh, giữa Hoa - Việt, số dân giảm
xuống rất nhiều. Do đó có một số ruộng đất bỏ hoang. Nhà vua đưa những người nghèo khổ ở những nơi đông đúc tới đó để cày cấy làm ăn. Chính quyền địa phương phải giúp đỡ mọi phương tiện.

Ðể có thể nắm vững tình hình, nhà vua buộc các Tổng lý phải làm sổ điền kê khai đầy đủ những ruộng đất canh tác và ruộng đất bỏ hoang. Những ruộng đất bỏ hoang trong thời gian một năm mà không được khai thác trở lại thì các nhà chức trách địa phương phải bị tội.

Nhờ vậy mà tránh được sự chênh lệch về mặt kinh tế cũng như về mặt mật độ dân cư từng địa phương.
Thuế khóa.

Dưới thời Trịnh Nguyễn, nhân dân phải nộp thứ thuế gọi là Tiền điệu tức là tiền nạp thuế cho việc sưu dịch. Vua Quang Trung bãi bỏ thứ thuế ấy. Những lúc trong nước hay địa phương cần dùng nhân công thì mọi người đều phải góp phần, giàu cũng như nghèo, trừ những bậc lão nhiêu, lão hạng, không ai được miễn. Những người nào không tự mình thi hành nhiệm vụ được thì bỏ tiền ra thuê người thay thế chớ không được đem nạp cho các nhà chức trách.

Thuế ruộng đất công tư đều phải xét lại rồi mới phân hạng theo mức sản xuất hàng năm, và chia làm ba hạng. Thuế nạp bằng lúa. Cũng có thể nạp bằng tiền tính theo thời giá. Ngoài số lúa là Thập vật tiền là tiền công trả cho người đứng thâu thuế, và Khoán khố tiền tức là tiền tồn kho. Mức thuế đã quy định rõ ràng. Thu lên bị tội tham nhũng.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #56 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2010, 08:02:12 pm »

4. VĂN HÓA

Việc học.

Việc học được tổ chức khắp mọi nơi, từ xã đến phủ huyện. Ban Giảng dụ ở xã giao cho những người học hạnh kiêm toàn ở địa phương hoặc mời ở các địa phương khác. Xã học do chính quyền địa phương tổ chức. Tư nhân vẫn có quyền rước thầy về dạy con em trong nhà trong làng, vô điều kiện. Học sinh ở các trường tư vẫn được coi như học sinh trường công. Các trường phủ trường huyện thì có Ðốc học, Huấn đạo điều khiển. Những vị thầy trung ương bổ nhiệm và lựa trong làng khoa bảng triều Lê, lương hướng và phẩm trật ngang với tri phủ, tri huyện.

Hằng năm vào mùa thu, mở khoa thi Tuấn Sĩ, chọn những phẩn tử ưu tú thăng vào Quốc học, hạng thứ vào Phủ học.

Học và thi đều dùng hai thứ là chữ Hán và chữ Nôm.

Chữ Nôm.

Chữ Hán là chữ Trung Hoa, nước ta dùng làm Quốc tự đã trên dưới 2.000 năm, tục gọi Chữ Ta. Chữ Nôm
do chữ Hán biến chế ra (chữ của nước nhà).

Chữ Nôm có từ khi nào chưa được rõ. Ðời nhà Trần khoảng 1279-1293, các sĩ phu trong nước dùng chữ Nôm làm thơ Ðường luật, gọi là thơ Hàn luật. Chữ Nôm từ đó được thịnh hành. Nhưng chỉ trong dân gian dùng mà thôi. Các giấy tờ nơi cửa công đều dùng chữ Hán. Mãi đến đời nhà Hồ (1400-1407) mới được các cơ quan chính quyền dùng vào việc từ hàn. Nhà Hồ mất, chữ Nôm cũng mất địa vị theo. Vua Quang Trung phục hồi chân giá trị.

Có nhiều người có học không hiểu ý nghĩa sâu xa trong việc dùng chữ Nôm thay chữ Hán, đã buông nhiều lời bất tồn như Nôm na là cha mách khóe, Nôm na là cha bá láp. Lại có chuyện rằng:

Trong một khoa thi Tuấn Sĩ, đề thi ra Con cóc, một thí sinh có bài:

Da thời ghẻ chốc mọc tàm ngoam

Vóc lại u nu giống trái chàm

Nòng nọc đứt đuôi ra khỏi nước

Gặp nhằm tổ mối miệng chàm bàm.

Ban giám khảo đánh hỏng.Duyệt lại các quyển hỏng, thấy bài này, Vua Quang Trung khen là ý mới lời ta, lấy đậu ưu hạng và cho vào Quốc học. Lại quở ban giám khảo hữu nhãn vô châu, cấm không được đi chấm thi nữa.

Chưa có thể hoàn toàn dùng chữ Nôm thay chữ Hán cho nên trong việc học hành, việc thi cử và việc thư trác chốn công môn, chiếu biểu nơi triều đình, đều dùng cả hai thứ chữ, không có ý trọng khinh.
Nhà vua lập Sùng Chính viện, thỉnh La Sơn Phu Tử làm Viện trưởng.

Công việc chính của Viện là dịch những tác phẩm có giá trị về đạo đức và văn chương ra chữ Nôm để phổ biến trong toàn quốc.

Cộng tác cùng Phu Tử có nhiều nhà khoa bảng triều Lê như Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Ðịnh, Bùi Dương Lịch rất sành văn Nôm.

Vào đầu năm Quang Trung thứ năm (1792), Viện đã dịch xong bộ Tứ Thư và Tiểu Học. Nhà vua xuống chiếu sai dịch tiếp các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch... không rõ bộ này đã dịch xong chưa. Hiện chỉ tìm được bản Kinh Thi Giải Âm khắc mộc bản năm Quang Trung thứ 5[74].

Nhờ sự khuyến khích của Vua Quang Trung mà văn chương chữ Nôm thời Tây Sơn được thịnh vượng. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời như Hoa Tiên truyện, Mai Ðình Mộng ký, Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ La Xuân Kiều v.v... được truyền thế.

5. TÔN GIÁO

Vua Quang Trung muốn lấy đạo Nho làm quốc giáo, nên khuyến khích việc phát triển Nho học.

Ðối với đạo Phật nhà vua vẫn ngưỡng mộ, song rất ghét những người lợi dụng chùa để trốn xâu lậu thuế, để không làm mà có ăn. Nhận thấy làng nào cũng có chùa, mà phần nhiều thầy chùa ít học, không mấy người hiểu thấu đạo lý cao sâu của đức Thích Ca, chỉ mượn tiếng tu hành để ký sinh vào xã hội, nên nhà vua xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng. Mỗi huyện hoặc mỗi phủ được cấp gỗ gạch để xây một ngôi chùa đồ sộ khang trang, rồi chọn những tăng ni có học thức, đạo đức đến trụ trì. Còn những nhà sư đội lốt tu hành, tục gọi là những Huề mầm đều bắt phải hoàn tục, lo bổn phận người dân[75].

Các đạo khác như Lão giáo, Ma Ní giáo... được tự do truyền bá.

Thiên Chúa giáo cũng không bị ngăn cấm[76]. Nói tóm lại dưới triều Tây Sơn, nhân dân được tự do tín ngưỡng.

6. CHỌN NHÂN TÀI

Vua Thái Ðức dùng phương Chiêu hiền để có người anh tài ra giúp nước. Những kẻ sĩ tự mình đến tham kiến
hoặc người có uy danh đề cử, nếu xét quả có tài đức, đều được trọng dụng.

Vua Quang Trung theo các đời trước cho mở các khoa thi Võ và Văn ở tại kinh đô Phú Xuân, tương tự như những khoa thi Hội đời Lê.

Tất cả mọi người đều được ứng thí.

Ba năm mở một khoa. Khoa đầu tiên mở vào năm Quang Trung thứ nhì (1789).

Khoa thi văn, gọi là khoa Minh Kinh, có nhiều người ở miền Trong ra ứng thí. Trúng tuyển vào hạng ưu có:

- Phan Văn Biên ở Phú Yên đã giỏi về Kinh Sử, thông cả bách gia chư tử lại còn thạo âm nhạc, rành toán pháp. Ðậu xong được bổ ngay làm Huấn Ðạo.

- Ðinh Sĩ An người Bình Khê. Thơ văn thanh khoáng, Cùng Ngô Diên Hiệu, Phan Ðình Văn, Huỳnh Chiếu nổi danh về văn học. Ðời đời xưng tụng là Tây Sơn tứ tài tử. Ðậu xong được bổ làm việc ở Nội Các với hàm Hàn Lâm.

- Phạm Văn Tung, người Phù Mỹ, có tiếng hay chữ từ lúc nhỏ, lại có tài cưỡi ngựa bắn cung. Sơ bổ làm tư vụ ở Các, sau làm Hiệp trấn Phú Yên.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #57 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2010, 08:03:10 pm »

- Trần Trọng Vỹ, người Hoài Ân, thơ hay. Theo nhà Tây Sơn làm một chức quan nhỏ. Sau khi đỗ khoa Minh Kinh liền được bổ làm Thị lang bộ Lễ.

- Ðặng Sĩ Nguyên, người Quảng Nghĩa, tánh phương nghiêm chính trực, sơ bổ làm Biên tu.

- Ðặng Mộng Kỳ người Quảng Nam, tài kiêm văn võ. Tuy đậu khoa văn, nhưng lại thường lập được nhiều võ công, làm cho quân Nguyễn Phúc Ánh sợ gọi là Ðặng Gia Gia.

- Lý Xuân Tá người Quảng Nam, tánh nghiêm trực rất ghét dị đoan. Lúc làm quan thường cứu được nhiều người bị kết án oan uổng và thường phá hủy những đền miếu thờ những dâm thần ác quỷ. Làm quan đến chức An Phủ ở Phú Yên.

Ðó là những người ở trên phần đất của Vua Thái Ðức, nhưng vẫn thi đỗ làm quan cùng Vua Quang Trung
mà không bị kỳ thị.

Còn người ở Thuận Hóa và Bắc Hà thi đậu cũng nhiều. Nổi tiếng nhất là Ðặng Cao Phong. Ðặng thi đậu liền được bổ vào Nội Các với chức Hàn Lâm Học sĩ, rồi thăng Trung Thư Thị lang. Những chuyện cơ mật trong triều ngoài quận đều được tham dự. Vua Quang Trung rất ái tín.

Khoa thi võ người miền trong ra thi cũng nhiều. Có hai người xuất sắc:

- Phạm Cần Chính, người Phù Cát, học chữ Hán rất giỏi, nhưng ghét thói văn chương phù phiếm, chỉ chuyên nghiên cứu binh pháp. Lúc nhỏ nhà nghèo, không tiền mua dầu thắp, nhặt củi làm đèn, đọc sách, tập văn đến gà gáy mới ngủ. Lớn lên học võ. Sức mạnh như Hạng Vương có thể kéo cung sắt nặng 300 cân, cắp hai nách hai tảng đá nặng hàng tạ nhảy qua rào cao quá với. Thiện dụng cây thiết sóc[77].
Người đời gọi là Phạm Thiết sóc. Ðược Vua Quang Trung cho đổi sang họ Nguyễn.

- Lê Sĩ Hoàng, người Quảng Nam. Võ nghệ siêu quần. Lúc nhỏ nghèo chăn trâu cho một phú nông trong ấp. Trâu bị cọp bắt, Hoàng sợ tội chạy vào núi trốn, gặp được dị nhân truyền võ nghệ. Lê có tài sử dụng đại đao.

Trong lúc thi, Vua Quang Trung sai Trần Quang Diệu ra tỉ thí. Tài sức ngang nhau. Nhà vua cao hứng đòi đấu thử. Lê Sĩ Hoàng cung kính tạ từ.

- Với Trần Tướng Quân, hạ thần còn không địch nổi huống chi với Bệ Hạ.

Vua Quang Trung đắc ý, vỗ vai nói:

- Ðây là Hứa Chử của ta.

Rồi cởi chiếc cẩm bào đương mặc ban cho Lê Sĩ Hoàng. Sĩ Hoàng cùng Quang Diệu được đời tôn xưng là
Tây Sơn Song đao.

Hai người đều được triều đình trọng dụng và lập được nhiều chiến công, cùng với các võ sĩ phò tá Tây Sơn từ trước, được liệt vào hàng lương tướng.

7. DẸP PHIẾN LOẠN

Dư đảng của Vua Lê, ngoài Lê Duy Chỉ dựa vào lực lượng các thổ dân ở các miền núi ngoài biên giới để chống lại nhà Tây Sơn[78] và đã bị Trần Quang Diệu dẹp yên, còn các cuộc bạo loạn rải rác ở miền Bắc.
Thứ nhất là cuộc bạo loạn của Trần Quang Châu người huyện Gia Bình thuộc Bắc Ninh, đã từng giúp Lê Chiêu Thống trốn tránh.Lúc Tôn Sĩ Nghị kéo quân xâm lấn nước ta Châu theo hộ giá Chiêu Thống và được phong làm Tiên Phong Ðại Tướng. Quân Thanh thua, Vua Lê bỏ chạy. Châu chạy về huyện nhà, mộ binh đánh phá các vùng lân cận. Võ Văn Dũng được cử đi đánh dẹp. Nhờ địa thế hiểm trở binh của Châu cầm cự với quân Dũng từ thu Tân Hợi (1791) đến xuân Nhâm Tý (1792).

Châu bị bắt, dụ hàng không được nên Dũng đem giết đi. Thứ hai phải kể đến cuộc dấy loạn của Dương Ðình Tuấn người huyện Yên Thế (Bắc Giang), phò Lê Chiêu Thống trong lúc ẩn náu để chờ đợi viện binh. Khi Chiêu Thống chạy theo Tôn Sĩ Nghị, Tuấn ở lại tiếp tục hoạt động chống Tây Sơn, Ðặng Văn Long phụng mệnh đi tảo trừ. Tuấn đánh không lại, trốn vào rừng rồi biệt tích.

Ngoài ra còn có Phạm Ðình Ðạt người Vũ Giang (Bắc Ninh), cùng các em là Tạo sĩ Phạm Ðình Phan, Tiến sĩ Phạm Ðình Dữ và các con là Phạm Ðình Hân, Phạm Ðình Cù, Phạm Ðình Ninh, Phạm Ðình Duật quật khởi ở núi Huyền Ðinh tục gọi là núi Treo Ðanh. Thường hoạt động mạnh ở vùng Lạng Giang. Quân Tây Sơn do Ðặng Văn Long chỉ huy phải đánh dẹp mãi mới tiêu diệt được.

Những đám phiến loạn dẹp yên, trong nước dồn công sức vào công việc kiến thiết xã hội.

------------------------

[73] Theo cụ Bùi Văn Lang thì bà họ Phạm là người Duy Xuyên (Quảng Nam), cùng mẹ khác cha với Bùi Văn Nhật, Bùi Ðắc Tuyên; năm 30 tuổi được phong làm Hoàng Hậu và sanh hạ được ba trai hai gái, Quang Toản là trưởng nam. Cụ Bùi đã lầm, vì bà họ Phạm và bà họ Bùi còn miêu duệ ở Phú Phong, Xuân Hòa.

[74] Theo sách La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân Hãn.

[75] Có nhiều nhà sư hiện đại cho việc làm vua Quang Trung là chống lại Phật giáo và gọi Tây Sơn là Ngụy triều.

[76] Trong lá thư đề ngày 18-7-1793 của Linh mục Le Roy gởi cho Plandin, có câu Từ khi nhà Tây Sơn lên làm chủ. Tôn giáo được tiến bộ, đăng trong Nouvelles des missions etrangères cuea M. de la Bissachère năm 1902.

[77] Một loại giáo

[78] Xem mục Vua Quang Trung đối ngoại.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #58 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2010, 10:58:24 pm »

VUA QUANG TRUNG BĂNG HÀ
NGUYỄN QUANG TOẢN KẾ VỊ

Công việc xây dựng quốc gia đang tiến hành trôi chảy, thình lình Vua Quang Trung băng hà.

Vua băng ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý [79](15-9-1792). Nguyên nhân gây ra cái chết của Vua Quang Trung đã trở thành một nghi án lịch sử. Ðại Nam Chính Biên Liệt truyện ghi rằng:

Huệ trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm lăng tẩm của Liệt Thánh.

Một ngày kia, đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã ra hôn mê. Mơ màng thấy một lão trượng đầu bạc áo trắng, cầm gậy sắt, từ không trung đi đến, mắng rằng: Ông cha mày đều sanh ở đất Vua, mày sao dám mạo phạm đến lăng tẩm?. Nói dứt lời liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất tỉnh, hồi lâu mới tỉnh lại. Từ ấy bịnh càng ngày càng nặng, mới triệu viên Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An.

Ðó là lời của sử gia Nguyễn Gia Miêu[80] bịa ra để bôi nhọ Vua Quang Trung. Bịa không được khéo, bởi ai kể lại câu chuyện hoang đường ấy cho viết sử chép? Chẳng lẽ Vua Quang Trung kể lại giấc mộng không mấy đẹp của mình?

Có người bảo nhà vua bị thượng mã phong. Ðó chỉ là chuyện hài hước.

Lại có người độc miệng bảo rằng nhà vua bị Ngọc Hân Công Chúa ám hại bằng cách bỏ thuốc độc vào rượu[81]. Rõ là vu cáo giữa trời!

Thiết tưởng Vua Quang Trung chết vì bệnh huyết áp cao, làm việc nhiều, suy nghĩ nhiều, bị đứt mạch máu. Cái chết đột ngột do bệnh huyết áp cao gây nên thường xảy ra và dân gian thường gọi là trúng gió. Chớ nếu quả có điều ám muội thì dễ gì triều đình Tây Sơn đã để yên.

Truyền rằng:

Mùa xuân năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung hay tin Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm được Gia Ðịnh và kéo quân ra đánh Quy Nhơn, bèn nổi giận:

- Giống cỏ gấu không diệt tận gốc, cứ nảy ra hoài!

Liền chuẩn bị kéo đại binh vào đánh. Lục quân từ trên đánh xuống, Thủy quân từ dưới đánh lên. Bao vây mặt biển, cắt đứt đường núi, không cho quân Nguyễn chạy thoát.

Mọi việc đã sắp đặt chu đáo thì thình lình nhà vua bị cảm. Bệnh mỗi ngày một nặng. Bèn triệu Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu thương nghị về việc dời đô ra Nghệ An và việc đi đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng rồi biết mình không còn sống lâu được nữa, liền trối:

- Ta mở mang bờ cõi gồm cả miền Nam. Nay bênh tình của ta không thể khá được, mà Thái Tử thì còn nhỏ. Phía trong thì bọn quốc cừu hoành hành ở Gia Ðịnh. Còn anh ta thì tuổi già, cầu an, không lo hậu hoạn. Ta chết rồi, trong vòng một tháng phải lo việc tống táng cho xong. Các khanh phải đồng lòng phò Thái tử và sớm lo việc thiên đô để khấu chế thiên hạ. Nếu không vậy, binh Gia Ðịnh kéo đến, các khanh không có đất chôn thây.

Nói rồi băng tại điện Trung Hòa, ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý.

Thọ 40 tuổi.

Ở ngôi 5 năm.

Thái Tử Nguyễn Quang Toản nối ngôi.

Qua tháng 8, triều đình mai táng Vua Quang Trung tại phía Nam sông Hương.

Thụy là Thái Tổ Vũ Hoàng Ðế ;

Một mặt vào Quy Nhơn, một mặt sang Trung Quốc cáo tang.

Vua Thái Ðức được tin, kêu lên một tiếng Em ơi rồi khóc ngất! Ðoạn lo sắm sửa đi điếu tang. Nhưng đình
thần can gián. Nhà vua bèn sai La Xuân Kiều soạn một bài văn tế, rồi cử Võ Xuân Hoài và Ðặng Xuân Phong thay mình mang tế vật ra Phú Xuân.

Bài văn tế viết bằng chữ Nôm, có những câu:

Công điếu phạt, Nam rồi lại Bắc, tiếng anh hùng vang dội sấm mười phương

Tình tích linh, ruột nối liền gan, đường u hiển rã rời tơ chín khúc.

Trời Quy Nhơn ảm đạm màu thu

Ðất Thuận Hóa não nùng tiếng cuốc.


Phái đoàn sang Trung Hoa nói dối rằng:

- Vua Quang Trung có di chỉ sau khi chết chôn tại Hồ Tây ở Thăng Long để đặng gần chầu Thiên Khuyết.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
TuongLinh
Thành viên
*
Bài viết: 874



« Trả lời #59 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2010, 10:59:52 pm »

Vua Thanh tưởng thật, tứ thụy là Trung thần, ngự chế một bài thi Ai Thuật:

Ngoại bang lễ dĩ hiến bồi thần

Cẩn triển tùng vô ( ) kỷ thân [82]

Nạp khoản tối gia lai ngọc khuyết

Hoài nghi kham tiếu đại kim nhân

Thu trung thượng ức y quan túc

Tấc hạ hồ như phụ tử thần

Thất xích bất năng tận ai thuật

Lân kỳ trung khốn xuất trung chân.


Cụ Bùi Văn Lang dịch:

Sai khiến bồi thần lễ ngoại bang

Ít ai khứng chịu nhọc mình sang

Nào khi nạp khoản qua đầm ngọc

Không dạ hồ nghi thế tượng vàng

Dưới gối như in tình phụ tử

Giữa thu còn nhớ bộ y quang

Hồng la bảy thước không cùng chuyện

Ngay thật riêng thương tấc dạ chàng.


Càn Long lại còn soạn một bài điếu văn, cấp một tượng Phật bằng ngọc, 3.000 lượng bạc, sai Hộ Bộ Quảng Tây là Thành Lâm sang Thăng Long phúng điếu.

Sứ giả làm lễ trước mộ giả của Quang Trung tại linh đường huyện Thanh Trì. Trong điếu văn có câu:

Chúc ly Nam cực, hiệu trung đặc trưởng kỳ xu triều; An phách Tây Hồ, một thế vô vong ư luyến khuyết
Nghĩa là:

Cõi Nam phục thay quyền, tưởng lúc xu triều công đáng nể;

Chốn Tây Hồ an phách, tấm lòng luyến khuyết chết không phai.

Còn bài thi thì chạm đá dựng nơi mộ.

Nguyễn Quang Toản lên ngôi sau khi Vua Quang Trung băng, năm Nhâm Tý. Qua năm Quý

Sửu (1793) cải nguyên là Cảnh Thịnh nguyên niên.

Vua Cảnh Thịnh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. mọi việc trong triều đều do thái sư Bùi Ðắc Tuyên quyết đoán.

Bùi Ðắc Tuyên là người làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Quy Nhơn, cậu ruột Vua Cảnh Thịnh. Dưới triều Vua Quang Trung, Tuyên nhờ thế em gái làm hoàng hậu[83] mà được làm quan trong triều. Vì ít học nên chỉ làm Thị Lang bộ Lễ, nhưng lại được phép vào ra nơi cung cấm. Tuyên thường bày nhiều trò chơi để mua lòng Thái Tử. Vốn biết Võ Ðình Tú có sức khỏe và có tài nhảy cao nhảy xa[84]. Tuyên xúi Quang Toản yêu cầu Tú biểu diễn xem.

Võ Ðình Tú là một vị khai quốc công thần, theo nhà Tây Sơn từ lúc còn áo vải, chớ đâu phải là hàng tiểu tốt mà đi làm trò mua vui cho trẻ con. Nhưng Thái Tử là đấng Vua tương lai của mình. Võ công đâu dám không tuân lệnh.

Công rước Thái Tử ra đứng giữa sân một tòa dinh thự hình chữ môn, mặt hướng về dãy nhà phía tả. Công dậm chân nhảy vút qua khỏi nóc nhà phía tả trong chớp mắt. Liền đó Thái Tử lại nghe có tiếng động sau lưng, quay lại thì đã thấy Công đứng trước mặt. Công lại dậm chân nhảy vút qua khỏi nóc nhà phía hữu, lanh như chớp. Liền đó Thái Tử lại nghe có tiếng động sau lưng khi nãy, vội quay lại thì lại thấy Công đứng ở trước mặt. Diễn đi diễn lại, sáu bận như thế mới thôi. Thái Tử rất lấy làm thích thú.

Một hôm Võ Ðình Tú cùng Ðặng Xuân Phong vào cung bệ kiến. Biết rằng đó là hai nhà có tuyệt kỹ về côn, Bùi Ðắc Tuyên bèn tìm cách mua vui cho Thái Tử. Tuyên lấy tư cách người đồng châu mời Võ, Ðặng đến nhà riêng dự tiệc. Thái Tử cũng được rước đến. Tiệc đã vào buổi chiều. Tiệc xong, Thái tử đòi xem hai vị đại thần đấu côn.

Ðuốc thắp sáng rực cả sân. Ðặng sử dụng côn đồng, Võ sử dụng côn sắt. Ðường côn qua lại nhanh như chớp, mạnh như bão, đẹp như rồng bay phượng múa. Người đến xem chật cả trong cả ngoài. Tiếng hoan hô vỗ tay vang dậy cả một góc thành!

Sau cuộc đấu côn này, dư luận xôn xao. Lớp thì khen hai vị võ thần tài nghệ thật tuyệt luân. Lớp thì chê hai vị công thần không biết tự trọng. Lời thị phi bay đến tai Vua Quang Trung. Nhà vua liền quở trách Thái Tử và Võ, Ðặng và cấm Bùi Ðắc Tuyên không được bày những trò vui làm mất thể thống đại thần như thế nữa.

Không bày được trò vui này, tìm những trò vui khác. Trong nơi quyền quý thiếu gì trò vui. Lòng ham thích của Thái Tử Toản luôn luôn được Tuyên làm thỏa mãn.

Vì vậy nên khi lên ngôi báu, Nguyễn Quang Toản liền nhớ đến Tuyên, và Tuyên nhảy lên ngôi Thái Sư dễ dàng như Võ Ðình Tú nhảy qua nóc nhà, bất chấp cả quan chế đã đặt sẵn. Trong cung đã có Bùi Thái Hậu. Nơi triều lại có lắm đại thần nghiêng theo chiều gió, như Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng... nên thế lực của Tuyên rất vững. Tuyên mỗi ngày mỗi thêm lộng hành. Những quan nào theo Tuyên thì được ưu đãi, những quan nào ra mặt chống thì bị hại, những người nào có ý chống thì bị đẩy ra làm quan xa. Do đó mà nơi triều đình sinh ra bè phái chống báng lẫn nhau, làm cho gốc nước bị lung lay.
Logged

Điều vĩ đại chính là điều giản dị - Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM