[/i]“Ngày 5 tháng 4, 1954, trước ủy ban ngoại vụ của quốc hội, Dulles như cuồng loạn trước sự viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam và nói đó là một sự can thiệp trực tiếp. Phản ứng của Mỹ “có thể không chỉ thu hẹp ở Đông Dương”.
Ông ta đe dọa Trung Quốc với chiến tranh.
Gốc rễ vấn đề của Dulles là nếu Việt Minh đang đánh bại Pháp, và nước Việt Nam của người Việt Nam - bất cứ nước nào khác lấy quyền gì để vào đó đánh cho Pháp? Câu trả lời của Dulles là không phải là người Việt đánh bại Pháp mà là người Tàu. Người Tàu đã xâm lược Việt Nam và Pháp đã chống lại sự xâm lược, giống như Hoa Kỳ đã chống lại sự xâm lược ở Triều Tiên.
Chỉ có điều là - chẳng có tí sự thực nào trong đó.
Không có Tàu ở Điện Biên Phủ như Dulles đã khẳng định. Bộ Tổng Tham Mưu của Pháp nói rằng không có một tù binh nào, sống cũng như chết, là Tàu. Năm 1959, một viên chức Nam Việt Nam – khó có thể là thân Cộng bị tuyên truyền – nói về “lực lượng tối tân và mạnh mẽ của Pháp bị đánh bại bởi những chiến sĩ Việt Nam trang bị yếu kém về vũ khí mà.. chưa từng có sự tiếp tay của quân đội Nga hay Tàu.”
Pháp, với sự viện trợ của Mỹ lên tới nhiều trăm triệu đô la, bị đá khỏi Đông Dương bởi những dân bản xứ, với quân cụ cung cấp bởi Trung Quốc và Nga Sô, và Mỹ toan tính can thiệp vì cho là sự tiếp nhận viện trợ của Việt Minh từ các nước khác là một tội ác đối với nhân loại, với nền văn minh Tây phương, và Ki Tô Giáo.
Tướng Navarre cũng phụ họa luận điệu là Trung Quốc đã can thiệp, cho rằng Trung Quốc không có quyền vào Việt Nam như Pháp.
Jules Roy tóm tắt thật hay như sau:
“Những lời tuyên bố của John Foster Dulles và Tướng Navarre về những chuyên viên Trung Quốc đơn giản chỉ là truyền cảm ý muốn bào chữa cho những sự thất bại của họ.” [3][/i]
Tưởng chúng ta cũng nên đọc thêm nhận định của Giáo sư Mortimer T. Chohen trong cuốn
From Prologue to Epilogue in Vietnam, N.Y., 1979, p. 206, về chiến thắng Điện Biên Phủ:
[/i] “Điện Biên Phủ là sự diễn đạt tinh thần quốc gia và sự hãnh diện của người Việt về một biến cố mạnh nhất trong dòng lịch sử của họ. Có một đứa trẻ nào ở trong làng mà không biết đến những chiến thắng đối với Trung Hoa và Mông Cổ - hai lực lượng quân sự mạnh nhất ở Á Châu? Những biến cố này và cuộc tranh đấu ngàn năm chống ngoại xâm đã được lồng vào trong văn học, ca nhạc, và châm ngôn của họ. Đối với người Việt, Điện Biên Phủ là một trận chiến khác trong đó họ đã đánh bại quân xâm lược. Và hầu hết mọi người, bất kể là thuộc tôn giáo, tầng lớp xã hội nào, hoặc phục vụ cho quân đội Pháp, đều hãnh diện vì nó.
Người Mỹ có hiểu được như vậy không? Người Mỹ có biết gì về Việt Nam và lịch sử, văn hóa Việt Nam không? Hoàn toàn không.” [4][/i]
Vậy Lữ Giang và những người chống Cộng cho Chúa có hiểu được như vậy không? Có biết gì về lịch sử, văn hóa Việt Nam không? Hoàn toàn không.
Thật ra, chuyện Lữ Giang viết ở trên chỉ là chuyện ruồi bu, vì cốt lõi của vấn đề nằm trong sự nhận định sâu sắc trên của Giáo sư Mortimer T. Cohen: mọi người Việt Nam đều có quyền hãnh diện với chiến thắng Điện Biên Phủ. Đúng vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ là của nhân dân Việt Nam, đoạt được bằng sự hi sinh xương máu của người Việt Nam, từ Tướng Tá tới các binh sĩ, từ các dân công cho đến các thường dân. Tất cả những luận bàn trí thức hay không trí thức về vai trò của cố vấn Trung Cộng ở Điện Biên Phủ, hay Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam, đối với tôi, đều là không thích hợp (irrelevant).
Trong cuộc chiến ở miền Nam, Mỹ cũng vẫn tiếp tục lên án sự viện trợ của Nga Sô và Trung Quốc cho Bắc Việt, và Bắc Việt tiếp tế cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và không thiếu gì người Việt chống Cộng, có đầu mà không có óc, đã dùng điểm này, phóng đại vài con số, để biện hộ cho sự chiến bại của Mỹ và miền Nam. Về vấn đề này, Giáo sư Cohen lại viết (Ibid., p. 260):
Nhưng Mỹ làu bàu về cái nỗi gì? Bắc Việt tiếp tế cho VC? Thế thì Mỹ cho Quân Đội Nam Việt Nam cái gì? Súng hỏa mai?? Từ 1949 về sau, những người Âu Châu ở Việt Nam ta thán và phàn nàn vì kẻ thù đã được tiếp tế vũ khí có cùng phẩm chất như của họ. Tây phương mơ tưởng đến những ngày huy hoàng xưa kia khi dân bản xứ chống lại họ với cung tên và bị họ bắn tan hoang bởi những súng của hải quân, pháo binh, và súng máy. “Gậy ông đập lưng ông” chỉ là chuyện công bằng. [5]
Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là chiến thắng cho riêng người Việt Nam mà ảnh hưởng của chiến thắng này vang dội trên khắp thế giới. Đã có không biết bao nhiêu nhà phân tích viết về trận đánh này. Chúng ta có thể đọc cuốn
“Điện Biên Phủ (Cuộc bao vây làm thay đổi thế giới” [Dien Bien Phu (Sieges That Changed the World)”] của Richard Worth, nxb Chelsea House Publications; hay đọc Mark Baker viết ngày 6 tháng 5 2004 trên
http://www.theage.com.au/articles/2004/05/06/1083635278888.html:
“Ngày 7 tháng 5, 1954, lực lượng Việt Nam đánh bại những quan thầy thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Đó là một trận đánh làm thay đổi bộ mặt chính trị của thế giới và đặt khung cảnh cho cuộc chiến Việt Nam [chống Mỹ]” [On May 7, 1954, Vietnamese guerilla forces defeated their French colonial masters at Dien Bien Phu. It was a battle that changed the political face of the world and set the scene for the Vietnam War.] và
“Điện Biên Phủ là nơi mà hồi chuông báo tử đã vang lên cho chủ nghĩa thuộc địa của Pháp ở Á Châu và là nơi mà màn mở đầu đã được viết lên cho sự nhục nhã của lực lượng quân sự mạnh nhất trên thế giới (Mỹ)” [where the death knell was sounded for French colonialism in Asia, and where the prelude was written to the humiliation of the world's greatest military power. ]
Sau đây chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài phân tích rất dài của Thiếu Tá Mỹ, Harry D. Bloomer, trong bài
“Một Phân Tích Về Sự Thảm Bại Của Pháp Ở Điện Biên Phủ” [ Major Harry D. Bloomer, USA: An Analysis Of The French Defeat At Dien Bien Phu] để thấy ảnh hưởng của chiến thắng Diện Biên Phủ trên thế giới như thế nào. Sau đây là đoạn mở đầu của bài phân tích.
“Ngày 7 tháng 5, 1954, căn cứ quân sự của Pháp ở Điện Biên Phủ thất thủ, tột điểm của một chiến dịch kéo dài 209 ngày. Trong 54 ngày sau cùng, căn cứ bị thường xuyên tấn công. Đối với Pháp, Điện Biên Phủ là một cọng rơm đã làm gẫy lưng con lạc đà. Hai tháng sau, ngày 40 tháng 7, 1954, một cuộc ngưng bắn chính thức đã được điều đình giữa Pháp và Việt Minh ở Genève [Không có phe Quốc Gia]. Hiệp định này chấm dứt 8 năm chiến tranh làm cho hơn 75000 người trong Lực Lượng Viễn Chinh của Pháp chết. Cuộc ngưng bắn này không đi quá một cuộc ngưng bắn quân sự, và sự thiếu một sự dàn xếp chính trị đã mở cửa cho cuộc chiến tranh Đông Dương sau [với Mỹ]. Thật ra thì Việt Minh rời hội nghị Genève biết rằng mình đã bị phản bội. Họ tin rằng Trung Quốc đã cưỡng bách họ phải nhận một sự chia đôi Việt Nam thay vì một Việt Nam thống nhất dưới quyền họ. Sự chiến thắng ở mặt trận đã mất đi ở hội nghị Genève, Việt Minh biết vậy; tuy nhiên, họ không từ bỏ mục đích thống nhất Việt Nam.
Việt Minh đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ trong một trận được lập lên cốt tủy là để đánh bại Pháp theo chính kế hoạch dụ địch của Pháp. Cú “sốc” về sự chiến bại của Pháp đã vang dội trên khắp thế giới Tây phương. Như Đại Tá William F. Long phát biểu sau cuộc chiến bại của Pháp 12 năm, “Điện Biên Phủ hay DBP đã trở thành một biểu tượng tốc ký của Đông phương đánh bại Tây phương, biểu tượng cho sự chiến thắng của dân tộc chưa phát triển. Điện Biên Phủ đã đưa đến nhiều hậu quả chính trị nghiêm trọng. Sự chiến bại của Pháp thật sự dứt khoát là một thảm bại cho cả Pháp lẫn Mỹ, vì Mỹ, cho đến năm 1954, đã cung cấp 80% chiến phí cho đội quân viễn chinh của Pháp ở Đông Dương.” [6] Trong tờ Les Collections de L’Histoire: Indochine Vietnam, số 23, Avril-Juin 2004, Paris, Jean Lacouture có viết một bài dài 7 trang khổ lớn, từ trang 53 đến 59, nhan đề
“Cuộc Thảm Bại Điện Biên Phủ” [Le Désastre de Dien Bien Phu]. Bài
Le Désastre de Dien Bien Phu của Jean Lacouture cho chúng ta những nét chính về biến cố Điện Biên Phủ, không có những chi tiết lặt vặt rườm rà, nhưng cũng đủ để chúng ta có một cái nhìn tổng quát về những hoạt động chính trị và quân sự của Pháp và Mỹ để cuối cùng đưa tới sự thảm bại ở Điện Biên Phủ. Đối chiếu với những tài liệu tôi đã đọc về Điện Biên Phủ của những tác giả có thể coi như là trung lập, chuyên dựa vào việc phân tích sự việc, tôi thấy bài của Jean Lacouture rất đứng đắn, khó có ai có thể phủ nhận giá trị học thuật của tác giả. Ở phần cuối bài chúng ta có thể đọc đoạn sau đây của Jean Lacouture:
Tầm quan trọng của sự thảm bại đó là như thế nào? Đó không chỉ là một thảm bại của người Á Châu giáng lên người Âu Châu, của Cộng sản trên những hệ thống (chính trị) được gọi là “Tây phương”. Những người Việt Nam, khi xưa là những chiến sĩ bị khinh khi, coi thường, đã khẳng định giá trị quân sự của họ cũng như khả năng kỹ thuật để có thể sử dụng những vủ khí tối tân nhất. Đó cũng là dấu hiệu của sự cáo chung một đế quốc: trong số những người bảo vệ khi xưa, nay là những tù nhân, có nhiều ngàn người Phi Châu mà các dân tộc ở đó học được rằng những thời đại mà luật lệnh của người Pháp dựa trên sức mạnh và một “quyền” nào đó đã qua rồi. [7] Viết bài
Sự Thật Lịch Sử, Lữ Giang viện một số tài liệu của Tàu nhưng không ghi rõ xuất xứ, và cho rằng, qua những tài liệu đó thì
“không có CSTQ không có chiến thắng Điện Biên Phủ, không có Hiệp Định Genève năm 1954 trao một nữa nước Việt Nam cho đảng CSVN“., hàm ý nhờ có Trung Quốc Việt Nam mới tạo được chiến thắng Điện Biên Phủ và mới có Hiệp Định Genève. Nhưng đây là điều hiển nhiên vì ai cũng biết là không chỉ Trung Quốc mà Nga sô cũng viện trợ cho Việt Nam. Không có viện trợ từ Trung Quốc và Nga sô, Việt Nam lấy gì mà đánh. Nhưng những yếu tố nào đã quyết định chiến thắng Điện Biên Phủ? Nhưng viện trợ vũ khí nói lên được điều gì? Pháp được Mỹ viện trợ gấp bội về vũ khí và máy bay, sao Pháp không thắng? Và sau này, Mỹ và “đồng minh” Nam Việt Nam cũng vượt trội về mọi mặt về quân số, vũ khí, tàu bay, tàu ngầm v…v… sao không thắng. Hơn 50 ngàn quân sĩ Việt Nam tham chiến ở Điện Biên Phủ công với cả trăm ngàn dân công được sử dụng trong trận Điện Biên Phủ, có tên Tàu nào ở trong đó không? Lữ Giang có biết rằng mình viết ra một câu rất đần hay không.
Nhưng vấn đề là những hạng người như Lữ Giang, Minh Võ, Nhữ Văn Úy v…v…làm sao và bằng cách nào có thể thay đổi được những sự thật lịch sử với hi vọng có thể thay đổi quan điểm của tuyệt đại đa số người dân về ông Hồ Chí Minh, về chiến thắng Điện Biên Phủ, về hai cuộc chiến chống xâm lăng, về sự thống nhất đất nước mà người Cộng sản Việt Nam đã thực hiện được.