http://phapluattp.vn/20100125103128848p0c1027/tuy-tien-viet-hoa-la-khong-nen.htmTùy tiện “Việt hóa” là không nên
Phiên âm không phải là giải pháp đúng nhất hoặc hay nhất như người soạn sách kỳ vọng. Viết nguyên dạng để đảm bảo độ chính xác chứ không phải vì cho rằng từ nước ngoài là thiêng liêng.
Phiên âm Việt hóa là lối phiên âm làm cho tiếng nước ngoài giống tiếng Việt để dễ đọc. Nhưng việc phiên âm tùy tiện, lộn xộn được phản ánh trong bài “Kiểu “Việt hóa” chóng mặt!” (báo Pháp Luật TP.HCM ngày 25-1) là cách làm không hay.
Mỗi sách mỗi kiểu
Các bộ sách giáo khoa (SGK) từ lớp 1 lến lớp 12 gần như không cuốn nào phiên âm giống cuốn nào. Chúng tôi xin trích dẫn vài ví dụ trong bộ SGK lớp 8 của Nhà xuất bản Giáo dục năm 2009:
“Nhà bác học người Anh A-tut (Atwood)...”. Đây là cách phiên âm có chú thích nguyên dạng trong sách Vật lý 8. Nhưng ở trang 33 sách này lại phiên âm không chú thích nguyên dạng: “Nhà bác học Tô-ri-xe-li (1608-1647) người I-ta-li-a…”. Câu: “Nhà vua Hê-rôn xứ Si-ra-cuýt…” ở trang 39 sách này lại là cách phiên âm không thể nào đọc được vì tiếng Việt không có dạng viết như thế.
Nhiều từ nước ngoài không nên phiên âm và cũng phiên âm không được. Chẳng hạn như từ Jun không có trong tiếng Việt. Nếu phiên âm là Dun hoặc Giun thì đều rất kỳ. Hơn nữa, chữ cái đầu của từ này dùng để chỉ đơn vị của nhiệt lượng cho nên càng không thể phiên âm.
Tên nhà soạn nhạc thiên tài người Đức Ludwig van Beethoven được “tái chế” thành Bét-tô-ven. Ảnh: THỤY CHÂU
Ngoài sự tùy tiện trong phiên âm và hình thức trình bày, SGK còn sử dụng nhiều cách phiên âm khác nhau, không thống nhất, nhiều trường hợp phiên âm sai. Ví dụ từ Karlee Kosolopski được phiên âm thành Cacli Côxôlôpski (Sinh học 8, trang 106). Trong từ chuyển tự đều dùng hai chữ “s” nhưng từ phiên âm lại dùng chữ “x” và “s”. Từ Newton được phiên âm không chính xác thành Niu-tơn, đáng lẽ phải phiên thành Niu-tân thì gần với nguyên ngữ hơn.
Thầy dạy, trò học còn cảm thấy khó chịu bởi cách phiên âm không thống nhất trong sách Sinh học 8 (phiên âm có dấu mũ thành “hiđrôxit”) và sách Hóa học 8 (phiên âm không có dấu mũ thành “hiđroxit”).
Tiếng Âu-Mỹ không có thanh điệu như tiếng Việt mà chỉ có trọng âm. Âm tiết có trọng âm đọc cao giọng nghe giống như thanh sắc của tiếng Việt, còn không có trọng âm thì đọc hạ giọng, nghe giống như thanh nặng hoặc thanh huyền. Trong chữ phiên âm thường thấy bỏ dấu sắc ở các âm tiết cuối của từ kết thúc bằng các phụ âm p, t, c, ch (như elíp, mililít, Ác-si-mét). Các từ không có dấu sắc: gluxit, lipit, axit, sunfat, cacbonat. Riêng chuyện này, nhiều SGK còn có sự khác biệt trong phiên âm có dấu sắc (môn vật lý) và không có dấu sắc (môn sinh học và hóa học).
Chưa hết, viết dính liền hay tách rời các âm tiết cũng không thống nhất trong các từ phiên âm. Trường hợp viết tách rời thì có gạch nối (ví dụ: Niu-tơn, Pa-xcan, Ác-si-mét, Nô-ben), tách rời không có dấu gạch nối (ví dụ: tua vít, ô tô, Mê Kông). Trường hợp viết dính liền như prôtêin, ôxi, phôtpho, cacbon, Aten, Nôben… Cùng một lớp nhưng SGK viết không thống nhất, môn vật lý tách rời các âm tiết và có dấu nối, còn môn sinh học thì lại viết liền.
Tùy tiện pha tạp
Sở dĩ người Việt gặp khó khăn khi đọc tiếng nước ngoài là vì ta đã quen với đọc từng âm tiết (từng tiếng) rời ra, bởi tiếng Việt là đơn tiếng. Trong khi đó, tiếng nước ngoài phần lớn đa âm, đọc nối âm, các âm tiết dính liền lại. Khác với tiếng nước ngoài, tiếng Việt không có tổ hợp phụ âm, giữa các phụ âm phải có nguyên âm mới đọc được. Người Việt thường đọc theo kiểu âm tiếng hóa các tổ hợp phụ âm.
Vì vậy, việc phiên âm dễ làm cho người ta đọc khác đi âm nguyên ngữ, nghĩa là đọc sai. Cách viết phiên âm làm cho người sử dụng khó tra tìm từ trong từ điển bách khoa thế giới. Mỗi người phát âm khác nhau. Thậm chí trong bản thân một người cũng phát âm khác nhau ở mỗi thời điểm. Người soạn sách sẽ tự cho rằng cách phát âm của mình là đúng và không chấp nhận kiểu phát âm của người kia. Vậy thì học trò biết theo ai? Hẳn học trò phải phán xét các thầy phiên âm để lựa chọn đọc theo người phiên âm đúng. Nếu không, họ phải tìm đến ngôn ngữ nguồn để tự chế ra một cách phiên âm cho mình.
SGK đưa ra một kiểu viết tiếng nước ngoài chỉ có trong SGK. Khi ra trường, các em phải học đọc chữ nguyên dạng. Thế thì tại sao không dạy cho các em biết viết, biết đọc chữ nguyên dạng ngay khi còn học phổ thông?
Nhiều người đặt tinh thần dân tộc không đúng chỗ và hễ gặp từ nước ngoài là lập tức “tái chế” cho nó thành tiếng Việt. Một giáo sư ngôn ngữ học từng phát biểu như sau: “Một số nhà ngôn ngữ cho rằng tên riêng người nước ngoài là thiêng liêng, phải viết nguyên dạng, không được phiên âm. Người ta quên mất điều cơ bản rằng tiếng Việt dùng để trao đổi giữa người dân Việt với nhau chứ đâu phải với người ngoại quốc...”. Phát biểu này có phần cực đoan. Không phải vì cho rằng từ nước ngoài là thiêng liêng nên ta phải viết nguyên dạng mà vì để đảm bảo độ chính xác nên phải viết nguyên dạng. Vả lại, mình không có quyền sửa tên người nước ngoài, cũng như người nước ngoài không có quyền sửa tên mình. Những từ chúng ta tạm dùng ai cũng biết nó là từ nước ngoài, vậy thì cần gì phải mất công “tái chế” mà không chịu giữ nguyên dạng.
Sử dụng tiếng nước ngoài sao cho không làm tiếng Việt trở thành một thứ tiếng pha tạp kỳ dị chính là cách giữ gìn tiếng Việt.
Tùy loại từ mà xử lý
Tùy từng loại từ và cách thức sử dụng mà quyết định nên Việt hóa tiếng nước ngoài hay không.
- Đối với tên tiếng nước ngoài thì không nên Việt hóa.
- Đối với thuật ngữ khoa học thì Việt hóa có mức độ.
- Đối các từ thông thường, quen dùng thì nên Việt hóa mạnh.
- Đối với các từ thông thường dùng tạm thời thì không nên Việt hóa hoặc Việt hóa ở mức độ ít.
Chiết tự vô lối
Trên truyền hình, nhiều phát thanh viên thường đọc là xe đờ-rim, mát-xì-cơ-va… khiến nhiều người cảm thấy chướng tai. Cứ phiên âm tùy tiện như thế này thì ngay cả người soạn sách còn không nhớ nổi lúc nào thì viết liền, viết có dấu, viết có gạch