Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:24:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chim én bay  (Đọc 42513 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #20 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:00:51 am »

Nhưng dù sao, chị cũng thấy mình đã khôn lớn, dày dạn hơn. Cái ý muốn lập công nhiều lúc như muốn đốt cháy một cái gì đó trong con người chị. Chị chợt nghĩ ra ý nghĩ thương lượng với Dũng, để Dũng nhường chị diệt tên Đích, còn Dũng sẽ ở bên ngoài hỗ trợ. Đối với chị, kẻ phản bội nào cũng độc ác, tàn bạo như thằng giám Tuân. Giết nó phải là chị nhớ không phải Dũng. Như vậy có lý hơn. Chị nghĩ giận anh Cường. Hẳn là anh vẫn chưc tin ở chị nên mới giao việc nổ súng cho Dũng.
- Dũng nè, Dũng để mình thay Dũng diệt tên Đích, được không? – Chị nói với Dũng – Dũng đã diệt được nhiều tên rồi, tên này Dũng để mình. Mình muốn anh Cường không dám coi mình là con nít nữa.- Xí, bộ mày tưởng làm vậy anh Cường sẽ thương tao hơn hỉ? Ảnh cắt đầu. Như vậy là vô kỷ luật, là mất lập trường hiểu chưa?
Vô kỷ luật thì chị hiểu, nhưng mất lập trường thì đây là lần đầu chị nghe Dũng nói, kể từ khi vào đội.
- Dũng cứ bằng lòng đi, về mình sẽ cho Dũng con dao nhọn. Kỷ luật, lập trường mình xin lãnh hết!
Chị vẫn nằn nì, biết thằng Dũng rất ưng con dao nhọn hai đầu của chị.
- Thôi, đừng có nói xạo. Có mười con dao nhọn tao cũng không đổi, hiểu chưa. Phải biết giữ vững lập trường chớ, - Thằng Dũng nổi cáu, nó chít nước bọt qua kẽ răng.
- Mình biết thằng Dũng không thương mình vì mình không diệt được thằng giám Tuân, mình để bị địch bắt – Chị oà lên khóc – Dũng khinh mình, coi thường mình. Mình biết. Dũng được anh Cường cưng, còn mình …
- Kìa, Quy, - Thằng Dũng phát hoảng. Nó dừng lại bối rối dỗ dành chị – Mắc chi mình không thương Quy. Có điều, anh Cường … Thôi được, nín đi. Giờ hai đứa mình cùng vào gặp nó, cùng bắn nhưng để Quy bắn trước, chịu chưa? Khóc tụi nó biết nó cười cho thúi mũi.
Rồi Dũng sôi nổi bàn kế hoạch với chị, theo một phương án mà nó vừa nghĩ ra. Khi hai đứa tới khu nghĩa địa, nó sẽ hỏi một ông cụ hoặc một bà cụ nào đó: “Thưa bác, nhà chú Hai Đích ở trong kia phải không ạ?”. “Ừ”. Ông cụ đáp. Nó sẽ cảm ơn ông già đàng hoàng rồi cả hai cùng xách làn đi theo lối ông già chỉ. Nếu cổng đóng, nó sẽ gọi: “Chú Hai ơi chú Hai, ra con nhờ chút”. Nhất định vợ hoặc con Hai Đích sẽ ra. Nó sẽ hỏi: “Chú có nhà không cô?” “Có!” “Con có chút công chuyện muốn gặp chú”. Nếu vợ Đích không cho vào, nó sẽ gây gổ, cãi cọ, thậm chí chửi bả, chủ định để Hai Đích ló mặt ra. Nhưng nếu cửa không đóng, hai đứa cứ ung dung đi vô. Nhất định Hai Đích sẽ có nhà. Khi đã giáp Hai Đích, nó sẽ bảo: “Thưa chú, mấy chú trên huyện cho con xuống  mời chú lên”. Thế nào mặt Hai Đích cũng tái đi. Lúc ấy, nó sẽ cười nhạt, bảo chú đã chỉ điểm rất đúng mấy căn hầm và bây giờ đừng có vác mặt ra ngoài đường nữa. Đến đó, cả hai sẽ rút súng ra. Nó sẽ đọc bản án! “Thay mặt đội “Chim Én”, xét tội trạng của tên phản bội, chúng tôi quyết định xử bắn”…
- Nhưng nếu nhà nó có chó dữ thì sao? – Chị hỏi và biết thằng Dũng rất sợ chó dữ. Có lần nó đã làm hỏng việc chỉ vì một con chó cái mới đẻ.
- Nếu vậy thì đành phải nổ súng từ ngoài thôi – Dũng mất hứng xị mặt – Mà mày đừng hỏi nữa. Phải tuỳ cơ ứng biến chớ – Nó chấm dứt câu chuyện và lại chít nước bọt qua kẽ răng.
Lúc đó, mặt trời đã lên cao. Anh nắng bắt đầu gay gắt. Cái lưng áo gầy gò của thằng Dũng ướt đẫm mồ hôi, còn chị thì phải luôn đổi tay xách chiếc giỏ mặc dù nó rất nhẹ. Bên cạnh, chạy song song với con đường là mặt biển xanh thẫm, êm ả và chói chang. Một chiếc tàu tuần tiễu của hải quân ngụy xé nước, kéo theo một cái đuôi bọt trắng xoá.
Đang đi, thằng Dũng bỗng quay lại phía chị:
- Nè, Quy. Mày ngồi dưới gốc cây kia  nghỉ, đợi tao chút nghe!
- Không chờ chị trả lời, nó chạy lao qua vạt rau muống biển xuống bãi cát chói nắng, vừa chạy vừa cởi nhanh chiếc áo, rồi lao xuống mép nước. Lúc ấy nó hoàn toàn là một thằng bé mười bốn tuổi, gầy gò, đen đủi, nhỏ bé trước cái mặt biển im lìm, trải ra vô tận trước mặt.
Chị đành ghé vào một gốc me đứng trơ trọi bên vệ đường, bật cười vì thấy cây me sao giống y thằng Dũng, cũng đen đúa và khẳng khiu, có lẽ nó không trụ nổi với nắng và gió nên còi cọc, lay phay vài đám lá tàn úa. Chị ngồi xuống đám rễ cây. Dưới kia, thằng Dũng đang ngâm mình dưới mặt nước mê mải, tưởng chừng nó đã quên biến mất nhiệm vụ. Anh Cường vẫn thường mắng Dũng tự do, vô kỷ luật đâu có oan. Nhiều bữa Dũng đã làm những việc anh Cường không hề dặn, đôi lần mải chơi, bỏ cả công việc chính. Chị lo, vừa tính chạy xuống kêu thì Dũng đã bước lên bờ, mặt áo, rồi chậm chạp đi về phía chị. Thỉnh thoảng nó lại ngoái nhìn xuống mặt biển như vẫn thém thuồng, còn bỏ quên một cái gì đó ở phía sau.
Trên đường đi tiếp, Dũng buột miệng:
- Nóng quá, phải tắm một cái, kẻo chẳng bao giờ được tắm nữa.
Sau này nhớ lại, chị cứ ngạc nhiên mãi. Hình như lúc đó, Dũng đã linh cảm trước một điều gì và việc Dũng đột ngột bỏ xuống tắm giống như một sự từ giã. Đôi khi, chị vẫn thầm hỏi rằng, liệu con người có khả năng cảm nhận hết được những gì sắp xảy ra đối với mình hay không?
 
4
Việc đi giết một tên ác ôn đối với các đội viên đội “Chim Én” thật đơn giản. Bởi tất cả mọi người đều còn rất ít tuổi. Lớn nhất là mười sáu, còn lại chỉ ở độ tuổi mười ba, mười bốn. Đa số đội viên đều có nợ có thù trực tiếp với những tên ác ôn trong vùng, và việc thanh toán chúng là một lẽ hiển nhiên, hầu như không để lại một chút băn khoăn, do dự nào. “Sự khủng khiếp sẽ bị trả lại bằng chính sự khủng khiếp”. Anh Cường vẫn thường nói vậy sau mỗi trận đánh. Nhưng đi diệt một tên ác ôn, ở một địa bàn khác, gây tội ác với những con người khác mà mình mới chỉ nghe nói chứ chưa được chứng kiến tường tận thì quả có gây những bứt rứt, ngần ngại cho những đội viên trong đội.
Trường hợp Hai Đích là một ngoại lệ.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #21 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:01:17 am »

Có lẽ không còn gì ghê tởm hơn đối với mỗi người dân quê chị trong giai đoạn đó là lòng ghê tởm trước sự phản bội. Điều này cũng ngấm rất sâu vào tâm hồn những đứa trẻ như chị. Vì vậy, khi anh Cường vừa nói tới một tên phản bội, cả chị, Dũng và Thêm đều muốn được thi hành nhiệm vụ dù đấy là một chiến đi hết sức mạo hiểm. Nói mạo hiểm bởi hai lẽ. Thứ nhất, đây là một trận đánh không hề được chuẩn bị. Cả chị và Dũng chưa một lần tường mặt Hai Đích, ngoài việc coi hắn trong một tấm hình đã hoen ố. Thứ hai, nhà Hai Đích nằm sâu trong một hệ thống đồn bốt dày đặc của bọn bảo an, dân vệ. Đường tiếp cận, đường rút không được trinh sát trước. Do đó sẽ rất lúng túng một khi trận đánh không thành hoặc một trong hai người bị địch phát hiện. Trận đánh chỉ có một thuận lợi nhỏ: bởi mới ở cứ về nên chắc chắn Hai Đích dễ chủ quan, không đề phòng và việc tiếp cận hắn với những đứa trẻ như chị không phải là một điều khó.
Bấy giờ, trời đã xế trưa. Nắng như đang bốc cháy trên mái tóc ướt đẫm nước biển của thằng Dũng. Con đường đi Hoài Hương vắng ngắt, không một bóng người. Thằng Dũng bảo chỉ cần vượt qua một dãy đồi thấp, một cánh ruộng nữa sẽ đến địa phận xã Hoài Hương. Từ đó, đi thêm chừng  nửa giờ thì sẽ tới khu nghĩa địa cổ.
Trước mặt hai người, hơi chếch về phía tây, căn cứ núi Voi Quỳ của tụi Mỹ nom lở loét, đứng sừng sững giữa một vùng đồi xơ xác vì bom đạn. Những mái nhà tôn mọc lúp xúp lấp loá dưới đám chân núi. Đó là khu đồn núi Voi. Thằng Dũng kể đã có lần nó lọt được vào khu đồn ấy và đã xoáy được một khẩu Ru-lô của tên ấp trưởng, khiến tên này phải ra toà vì tội để Việt cộng tước mất vũ khí. Hồi đó, Dũng chưa phải là đội viên đội “Chim Én”. Một bữa nó nghe hai anh nó than phiền với nhau về việc không có súng ngắn. “Tao thèm một khẩu Ru-lô của tụi Mỹ quá”. Anh Hai nó nói. Vốn rất yêu và khâm phục anh, nó thầm hứa sẽ kiếm cho anh một khẩu Ru-lô thực thụ. Nhưng lời hứa ấy sẽ mãi mãi bị chôn chặt trong gan ruột nó nếu nó không gặp một dịp may.
Trong một lần theo mẹ đi chợ cá Hoài Hương, Dũng tạt vào khu đồn núi Voi xin nước uống. Khu đồn đó đang được bọn Mỹ xây dựng thành một khu đồn thí điểm. Thằng Dũng vào đúng nhà thằng ấp trưởng, lúc ấy đang ngủ say, khẩu Ru-lô để dưới gối. Nhìn thấy khẩu súng, tim thằng Dũng đập thình thịch. Do dự một lúc, nó rón rén đi vào. Bà vợ thằng ấp trưởng còn đang lúi húi dọn dẹp gì đó ở dưới bếp. Căn nhà bề bộn giường tủ. Trên chiếc bàn bày la liệt đồ nhậu và những chiếc chai đã hết rượu. Dũng bảo lúc ấy nó không hề biết sợ. Khẩu ru-lô đã hấp dẫn nó tới mức không kiềm chế nổi. Nó bước đến và khe khẽ rút khẩu súng ra khỏi gối, đúng lúc thằng ấp trưởng trở mình, miệng đùn ra một dòng nước ói đùng đục, tanh lợm. Thằng Dũng lấy được khẩu súng thật lẹ và đi nhanh ra khỏi nhà. Nhưng tới cửa thì chạm phải mụ vợ. Mụ ta há hốc mồm toan la thì thằng Dũng, theo lời kể của nó, đã giơ khẩu súng lên bằng cả hai tay doạ bắn, khiến mụ vợ chết khiếp cứ từ từ ngồi tụt xuống bậc cửa, mồm há hốc mà không la nổi một tiếng.
Câu chuyện trên có thể xảy ra với Dũng, nhưng cũng có thể Dũng bịa để động viên chị. Cái Thêm thường bảo thằng Dũng là vua nói xạo. Nghe nói Dũng chỉ cười, không hề cãi lại, ngay cả khi điều Dũng vừa kể là có thực.
Đi đến chân một quả đồi thấp, Dũng chợt dừng lại hỏi chị:
- Quy nè, sau trận này, mình xin đi bộ đội chủ lực, liệu anh Cường có ưng không?
- Dũng còn nhỏ con quá, sợ mấy anh chỉ huy không nhận. Giải phóng người ta cao lớn chớ còm nhom vậy vác súng sao nổi!
Thằng Dũng cười, nó không hề tự ái về câu nói ấy. Hai người lặng lẽ đi lên đồi. Ngọn đồi mọc đầy những bụi cây gai lúp xúp với những đám cỏ chân vịt cằn cỗi. Đây đó một vài bụi chà là đang giấu những chùm quả vàng ửng dưới gốc. Chị thấy đôi mắt thằng Dũng sáng lên. “Chờ tao chút nghe”. Nó nói và tạt nhanh sang bụi chà là gần nhất. Chị chưa kịp ngăn Dũng vì sợ Dũng lại sa vào những bụi chà là, quên mất nhiệm vụ chính, thì một tiếng rít sắc lạnh như một luồng sét đã chụp xuống đồi. Sau đó là một tiếng nổ đanh chói khiến chị tối tăm mặt mũi, lăn nhào xuống một cái hố gần đấy. Rồi những tiếng rít khác, những tiếng nổ khác. “Dũng, ơi, Dũng!”. Chị bò về phía bụi chà là, bàn tay chạm phải một đám đất ướt bầy nhầy, nóng rực. Chị vội rụt tay lại, tụt nhanh xuống hố, ngồi thở hào hển, không biết cái gì vừa xảy ra với Dũng. Đầu chị vang lên một tiếng đập dồn đập, chát chúa. Chị cứ ngồi như vậy trong cái trạng thái kinh sợ đến đờ đẫn cho tới khi tiếng pháo địch dứt hẳn.
Lúc chị bước lên khỏi hố đất thì không gian đã hoàn toàn yên ắng. Đến cả những đám bụi cũng đã lắng xuống. Mặt đồi nham nhở hố đạn. Cách chỗ chị vài sải tay Dũng nằm, ngực vỡ nát. Đôi ống chân gầy gò của Dũng mở rộng, đầu gật về một bên. Chị đứng nhìn Dũng rất lâu, không dám đến gần, không tin ở mắt mình. Làm sao chị có thể tin khi mới đây, Dũng còn cười nói, đi đứng, còn kể cho chị nghe về khẩu súng của tên ấp trưởng…
Khắp người chị lạnh toát. Chị bỗng thấy hoảng sợ. Những tiếng đập trong đầu chị vẫn vang lên. Tưởng chừng như cái chết đanh từ Dũng bò tới sát bên chị, đang gõ vào đầu chị. Không tự chủ được nữa, chị hét lên một tiếng rồi bỏ chạy lao xuống chân đồi. Vừa chạy vừa ngoái nhìn lại. Đến gốc một cây dừa cụt, chị đứng sững, nước mắt cứ thế chảy ra giàn giụa. Phải rất lâu sau, chị mới hoàn toàn tỉnh táo trở lại.
Những tiếng đập trong đầu không còn nữa. Thay vào đó là một cảm giác trống rỗng, hoang vắng. Chị nặng nề đứng dậy, thất thểu đi lên đồi. Dũng vẫn nằm bên cạnh gốc chà là. Chị quỳ xuống bên cạnh Dũng, đưa bàn tay run rẩy vuốt nhẹ lên đôi mắt còn hé mở của Dũng như người lớn từng làm đối với những người đã chết.
Thế là chị chỉ còn lại một mình: Một mình với hai khẩu súng và Dũng đang nằm đó. Chị sẽ đi tiếp, làm cho kỳ xong nhiệm vụ mà Dũng chưa kịp làm hay trở về báo cáo với anh Cường, đành để Hai Đích sống thêm một vài ngày nữa? Sáng nay, lúc giao nhiệm vụ, anh Cường nói với chị và Dũng: “Để một tên phản bội sống thêm ngày nào, bà con mình sẽ chết nhiều thêm ngày ấy”. Không, chị phải đi tiếp, phải diệt cho được Hai Đích, cũng như phải diệt kỳ được thằng giám Tuân. Đó là món nợ của gia đình chị, của quê hương chị, của Dũng.
Chị cúi xuống, luồn một tay dưới gáy Dũng, một tay dưới khuỷu chân, ráng sức nâng Dũng dậy, đưa vào một bụi cây gai gần đấy. Chị làm việc này một cách thật bình tĩnh, đến chính bản thân chị cũng không ngờ tới. Xong việc, chị đứng nhìn Dũng một lúc lâu rồi xách giỏ đi xuống đồi, không hề biết rằng, trên vạt áo mình đã nhuốm loang những vết máu của Dũng.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #22 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:01:45 am »

5
Đi khỏi ngọn đồi một quãng ngắn, trời bỗng nhiên nổi gió. Những đợt gió mát rượi như thổi lên từ mặt biển. Một dải mây trắng xơ xác kéo ngang qua vầng mặt trời làm ánh nắng dịu đi trong chốc lát. Trên con đường đất đỏ, đã lác đác thấy những người đi chợ cá trở về và ở các thửa ruộng nước ven đường, một vài người dân đang cắm cúi làm cỏ. Chị cảm thấy kinh ngạc. Hầu như mọi vật vẫn y nguyên, vẫn không thay đổi mà Dũng thì không còn nữa. Phải đến lúc ấy, chị mới nhận thấy Dũng cần thiết đối với chị đến mức nào.
Chị nhớ khi sáng, lúc ở dưới biển lên, Dũng đã nói với chị: “Cái thằng Hoài Hương thiệt kỳ, xóm thôn xếp lộn xộn hết chỗ nói. Xóm 3, xóm 5, xóm 1 rồi mới tới xóm 4”. Như vậy, chị phải qua xóm 3 trước nhất. Thỉnh thoảng chị lại liếc nhìn xuống chiếc giỏ, như muốn kiểm tra xem khẩu K.54 quen thuộc có còn nằm ở đó không.
Đi ngang qua khu đồn núi Voi, chị nghe nhột nhột trong dạ. Cũng may không có bót gác nào cả. Người ta vẫn bảo: một con muỗi mắt cũng không lọt qua được trạm núi Voi. Vậy mà giờ đây nó trống huơ trống hếch. Hình như bọn lính cũ đã chuyển đi nơi khác, chị thầm đoán vậy và cảm thấy vững tâm. Chị càng cảm thấy vững tâm hơn khi những bụi tre gai vàng úa của xóm 3 đã hiện ra trước mặt.
Nhưng vừa đặt chân vào đầu xóm, chị đã bất ngờ chạm một tụi dân vệ ba bốn đứa. Chúng đang lục lọi, chòng ghẹo một cô gái, gánh đồ chắc là mới đi chợ trở về. Cô gái cố giữ lấy gánh hàng còn bọn dân vệ cố giằng lấy, vừa giằng vừa cười nói nhớt nhả. Dường như chúng không để ý gì đến chị. Chị cố giữ nét mặt cho thật thản nhiên lặng lẽ bước qua phía sau đám lính. Chị giật thót người khi có một tiếng kêu giật lại:
- Ê con nhỏ, có gì trong làn, lựu đạn hay súng ngắn? Lại đây coi.
Chị dừng lại, chân tay bủn rủn, muốn khuỵu xuống.
- Mà sao mày có máu vấy ở mặt, ở áo thế kia? Chà, chắc dính trận pháo vừa rồi, hỉ?
- Dạ, - Chị mếu máo, - Con và anh con đi ăn giỗ ở bên ngoại. Anh con bị trúng pháo, còn để nằm ở trển. Xin mấy chú cho con về báo người nhà tới. – Nói đến đây, nước mắt chị không hiểu sao bỗng trào ra, mặt dù chị không hề có ý đóng kịch trước tụi lính.
- Thôi, mấy anh đừng hành con nhỏ, tội chưa. – Cô gái đang bị chòng ghẹo bỗng lên tiếng. – Giỡn mấy anh chút thôi chớ em có thuốc đây nè. Mấy anh có chịu cho em về hông?
Nghe nói tới thuốc, bọn lính liền xúm ngay lại. Chị vội vã len lén bỏ đi, thầm cảm ơn cô gái. Hình như cô đoán được những gì giấu trong chiếc giỏ của chị.
- Đù mẹ, pháo tụi Mỹ đó. Chỗ cần bắn thì không bắn, chỉ được cái sủa tầm bậy, tầm bạ. Nè, tới cái khe bên đường mà rửa mặt đi, có rảnh nước trong lắm đó.
- Một người lính, vừa chửi tục vừa gọi với theo vẻ  thương hại.
Rồi tất cả lắng lại ở phía sau. Chị ráng đi thật nhanh nơm nớp lo bị gọi giật lại. Chị không sợ đoạn đường ở phía trước mà chỉ lo đoạn đường ở phía sau. Lúc nào chị cũng có cảm giác như đang có tiếng chân đuổi theo gấp gáp. Tới giữa xóm, chị gặp một máng nước trong vắt. Chị dừng lại bốc nước rửa mặt, tính lau những vết máu trên vạt áo xong lại thôi, cứ để đó, nếu bọn lính có hỏi, còn có cái để nói xạo.Vả lại, lúc đó, những vết máu đã đen bầm, gột đi chắc gì đã sạch.
Mọi việc sau đấy diễn ra hết sức thuận lợi. Chị đi qua xóm 5, xóm 1 rồi tới xóm 4. Không cần hỏi, chị cũng tìm thấy ngay khu nghĩa địa cổ có trồng cây cột sắt vì nó nằm ngay bên đường. Nhưng nhà Hai Đích ở chỗ nào thì loanh quanh một chập, chị vẫn chưa tìm ra. Không còn cách nào khác, chị đành đứng cạnh khu nghĩa địa chờ người để hỏi. Lúc ấy, chị chỉ còn một nỗi lo. Lo vào nhằm nhà và không gặp được Hai Đích.
Từ lối rẽ phía trước, một ông già vác cuốc lặng lẽ đi thẳng về phía chị. Chị ngó nhanh ông già. Ông già cũng ngó chằm chằm vào chị. Nhìn khuôn mặt gầy, tiều tỵ nhưng phúc hậu của ông, chị thoáng nhớ đến cha và thấy vững dạ.
- Thưa bác cho con hỏi thăm nhà chú Hai Đích?
Ông già dừng lại, nhìn chị xoi mói. Rất lâu ông cụ mới hỏi lại:
- Cháu là thế nào với Hai Đích?
- Dạ, con có chút việc cần nhờ vả.
Ông già bỗng cười khẩy:
- Đó, nhà hắn ở trỏng, chỗ cây dừa cao nhứt đó. Bây giờ, nhờ việc chi mà hắn không giúp lọt.
Nói xong, ông già bỏ đi, vừa đi vừa nhổ nước miếng sang vệ đường như ghê tởm một cái gì đó.
Chờ ông già đi khuất, chị xách giỏ tạt nhanh vào lối rẽ, hướng tới chỗ cây dừa ông già vừa trỏ. Được một quãng, chị phải dừng lại để trấn tĩnh. Chị hồi hộp quá chừng. Chị nhớ lại tấm hình Hai Đích anh Cường cho coi khi sáng. Mập, thấp, có mụn cá to bằng đầu đũa dưới cằm. Anh Cường bảo, nhờ cái mụn cóc đó mà Hai Đích không trộn lẫn được với người khác.
Đến gần cây dừa, trồng sát ngay lối nhỏ dẫn vào sân chị ngập ngừng dừng lại. Ngộ nếu hắn ta không có nhà thì sao? Chị sẽ chờ đợi bằng cách nào? Hoặc giả trong nhà hắn nuôi chó giữ và đang có bọn lính ở? Bao nhiêu câu hỏi đặt ra trong đầu chị. Chị hốt, nhưng không thể quay lại được nữa. Chị đã bước qua cây dừa và chỉ còn vài bước chân là tới khoảng sân gạch sạch sẽ. Chị hơi ngạc nhiên khi thấy nhà Hai Đích cũng nghèo. Ba gian nhà tranh, vách trát đất, một gian bếp thấp tè, xếp đầy vỏ trái dừa khô. Chị bước nhanh tới bên cửa, ngó vào trong. Căn nhà vắng tanh. Hai Đích không có nhà. Chị tính trở ra khu nghĩa địa chờ, có gì sẽ xử lý ngay tại đó. Nhưng liền sau đấy, chị nhìn thấy một đầu mẩu thuốc còn ngún khói dưới chân vách. Sự phán đoán nhanh nhạy đầy bản năng báo cho chị biết Hai Đích đang quanh quẩn ở đâu đây, trong buồng hoặc ngoài vườn. Chị vừa toan cất tiếng gọi thì nghe tiếng bẻ tay rắc cắc ở sau vườn. “Hắn rồi”. Chị vội đặt giỏ xuống cầm nhanh lấy cây súng đi vòng qua đầu hồi ra phía sau. Trên một vạt đất trống, một người đàn ông đang lúi húi trồng dừa. Chị đứng sững. Hắn đang làm một công việc hết sức bình thường. Một thoáng ngần ngại vụt đến với chị. Nhưng nó liền tan biến ngay khi chị nhớ tới thằng giám Tuân. Hắn là một tên phản bội, cần phải giết chết hắn. Nếu không hắn sẽ giết chết chị, giết chết những người khác. Ý nghĩ này đến với chị vừa quyết liệt, vừa dứt khoát. Chị bước nhanh tới từ phía lưng Hai Đích. Hai Đích lúc đó đang loay hoay cúi xuống móc đất lên, bên cạnh là một cây dừa non, búp mảnh như một lưỡi dao nhọn màu xanh sáng. Hai Đích vẫn cắm cúi làm, không hề hay biết cái chết đang đến rất gần hắn.
- Ông Hai! – Chị cất tiếng gọi, nhận thấy giọng mình hơi lạc đi.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #23 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:02:08 am »

Hai Đích ngoái cổ lại. Chị nhìn cái mụn cóc lơ phơ mấy sợi râu rất dài dưới cằm hắn. Trúng hắn rồi. “Bắn đi!”. Một tiếng nói vang lên trong đầu chị. Nhưng chị vẫn do dự, luống cuống chưa biết nên làm gì. Còn Hai Đích thì hoảng hốt khi thấy họng súng đen ngòm đang chĩa vào người hắn.
- Kìa, cái gì thế. Hai Đích la lớn giọng khàn đục. – Đừng có giỡn, này này …. – Vừa la hắn vừa tiến về phía chị. Bàn tay giơ ra phía trước muốn giằng lấy cây súng. Đôi mắt của hắn, một đôi mắt to, lồi nhìn chằm chằm vào chị nửa như van nài, nửa như để doạ.
- Đứng im, đồ phản bội!
Hai Đích đứng khựng lại, hắn nhận thức rất nhanh điều gì đang xảy ra với hắn. Hắn vội vã quỳ thụp xuống chồm tới gần như bò trên mặt đất:
- Đừng bắn, đừng bắn, cô Hai. Tôi van cô Hai. Tôi không chịu được cực nên bỏ về, tôi không phản bội …
- Nhân danh đội “Chim Én …”.
Chị nói đoạn hấp tấp bóp cò vì biết rằng nếu để Hai Đích nói thêm vài lời nữa thôi, rất có thể chị sẽ bỏ súng xuống và không biết những gì sẽ xảy ra sau đấy. Khi bóp cò, mắt chị nhắm nghiền và đến lúc mở ra, chị thấy Hai Đích đang lăn lộn  trên mặt đất, hai bàn tay quờ quạng như muốn cố bám vào một cái gì đó. Chị kinh hoàng nhìn xuống tay mình. Như để xoá đi nỗi kinh hãi vừa ập tới, chị bắn liền hai phát đạn nữa vào cái thân hình đang nhập nhoà như bao phủ một lớp sương mù của Hai Đích rồi không ngoái nhìn lại, bỏ chiếc giỏ trên sân nhà, chị lao ra bờ rào, cứ thế chạy băng qua các bụi gai, bờ thổ, như không còn cảm giác gì nữa.
 
6.
Khi một sự việc đã xảy ra, đã kết thúc, con người thường có thói quen nhìn lại để rút ra những điều hay, điều dở. Nhưng riêng đối với cái ngẫu nhiên trong chiến tranh, cái ngẫu nhiên đã trở thành số mệnh thì không một ai có thể hy vọng tìm thấy bài học nào cả.
Do tính chất bức thiết của trận đánh, chị không được đi trinh sát địa hình trước, nên khi nổ súng xong, chạy tưởng đứt hơi, chị vẫn loanh quanh trong xóm 4, giữ một vòng vây dày đặc của bọn bảo an, dân vệ.
Cuối cùng, không còn sức để chạy tiếp, chị đành nằm bẹp trong một bụi dứa dại, ven một vườn mì tinh ở cuối xóm. Khẩu K.54 còn hai viên đạn để ép sát dưới bụng. Chị nằm thở dốc, người run lên vì lo lắng và sợ hãi. Chị cũng không biết mình sợ hãi vì lẽ gì. Sợ bị địch bắt hay vì vừa mới giết chết một sinh mạng. Có lẽ vì cả hai thứ.
Cùng với con buồn nôn khi nhớ lại đám máu phùi ra từ bụng nhuộm đỏ kẽ tay Hai Đích là một nỗi tủi thân bởi sự đơn độc, không được bảo vệ tràn đến trong cơ thể non nớt làm người chị run lên. Chị cố cắn chặt răng để khỏi bật thành tiếng khóc.
Sau này chị mới hiểu rằng, chính kẻ thù đã đẩy chị vào hoàn cảnh ấy, biến chị từ một đứa bé gái chưa đến tuổi mười lăm, đã phải cầm lấy cây súng. Chị đã làm công việc ấy một cách hoàn toàn tự nguyện, đầy ý thức, mặc dù mỗi lần diệt một tên ác ôn trở về, chị đều đờ đẫn, cảm thấy day dứt, một sự day dứt không lý lẽ nào có thể xoa dịu.
Chị đã nằm dưới bụi dứa ấy hơn một giờ đồng hồ. Những tàu dứa già đầy gai sắc đã che chở cho chị. Chị nghe thấy tiếng chân chạy, tiếng la thét của bọn dân vệ và cả tiếng khóc hờ thảm thiết của vợ Hai Đích. Cuối cùng tất cả lại chìm xuống, yên ắng. Lúc ấy, trời đã ngả chiều. Một con gà ở đâu đó nhảy ổ cục tác ầm ĩ. Tiếng gà đánh thức chị dậy và chị bắt đầu bò ra khỏi bụi dứa dại. Chị nghĩ, bằng mọi cách phải thoát khỏi xóm 4, phải đi thẳng về phía biển. Từ đó mới có thể tìm đến ngọn đồi Dũng nằm trước khi trời ập tối.
Chị ngồi dậy, đưa mắt nhìn quanh. Té ra chị đang nằm ở phía sau một ngôi nhà tranh. Một làn khói bếp mỏng manh đang lờ lững trườn trên mái rạ cũ kỹ. Chị bỗng thấy đói cồn cào. Môi chị se lại. Cổ họng khô rát như phải bỏng. Không cưỡng lại được cơn khát, chị đứng lên lần lần đi về phía ngôi nhà. Thỉnh thoảng lại ngồi thụp xuống nghe ngóng. Chị không hay biết rằng, có một cặp mắt ở phía sau ô cửa sổ của ngôi nhà đang chăm chú dõi theo từng bước đi của chị.
Đến gần hiên sau ngôi nhà, chị do dự dừng lại: bên phải chị là dãy chuồng lợn và ở phía trước là khoảng sân đất sạch sẽ. Một chum nước đặt dưới gốc cây cau già, giống y sì chum nước nhà chị. Chị liếm môi, suy tính chốc lát rồi nhét khẩu K.54 vào lưng quần, đi rất nhanh đến bên chum nước. Nhưng chị vừa cầm lấy mảnh gáo dừa thì một tiếng nói cất lên ở sau lưng, khiến cơn khát vụt tan biến trong người chị.
- Đừng uống nước lạnh.
Chị quay phắt lại và sững sờ khi gặp khuôn mặt ông già chị hỏi đường ở khu nghĩa địa hồi nãy. Ông già chăm chú nhìn chị, đuôi mắt hơi nheo lại. Chị toan bỏ chạy thì ông già đã nói nhỏ:
- Con vô nhà. Có nước trà ở bình tích. Không chạy được đâu. Các ngả lính gác sạch trơn rồi.
Linh tính báo cho chị biết: chị đã gặp một con người tốt. Chị bước vô nhà. Ông già cẩn thận khép cửa rồi rót nước ra chiếc bát lớn cho chị.
- Con người xã nào? – Ông già hỏi.
- Dạ ở Hoài Thanh, - Chị đáp.
- Con vừa giết Hai đích phải không?
Chị không đáp mà cúi xuống uống nước. Vừa uống vừa nghĩ, không biết liệu ông già sẽ xử sự cách sao. Ông có tìm cách đi kêu lính tới bắt chị không? Và khi ông già mở cửa bước ra ngoài, chị cũng bỏ bát nước uống dở bước ra theo, bàn tay sờ nhanh vào cây súng. Nhưng ông già chỉ xuống bếp. Lát sau ông bước lên, mang theo một đĩa mì luộc.
- Con ăn tạm. Rồi qua sẽ tính cách đưa con ra khỏi đây. Thằng Hai Đích xấu bụng lắm. Nhưng nó chưa kịp làm gì đâu. – Ông già thở dài. – Chưa kịp làm rồi sẽ làm. Chỉ tội cho con vợ và sắp nhỏ.
Chị nhìn đĩa mì luộc, tự nhiên không thấy đói bụng nữa, chị nói:
- Bạn con bị pháo bắn, còn đang nằm trên đồi gần núi Voi. Bác làm ơn chỉ giùm con đi tới đó.
Ông cụ không đáp mà hỏi lại:
- Tại sao con còn nhỏ tuổi vậy đã đi làm công việc của người lớn? Ai xui khiến con?
- Không ai xui khiến con cả. Tự con. Cha con, anh chị con đều bị một thằng phản bội giết chết trước mặt con. Vì thế con phải giết chúng.
- Chính Hai Đích làm việc đó? Hắn mới về hồi chánh được ba bữa chớ mấy? – Ông cụ hỏi, vẻ ngạc nhiên.
- Hắn không giết cha con nhưng sẽ giết những người khác.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #24 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:02:30 am »

Im lặng một lát, ông cụ nói nhỏ:
- Bây giờ thế này. Con chịu khó ngồi vô trong chum, qua sẽ đổ mì khô lên trên rồi khiêng con đi, nói là mang cho bà chị ở khu đồn núi Voi. Chỉ cách đó mới đưa con lọt qua bót gác được.
Chị thầm kêu lên. Làm sao ông già có thể nghĩ ra được cách đó. Nhưng một thoáng nghi ngại cũng vụt đến với chị. Ngộ nhỡ ông già khiêng thẳng mình tới nạp cho tụi lính thì sao? Như biết được mối nghi ngờ của chị, ông già thoáng cười:
-Con đừng ngại. Nếu qua làm điều xấu thì các bạn con cũng sẽ xử qua như con vừa xử Hai Đích. Hồi chín năm, qua cũng là du kích, qua hiểu.
- Ông cụ  nói đoạn đứng dậy chậm chạp đi vào gian buồng. Lát sau ông vần ra một chiếc chum lớn, loại chum đan bằng nan tre, trát xi măng ở bên ngoài và bê ra một thúng lát mì khô. Ông cụ còn sửa soạn rất lâu với những đoạn dây chão và đòn khiêng. Ở vùng quê chị, người ta đôi khi vẫn thường khiêng cả chum đi như vậy.
Khi đã ngồi vào trong chum, ông cụ chụp một chiếc nón rách lê đầu chị để tạo một khoảng trống ở đáy chum rồi bắt đầu đổ những lát mì lên trên. Thoạt đầu, chị có cảm giác tức thở vì mùi mì khô mốc ải và thế ngồi quá gò bó. Nhưng rồi chị cũng quen dần vì đã trải qua một chặng đường quá ư căng thẳng, chị thiếm đi và có cảm giác chiếc chum như một chiếc nôi cứ bồng bềnh, bồng bềnh đưa chị vào giấc ngủ.
 
7
Chị tỉnh dậy khi nghe có vật gì gõ bộp bộp vào thành chum và tiếng hỏi gắt gỏng của tụi lính:
-Khiêng khoai đi đâu vậy, cha nội. Sao không gánh bằng thúng mà khiêng cả chum?
- Tôi mang cho người bà con ở khu đồn núi Voi. Ở đó bả không có đồ chứa.
- Không tin thì thầy Hai cứ kiểm tra coi. – Tiếng của một cô gái, - làm sao bọn tui có thể qua mắt thầy Hai được?
- Thôi, để ông già đi, mày. Bữa trước mày chả uống rượu tí số ở nhà ổng là gì. Thôi, để ổng đi. Cô em đừng trách tụi này nghe. Tụi này phải thi hành công vụ.
- Xin đội ơn thầy Hai.
Và cái cảm giác bồng bềnh, bồng bềnh lại đến với chị. Nhưng chị đã tỉnh hẳn. Khắp người chị mỏi rời rã. Chị muốn đội khoai đứng dậy, nhưng đành ráng chịu.  Không biết chị đang ở đâu? Liệu đã qua khỏi xóm 4 chưa? Cái xóm trở nên thật khủng khiếp đối với chị. Chị khẽ cựa mình, nghe rất rõ những lát khoai chuyển động trên nón. “Ráng chịu chút xíu, con. Sắp tới khu đồn rồi”. Ông già nhắc. Chị đành cố ngồi yên. Nhưng càng cố ngồi yên mùi khoai càng ngột ngạt. Trong mũi, trong lòng ngực chị tràn ngập một mùi mốc ải. Chị cố quên đi bằng cách lắng nghe bước chân của ông già và cô gái để đoán xem mình đang ở đâu. Mỗi lần ông già và cô gái đổi vai, chiếc chum lại chao đi, dây chão rít lên kèn kẹt. Rồi chị nghe tiếng ông già thở gấp, đáy chum như bị kéo rê sàn sạt trên mặt đất. “Đến dốc núi Voi rồi?”. Chị đoán và lại thấy hụt hẫng khi nghĩ đến Dũng. Ngày hôm nay đối với chị sao dài lê thê. Một ngày chứa đựng biết bao căng thẳng, mệt mỏi. Nhưng chị cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi nhớ tới anh Cường, nghĩ rằng, mình đã làm được một việc gì đó cho anh. Chắc anh không còn xem thường chị. Cả Thêm cũng thế. Nó sẽ không nhìn chị bằng con mắt vừa thương hại, vừa chê bai trong mỗi buổi sinh hoạt. Cách đây mấy ngày, Thêm đã trở thành một cô gái. Nó thấy tháng. Khi biết chuyện đó, anh Cường tỏ ra bối rối, không biết xử sự cách sao, còn nó thì nằm lì trong hầm khóc. Không hiểu tại sao nó lại khóc. Chị đã giúp nó xé chiếc khăn mặt ra làm nhiều mảnh, thoáng lo lắng cho mình.
Bỗng chị nghe tiếng cười nói, tiếng gầu nước va vào thành giếng. Như vậy đã lên đến khu đồn núi Voi, khu đồn mà sáng nay Dũng mới kể cho chị nghe nó đoạt khẩu Ru-lô của tên ấp trưởng như thế nào. Rồi chị thấy chiếc chum được đặt xuống, tiếng chiếc đòn khiêng dựng ở vách nhà, tiếng khép cửa và tiếng ông già, hình như cố nói thật to cho mấy nhà ở bên cạnh nghe tiếng:
- Nè cô Tám. Tôi mang cho cô chút khoai và chiếc chum. Giờ khê ở chỗ nào được? Chà, nhà chật quá hè!
Sau đấy là tiếng nói khe khẽ của một người đàn bà đã có tuổi. Hình như cả ba người đều đến bên chiếc chum. Những lát khoai trên đầu chị chuyển động. Đầu chị nhẹ dần và một khoảng sáng ùa vào mắt chị “Ra lẹ lên con, ổn rồi”. Ông già cúi xuống miệng chum nhắc. Chị ráng đứng dậy, nhưng không sao đứng lên nổi. Ông già và cả cô gái phải đưa tay kéo chị ra ngoài. Vừa chạm chân xuống nền nhà, chị đã lảo đảo, khắp người cứng đơ, tê dại. Cô gái vội dìu chị đến chiếc giường kê ở góc nhà còn ông già thì cuí xuống lượm những lát khoai vương vãi trên mặt đất.
- Thế là ổn. – Ông nói – Giờ tôi về nghe cô Tám. Nấu cho cháu nó tô mì chay nó còn về bển. Chắc không thể ở qua đêm được.
Ông đến bên giường chị.
- Qua về nghe con. Cô Tám đây là người tốt, con yên tâm, nghe!
Chị “dạ”, cố ngồi dậy, nhưng ông già đã ấn vai chị ra hiệu nằm xuống. Chị ngước nhìn lên. Cô gái vẫn đứng ở đầu giường. Một khuôn mặt thật dịu dàng. Cô mỉm cười với chị. “con cảm ơn bác, em cảm ơn chị Hai”. Chị nói nhỏ. Cô gái gật gật đầu. Nụ cười như còn ngưng đọng lại trên khoé mắt.
Mười ba năm sau, khi đi học xa trở về, chị đã xuống Hoài Hương tìm gặp những con người ấy, những con người từng trải qua nhưng giây phút căng thẳng, còn mất để cứu giúp chị, nhưng không gặp được ai. Nghe nói cả ông già và bà thím đều đã chết bệnh, còn cô gái thì đã hy sinh trong một trận chống càn năm 1973. Năm đó cả mấy xã vùng đồng quê chị vẫn chưa được giải phóng.
Chờ chị ăn xong tô mì, bà thím đưa cho chị một chiếc giỏ nhựa bên trong đựng mấy gói đồ lặt vặt dẫn chị ra tận con đường lớn, vừa đi vừa gỉ bộ dặn dò như đang tiễn một đứa cháu gái từ quê ngoại qua chơi. Những người dân trong khu đồn và cả bọn lính đang đi lang thang kiếm đồ nhậu quanh các quán hàng, hầu như không một ai để ý đến chị.
-Thôi con về nghe. – Tới lối rẻ bà thím đứng lại nói. – Con nhớ đừng đi qua đỉnh đồi. Hồi trưa, pháo hắn dập quá trời xuống đó.
Chị cảm ơn bà thím, trao lại chiếc giỏ cho bà rồi bước đi gần như chạy trên con đường đất đỏ. Vừa đi vừa ngoái nhìn lại phía sau. Bà thím vẫn đứng đó giữa ngã ba đường. Nắng chiều nhuộm vàng lên toàn bộ thân thể  bà. Hình như bà đang kinh ngạc khi thấy chị không theo lời dặn của bà, cứ bươn bả vượt dốc đi lên đồi. Bà đâu hay biết gì Dũng của chị còn đang nằm trên đó. Bằng mọi cách, chị phải đưa Dũng về. Nhưng đưa về bằng cách nào thì cho đến lúc ấy chị vẫn chưa thể lường tính được.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #25 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:03:10 am »


Bây giờ, hơn mười năm trôi qua, mỗi lần nhớ lại buổi chiều ảm đạm ấy, chị vẫn không sao hiểu nổi, sức mạnh nào đã giúp chị xốc nổi Dũng lên vai, loạng choạng đi suốt một đoạn đường dài ngót chục cây số tới chân đèo Mồng Gà, trong mưa lạnh và những đợt gió thổi như quất lên từ mặt biển.
Hôm ấy, khi chị chạy lên tới đỉnh đồi thì Dũng vẫn nằm bên bụi chà là dập nát. Những đám máu trên ngực Dũng đã đông lại từng mảng. Chị kinh sợ khi thấy một đàn kiến lửa bu kín trên đôi môi  hơi hé mở của Dũng. Chị hấp tấp ngồi xuống, phủi sạch đàn kiến và một cách trầy trật, xốc Dũng lên đôi vai gầy gò của mình. Chị loạng choạng đi xuống đồi trong ánh hoàng hôn nhợt nhạt và trên mặt biển đang đùn lên những cụm mây màu chì. Người Dũng lạnh giá, cứng nặng như tạc bằng đá.
Lúc đó, chị đã ngạc nhiên với chính bản thân mình. Không biết cái gì đã giúp chị bình tĩnh và gan góc đến như vậy. Bởi trước đấy, chị từng hốt hoảng bỏ chạy khỏi ngọn đồi, khi thấy ngực Dũng đang đùn ra những đám bọt đo đỏ. Ngay cả khi bắn Hai Đích cũng vậy. Người chị cứ run lên cuống cuồng như đang phạm phải một tội áchình như khi đã trải qua những gì kinh khủng nhất, con người trở nên lì lợm, bất chấp tất cả. Hình như từ lúc bước ra khỏi chiếc chum của ông già, ở chị có một sự lột xác nào đó, khiến chị trong giây lát trở thành một con người khác. Con người mà trong nhiều trận đánh về sau đã trở nên dày dạn, có thể nhìn kẻ thù giãy chết với đôi mắt thật điềm tĩnh.
Chị cứ bước đi như vậy, tưởng chừng chỉ dăm phút nữa thôi, chị sẽ kiệt sức, phải đặt Dũng xuống. Nhưng chị vẫn bước đi từng bước một và Dũng vẫn nằm trên vai chị. Rồi trời đổ xuống một màu đen nhập nhoà. Con đường vắng ngắt, không một bóng người. Từ mặt biển, gió bắt đầu nổi lên, hắt từng nắm bụi vào mặt chị, vào Dũng.
Những năm sau này, khi trở về quê hương, sống đơn độc trong căn phòng rộng thênh thang của khu tập thể, chị luôn nhớ đến Dũng. Chị biết rằng, nếu Dũng còn sống, nhất định Dũng sẽ bất chấp tất cả để chung sống với chị. Hầu hết những đêm thao thức bởi những khát vọng bình thường của người phụ nữ chưa hề được làm vợ, làm mẹ, chị đã sống bằng mộng mị với Dũng. Chị tưởng tượng Dũng, lúc này là một sĩ quan quân đội. Điều này không thể khác, vì vào bộ đội chủ lực luôn luôn là mơ ước của Dũng. Chị và Dũng sẽ vẫn ở căn nhà này. Mỗi lần Dũng về phép, khu tập thể lại náo động vì tiếng cười và những câu chuyện Dũng kể. Chị sẽ bỏ ra thật nhiều thời gian để chọn một, gói bánh ít, thứ bánh mà chị tin lớn lên Dũng vẫn thích ăn như hồi nhỏ…
Những đêm như vậy, tỉnh dậy, người chị trở nên phờ phạc. Chị vội vã chạy lao ra ngoài, cố trấn tĩnh cho thật tỉnh táo. Thời gian còn lại, chị nằm trân trân nhìn lên trần nhà, vặn mở đài thật to, dò tìm bất cứ làn sóng nào miễn là trong căn phòng của chị có tiếng cười hoặc một thứ tiếng động khác.
Còn khi đó, vào cái đêm ấy, Dũng vẫn nằm trên vai chị. Những quả đèn sáng từ căn núi Voi, từ chốt Mồng Gà thỉnh thoảng lại vọt lên khiến con đường hiện ra dài hun hút, lởm chởm đá gan gà để vài phút sau, lại chìm sâu vào bóng tối. Rồi trời đổ mưa, một cơn mưa độc ác, dữ dội hiếm thấy trong cuộc đời chị. Nước mưa dội xối xả xuống mặt chị, xuống người Dũng. Những đám máu đông khô trên ngực Dũng bắt đầu tan ra, chảy loang sang cổ, sang áo chị. Nhiều lần chị phải đặt Dũng nằm xuống mặt đường nhầy nhụa, loang lổ những vũng nước ngầu đục.
Sau này, chị cũng gặp một đêm mưa thật dữ dội, độc ác, nhưng ở vào một hoàn cảnh cay đắng khác.
Vào đêm trước ngày cưới, anh Cường đột ngột đến thăm chị. Đêm ấy, trời bỗng dưng đổ mưa lớn. Cơn mưa dai dẳng, kéo dài không dứt. Hai người ngồi đối diện nhau bên chiếc bàn kê sát cửa sổ. Anh ngồi im lặng, như một người có lỗi. Còn chị thì vừa thương hại vừa căm ghét anh. Sự im lặng kéo dài cho tới lúc ngọn đèn điện treo lủng lẳng giữa nhà vụt tắt. Ở cơ quan huyện, đèn điện chỉ thắp sáng đến mười giờ. Chị luống cuống tìm hộp quẹt để trên bàn và đã gặp bàn tay anh. Một bàn tay nóng hổi như biết nói. Người chị tê dại, cái ướt muốn được chia sẻ, được thỏa mãn đột ngột đốt cháy tim chị. Chị đứng dậy và anh cũng đứng dậy. Hai cái thân hình cùng nóng bổng, cùng bốc lửa như hoà nhập vào nhau làm một. Chị ôm riết lấy anh, cảm thấy đau thắt nơi ngực bởi một sự mất mát. Chị hổn hển cố kiễng chân tìm đôi môi cương nghị của anh mà ngày thường, chị đã nhìn trộm không biết chán trong các cuộc họp.
Bên ngoài trời vẫn đổ mưa. Sấm rền rĩ trên mái nhà và chớp vẫn rạch liên tục trên mặt biển. Chị kéo anh lại phía chiếc giường đơn ở góc phòng điên cuồng và mạnh mẽ. Nhưng đúng vào lúc mà dục vọng sắp sửa bị thiêu huỷ, sắp được thoả mãn tới tận cùng thì anh vụt đứng dậy, vội vã gỡ tay chị ra. “Đừng, đừng, Tư tha cho anh”. Anh lắp bắp một cách máy móc và tầm thường rồi chạy lao ra ngoài. Khi đó, sấm vẫn rền vang và chớp vẫn rạch lên từng lằn sáng như roi quất ngoài khung cửa…
Rốt cuộc, chị chỉ còn lại có Dũng.
Đêm hôm đó, chị đã vác Dũng đi, khắp người nhoe nhoét bùn đất và máu. Đến đoạn đường hồi sáng Dũng nghỉ để tắm, chị kiệt sức đành đặt Dũng xuống vệ đường ngồi thở. Từ đây về chân đèo Mồng Gà không còn xa mấy, nhưng sức chị đã kiệt quệ quá rồi, không dễ gì có thể nâng nổi Dũng lên vai được nữa. Tuy vậy chị vẫn ráng sức đỡ Dũng dậy, loạng choạng nâng Dũng lên và cả hai cùng ngã nhào xuống. Chị lồm cồm bò dậy, vuốt nước mưa trên mặt, thấy có vị tanh mặn của máu. Giữa lúc ấy, lúc chị vừa định xốc Dũng lên một lần nữa thì một bóng đen hiện ra trên mặt đường. Chị hốt hoảng rút khẩu súng vẫn cài chặt nơi bụng. Bóng đen đến gần, như không e ngại, cứ đi thẳng về phía chị. Đáng lã phải quát to thì chị vẫn ngồi im như một khúc gỗ. Một tia chớp rạch lên. Chị bủn rủn chân tay khi nhận ra anh Cường. Anh đang đi tìm chị và Dũng. Khi anh đến gần, chị chỉ kịp nói: “Anh Cường, Dũng…” thì đổ vật xuống, không còn biết gì hết.
Chị tỉnh dậy lúc trời đã sáng trắng, thấy mình đang nằm trong chiếc hầm bò quen thuộc. Bên cạnh chị là anh Cường. Anh nhìn chị, cái nhìn vừa gần gũi vừa xa vắng. Người chị nóng rực. Anh đặt một bàn tay lên trán chị, thở dài rồi đi ra. Lát sau Thêm vào. Nó bảo suốt ngày hôm qua, anh Cường cứ ngơ ngác, lo lắng và đến tối thì bất chấp lời khuyên của Thêm đã đội mưa đi tìm chị và Dũng.
- Quy nè, mày cũng thành một cô gái như tao rồi đó – Thêm nói nhỏ. – Lát, ráng dậy mà thay đồ đi! Lấy mấy miếng xô của tao dùng tạm.
Chị trân trân nhìn Thêm, như hiểu, lại như không hiểu điều Thêm vừa nói.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #26 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:03:41 am »

Chương bốn
1.
Bẵng đi một thời gian khá lâu, chị không còn nhớ tới ý định trở lại nhà thằng giám Tuân nữa. Công việc và cương vị mới đảm nhiệm đã cuốn hút hết thời gian của chị. Chị được bầu vào Quốc hội, là một trong những đại biểu trẻ. Những ngày ở thủ đô, chị được tiếp xúc nhiều, đi nhiều, trong đó có chuyến đi Lạng Sơn thăm sư đoàn Sao Vàng, đơn vị đã ra đời và để lại ngót một vạn liệt sĩ trên quê hương chị. Sau chuyến đi đó, trở về, lòng chị tràn ngập cảm xúc. Và ý định trên bỗng trở nên nhỏ bé, mờ nhạt trước những vấn đề lớn lao của đất nước, mà chị được nghe, được thảo luận.
Nhưng điều quan trọng hơn, khiến chị thay đổi một cách toàn diện về tâm lý là trong chuyến đi ấy, chị đã gặp một con người, một con người tuyệt vời theo quan niệm của chị. Anh nguyên là chiến sĩ cũ của huyện đội Hoài Nhơn, đúng hơn, của sư đoàn Sao Vàng biệt phái sang huyện đội. Anh quen biết nhiều người. Hầu như không có lối mòn nào, con đường nào trong huyện chị mà anh không nhớ tới. Bây giờ anh đang là trung đoàn trưởng một trung đoàn bộ binh. Năm nay anh ngoài 40 tuổi, vẫn chưa có gia đình. "Tôi cứ đi miết cô Tư à. Đến lấy vợ cũng không kịp". Anh nói đùa.
Trong buổi gặp mặt đầu tiên ở sư đoàn bộ, chị sững sờ khi bắt gặp khuôn mặt của anh, sao anh giống Dũng trong hình dung của chị đến thế. Cao, gầy, đôi mắt sáng linh lợi, vầng tráng hơi gồ lên, còn nụ cười thì thật hiền. Một nụ cười dễ dàng bỏ qua tất cả, chấp nhận tất cả.
Những cái đó đã khiến chị xúc động. Còn anh thì cũng nhìn chị thật chăm chú. Cái nhìn thẳng, không che giấu. Mỗi lần gặp cái nhìn của anh, người chị lại nóng lên, thấy ran rát ở hai bên gò má. Chị phải quay vội sang hướng khác, mắc cỡ như vừa làm một việc gì vụng trộm. Té ra anh quen chị Hảo và đã tìm thấy những nét hao hao của chị Hảo ở chị. Điều này thoạt đầu làm chị thất vọng. Nếu không có nét hao hao ấy, chắc chi anh thèm để mắt tới chị. Lòng chị gợn lên một nỗi buồn. Chị ráng tránh để không nhìn anh nữa.
Những ngày tiếp theo của chuyến đi, chị về thăm trung đoàn của anh, gặp gỡ, nói chuyện với các chiến sĩ trên điểm tựa. Trong mấy ngày đó, anh luôn thu xếp để cùng đi với đoàn. Chị còn nhớ hôm lên điểm tựa 800, đôi guốc của chị bị đứt quai. Cho đến giờ chị vẫn dị với chính mình về đôi guốc đó. Giữa lúc chị còn đang lúng túng thì anh đã tụt đôi dép của mình ra. Chị ngạc nhiên thấy đôi bàn chân anh không lớn hơn chân chị bao nhiêu. Thế là chị đi dép, còn anh cầm đôi guốc của chị, đi chân không. Anh nói đùa, anh vẫn thích đi chân đất như hồi còn ở quê chị vì đất cho anh nhiều thứ. "Trừ một tổ ấm riêng". Một người trong đơn vị nói chêm vào. Câu nói làm anh chạnh lòng và chị thấy thương anh vô hạn.
Buổi tối trước ngày chia tay, anh đến nhà khách tìm chị. Hai người đi dạo trên một con đường lớn dưới chân đồi. Bấy giờ đang là mùa hoa hồi. Rừng Lạng Sơn tràn ngập trong mùi hương thuần khiết của hoa hồi. Mùi hương lan tỏa trong ánh trăng bàng bạc, tưởng chừng như nó được phát ra không phải từ những vòm cây đứng im lìm mà từ cái ánh sáng bàng bạc đó.
Sau chuyến đi ấy trở về, chị luôn có cảm giác mình đã để lại một cái gì đấy ở phía sau và đã có thêm một cái gì đó. Lúc nào người chị cũng xốn xang, bứt rứt. Chị nhớ anh. Trải qua nhiều đêm dằn vặt, cuối cùng chị đã viết thơ cho anh nói rằng chị thương anh, muốn chia sẻ những thiếu thốn với anh. Chị không đòi hỏi anh phải đến với chị, nhưng hãy để cho được nhớ, được thương anh trọn vẹn. Chị cũng không e ngại nói rằng, chị đã hoàn toàn bị kẻ thù cướp mất khả năng làm mẹ…
Chị gửi lá thư ấy đi với tâm trạng phấp phỏng, đầy lo âu. Chị vừa mong, vừa lo sợ nhận được thơ trả lời của anh. Nhưng chính sự chờ đợi ấy đã giúp chị tìm thấy sự cân bằng trong tâm lý mà lâu nay chị vẫn thiếu hụt. Ngoài anh Cường, người mà chị không hề giấu giếm bất cứ điều gì, không một ai ở cơ quan huyện biết mối tình thầm kín này của chị.
Vì là đại biểu Quốc hội ở một huyện miền biển phức tạp, chị phải dành rất nhiều thời gian để tiếp dân. Một cặp vợ chồng ly hôn, tòa án huyện xử lý không thỏa đáng về tài sản; một vụ đánh đập, hành hung gia đình liệt sĩ, một vụ trù dập cán bộ… Tất thảy mọi người đều tìm đến với chị. Họ hy vọng tiếng kêu của họ sẽ vọng đi xa hơn. Té ra cuộc đời còn quá nhiều những điều ngang trái. Chị đã cố gắng can thiệp, giải quyết những gì có trong quyền hạn của chị. Những gì không giải quyết nổi, chị lập hồ sơ gửi lên đoàn Đại biểu Quốc hội của tỉnh.
Nhưng có một cuộc tiếp xúc mà chị không chờ đợi đã xảy ra. Về sau chị cứ ngạc nhiên mãi về cuộc gặp mặt đó. Cuộc gặp để lại một ấn tượng thật nặng nề. Chị không sao lý giải nổi nguyên nhân nào đã dẫn đến cuộc gặp mặt không bình thường đó.
2.
Thoạt đầu chị không nhận ra người thiếu phụ ấy. Chị ta đứng ở ngoài hiên rũ áo mưa, vắt lên sợi dây phơi, buông hai ống quầy xuống đôi bụng chân đầy gân xanh rồi ngập ngừng bước vào. Chị ngờ ngợ như đã gặp người thiếu phụ này ở đâu rồi. Chị cố nhớ nhưng không tài nào nhớ nổi.
- Chào chị, mời chị ngồi.
Chị đứng dậy, kéo ghế, vẫn không rời mắt khỏi khuôn mặt gầy, nhọn sắc của người khách. Chị ta đưa mắt nhìn nhanh gian phòng, khẽ thở dài rồi ngồi xuống chiếc ghế tựa. Đôi mắt chị ta sáng long lanh, mắt của một người bệnh, chị thầm nghĩ.
Theo thói quen, chị không hỏi mà ngồi yên chờ đợi. Người khách cũng chưa nói ngay mà tiếp tục quan sát gian phòng. Đôi mắt chị ta dừng lại khá lâu ở góc phòng, nơi chị đặt cái bếp dầu, mấy chiếc chậu men, chiếc xô nhựa và vài ba thanh củi.
- Tôi là vợ của một tên phản bội - Người khách nói khe khẽ nhưng lời lẽ của chị ta vang lên như những tiếng búa gõ xuống đầu chị. Người chị nổi gai. Một cảm giác khó chịu ập đến. Chị đã nhận ra người thiếu phụ với tiếng thét: "Chạy đi" hơn mười năm về trước.
Khuôn mặt chị trở nên căng thẳng. Chị ta tới tìm mình để làm gì? Liệu chị ta đã biết những gì về chị. Chị nhớ tới lời đứa bé hôm trước nói về sự trả thù. Có phải chị ta đến để dọn đường cho một sự trả thù hay không? Chị đưa mắt nhìn nhanh ra phía cửa. Sau này chị đã phải ngượng với chính mình về sự hốt hoảng lúc đó.
Người thiếu phụ hơi mỉm cười. Trong nụ cười của chị ta có vẻ gì đấy vừa ngơ ngác vừa rầu rĩ.
- Bữa trước tôi đi chợ về, nghe con tôi nói có người đến nhà. Tôi đoán người đó là chị. Từ lâu lắm rồi, không ai đến nhà tôi. Những người quen thì xa lánh, ngại liên quan, còn cán bộ đến chỉ để hoạnh họe - Đôi mắt chị ta bỗng long lên một thứ ánh sáng man dại khiến chị phải quay nhìn sang chỗ khác - Riêng chị, tôi biết chị đến không phải để hoạnh họe. Ở chỗ tôi người ta nói nhiều về chị. Vì thế hôm nay tôi đến tìm chị….
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #27 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:04:07 am »

Người khách dừng lại. Đôi gò má tái ngắt của chị ta chợt đỏ lên. "Chị có thuốc an thần không, cho tôi xin mấy viên". Chị ta nói hấp tấp. Chị đứng dậy, như một cái máy, mở tủ lấy ra mấy viên thuốc màu hồng đưa cho khách. Bàn tay chị ta run run đón lấy mấy viên thuốc, cho rất nhanh vào miệng rồi cũng nhanh và thành thạo như vậy, uống liền hai cốc nước lạnh.
Sau đó chị ta ngồi yên. Trên vầng trán rịn ra những giọt mồ hôi nhỏ. Bên ngoài, trời đã ngớt mưa, có tiếng chuông điện thoại ở phòng bên, tiếng máy chữ gõ lách cách, đều đặn. Người thiếu phụ đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn ra phía cửa sổ rồi quay lại nhìn chị:
- Tôi làm phiền chị phải không? Nhưng tôi không thể gặp chị vào lúc khác được. Đúng ra, tôi đã đến tìm chị một vài lần nhưng chị đi họp vắng. Vả lại tôi sợ tôi không được tỉnh táo khi gặp chị - Rồi chị ta nói nhanh, như thể không nói nhanh thì không lúc nào còn có thể nói ra được những ý nghĩ ấy.
- Đúng, chồng tôi là một tên phản bội. Anh ta có nợ máu với nhiều người trong vùng. Nhưng có phải vì thế mà tôi, con tôi cũng phải chịu tất cả mọi tội lỗi của chồng tôi không? Người ta không để cho tôi làm ăn. Làm ruộng, người ta chia cho ruộng xa, xấu. Không nạp đủ sản lượng lúa, người ta tới khiêng bàn, khiêng bộ ghế ngựa sung vào công quỹ. Tôi xin vô tổ hợp làm mè xửng, người ta không nhận. Tôi đành đi buôn cá, người ta đánh thuế thật nặng, hoặc tìm cách tịch thâu... Con tôi đi học thì bị khinh rẻ. Tôi hỏi chị, tại sao lại như vậy? Tại sao? Người ta không muốn cho mẹ con tôi sống ở đây, tôi xin đi nơi khác, họ cũng không chịu cho giấy... Trước kia tôi cũng là du kích - Người thiếu phụ bỗng òa khóc cay đắng - Từ khi chồng tôi hồi chánh, tôi sống dở, chết dở. Tôi ghê tởm anh ta, nhưng không đủ can đảm đưa con đi nơi khác. Tôi tưởng hòa bình sẽ hết cực, nhất là khi chồng tôi chết. Chị chưa có con, chị không hiểu nỗi lòng của người mẹ khi biết con mình suốt đời phải mang tiếng là con của một tên ác ôn, một tên phản bội...
- Nhiều lúc tôi không thiết sống nữa - Người khách nói tiếp - Sống để làm gì hả cô? Nhưng chết được cũng khó. Có lần tôi đã ra đến bờ sông, nhưng đúng mùa nước ròng. Con sông Tam Quan chỉ cạn đến bụng chân. Cũng có lần tôi đã hòa một nắm bả chuột. Tôi toan uống thì thằng con út tôi cựa mình. Tôi lại đặt chén bả chuột xuống. Tôi chết nó sống với ai. Thằng anh nó thì đang ở trên rừng. Có thể bị bắt bỏ tù rồi cũng nên. Còn hai đứa nhỏ lúc nào cũng lăm le báo thù. Bởi vậy tôi không chết được cô Tư à! - Người thiếu phụ đột ngột thay đổi cách xưng hô, giọng chùng hẳn xuống - Tôi đến đây không phải để cầu cạnh gì cô, mà chỉ muốn tâm sự. Tôi cũng không biết tại sao tôi không làm việc ấy với người khác mà chỉ với cô. Thôi, chào cô, tôi về.
Người khách đứng dậy, không chờ chị nói, đi ra ngoài hiên rút chiếc áo mưa lảo đảo bước trên khoảng sân ướt đẫm. Chị bàng hoàng, cho đến lúc người thiếu phụ đi khuất sau hàng bông bụt, chị vẫn ngồi ngây ra trên ghế. Để trấn an, chị đành tự an ủi rằng, chị ta đang xúc động, đang lên cơn đau thần kinh, cứ nhìn đôi mắt chị ta cũng đủ biết. Nhưng chị vẫn cảm thấy lo lắng. Những lời lẽ của chị ta thật tỉnh táo, cay nghiệt. Làm sao một người đang lên cơn đau có thể nói được như vậy. Chị thấy mình cần phải làm một việc gì đó, một việc thật cấp bách để cứu giúp chị ta, như cứu một người đang chạy chông chênh trên bờ vực.
3.
Suốt đêm chị không ngủ. Việc chị Năm, vợ thằng giám Tuân đột ngột đến gặp chị tại cơ quan, không phải để nhờ vả mà chỉ để nói lên tâm trạng của mình khiến chị bối rối. Thật khó biết thực lòng chị ta đang nghĩ gì, cần gì ở chị. Nhưng thế nào đi nữa, chị ta vẫn cần được giúp đỡ. Về chánh quyền, chị sẽ gặp anh Cường, còn về chị... Chị nghĩ tới số gạo dư ở nhà bếp, tới số tiền không nhiều lắm đang gửi ở ngân hàng. Rõ ràng đối với chị ta, kinh tế đang là một sự bức thiết. Song giúp thế nào, nói thế nào để chị ta nhận số tiền gạo ấy không phải là việc đơn giản, nhất là khi chị ta đã biết rõ về chị.
Hình như suốt đời chị ta không bao giờ có hạnh phúc. Chị ta ghê tởm trước những tội ác của chồng đến mức phát điên, nhưng vẫn sống chung với hắn cho đến phút chót, phút mà chị, với một cây K.54, đến thẳng trụ sở hội đồng xã, nã bốn viên đạn vào người hắn, để rồi từ đó cũng chấm dứt tuổi thiếu niên cay đắng và sôi nổi của chị.
Nhưng để dẫn đến cái kết cục ấy là cả một thời gian chờ đợi dai dẳng. Chị nhớ lại rằng, vào cái đêm chị đưa Dũng về, đội "Chim Én" đã làm lễ truy điệu Dũng. Cái Thêm bảo, chính nó cũng không ngờ đội "Chim Én" đông đến vậy. Có người Thêm biết, có người không. Đó cũng là đêm chị từ giã tuổi thơ, để trở thành một cô gái - mặc dù năm ấy chị mới tròn mười lăm tuổi.
…. Khoảng một tuần lễ sau, khi chị đã bình phục hẳn, anh Cường dẫn về một thằng bé trạc mười hai tuổi, nhỏ con nhưng có cái đầu to kì dị. Đôi mắt của nó cũng thật kỳ: Sáng, cách rất xa nhau, màu xám tro. Còn cái mũi và miệng thì nhỏ và xinh như mượn của cô bé nào vậy.
Thằng bé đeo một cái gùi sau lưng, cắt ra từ một ống quần rách của người lớn. Nó có vẻ nhanh nhẹn và hoạt bát. "Chào hết mấy chị". Nó nói khi vừa nhìn thấy chị và Thêm. Anh Cường bảo: "Đây là đội viên mới của đội. Cũng tên Dũng. Ba chị em làm quen với nhau đi". Anh quay sang thằng bé: "Đây là Quy nè, chị ấy vừa giết thằng Hai Đích. Còn đây là chị Thêm".
Lúc ấy chị đã thầm kêu lên khi cậu bé cũng tên là Dũng. Trong một khoảnh khắc, cái phần hụt hẫng trong người chị như được lấp đầy. Tự nhiên chị có cảm tình ngay với Dũng. Còn Dũng, như nhận biết được điều đó cũng rất bám chị và cho đến ngày chị bị bắt, hai chị em rất ít khi rời nhau.
- Nè Dũng, mắc chi em vô đội "Chim Én"? - Lúc chỉ còn lại ba người, chị hỏi.
- Chúng nó truy đuổi em, giết ba em - Dũng đáp.
- Đứa nào?
- Thằng giám Tuân và tụi lính.
Lại thằng giám Tuân. Khoảng không trước mắt chị chợt tối sẫm. Chị lại thấy ân hận vì đã không giết nó như giết chết Hai Đích. Hình như việc chưa diệt được thằng giám Tuân cũng làm anh Cường mất ăn mất ngủ. Nhiều bữa chị thấy anh giở một tấm hình ra coi. Đó là tấm hình chớp anh, anh trai chị và thằng giám Tuân. Chị cứ thắc mắc hoài vì sao anh không cắt bỏ tấm hình ấy. Trong hình, thằng Tuân đội mũ tai bèo, tay chống nạnh, khẩu K.54 đeo trễ bên hông. Thiệt tình nó không có gì khác mọi người. Hồi còn ở nhà, nó cũng vui vẻ, thậm chí còn tỏ ra hiền lành nữa.
- Mắc chi thằng Tuân truy đuổi em? - Chị hỏi Dũng nhỏ. Về sau cả chị và Thêm đều gọi là Dũng nhỏ để phân biệt với Dũng lớn, đã chết.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #28 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:04:37 am »

- Bởi em chém một thằng lính của nó.
- Em?
- Chớ sao? - Thằng Dũng vênh mặt, đôi mắt màu xám tro hơi nheo lại như ngầm bảo: - Đừng coi thường em, nghe. Em không kém chi mấy chị hết.
Và nó kể: Nhà nó có ba người. Cha nó là thôn đội trưởng du kích, có một cái thẹo lớn nơi trán vì bị miểng pháo xía vô. Ông hay nói giỡn, thích ca bài chòi một mình. Có người khác tới, ông mắc cỡ không ca nữa. Một buổi tối, cha nó về, một tay áo bị gãy đẫm máu buông lủng lẳng bên sườn. Mẹ nó lúc đó đang nấu cháo heo dưới bếp. Nghe tiếng động vội chạy lên thì thằng giám Tuân và tụi lính cũng từ ngoài cổng ập tới. Cả mẹ nó và tụi lính cùng chạy vô nhà thì cha nó không còn ở đó nữa. "Chạy ra vườn sau nhanh lên, nó vọt qua cửa sổ". Thằng giám Tuân quát. Bọn lính nhào ra vườn và nó nghe tiếng súng nổ. Lát sau bọn lính kéo xác cha nó vô sân, chọi báng súng lên mặt. Mẹ nó lúc đó nằm chết giấc nơi bậc cửa. Còn nó sợ quá chỉ biết đứng nép vào tường bếp nhìn mà không hiểu chi hết. Trước khi bỏ đi, thằng giám Tuân còn đạp vào đầu mẹ nó, chửi tục.
Đấy là chuyện năm ngoái. Sau đấy, thằng giám Tuân còn dẫn lính vô nhà nó nhiều lần, có lần nằm phục kích ngoài vườn mì tới hàng giờ. Nó biết nhưng mặc kệ. Nó thương mẹ và nhớ cha nó. Nhiều lúc, không biết cái gì xui khiến nó cũng ngồi ca bài chòi một mình. Tiếng ca buồn thúi ruột làm mẹ nó khóc thầm dưới bếp. Khi biết mẹ khóc nó thôi không ca nữa.
Trước nhà nó có một cây bưởi, cây bưởi trái rất bự, vừa chua đanh, vừa ngọt. Bưởi đào. Một bữa, mới đây thôi, bọn lính sáu đứa kéo vô nhà. Chúng nó mới ăn nhậu ở đâu đó nên mặt chúng nom rất dữ. Đứa mặt đỏ rừ như chậu tiết, đứa tái mét như chàm đổ. Chúng nó vô nhà lục lọi một chặp rồi lăn ra ngủ. Duy có một thằng to con nhất bọn không chịu ngủ. Nó đứng dưới sân ngó chằm chằm lên cây bưởi. Không biết nó ăn chi mà ợ liên tục. Khi nhìn thấy thằng Dũng, nó gọi: "Ê, thằng cộng sản con, lại đây". Đích thị là thằng giết cha nó bữa trước rồi. Nó nghĩ và ngập ngừng bước lại. "Mày leo lên hái cho tao vài trái bưởi, nhanh lên". Nó định cưỡng lại thì thằng lính liền nắm lấy tai nó, vặn mạnh. Tai nó bỏng rát như sắp bị vặt trụi. Nó đành leo lên cây, hái bưởi vất xuống. Một trái, hai trái. Nó xót ruột. Mẹ vẫn bảo rằm trung thu sẽ hái mang ra chợ khu đồn núi Voi bán. Nhà nó hết gạo mấy bữa rồi. Hôm nào ăn mì luộc, nhìn nó mẹ đều khóc. Nhưng nó vừa định tụt xuống thì thằng lính lại hét  lên: "Hái nữa!". Rồi nó giơ súng nhằm vào những quả thật gần nó. Tiếng nổ đầu tiên làm thằng Dũng giật thột, chút xíu nữa thì rớt xuống đất. Thấy vậy thằng lính cười sằng sặc, nó bảo mày cứ hái đi, xuống tao bắn chết! Nó sợ nên phải tiếp tục hái. Thằng lính vẫn nhằm vào những trái bưởi bắn hoài. Có trái nó vừa định đưa tay ra đã nghe một tiếng rít lạnh bên tai và trái bưởi rớt ngay xuống như bị tiện đứt cuống. Phải thừa nhận rằng thằng lính bắn rất giỏi. Biết điều này, nó không sợ nữa. Trong đầu nó bỗng bật ra một ý định, một ý định bất chợt nhưng thật dữ dội. Lúc nó run run tụt xuống thì cây bưởi đã xơ xác. Trên sân, thằng lính vẫn ngửa cổ cười sằng sặc như hóa dại. Mùi rượu chua ói tỏa ra xung quanh gốc bưởi. "Dao!". Thằng lính nhìn nó. Nó chạy vô bếp lấy ra con rựa bén nhất. "Gọt". Thằng lính ra lệnh. Nó gọt. Thằng lính cầm trái bưởi, ngồi xuống đám rễ cây ăn ngốn ngấu, phun hạt phì phì. Trong lúc thằng lính mải ăn, nó liếc nhìn cái cần cổ của thằng lính đang cúi xuống. Người nó thoắt nóng rực rồi lại lạnh ngắt. Nó nhìn vào trong nhà. Tụi lính vẫn ngủ say. Súng nổ vậy mà tụi chúng vẫn ngủ. Có thằng còn ngáy như sấm. Thằng Dũng bảo, lúc đó, nó trở nên linh lợi và khôn khéo kỳ lạ. Nó sán tới bên thằng lính: "Thầy hai không biết ăn rồi. Để con bóc giùm". Nó nói và tách trái bưởi thành từng múi, cắt xơ, bỏ hạt, đưa cho thằng lính. Thằng lính gật gật đầu tỏ vẻ bằng lòng. Nó vẫn ăn ngốn ngấu, ăn rất nhiều. Vừa gọt bưởi, thằng Dũng vừa ngó chăm chăm vào cái cần cổ của thằng lính. Rồi thật nhanh và thật bất ngờ, nó đứng lên, nắm con rựa bằng cả hai tay vung lên, bổ xuống cái khoảng đo đỏ như ức gà chọi dưới gáy thằng lính với toàn bộ sức mạnh của tuổi mười một. Thằng lính ngã vật ra, chết ngay, lưỡi con rựa vẫn cắm ngập vào cổ nó…..
Hôm ấy, thằng Dũng còn kể rằng, sau khi bổ con rựa vào cổ thằng lính mà nó đã tin chắc đã giết cha nó năm trước, nó phải trốn khỏi nhà, chui rúc ở mọi xó xỉnh, chịu đói, chịu khát. Nó không ngờ vì chuyện đó mà mẹ nó bị bắt, bị đánh đập. Tụi lính không ngớt truy lùng nó. Ban ngày trốn, ban đêm nó vẫn mò về gần nhà. Nhà nó vắng hoe. Mẹ nó vẫn bị giam ở trên quận. Bà ngoại nó đang chạy tiền để tụi cảnh sát thả mẹ nó về. Còn nó, nó quyết vô đội du kích. Nó tìm mấy chú cùng sắp với cha nó, nhưng không gặp ai. Đêm cuối, nó đang lò dò đi trên con đường đất thì gặp anh Cường. Thoạt đầu tưởng gặp lính, nó liền rúc vô bụi. Nhưng anh Cường đã nhận ra nó. Anh kêu nó ra, đưa nó về đây, bảo sẽ cho nó vô đội "Chim Én". Nó không biết đội "Chim Én" là gì. Nó nói với anh Cường nó không vô đội "Chim Én" mà chỉ thích làm du kích như cha nó.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #29 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2008, 10:05:05 am »

- Em chỉ ở với mấy chị ít bữa thôi. Chừng nào gặp mấy chú, em vọt liền - Thằng Dũng nói nhỏ với chị.
Nghe chuyện thằng Dũng, Thêm không nói gì. Nó cũng mất cha hệt như Dũng. Trong cái nhìn im lặng của nó chứa chất bao nỗi cảm thông. Còn chị thì chỉ muốn ngồi bật dậy. Cái ý nghĩ phải giết thằng giám Tuân cho bằng được lại rừng rực cháy trong người chị. Chị biết cuộc đời mới đem đến cho chị một người bạn. Chị tin Dũng. Nhất định Dũng sẽ làm được một việc gì đó mà cả chị và Thêm đều sẽ không làm được.
Nhưng anh Cường hình như không có ý giao việc cho Dũng, không bắt nó tập bắn súng như chị hồi mới vô đội. Nhiều lúc anh thở dài, bảo: "Quy nè anh tính đưa thằng Dũng ra Bắc cho nó đi học, để nó ở đây anh sợ….".
Song đưa Dũng đi bằng cách nào thì anh không nghĩ ra.
4.
Thời gian nặng nề trôi qua trong căn hầm bò nơi chị, Thêm và Dũng nhỏ đang ở. Suốt ngày ba chị em hết ăn, nằm lại đánh tam cúc mà vẫn chưa thấy anh Cường giao nhiệm vụ. Nhắc thì anh bảo: "Phải chờ!". Chị không biết còn phải chờ đến khi nào. Chị nóng ruột qua chừng. Với chị lúc đó, chỉ cần diệt xong thằng giám Tuân rồi nghỉ chờ bao nhiêu cũng được. Thằng Dũng cũng tỏ vẻ nôn nóng. Nó thích được đi, được bay nhảy. Tuổi nó phải ngồi ru rú một chỗ cũng cực. Riêng Thêm thì không nói gì. Suốt ngày nó  im lặng và chỉ nói khi cần thiết. Nó bảo anh Cường sợ mọi người sẽ hy sinh lần lần như Dũng, như chị Hảo, vì thế anh do dự không giao nhiệm vụ.
Chị cũng mang máng thấy như vậy. Lúc này, tình hình trên quê hương chị còn rất đen tối. Sư đoàn Sao Vàng, niềm mong mỏi của mỗi người dân vẫn mất tăm, mất dạng. Các đội du kích hoạt động mỗi ngày một thưa thớt. Nhiều bữa đi công tác về, anh Cường ngồi ủ rũ trước cửa hầm, bập thuốc rê liên tục. Chị thương anh và thấy xót xa. Chị biết mỗi lần như thế, có nghĩa là cơ hội chưa đến, chị còn phải chờ đợi.
 Rồi trận càn của bọn lính thủy đánh bộ Mỹ ập đến tàn khốc như một cơn bão. Hôm đó. Thêm vừa xách giỏ đi chợ, thằng Dũng nhỏ cũng bám theo. Nó xin phép anh Cường về thăm ngoại ở Tam Quan, tiện thể coi xem mẹ nó được thả chưa và kiếm thêm chút đồ ăn cho đội. Nhà chỉ còn lại chị và anh Cường. Anh Cường vừa ngả lưng xuống võng thì nghe tiếng L.19 vè vè bay trên đầu. Kinh nghiệm báo cho chị biết, có chuyện không bình thường sắp xảy ra. Anh Cưỡng cũng choàng dậy đứng ngoài cửa hầm ngó lên trời. "Cuốn võng dọn hết đồ đi em" - Anh quay lại nói. Chị vội giật đầu võng, thu tất cả mọi thứ cất vào ngăn hầm kèo. Trên trời chiếc L.19 bỗng rít lên rồi tắt lặng đi. Vài giây sau lại nghe tiếng vè vè của nó nhưng nhỏ hơn, xa hơn.
- Vô hầm nhanh!
Anh Cường bảo. Chị còn đang phân vân xem có nên đưa nồi cơm dư vào hầm kèo không thì những tiếng rít đã dồn dập chụp xuống trên đầu. Tiếp theo là những tiếng nổ liên tiếp. Chưa bao giờ chị gặp một trận bắn pháo dày đặc như vậy. Những đường đạn rít lên theo đường cầu vồng rồi chụp xuống khu gò thành những tiếng nổ lộng óc. Chị và anh Cường ngồi nép nhau trong ngách căn hầm kèo. Chị ngồi trong, anh ngồi ngoài. Mỗi lần có một tiếng rít ngay sát trên nóc hầm, anh lại ôm vội lấy đầu chị kéo vào ngực mình. Cử chỉ đó làm chị nghẹt thở và mắc cỡ. Chị cố tìm cách thoát ra nhưng không được. Thoạt đầu chị còn nghe thấy những tiếng ục, ục mơ hồ, xa xôi ở mạn Tam Quan, Đệ Đức, núi Voi, và sau thì không nghe tiếng gì nữa. Tai chị ù đặc. Căn hầm mù mịt khói và sặc sụa mùi thuốc đạn. Lúc đó, ý nghĩ đầu tiên đến với chị là ý nghĩ về cái chết. Chỉ cần một quả đạn trong số hàng ngàn quả đạn đang dội xuống, lọt đúng cửa hầm, chị và anh Cường sẽ vĩnh viễn không bao giờ đứng dậy được nữa. Chị chết còn thằng giám Tuân thì vẫn sống. Ý nghĩ này làm chị hốt hoảng. Chị khóc. Anh Cường như không hiểu chị, tưởng chị khóc vì sợ hãi nên càng cố ép chị vào sâu hơn. Cái cơ thể to lớn của anh như bọc kín lấy thân hình bé nhỏ của chị.
Sau này chị mới hiểu tâm trạng của anh lúc đó. Anh bảo không khi nào  anh căm ghét sự bất lực của mình như khi phải ngồi bó tay, câm lặng dưới làng đạn pháo của địch. Bởi lúc ấy, con người chỉ còn một khả năng duy nhất là trông đợi ở sự may rủi. Ngoài ra không còn cách chống đỡ nào khác, giống như lúc nằm giữa một trận mưa bom cũng vậy. Con người chỉ còn đành nằm chờ một cái kết cục thật bi thảm có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng bởi con người quá nhỏ bé, mỏng manh trong những hoàn cảnh như thế mà đôi khi, bom đạn đã không dính được vào họ.
Khoảng nửa giờ sau, trận mưa đạn pháo chấm dứt. Âm thanh đầu tiên mà chị nghe thấy là tiếng vè vè, dai dẳng của chiếc L.19. Nó vẫn đang xoi mói, nhòm ngó xuống quả đồi mới đây còn um tùm bờ bụi, nay đã bị cày xới lên nham nhở. Anh Cường loạng choạng bước ra căn hầm bò. Chợt anh quay ngay trở vào, luống cuống: "Chúng nó ném bom"- Anh nói. Chị điếng người vì biết rằng, lúc này vọt sang căn hầm bí mật của anh, cách đó dăm chục mét sẽ không qua khỏi mắt chiếc L.19, đang hạ dần độ cao bay xuống rất thấp. Còn cứ đành ngồi trú ở đây sẽ không chịu đựng nổi với những trái bom sắp sửa dội xuống. Chị nhớ khuôn mặt anh Cường lúc đó, một khuôn mặt vừa biểu lộ sự liều lĩnh, vừa biểu lộ sự bất lực chua chát. Anh chưa kịp nói gì với chị thì chiếc L.19 đã đột ngột tăng độ cao rồi từ độ cao chót vót ấy lao cắm xuống. Hai quả đạn pháo nổ ngay trên đỉnh gò. Lập tức, hai chiếc AD6 như đanh rình mò ở đâu đó cũng bắt đầu lượn vòng, tăng độ cao. Tiếng máy bay phản lực như vỡ ra, chật chội, lèn chặt khoảng trời trên đầu chị. "Chạy!". Anh Cường hét. Chị bật ra nhào theo anh. Vừa chạy vừa ho sặc sụa trong đám khói màu trắng đặc của hai quả đạn chiếc L.19 vừa phóng xuống. Đúng hơn chị và anh Cường, vừa chạy vừa lăn xuống mép gò vì quả bom đầu tiên đã nổ. Mặt đất chợt rung nẩy lên như đang mở ra một khoảng trống sâu thăm thẳm. Anh Cường hấp tấp mở nắp hầm. Chị nhào xuống trước, sau đó là anh. Anh đậy nắp hầm, kéo chị vào phía trong, ngồi tựa lưng vào vách hầm, thở gấp.
Mặc dù ở với anh Cường đã lâu nhưng đây là lần đầu chị xuống căn hầm của anh. Căn hầm chật chội, tối om, nồng nặc mùi thuốc lá. Trên đỉnh gò, những trái bom vẫn phóng xuống liên tiếp, hai trái một. Người chị chốc lại nhảy nhồi lên sau những tiếng thịch, thịch bên vách hầm. Cái ý nghĩ mình sắp chết còn thằng giám Tuân thì vẫn sống lại vụt đến với chị. Ngực chị như bị một vòng đai siết chặt, mỗi lúc một chặt. Ngột ngạt. Chị đưa tay lên bứt rứt trên cổ, trên ngực áo. "Lên thôi anh, chết thì chết chứ ở đây em không chịu thấu". Chị hổn hển bảo anh. Anh không trả lời mà khẽ kéo chị nhích về phía lỗ thông hơi. Bàn tay nóng rực của anh xoa nhẹ trên tấm lưng đang run nảy lên của chị.
Trận ném bom kéo dài chừng mười lăm phút. "Thoát rồi" chị ngượng ngập nhích ra khỏi anh. Nhưng chỉ lát sau đã phải bám chặt lấy vai anh khi nghe tiếng máy bay trực thăng ùng ục đáp xuống trên đỉnh gò. "Cái chi vậy anh?", chị hỏi. "Chúng nó đổ quân", anh đáp, đoạn bò vào ngách hầm, chị nghe tiếng va của những trái mỏ vịt. Tiếng lưỡi xẻng bập xuống đất. Hình như anh đang chôn giấu tài liệu.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM