Phải nói thật là em đã đọc bài này nhiều lần nhưng rốt cuộc vẫn chẳng hiểu ý của bác Lương là gì. Hoặc bác ấy nói chuyện quá khó hiểu, hoặc là PV quá ấm ớ.
;Mình nghĩ là ý bác Lương muốn nói ở đây là tại thời điểm quân ta vào hầm bắt sống đờ cát và bộ chỉ huy quân Pháp ở điện biên phủ thì không có lá cờ nào của ta được cắm trên nóc hầm .Xem lại lịch sử thì hôm đó đơn vị của anh hùng Tạ Quốc Luật là c360 e209f312 đánh ở gần trung tâm nhất cũng không thấy nói đến việc quân ta cắm cờ vào lúc đó ,còn về sau đấy có không thì không biết .Đây là môt bài báo đăng ở báo bà rịa vũng tàu có liên quan đến việc bắt sống tướng đờ cát qua đó có thêm chút kiến thức về vụ cắm cờ náy:
Kỷ niệm 56 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 – 7-5-2010)
Chuyện về những người lính bắt sống tướng De Castries
Thứ sáu, 7/5/2010, 07:43 GMT+7
Chiến sĩ Hoàng Đăng Vinh được Bác Hồ trực tiếp gắn huy hiệu
Đoàn xe đạp vận tải cho mặt trận Điện Biên Phủ. Ảnh:T.L.
Đã 56 năm trôi qua kể từ thời khắc lịch sử vào hầm bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5 người lính Vệ quốc đoàn ngày ấy bây giờ người còn, người mất, nhưng thời khắc ấy mãi là kỷ niệm lớn lao của đời họ và cũng là của lịch sử dân tộc.
THỜI KHẮC LỊCH SỬ
Là một trong 5 chiến sĩ xông vào hầm chỉ huy bắt sống De Castries, Đại tá Hoàng Đăng Vinh bồi hồi chia sẻ: “Trong cuộc đời binh nghiệp của bất cứ người lính nào, bắt sống một tướng địch là một vinh dự lớn lao. Tôi may mắn được chứng kiến và tham gia vào thời khắc lịch sử ấy, nhưng chiến công đó là công sức và sự hi sinh của biết bao chiến sĩ, đồng đội, của cả dân tộc”.
Trận đánh đồi C2 ở giai đoạn cuối của chiến dịch (từ ngày 4 đến ngày 5-5-1954) là trận quyết liệt. Ta chiếm được, địch lại đánh trả. Rồi ta lại chiếm, địch lại chiếm lại. Cuộc giằng co giữa hai bên diễn ra ác liệt, thương vong nhiều. Ngày cuối cùng, ta và địch đều mệt lả. Không còn sức, tự dưng lính của hai bên đều ngừng bắn dù không có lệnh của chỉ huy. Bọn giặc cũng nằm tại chỗ. Chiến sỹ ta thì mệt lả vì đói, khát, kiệt sức. Nhiều người bị thương, máu, bùn đất dính đầy người.
Lúc đó, một đồng chí anh nuôi, khoác ba lô cơm đi lên, phát cho từng chiến sỹ một nắm cơm và nhúm lạc rang muối. Ai cũng nhón từng hạt cơm, hạt lạc cho vào mồm, mút cái mằn mặn của muối. Bỗng nhiên, một cậu nói: “Ơ, các cậu ơi, nhìn ngón tay mình này!” Bất giác, mọi người nhìn lại mình, cũng như cậu ấy, 2 đầu ngón tay ai cũng trắng toát vì mút muối. Rồi chẳng ai bảo ai, chúng tôi nhìn lại thân mình, thấy toàn bùn đất, máu. Một đồng chí khác đừng cạnh tôi nói: “Như thế là trong người chúng mình có máu của đồng đội, có đất của Điện Biên rồi đấy...”.
Nghe câu ấy, chúng tôi như chợt tỉnh, thấy được trách nhiệm lớn lao của mình, phải vì đồng đội mà đứng lên. Thế rồi, không ai bảo ai, kể cả những người bị thương, tất cả đồng loạt đứng lên xung phong, tiếp tục chiến đấu. Trận ấy, chúng tôi thắng to.
Chiều 7-5, đơn vị xung phong qua cầu Mường Thanh. Quân Pháp chống trả quyết liệt. Sau khi tiêu diệt khẩu đại liên và khẩu pháo trấn giữ đầu cầu, năm người lao vượt được qua cầu, tiến vào khu trung tâm là: đại đội trưởng Tạ Quốc Luật, Bùi Văn Nhỏ, Đào Văn Hiếu, Hoàng Đăng Vinh và anh Lam. Lúc bấy giờ khói bụi mịt mù, chúng tôi chỉ thấy nhấp nhô hầm hào, lô cốt, không ai biết hầm De Castriesở đâu. Đột nhiên từ ngách hào trước mặt, một tên lính dõng xuất hiện, giơ tay đầu hàng. Anh Luật quát: “Hầm De Castriesở đâu?” Tên lính chỉ vào cái ụ đất cao được bao bọc bởi dây kẽm gai. Năm người vừa chạy vừa tận dụng các mô đất tránh đạn đang bắn như mưa, xông tới. Phát hiện ra hầm có hai cửa. Anh Luật phân công Hiếu và Lam vào một cửa còn ba người vào một cửa. Khi thấy chúng tôi vào, cả bọn tướng lĩnh co rúm vào một góc, riêng De Castries lì lợm ngồi yên ở bàn làm việc. Thấy thế, anh Luật ra lệnh tôi vào bắt hắn. Theo lệnh Đại đội trưởng, tôi bước được vài bước thì anh Luật nhắc: “Phải ra oai vào!”. Tôi nghe theo, mắt trừng to, ưỡn ngực ra dáng đi oai vệ, lăm lăm cây súng tiến về phía De Castries. Thấy tôi đến, hắn ta liền đứng dậy chìa tay ra bắt. Một ý nghĩ thoáng lên trong đầu tôi: “Sao lại bắt tay nhỉ? Vô lý”. Tôi liền chọc khẩu súng vào bụng hắn, ngay lập tức hắn ta lui lại một bước, giơ tay lên và nói một tràng tiếng Pháp. Thật tình, lúc đó tôi chả hiểu gì. Sau này, nghe anh Luật kể lại, lúc đó hắn nói: “Xin các ông đừng bắn, tôi xin đầu hàng!”. Sau đó, chúng tôi dẫn De Castries và Bộ tham mưu của ông ta, ba mươi tư người, đến cầu Mường Thanh thì gặp quân ta đi vào. Chúng tôi bàn giao tù binh cho sư đoàn trưởng Thăng Bình rồi quay lại hầm De Castries, múc nước uống một trận thỏa thuê, ôm lấy nhau hò reo chiến thắng.
NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG VÔ DANH
Bao lâu nay, khi nói đến những người bắt tướng De Castries ở Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, chúng ta chỉ mới biết ba người là Tạ Quốc Luật, Nguyễn Văn Nhỏ và Hoàng Đăng Vinh.
Trong hồi ký về những ngày tháng lịch sử ấy, ông Tạ Quốc Luật viết rất kỹ về năm người (trong đó có ông) đánh trận cuối cùng vào hầm De Castries và bắt tướng De Castries. Sau này, ba người trong số họ đã trở thành quen thuộc với cả nước. Còn lại hai người kia bây giờ ở đâu, sống chết ra sao? Ông Luật khắc khoải, băn khoăn: “Hiếu, Lam bây giờ ở đâu? Chuyện gì xảy ra với họ?”... Nỗi day dứt của ông Luật cũng là nỗi băn khoăn của Đại tá Nguyễn Văn Vinh. Vì vậy, trong dịp kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên (1954 - 1999) ông Vinh đã làm một cuộc “Đi tìm đồng đội”.
Năm 1999, lúc này Tạ Quốc Luật và Nguyễn Văn Nhỏ đã mất, ông Nguyễn Văn Vinh đi tìm đồng đội bằng bài viết: “Hiếu, Lam bây giờ ở đâu?”, đăng trên báo Tiền phong tháng 5-1999 với lời nhắn: “Ai biết hai người ấy, xin liên hệ báo tin về báo Tiền phong...” Và như một kết thúc có hậu, mọi người đã tìm được ông Đào Văn Hiếu đang sống ở Nga Sơn, Thanh Hóa.
Áp giải tù binh Pháp về hậu phương. Ảnh:T.L.
Trước đó, ở Nga Sơn, có một cựu chiến binh nói rằng, ông có vào xem bảo tàng Quân đội, thấy có tấm ảnh người bắt tướng De Castries đúng là ông Hiếu làng mình nhưng dưới tấm ảnh lại đề tên là: “Đào Văn Hiến, xã Nga Đức, Nga Sơn, Thanh Hóa”. Ông Hiếu nghe và chỉ cười tủm tỉm không nói gì.
Khi bài báo của ông Vinh được đăng thì ông Nguyễn Văn Hùng, Thường trực Hội cựu chiến binh huyện Nga Sơn đọc được. Ông Hùng cất công ra Bảo tàng Quân đội xem cụ thể tấm ảnh và xác định đó chính là ông Hiếu quê mình vì ông biết từ năm 1960 xã Nga Đức chia làm ba xã, làng của ông Hiếu thuộc điạ phận xã Nga Hưng. Còn chữ Hiếu và Hiến chẳng qua chỉ do đọc nhầm chữ “U” thành chữ “N”. Ông Hùng viết ngay bài “Hiếu vẫn còn đây” gửi cho báo Tiền Phong.
Tổng biên tập báo Tiền phong gửi điện về Nga Sơn mời ông Hiếu ra tòa soạn để gặp gỡ. Lúc ấy đại tá Hoàng Đăng Vinh đang nghỉ hưu ở Hà Bắc, đọc báo, biết tin cũng đánh điện vào mời ông Hiếu ra nhà chơi. Cánh nhà báo hay tin có cuộc hội ngộ của hai nhân vật đặc biệt này, tìm đến nhà ông Vinh và họ đã không hết ngỡ ngàng trước cảnh hai ông già, một to béo (ông Vinh), một cao gầy, đen (ông Hiếu) vừa trông thấy nhau đã la lên “Hiếu điếc”, “Vinh lì”, ôm chầm lấy nhau mà lắc, mà cười ha hả... mà nước mắt giàn giụa... 45 năm sau mới gặp lại!
Cho đến tận lúc này ông Hiếu vẫn đau đáu nỗi niềm nhớ ông Lam. Hai người chia tay bên dòng sông Bến Hải mù trời bom đạn năm ấy rồi bặt tin nhau. Không biết bây giờ ông Lam sống chết ra sao? Ông Hiếu cũng đã nhờ nhiều người dò hỏi nhưng không biết ông Lam ở làng nào xã nào. Ông chỉ biết ông Lam quê ở Nghệ Tĩnh.
Giờ đây, ông Hiếu, người tham gia bắt sống tướng De Castries năm xưa vẫn cần mẫn với bờ tre, đám ruộng. Hai ông bà nương tựa vào nhau trong căn nhà đơn sơ, vui với cháu con, với xóm giềng, bè bạn.
(Theo VTV và toquoc.gov.vn)