Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:08:00 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Saburo Sakai - Những trận không chiến dữ dội nhất lịch sử Thái Bình Dương  (Đọc 54581 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #60 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:08:00 pm »

Tám oanh tạc cơ chúi mũi xuống, chiến đấu cơ chúng tôi theo sát phía sau. Ở 16.000 bộ, chúng tôi rớt vô một đám mây dày đặc, trở thành kẻ đui mù trong nhiều giây, rồi lướt xuyên qua và tiếp tục chúi xuống.

Ở cao độ 13.000 bộ, một vật gì nhá sáng trên bầu trời, xa về phía trước, và trên chúng tôi nhiều ngàn bộ. Hiện tượng nầy lập đi lập lại nhiều lần. Đó có thể là do cánh của một chiếc phi cơ phản chiếu ánh sáng mặt trời.

Tôi nhìn thấy chiến đấu cơ đầu tiên. Một chiếc Hellcat, với thân và đôi cánh rộng không thể lầm lẫn được, lướt xuống, xuyên qua những đám mây. Một chiếc khác, và nhiều chiếc nữa. Bao nhiêu chiếc ? Để coi! Vẫn lướt xuống xuyên qua những đám mây, chiếc nầy đến chiếc khác, một dọc dài các chiến đấu cơ hình như vô tận. Tôi bắn một loạt để báo cho các phi công khác. Phi đôi trưởng và Muto lắc cánh đáp nhận. Ra đa của Hoa Kỳ đã chỉ điểm vị trí của chúng tôi một cách chính xác. Nhóm chiến đấu cơ địch chúi khỏi các đám mây cách phía trước chúng tôi không đầy một dặm, và cách phía trên chúng tôi chỉ nữa dặm.

Tôi bắt đầu đếm, và chỉ đếm con số mười bảy. Đối phương đã nhìn thấy chúng tôi! chiếc phi cơ thứ mười bảy, tức chiếc mà tôi có thể đếm, bất ngờ lăn tròn về phía trái và chúi xuống. Lập tức, những chiếc còn lại vung ra hai bên và lướt xuống chúng tôi.

Lời nói của Miura văng vẳng bên tai tôi: “Không chấp nhận chiến đấu… giữ vững các phi cơ bạn chung nhóm.”

Lời nói thật minh bạch. Nhưng làm sao đây ? Hãy nhìn những chiến đấu cơ đang lướt đến. Bóng dáng của những chiếc Hellcat thấp thoáng khắp mọi nơi, nhiều chiếc đã lấy thăng bằng sau khi chúi xuống để từ phía dưới đánh ngược lên phi cơ của chúng tôi. Một nhóm hai mươi chiếc Hellcat thứ nhìn hung hăng vồ ba chiếc Zero của Muto. Còn nhóm khác nữa, hơn ba mươi chiếc, bổ nhào xuống rồi lấy thăng bằng và vượt lên nhanh chóng, tấn công các oanh tạc cơ đang bay phía dưới.

Tôi nín thở khi nhóm Hellcat chĩa mũi vô các oanh tạc cơ. Hai tiếng nổ làm mở cả không gian phát ra, chiếc oanh tạc cơ thứ nhứt và thứ nhì biến mất. Thủy lôi mang dưới bụng đã xé nát hai chiếc phi cơ làm muôn ngàn mảnh nhỏ li ti.

Bấy giờ những chiếc Hellcat đang nằm trong tầm hoả lực của ba chiếc Zero do Muto cầm đầu, nhưng cả ba đã tránh né bằng cách lộn nhào theo hình thắt nút dây. Tôi đấm tay vô cửa kiếng một cách bất lực. Muto đã có trong tay một tử điểm. Hắn có thể lăn về bên phải và đẩy hai chiến đấu cơ địch rời khỏi không trung mà không cần một cố gắng nào, nhưng hắn không làm.

Một nhóm Hellcat khác lướt đến ba chiếc Zero của tôi. Tôi kéo cần điều khiển lại phía sau, vọt tới và xoay trôn ốc thật ngặt với hai phi công bên cánh đeo dính sau đuôi tôi. Chúng tôi lấy thăng bằng để nhìn thấy nhiều chiếc Hellcat khác xông tới với các họng súng ở hai bên cánh rực lửa.

Tôi lăn tròn. Thật nhanh. Thêm nhiều chiến đấu cơ xông tới nữa. Lăn tròn nữa. Hai lần. Lăn tròn qua trái. Lấy thăng bằng. Nhiều đối thủ lại xông tới, có tất cả bao nhiêu ?

“… Không chấp nhận chiến đấu…”

Bạn có thể y lịnh mãi được không ? Tôi không thể. Không, ngay bây giờ. Với bầu trời dầy đặc chiến đấu cơ địch, tôi tránh né như vậy đã đủ lắm rồi.

Tôi xoay như chớp, chĩa mũi vô một chiếc Hellcat đang chúi xuống. Những viên đạn của tôi đẩy bật nó ra lập tức. Chiếc phi cơ lảo đảo dữ dội rồi chúi xuống biển, kéo theo một vệt khói càng lúc càng mau.

Không có thời giờ để nhìn theo nạn nhân, tôi nhấn bàn đạp bẻ lái, kéo cần điều khiển thật mạnh. Đúng lúc. Một chiếc Hellcat lướt vụt qua chiếc Zero của tôi, tiếp theo là những chiếc khác và nhiều chiếc khác nữa.

Tôi không có thời giờ để nhả bình xăng phụ dưới bụng. Thế rồi chiếc phi cơ địch cuối cùng lướt qua, chúi thẳng xuống biển, và bắt đầu lấy thăng bằng để quày lại. Tôi nhả bình xăng phụ và đảo ngược. Các phi cơ bên cánh vẫn còn với tôi. Nhờ trời, họ ngoan ngoản thi hành đúng các chỉ thị của tôi, bám sát một bên tôi, đua tài xoay trở với tôi.

Mình mẩy tôi ướt đẫm. Tôi định đưa tay lau mặt. Không kịp. Cả 16 chiến đấu cơ địch lại lướt lên cùng một lúc nhảy xổ vô ba chiến đấu cơ của tôi.

Một lần nữa, tôi lại chúi, lộn, đảo và lăn. Cần điều khiển lên, xuống, giữa, phải, trái. Đá bàn đạp lái. Loé sáng, những lằn đạn. Trật, và trật nữa. Bọn phi công Mỹ nhắm yếu.

Tôi liếc nhìn nhóm oanh tạc cơ. Đó là một lò sát sinh ? Uể oải, chậm chạp, với những trái thủy lôi trong bụng, trôi lờ đờ trong không khí, không được chiến đấu cơ bảo vệ vì mắc bận đánh trối chết với lũ Hellcat. Một trái cầu lửa biến mất trong một tia chớp hừng hực. Một oanh tạc cơ nữa nổ tung… Không đầy một phút, cả bảy oanh tạc cơ đều đi đời. Ngay cả một cái thân hoặc một cái cánh nguyên vẹn cũng không nhìn thấy.

Tình trạng của mấy chiếc Zero cũng không lấy gì làm tốt hơn. Tôi nhìn thấy hai chiếc bao trùm trong lửa đỏ, lăn lộn liên hồi. Không viên phi công nào cố nhảy ra khỏi phi cơ. Họ ở lại và chết cháy.

Tôi không nhìn thấy một chiếc Hellcat nào gặp rắc rối, ngoại trừ chiếc bị tôi bắn rơi. Chúng tôi hầu như không thể nào né tránh chiến đấu, bởi đối phương quá nhiều và cứ bu theo chúng tôi. Chiến đấu cơ Hellcat nhanh nhẹn hơn chiến đấu cơ của chúng tôi, tốc lực cũng mau hơn nhiều. Chỉ nhờ sự thiếu kinh nghiệm của bọn phi công địch đã cứu chúng tôi. Nếu họ có kinh nghiệm hơn chút nữa, mỗi chiếc Zero sẽ bị hạ không đầy một phút. Hiện thời chỉ nhóm của tôi còn hiện diện trên bầu trời. Những chiếc Hellcat đã quét sạch các phi cơ Nhật khác, bấy giờ bay đến kết hợp với 16 chiến đấu cơ đang tấn công nhóm của tôi.

Những chiếc cánh màu xanh và ngôi sao màu trắng chiếu lấp lánh với các họng súng đều rực lửa, ở trên và ở dưới, bên phải và bên trái chúng tôi. Đâu đâu cũng có bóng dáng Hellcat.

Những chiếc Hellcat nầy nhắc nhở tôi nhớ hồi ở Lae, lúc 12 chiến đấu cơ của chúng tôi cố hạ một oanh tạc cơ đơn độc. Chúng tôi đã xé nát đội hình để tấn công đối thủ một cách nôn nóng. Hiện thời mấy chiếc Hellcat cũng làm giống như vậy. Chúng tôi trở nên hỗn loạn, cố tránh né hỏa lực và đụng chạm với đồng bọn hơn là với chúng tôi. Chúng tôi bay chính giữa một nhóm Hellcat đông đảo khủng khiếp, và mặc dù đối phương lâm vào tình cảnh hỗn loạn, chúng tôi cũng không thể nào tìm thấy lối thoát. Chúng tôi đã ở cách Iwo Jima 400 dặm, và vẫn còn cách các hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ đâu khoảng 50 dặm. Lực lượng nầy chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy và không thể nào đảo mắt tìm kiếm. Cho dù chúng tôi có nhìn thấy đi nữa, làm sao chúng tôi lướt qua khỏi 60 chiếc Hellcat, chiếc nào cũng bay mau hơn chúng tôi ?
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #61 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:08:46 pm »

Một cơ may nhỏ đã đến với chúng tôi. Cuộc không chiến di động về phía một đám mây dày đặc treo lơ lửng trên mặt biển.

Một chiếc Hellcat bỗng tách khỏi vòng vây, bỏ lại một khoảng trống. Tôi lăn tròn và đẩy cần điều khiển về phía trước, chúi hết tốc lực vô đám mây. Tôi liếc lại phía sau. Hai phi cơ bên cánh vẫn đeo dính tôi. Trong nhiều phút, tôi không nhìn thấy gì hết. Thế rồi phi cơ chúng tôi lướt ra khỏi đám mây. Tôi nhìn hai chiếc Zero, xa phía dưới phi cơ của tôi, đang xoay tít dữ dội, nhưng trong một vài giây, chúng tôi lấy lại thăng bằng, và vượt lên.

Bầu trời không còn bóng dáng một chiếc Hellcat nào. Chúng tôi bay trong đội hình chữ V và xoay trở về hướng nam. Chúng tôi thở phào thoát nạn, nhưng tương lai đen tối đang chờ đợi.

Những đám mây dầy đặc hơn khi chúng tôi tiến gần đến hạm đội địch. Mây trở nên dầy đặc hơn nữa, bay là là cách mặt biển không đầy 700 bộ.

Một cơn mưa mù mịt đổ xuống, mạnh đến nỗi nhiều lần ba chiếc Zero lâm hiểm. Mưa quật vô cánh phi cơ như một dòng thác. Chúng tôi vẫn phải lướt tới. Mây càng lúc càng sà thấp xuống mặt biển. Chúng tôi chúi xuống dần chỉ còn cách mặt nước 60 bộ, quét cánh trên đầu những cơn sóng dâng cao.
Bão nổi lên dữ dội hơn. Tiếng gió át cả tiếng động cơ máy bay. Mưa quật mạnh khủng khiếp trên cánh và trên thân.

Chúng tôi không thể bay thấp hơn. Hiện thời chúng tôi trở nên mù hẳn. Tôi chỉ nhìn thấy mây mưa bao quanh. Không nhìn thấy mặt nước, nhưng chúng tôi biết rằng chỉ cần bước thêm bước nữa, tất cả chúng tôi sẽ biến mất trong biển cả. Ba mươi phút trôi qua. Bão vẫn không giảm. Theo bản đồ, tôi phỏng định phi cơ đang hướng thẳng đến lực lượng đặc nhiệm của đối phương. Ngay cả một hạm đội đồ sộ như vậy mà chúng tôi cũng không thể nào tìm thấy.

Bầu trời càng lúc càng u tối. Đã bảy giờ chiều có hơn. Tôi lo lắng. Cho dù chúng tôi lướt khỏi giông bão, trời đang tối nhanh chóng sẽ khiến chúng tôi không thể nhìn thấy hạm đội địch…

Tôi liếc nhìn hai chiến đấu cơ bám sát một bên đuôi. Hai phi công trẻ nầy sẽ ra sao ? Họ ngoan ngoãn theo tôi, sẵn sàng chấp nhận bất cứ những gì mà tôi đã chọn. Nếu tôi chúi xuống biển, họ cũng sẽ chúi theo tôi.

Làm gì đây ? Tôi soát lại la bàn và đảo một vòng thật rộng. Hai chiến đấu cơ vẫn theo sát phía sau tôi. Tôi không định chắc được vị trí của mình, bởi lẽ chúng tôi đã quần thảo với địch quân, chúi vô mây, và sau đó bay thẳng xuyên qua mưa bão. Tôi có thể ở bất cứ một nơi nào đó trên mặt biển…
ngay cả một vòng 180 độ vừa rồi có thể đưa chúng tôi về hướng nam thay vì về Iwo Jima như dự định. Nhưng tôi phải trở về, tôi phải cố gắng!

Lời nói cương quyết của đại tá Miura lại vang đến bên tai tôi “… cả nhóm phải chúi xuống các hàng không mẫu hạm địch!”

Tôi hầu như muốn quay phi cơ trở lại để tìm kiếm chiến hạm địch. Tôi vẫn là một sỹ quan hải quân Hoàng Gia, nơi mà mệnh lệnh vẫn là cái gì tuyệt đối. Chưa từng nghe nói đến có người đặt câu hỏi, đúng hoặc sai, trước những mệnh lệnh được ban ra. Cho dù tôi trở về Iwo Jima được, làm sao tôi có thể đối diện với vị chỉ huy trưởng vừa giao nhiệm vụ cho tôi ?

Tất cả là một sự dằng co cùng cực trong tôi. Cho đến nhiều năm sau nầy tôi mới hiểu hành động của mình là một hành động có ý thức. Nhưng ngay lúc đó, qua nhiều năm chịu đựng thứ kỷ luật cứng rắn và tàn nhẫn, sự dằng co của tôi không thể nào tả xiết. Qua những giây phút khủng khiếp trong phòng lái của chiếc Zero nầy, tôi đã chiến đấu và đã thành công trong việc phá vỡ hệ thống chỉ huy và truyền thống của hải quân.

Cho dù cả ba chúng tôi tìm thấy chiến hạm, cho dù chúng tôi vượt khỏi chiến đấu cơ Hoa Kỳ, cho dù chúng tôi chúi xuống chính xác, chúng tôi sẽ đạt được kết quả gì với ba chiếc phi cơ nhỏ nhoi, không mang bom, chỉ có một số đạn đại bác và đại liên ? Hai phi công trẻ tuổi bay theo tôi đã giao phó tính mạng của họ trong tay tôi, họ đã chứng tỏ tài ba tránh né phi thường của họ trong cuộc đụng độ vừa qua. Họ đã không lùi bước khi bay xuyên qua một cơn mưa bão. Mạng sống của họ phải dành một nơi tốt hơn là đâm đầu xuống biển. Họ thuộc về xứ sở, họ phải có dịp may để bay và chiến đấu cơ trở lại. Do đó mà quyết định của tôi đã được tạo ra.

Tôi quay về Iwo Jima. Đại dương đã biến mất trong màn đêm. Tôi tuyệt đối không nhìn thấy một vật gì phía dưới. Tôi chỉ nhìn thấy những vì sao chiếu lấp lánh trên bầy trời. Gần một giờ trôi qua, chúng tôi vẫn lướt tới. Giây phút của định mạng. Nếu tôi bay đúng hướng, bấy giờ Iwo Jima sẽ ở phía dưới tôi. Nếu không… tôi chưa bao giờ cảm thấy nỗi lạnh lẽo nào như nỗi lạnh lẽo của đại dương ôm choàng lấy khi chiếc Zero đâm đầu xuống.

Nhiều phút nữa trôi qua. Tôi hướng mắt về phía chân trời, hy vọng nhìn thấy một vật gì, một chấm màn đêm nổi bật lên bầu trời đầy sao. Vật gì đó đã thấy kia rồi. Nó đen và to lớn khác thường. Iwo Jima! Chúng tôi đã trở về!

Tôi chúi mũi xuống, Shiga và Shirai tiếp theo sau. Iwo bao trùm trong bóng tối khi chúng tôi đảo phía trên. Thế rồi bốn ánh sáng leo lét xuất hiện. Nhưng đó là những ngọn lửa huyền diệu, kì bí đối với tôi. Những ngọn đèn hiệu dọc theo hai phi đạo chánh. Chúng chớp tắt, báo hiệu cho phi cơ đáp xuống. Những người trên đảo đã nhận ra tiếng động cơ của chúng tôi. Một cảm giác nhẹ nhóm tràn ngập trong tôi. Tôi hầu như mềm lả, sự căng thẳng trong suốt ba giờ bay trở về đã bất thần chùng lại.

Bốn ngọn đèn không soi rõ phi đạo. Thường thường chúng tôi xử dụng 20 ngọn, nhưng 16 ngọn đã bị bom phá hủy. Bốn ngọn hay bốn mươi ngọn đèn, đối với tôi cũng vậy thôi. Sau những gì mà chúng tôi đã bỏ lại sau lưng, tôi cảm thấy có thể đáp xuống trong bóng tối. Thế rồi tôi đáp xuống, lướt trên sân bay với hai chiến đấu cơ liên tiếp theo sau. Đèn tắt.

Một đám đông phi công và cơ khí viên chạy ra phi cơ của chúng tôi. Khi họ tới, tôi nhìn họ một thoáng. Tôi cảm thấy không được tự nhiên khi đối diện với họ. Tôi nhảy xuống đất và bước đến Bộ Chỉ Huy. Đám đông không ai cố giữ tôi lại. Mọi người đều biết cảm nghĩ của tôi, họ tránh sang một bên khi tôi bước ngang qua phi trường với hai phi công bên cánh theo sau.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #62 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:09:24 pm »

Trong bóng tối, tôi đụng phải một người. Tôi thụt lùi. “Ai đó?” Tôi hỏi lớn.
Không có tiếng trả lời. Tôi bước lại người tôi vừa đụng, hắn ngồi bệt trên mặt đất. Tôi có thể nhận ra bộ đồng phục phi công. Tôi cúi xuống nhìn mặt hắn.
“Muto!”

Viên phi công ngồi cú rủ, đầu gục trên đôi tay.

“Muto, anh bị thương hả ?”

Muto ngước nhìn tôi. “Không,” hắn thẩn thờ đáp. “Tôi không bị thương.”

Hắn đứng dậy và nhìn Shiga và Shirai một cách lạ lùng. “Anh… anh cũng mang về cả hai phi công bên cánh của anh!” Hắn thở hổn hển.

Hắn nhìn xuống đất, bật khóc. “ Sakai… bạn hãy chửi rủa vào mặt tôi đi. Hảy phỉ nhổ tôi đi!”

Nước mắt hắn đầm đìa trên mặt hắn. “Tôi bắt buộc phải quay về,” hắn hét lên trong sự đau lòng. “Một mình !”

Tôi nắm vai hắn. “Tôi biết cảm nghĩ của anh, Muto. Nhưng bây giờ không thể làm gì hơn nữa. Quá muộn. Tất cả đã trôi qua. Đó là quá khứ.”

Tôi lay vai hắn nhè nhẹ, và chỉ Bộ chỉ huy: “Muto, chúng ta cùng vô trong đó.”

Hắn gật đầu. Chúng tôi không nhìn nhau. Và rồi có một gì chận lấy tim tôi. Cơn thịnh nộ trước những gì xảy ra trong cái ngày khủng khiếp nầy đã nguội lạnh trong tôi bỗng nhiên nổi dậy. Tôi nghĩ những giọt nước mắt của viên phi công trẻ tuổi đầy hứa hẹn nầy là những giọt nước mắt lo sợ. Lo sợ sẽ là một tên hèn nhát trước một nhiệm vụ ngu xuẩn.

Tôi thề rằng, bất kể vấn đề gì xảy ra, nếu một tên sỹ quan nào trút giận lên mình viên phi công trẻ nầy, tôi sẽ hạ gục hắn. Tôi sẽ nhồi hắn thành bột.

Đại tá Miura ngồi trơ sau bàn làm việc. Ông lắng nghe chăm chú khi tôi trình bày những gì xảy ra.

Ông nhìn tôi chăm chú rồi bình thãn nói: “Cảm ơn anh, Sakai!”. Chỉ mấy tiếng vậy thôi.

Tới phiên Muto trình bày. Dĩ nhiên, những gì hắn trình bày đều xác nhận những lời tôi vừa nói, cũng chỉ có bốn tiếng. “Cảm ơn anh, Muto!”

Chúng tôi chào cáo từ. Đại tá Miura vẫn ngồi bất động, gương mặt u tối, đôi mắt bi thiết.

Tôi cảm thấy buồn cho ông ta, người đã ra lịnh cho thuộc cấp thi hành một nhiệm vụ thất bại trước khi bắt đầu. Nhưng phải ra lịnh, bởi vì ông ta không còn cách nào khác để chọn, bởi vì đó là cách tốt nhất cho xứ sở của ông.
Khi chúng tôi bước ra khỏi bộ chỉ huy, một người chạy theo chúng tôi. Đó là trung tá Nakajima. Ông đưa hay tay nắm lấy vai tôi, khuôn mặt rạng rỡ. “ Sakai!” ông kêu lên. “Tôi hết mong anh trở về!”

Tôi muốn nói, nhưng Nakajima chận lời:

“Anh không cần biện hộ. Tôi đã biết anh quá nhiều, ông bạn của tôi ? Ai ở trên hòn đảo nầy cũng biết những gì đã xảy ra hôm nay, do đó, việc duy nhứt của anh là trở về. Đừng nhăn nhó nữa! chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội, chúng ta vẫn còn có thể đánh nữa mà! Anh về được đây là hay lắm rồi!”

Những lời của Nakajima làm tan băng giá trong tim tôi. Tôi không còn cô độc. Nhưng những lời tử tế của ông cũng không thể nào đẩy lui hoàn toàn cơn phẫn nộ trong lòng tôi.

Các phi công khác chạy đến với chúng tôi, tay mang lề mề thuốc hút, kẹo bánh và những thức ăn khác. Chúng tôi chỉ nói cám ơn và từ chối. Tôi không sao nuốt nổi một miếng nào vô họng.

Một giờ sau, một liên lạc viên chạy vô phòng tôi: “Một công điện vừa nhận được từ phía Nam Iwo,” hắn la lớn. “Một trong những oanh tạc cơ vừa đáp xuống đó. Phi hành đoàn an toàn!”

Viên phi công tuông hết thủy lôi và quay phi cơ chạy về. Hắn biết rằng dẫu hắn có cố gắng một ngàn năm đi nữa hẵn cũng không thể nào chui lọt bức tường lửa do những chiếc Hellcat tạo ra.

Tin tức hầu như xoá hết sự căng thẳng. Nó cho thấy rằng không phải chỉ có tôi và Muto đã chặt đứt “sợi dây xích rắn chắc” của truyền thống và mệnh lệnh.
__________________
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #63 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:10:36 pm »

Chương XX


Lực lượng đặc nhiệm của Hoa Kỳ không cho chúng tôi nghiền ngẫm vận xấu của mình. Từ nhiệm vụ không may trở về vào ngày hôm trước, ngay hôm sau chúng tôi được 16 chiến hạm địch tiến sát vô hòn đảo nổi đại pháo chào mừng.

Tách khỏi thành phần chính của hạm đội, tám tuần dương hạm và tám khu trục hạm nhàn nhã hướng đến hòn đảo. Sau một vài quả đạn thăm dò, mười sáu chiến hạm di chuyển vào tầm trực xạ.

Suốt hai ngày, chúng tôi sống chui rút như chuột, cố vù mình xuống bụi cát của núi lửa Iwo Jima càng sâu càng tốt. Suốt 48 tiếng đồng hồ, mười sáu chiến hạm chậm rãi chạy lui chạy tới, hai bên hông tím thẫm ánh lửa loà sáng, tuôn ra những khối sắt thép gào, làm rung chuyển từ đầu đến cuối hòn đảo.

Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình bất lực và nhỏ nhoi như tôi đã cảm thấy trong hai ngày nầy. Chúng tôi bó tay, không biết cách nào để chống trả.

Mọi thứ trên hòn đảo đều bị xé nát thành manh múm. Không một ngôi nhà nào còn đứng vững. Không một căn lều nào thoát khỏi. Cả bốn chiến đấu cơ trở vừa về từ phi xuất cuối cùng cũng bị đạn đại bác nghiền nát.

Nhiều trăm binh sỹ bộ binh và hải quân thiệt mạng. Con số bị thương gấp đôi. Iwo nằm bất tỉnh. Mọi người đều ù tai nhức óc dưới hàng nhiều ngàn quả đạn đại pháo rớt không ngưng nghỉ lên hòn đảo nhỏ bé.

Binh sĩ thuộc tiểu đoàn phòng thủ trở nên đần độn, ngù ngờ bởi cuộc pháo kích khủng khiếp mà họ đã chịu đựng. Đầu óc họ rối loạn, họ ăn nói không đâu vô đâu.

Nhưng nhóm phi công nhỏ nhoi còn tồn tại đã gây sửng sốt không kém gì trận mưa pháo. Nhỏ nhoi, nhưng nhóm phi công không có phi cơ chúng tôi quyết tâm bảo vệ hòn đảo, chống lại cuộc đổ bộ mà mọi người đều tin tưởng sẽ xảy ra không chóng thì chầy. Chúng tôi tổ chức thành “Đại đội Thủy quân Iwo Jima” thề nguyền đấu lưng với những binh sĩ bộ binh còn sống sót chiến đấu cho đến người cuối cùng. Chúng tôi nhận võ khí và đạn dược. Chắc chắn chúng tôi sẽ bị tiêu diệt cấp kỳ. Nếu người Mỹ chiếm Saipan (việc nầy hình như đã xảy ra rồi), nếu họ nắm ưu thế tuyệt đối trên không, nếu các tàu chiến của họ khinh thường hạm đội của chúng tôi, chạy qua chạy lại sát Iwo Jima một cách ngạo mạn, thử hỏi họ không thể nào nuốt trôi hệ thống phòng thủ le que của chúng tôi hay không ?

Truyền tin Iwo Jima kêu gọi Yokosuka gởi viện binh liên hồi. Chúng tôi xin thêm chiến đấu cơ. Chúng tôi xin bất cứ thứ gì mà chúng tôi có thể bay được! Yokosuka không có gì cả. Ba mươi chiến đấu cơ Zero theo chúng tôi đến Iwo Jima là những chiến đấu cơ khả dụng cuối cùng. Không có hơn nữa! Rối loạn đang ngự trị tại Bộ Tư Lệnh Tối Cao ở Đông Kinh.

Tiếng la hân hoan, tiếng thét vui mừng đánh thức chúng tôi vào một buổi sáng, không lâu sau cuộc oanh kích tàn khốc. Hải quân không quên chúng tôi. Nhiều quân vận hạm xuất hiện ở chân trời, hướng về hòn đảo. Chúng tôi chạy xuống bờ biển vừa cười vừa la vừa nhìn các quân vận hạm phụt lên những tia lửa và nước, chìm ngay trước mắt chúng tôi. Tiềm thủy đỉnh Mỹ đã tiên đoán một cuộc di chuyển như vậy và chờ đợi để ra tay.

Thảm hoạ cuối cùng nầy là thảm họa quyết định. Nó trở thành hiển nhiên rằng chúng tôi đang hoi hóp, rằng trong vòng một hoặc hai giờ sau cuộc đổ bộ, người Mỹ sẽ kiểm soát Iwo. Chúng tôi cảm thấy chỉ còn sống sót một đôi ngày.

Người Mỹ không đến. Hết giờ nầy sang giờ khác, các quan sát viên trên những vọng canh từ đầu đảo đến cuối đảo chăm chăm nhìn ra biển, tìm kiếm hạm đội đổ bộ. Hết lần nầy đến lần khác, một quan sát viên vì quá căng thẳng tưởng như nhìn thấy một vật gì đó trên mặt biển nên vội vã báo động. Chuông, tù và, trống hay bất cứ thứ gì có thể gây ra tiếng động, đã phá tan sự yên tĩnh của hòn đảo với một âm thanh khiếp hãi. Chúng tôi lăn khỏi giường, mặt mày đanh lại, ghìm võ khí, sẵn sàng chiến đấu. Nhưng không có gì xảy ra.

Dĩ nhiên, chúng tôi không biết người Mỹ đã quay hướng sang Philippine, và cho mãi đến tám tháng sau họ mới quay lại Iwo Jima. Trong suốt tám tháng nầy, đại tướng Tadamachi Kuribayashi đã đặt chân lên hòn đảo, mang theo 17.500 binh sĩ bộ binh và gần 6.000 binh sĩ hải quân. Ông biến Iwo Jima thành một pháo đài kiên cố, với những công sự nổi và hệ thống phòng thủ ngầm mạnh mẽ. Ông đổ binh sĩ cho đến khi hòn đảo không còn chỗ để chứa.

(Sau nầy, nhiều nhân vật lãnh đạo quân sự Nhật Bản cho rằng cuộc chiến sẽ kết thúc sớm hơn nếu người Mỹ tấn công Iwo Jima vào tháng bảy năm 1944, thay vì chần chờ cho đến tám tháng sau. Theo những nhân vật nầy, cuộc đổ bộ ở Philippine là một cuộc đổ bộ vĩ đại và đắt giá, rất thành công đối với người Mỹ, nhưng lại là một mặt trận vô nghĩa, gây trì trệ sự chiến bại đã nhìn thấy trước mắt của Nhật Bản.)

Cuối cùng, cuộc đổ bộ được phỏng đoán từ lâu đã đến vào ngày 19 tháng hai năm 1945, qui tụ một sức mạnh quân sự vĩ đại. Theo hải quân Hoa Kỳ, lực lượng của cuộc đổ bộ gồm 495 chiến hạm, trong đó có 17 hàng không mẫu hạm. Tin tức chính thức của chính phủ Hoa Kỳ cho biết thêm về con số phi cơ không thể tưởng tượng đã yểm trợ cho cuộc đổ quân lên Iwo Jima: 1170 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ.

(Tổng số 75.144 binh sĩ chiến đấu Hoa Kỳ đã tham dự vào mặt trận gay go nhứt của toàn thể cuộc chiến nầy. Khi các trận đánh trên hòn đảo chấm dứt, 5.324 binh sĩ Hoa Kỳ thiệt mạng và 16.000 bị thương. Cho mãi đến ngày 16 tháng ba, Hoa Kỳ mới công bố đã kiểm soát được hòn đảo hoàn toàn, khi tên quân phòng thủ cuối cùng của Nhật Bản bị giết.)

Sau nhiều lần báo động đổ bộ hụt, một công điện từ Yokosuka đã gây kinh ngạc cho chúng tôi. Bộ Tư Lệnh Yokosuka thông báo cho chúng tôi biết tất cả sĩ quan tham mưu và phi công được rút về Nhật bằng phi cơ đưa tin. Những phi cơ nầy đang trên đường đến Iwo Jima.

Việc bất ngờ nầy đã gây hưng phấn cho bọn phi công chúng tôi. Chúng tôi đã chuẩn bị chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trên mặt đất… và bây giờ mạng sống của chúng tôi được phục hồi. Chúng tôi buông súng và chạy ùa ra phi trường chính tiếp tay với các cơ khí viên và bộ binh để lấp hàng nhiều trăm lỗ thủng do đạn đại pháo địch gây ra.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #64 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:11:16 pm »

Chúng tôi không bao giờ hy vọng một phép lạ xảy ra do đó không ai nghĩ đến việc sửa chữa phi đạo sau cuộc pháo kích ngày 4 tháng bảy. Tôi nằm trong số những phi công biến thành cu li, làm việc sốt sắng và hăng say. Dĩ nhiên, không phải tất cả mọi người đều vui vẻ. Còn những người phải ở lại. Chẳng hạn như các nhân viên bảo trì cũng như đơn vị bộ binh phòng ngự. Những người nầy, không ai thốt một lời phản kháng quyết định bỏ họ ở lại, nhưng có thể nhìn thấy sự đố kị và phẫn uất trên nét mặt của họ.

Quá trưa ngày hôm đó, những chiếc phi cơ đưa tin đầu tiên đáp xuống. Đó là những oanh tạc cơ phế thải, lần lượt sà sát mặt nước để tránh ra đa trên các chiến hạm địch quanh quẩn trong khu vực, khám phá. Thật may cho chúng tôi, trong suốt thời gian phi cơ đáp xuống và cất cánh, không có một chiến đấu cơ nào của Hoa Kỳ xuất hiện. Có tất cả 7 oanh tạc cơ hai máy đến chở những người được chọn để trở về Nhật.

Ngay cả hệ thống quân giai chặt chẽ đã từng áp dụng cũng trở thành vô hiệu trong tình cảnh tuyệt vọng của chúng tôi ở đây. Mỗi người được di tản lần lượt lên phi cơ theo thứ tự xếp hàng.

Nhóm của tôi gồm 11 hạ sĩ quan và binh sĩ phải ở lại vì không đủ chỗ. Chúng tôi nhìn đăm đăm theo chiếc phi cơ cuối cùng lướt trên không trung trực chỉ về Nhật.

Ngày hôm sau, một phi cơ duy nhứt quay lại hòn đảo để đón chúng tôi. Tôi mất tin tưởng khi nhìn thấy chiếc phi cơ lảo đảo trên phi đạo. Không chỉ là một chiếc phi cơ phế thải, nhưng còn tồi tệ đến nỗi khó thể tưởng nó có thể bay được. Với 11 người chúng tôi chất lên, chiếc phi cơ xiên xẹo chạy ra phi đạo. Nó không thể nào đạt đủ tốc lực để cất cánh, và một động cơ bốc khói từng cuộn. Viên phi công phải quay lại, và các cơ khí viên bắt tay sửa chữa ròng rã hai tiếng đồng hồ. Hai giờ bằng hai tuần đối với chúng tôi. Chúng tôi cứ dõi mắt lên trời, lo ngại chiến đấu cơ Hellcat xuất hiện rót đạn vô chiếc oanh tạc cơ già nua. Chỉ cần một chiếc Hellcat cũng đủ chôn chân chúng tôi trên hòn đảo.

Cuối cùng công việc sửa chữa hoàn tất. Khi chúng tôi bước lên phi cơ, nhân viên dưới mặt đất nhìn theo với đầy tuyệt vọng cho đến nỗi tôi phải quay lại nói với họ: “Chúng tôi sẽ sớm trở lại. Và sẽ trở lại sớm, với những chiến đấu cơ mới!”

Không ai trong số những người ở lại dám mơ tưởng rằng Iwo Jima sẽ được địch quân bỏ quên gần tám thàng ròng rã.

Khi chúng tôi bay được mười phút, chiếc phi cơ lắc lư mạnh mẽ. Tôi nhìn ra cửa sổ. Động cơ bên phải của chiếc phi cơ càng lúc càng lung lay dữ dội. Đóng sắt vụn nầy làm sao nuốt trôi 650 dặm để đưa chúng tôi về Nhật ?

Phi công phụ, một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, bước vô phòng lái, “ Chuẩn úy Sakai ? Thưa chuẩn úy, chuẩn úy có thể bước vô phòng lái để giúp chúng tôi không ?” Mặt hắn tái xanh và run còn hơn chiếc phi cơ.

Đoán biết hắn muốn gì, tôi đáp trước khi hắn dứt lời. “Quàzy lại! Với động cơ như vậy chúng ta không thể về tới Nhật đâu. Các anh phải quay phi cơ lại để sửa chữa nữa.”

Phi hành đoàn vâng lời lập tức. Trở lại Iwo, lui cui sửa chữa, và phi cơ lại cất cánh. Một giờ sau, chúng tôi chui vô một trận mưa bão cuồng nộ. Mưa đập liên hồi và mạnh mẽ trên thân chiếc phi cơ. Phi cơ dột nát, nước chảy xuống giống như một cái rây. Viên phi công phụ lại quay ra và yêu cầu tôi bước vô phòng lái.

Viên phi công trưởng khoảng hai mươi hai tuổi, hỏi tôi:

“Thưa chuẩn úy, chúng ta nên bay phía trên hay phía dưới lớp mây ?”

“ Phía dưới!” Tôi ra lịnh.

Mưa bão vẫn tiếp tục, mù mịt đến nỗi nhiều lần mắt chúng tôi như bị bịt kín. Cơn bão nầy dữ dội hơn cơn bão mà tôi đã gặp mấy ngày trước đây, lúc tôi còn cố tìm kiếm lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ ở gần Saipan. Chiếc oanh tạc cơ trồi lên hụp xuống, và rơi thấp dần cho đến khi bay hớt trên đầu ngọn sóng. Trong cơn tuyệt vọng, hắn quay khuôn mặt xanh xám sang tôi và hỏi một câu thật bi ai. “Bây giờ, chúng ta ở đâu, thưa chuẩn úy.”

Đó là một câu hỏi đần độn nhứt mà tôi được nghe từ miệng một viên phi công. Tôi sửng sốt mất một vài giây, không thốt nên lời. “Xuống đi! Tôi lái cho!”. Tôi hét. Hắn không phí thời giờ, rời khỏi ghế ngồi trao tay lái cho tôi.

Gần chín mươi phút tôi bay như kẻ đui mù, cố đưa chiếc phi cơ què quặt ra khỏi cơn mưa bão. Cuối cùng, bán đảo quen thuộc phía nam vịnh Đông Kinh hiện ra trong tầm mắt.

Tiếng kêu mừng rỡ của phi hành đoàn và hành khách làm rung chuyển chiếc oanh tạc cơ.

Chúng tôi đáp xuống căn cứ oanh tạc cơ Kisarazu, nằm phía bên kia vịnh, đối diện Yokosuka. Tôi đảo mắt quanh phi trường rộng lớn. Nhật Bản! Tôi lại đặt chân lên quê hương! Đã bao lần tôi tưởng không bao giờ nhìn thấy lại xứ sở. Chỉ một đôi giờ bay mà giữa đây và Iwo Jima khác biệt biết bao!

Đối với tôi, và mười người khác vừa rời bỏ đóng tro than của núi Hades trên đảo Iwo lại sau lưng, nước ngọt ngào và trong lành ở Nhật Bản là vật quí nhứt trên thế gian nầy. Nước ở đây không có mùi tro than dễ sợ như nước mưa hứng ở Iwo Jima. Tất cả chúng tôi chạy băng qua sân bay để đến một tháp chứa nước. Chúng tôi mở vòi cho nước mát lạnh bắn tung lên. Tôi uống lấy uống để, thưởng thức cảm giác và mùi vị cùng tận của nước ngọt chảy xuống cổ họng mình.

Nhưng Iwo Jima quá gần phía sau tôi. Muto và tôi đã cùng chung ý nghĩ, nên bỗng nhiên chúng tôi không thể nào uống thêm được nữa. Cả hai cùng nghĩ đến những đồng đội, những người đã chết chỉ một đôi ngày trước đây do thương tích của đạn pháo gây ra, kêu gào trong cơn hấp hối: “Nước! Nước”. Họ xin nước chúng tôi, nhưng không ai còn một giọt nào cả.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #65 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:11:53 pm »

Một tháng sau khi tôi trở về Yokosuka, tôi được thăng cấp Thiếu úy. Sau mười một năm, tôi tiến lên địa vị của một sỹ quan chính thức. Đó là một thành tích vượt bực trong binh chủng hải quân.

Có nhiều quân nhân tham dự trận tấn công tiềm thủy đỉnh vô Trân Châu Cảng đã được thăng đến hai cấp, và trong số đó có người bước ngay lên hàng ngũ sĩ quan, mười năm sau khi họ nhập ngũ. Tuy nhiên, việc thăng thưởng của họ giữ đúng truyền thống của hải quân: thăng cấp sau khi qua đời. Tôi là binh sĩ đầu tiên bước lên cấp bậc sĩ quan chính thức trong vòng 11 năm mà vẫn còn sống sót.

Muto và tôi được tái bổ nhiệm phục vụ ở Liên Không Đoàn Yokosuka. Chúng tôi không bị gởi trở lại Iwo Jima. Bộ Tư Lệnh Tối Cao bắt buộc phải bỏ trống không phận hòn đảo trong nhiều tháng sắp tới vì lý do thiếu phi công và phi cơ.

Hiện thời cuộc đổ bộ của địch quân ở Philippine đã nhìn thấy rõ rệt, do đó bao nhiêu phi công và phi cơ đều đổ sang để bao che cho lực lượng Nhật trên quần đảo nầy. Chúng tôi có gặp trung tá Nakajima khi ông lên đường nhận nhiệm vụ mới ở Cebu ( Philippine).

Nhiệm vụ mới của tôi là một sự thay đổi đáng phấn khởi so với những cú đấm bi thảm mà chúng tôi chịu đựng ở Iwo Jima. Nhiệm vụ nầy bao gồm công việc huấn luyện tân phi công và thí nghiệm phi cơ.

Bộ Tư Lệnh Tối Cao ra lệnh sản xuất hàng loạt chiến đấu cơ mới để thay thế loại chiến đấu cơ Zero. Ngay cả những sĩ quan cố chấp nhứt cũng không thể nào phủ nhận loại chiến đấu cơ Zero, có lần được xem làm mạnh mẽ, hiện thời đã mất khả năng của chúng. Họ cũng phải công nhận các loại chiến đấu cơ mới của đối phương trên chân các loại chiến đấu cơ cũ của chúng tôi nhiều. Ở quần đảo Mariana và ở các cuộc đụng độ hải không khác, chiến đấu cơ Grumman F6F Hellcat đã chứng tỏ ưu thế đáng nể về mọi mặt.

Nhiều báo cáo từ Nam Thái Bình Dương cho biết loại chiến đấu cơ mới Lockheed P.38 Lightning có những cải tiến lớn, vượt hẳn loại chiến đấu cơ cùng loại đã lâm trận hồi cuối năm 1942. Loại P.38 mới nầy có tốc lực nhanh, bay cao hơn chiến đấu cơ Zero rất xa, nhứt là khả năng chúi xuống và vượt lên cũng mau lẹ hơn. Phi công P.38 bay ở cao độ như vậy có thể chọn lựa thời gian và không gian để đánh… với kết quả đầy bi thảm cho phi công của chúng tôi.

Cũng không thể hồ nghi khả năng loại chiến đấu cơ Change Vought F4U Corsair của Thủy Quân Lục Chiến và Hải Quân Hoa Kỳ, hầu hết đều hoạt động từ các căn cứ trên đất liền. Nhanh nhẹn không bằng loại Hellcat, tuy nhiên loại Corsair có tốc lực nhanh hơn loại Zero nhiều, và có tốc độ bổ nhào khủng khiếp.

Các phi công Lục quân của chúng tôi ở Miến Điện đã báo cáo đụng độ với nhiều loại phi cơ mới của địch quân, như loại North American P.51 Mustang, vượt trội chiến đấu cơ Zero về tầm hoạt động xa. P.51 Mustang ra mắt lần đầu tiên khi hộ tống các oanh tạc cơ B.24 Liberator bốn máy dội bom lãnh thổ Nhật hồi tháng 11 năm 1943.

Và điều hiển nhiên Nhật Bản hoàn toàn không chuẩn bị để ứng phó với siêu pháo đài bay B.29 lần đầu tiên xuất phát từ các phi trường ở Trung Hoa bay đến thành phố Kyushu. Những chiến đấu cơ Hayabusa của Lục quân đã bó tay trước loại oanh tạc cơ bay mau, trang bị hùng hậu và bọc thiết giáp nầy. Nếu loại oanh tạc cơ B.17 đã từng là một đối thủ phi thường thì loại oanh tạc cơ B.29 nầy là một đối thủ không thể nào thắng nổi.

Những ý niệm phòng thủ thích nghi của Bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhật được đưa ra quá muộn, và cũng quá khiếm khuyết. Đa số chiến đấu cơ của chúng tôi là loại Zero, tỏ ra hữu hiệu trong thế công vào những ngày đầu của cuộc chiến, nhưng tỏ ra vô dụng khi chống lại loại oanh tạc cơ B.29. Hầu hết phi công oanh tạc cơ Nhật vẫn còn bay loại Mitsubishi Betty, hiện thời quá cũ kĩ, quá chậm chạp, và chỉ còn lại đặc điểm duy nhứt là biến thành ngọn đuốc trước hoả lực của đối phương.

Sự thất thủ của Saipan đã thúc đẩy việc phá vỡ bất ngờ những mạng nhện nằm trong kế hoạch của Nhật Bản, Bộ Tư Lệnh Tối Cao kêu gào chiến đấu cơ mới, vượt trội hơn loại chiến đấu cơ Zero.

Vào tháng mười một, tôi bắt đầu bay thử hai loại chiến đấu cơ mới. Đầu tiên là loại Shiden (Tia chớp), người Mỹ gọi là George, nặng nề và tầm hoạt động kém hơn loại Zero, nhưng tốc lực mau hơn và được trang bị đến bốn khẩu đại bác 20 ly. Shiden kiến trúc vững chắc, vỏ bọc sắt an toàn cho phi công. Tôi đã phải kinh ngạc về sự nhanh nhẹn trong thân thể nặng nề của loại phi cơ nầy.

Không may, đặc tính của chiến đấu cơ Shiden là hay dở chứng đòi hỏi phải có một phi công đầy đủ kinh nghiệm. Nhiều người đã có dịp bay thử với Shiden, nhưng không có dịp sống sót để lâm trận với nó.

Loại chiến đấu cơ mới thứ hai là Raiden (Sấm sét), người Mỹ gọi là Jack, trù tính chống lại oanh tạc cơ hạng nặng như B.29 chẳng hạn. Vì mục đích nầy, Raiden được chế tạo rất hoàn hảo, và nhiều phi công Nhật so sánh nó với loại chiến đấu cơ to lớn Focke Wulf Fw 190 của Đức. Bốn đại bác 20 ly đem tới cho Raiden một quả đấm hiệu quả trong việc chống lại các oanh tạc cơ, và với tốc lực hơn 400 dặm một giờ, được coi là phi thường lúc đó, nó vượt xa loại Zero. Ngay với trang bị và thân bọc thép dày của Raiden, loại chiến đấu cơ Zero đã không bì kịp rồi.

Raiden rất thích hợp để tấn công oanh tạc cơ, nhưng giống như loại Shiden, nó đòi hỏi tài ba của người lái. Bởi lẽ chỉ chú trọng đến tốc lực và trang bị, nên sự xoay trở lanh lẹ của Raiden rất yếu, so với loại Zero trên phương diện nầy, Raiden giống như một chiếc xe hơi. Chúng tôi chịu đựng sự mất mát đáng sợ trong khi huấn luyện. Sau nầy, khi những chiếc Hellcat và Mustang gầm thét trên không phận Nhật Bản, những phi công lái Raiden đụng độ với đối phương mới nhận thấy sự xoay trở yếu kém của nó, nhưng tất cả đều quá muộn.

Nhiệm vụ thí nghiệm phi cơ đã cho tôi cơ hội thăm viếng gia đình người chú họ một lần nữa. Tôi rời Yokosuka vào một sáng sớm chủ nhật để đến nhà chú tôi, lộ trình đi ngang qua Đông Kinh.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #66 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:12:38 pm »

Trong thời gian tôi vắng mặt, thủ đô sa sút hơn. Mặc dù từ năm 1942 không có trận oanh tạc nào xảy ra, nhưng phố xá có vẻ buồn tẻ và mất sinh khí. Hầu hết các tiệm buôn đều đóng cửa. Việc nầy có ý nghĩa rõ rệt. Không có hàng để bán và các chủ nhân vắng mặt, họ vô làm việc trong các cơ xưởng chiến tranh. Một vài tiệm buôn gượng gạo mở cửa, nhưng không còn sắc thái rộn rịp như tôi đã từng thấy trước đây, chỉ lèo tèo vài món hàng meo móc. Sự phong toả của Đồng Minh đã làm cho cái bụng của Nhật Bản thắt lại.

Tôi không ngớt đi qua những đám đông công nhân đang phá hủy nhà cửa dọc theo hai bên đường. Hàng mấy trăm người làm công việc nầy, nhằm dọn những khoảng trống để lửa không bắt qua, phòng ngừa trước các cuộc oanh tạc. Nhiều gia đình bắt buộc ra khỏi nhà, đứng thành từng nhóm nhỏ trên đường, đưa mắt buồn bã nhìn người ta xé nát căn nhà của mình ra mảnh vụn.
Tôi đã từng chứng kiến các trận oanh tạc. Đối với tôi công tác phá hủy nầy là một cố gắng đáng thương hại, một nỗ lực hoang phí, ít có hiệu quả trong việc chống lại loại bom cháy.

Hầu hết dân chúng đi trên đường đều mặc đồng phục làm việc, hoặc loại quần án căn bản của thời chiến, na ná như quân phục. Tôi không nhìn thấy một người đàn bà nào mặc y phục “Ngày chủ Nhật”, những chiếc Kimono màu sặc sỡ thời tiền chiến. Thay vào đó, họ mặc áo “Monpe” màu nâu sậm, và quần vải trơn rộng thùng thình.

Mỗi góc phố đều có đàn bà và trẻ con nối đuôi dài ngoằn, kiên nhẫn chờ đợi mua thức ăn. Mặt mày họ gầy tóp và lạnh lùng, chứng minh hùng hồn tình trạng thiếu thực phẩm đang đè nặng trên đời sống dân chúng.

Không phải mọi thứ đều đổi thay. Mấy chiếc loa phóng thanh đặt ở mỗi góc phố vẫn còn xỉa xói vô tai những lời hò hét, ca ngợi các chiến thắng tưởng tượng. Bích chương tràn ngập thành phố, kêu gọi dân chúng sản xuất mạnh mẽ hơn, chịu đựng thiếu thốn nhiều hơn, cho đến khi Nhật Bản hạ gục đối phương.

Tôi cảm thấy bệnh hoạn. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng mình sẽ được nhìn thấy nỗi khổ tận cùng hằn sâu trên gương mặt của dân chúng Nhật đến mức ấy.

Tôi chờ nhiều phút trước cửa nhà chú tôi. Có người đang dạo dương cầm… người đó là Hatsuyo chớ không ai khác. Tôi lắng nghe trong giây lát, khúc nhạc đầu tiên của nhiều tháng trước đây.

Tiếng nhạc ngưng lại khi tôi gõ cửa. Tôi nghe tiếng chân của Hatsuyo chạy.

Nụ cười của nàng rạng rỡ như một tia nắng ban mai. “Saburo! Ồ, gặp lại anh thật tuyệt dịu!” Nàng kêu lên. Nàng nhìn tôi chăm chú hồi lâu. “Tất cả gia đình đều cầu nguyện cho anh trở về, Saburo,” giọng nàng êm ái. “Mọi người hầu như đều gặp mau mắn. Anh trở về rồi đây, và đã trở thành một sỹ quan.”

Ngôi nhà quen thuộc không có gì đổi khác. Đối với tôi, vẫn là ngôi nhà đẹp hơn bất kì ngôi nhà nào khác, bởi ngôi nhà nầy là của Hatsuyo. “Em càng ngày càng đẹp,” tôi nói “một vật mỹ lệ nhứt mà anh được thấy trong nhiều tháng nay. Nhưng tại sao em ăn mặc như vậy ? Em là anh chói cả mắt,” tôi tỏ vẻ lạ lùng. Nàng mặc một chiếc áo Kimono trang nhã, thẳng nếp và gọn ghẽ trên thân hình mảnh khảnh của nàng.

Nàng cười dòn tan. “Saburo, thỉnh thoảng anh giống như một gã ngù ngờ! Anh không biết đây là một trường hợp đặc biệt hay sao ? Em mặc áo nầy là mặc cho anh. Em kiên nhẫn chờ đợi để được mặc nó khi tiếp đón một tân sĩ quan!” Nàng cười. “Đây, hãy nhìn hai cái tay áo nầy ?” Hai tay áo bị cắt cụt phân nữa!

“Chính phủ ra lịnh cho chúng em cắt ngắn tay áo,” nàng cười thích thú, xoay vòng quanh, hai bàn tay đưa về phía trước. “Anh không biết hả,” nàng thì thầm với dáng vẻ nghiêm trọng, “tay áo dài không thích hợp với tình trạng nguy cấp hiện thời.”

Tôi mỉm cười. “Hatsuyo, mọi người đi đâu hết rồi ?” tôi hỏi. “Chú thím không có ở nhà hả ?”

Nàng lắc đầu. “Chỉ một mình em ở nhà để đón anh, Saburo. Ba em không có ngày nghỉ. Ông tình nguyện tham gia vào công việc bảo vệ quê hương. Ông gia nhập vào Quân Đoàn Trù Bị Lục Quân và hiện đang tập tành ở một ngôi trường trung học gần đây. Đêm nay Michio sẽ làm việc phụ trội trong cơ xưởng.”

Mặt nàng trở nên u ám. “Má em cũng đi khỏi, Saburo. Bà định mua một cái gì đặc biệt để tiếp đãi anh ở… ở chợ đen.”

Tôi nhìn Hatsuyo. Nếu thím tôi làm như vậy, bà sẽ gặp rắc rối với cảnh sát. “Tại sao thím lại làm như vậy ? Tôi lo nghĩ. “Thím không biết việc gì có thể xảy ra cho thím hay sao ?”

“Em biết, em biết, Saburo”. Nhưng bà cứ muốn được tiếp đón anh một cách vui vẻ.

Tôi lắc đầu. “Hy vọng mọi việc đều êm xuôi. Khi gọi điện nói cho thím, anh có cho thím biết hiện thời không một quân nhân nào đến thăm một gia đình dân sự lại không mang theo phần ăn của mình bao giờ”. Tôi chỉ cho Hatsuyo thấy cái hộp thức ăn tôi mang theo, cũng như nhiều tặng phẩm khác mà tôi đã mua trong hợp tác xã quân đội Yokosuka.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #67 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:13:15 pm »

Hatsuyo bối rối. “Cám ơn anh, Saburo, và em… cám ơn anh.”

Nàng nói lảng sang vấn đề khác. “Hãy đến ngôi đây, Saburo. Rồi, bây giờ anh kể cho em nghe mọi chuyện từ ngày anh ra đi. Những gì đã xảy ra ở Iwo Jima ? Gia đình không nghe đài phát thanh đề cập đến, chỉ toàn là tin tức về cuộc chiến đấu khủng khiếp ở Saipan.”

Tôi bối rối. Chúng tôi có nhận được nghiêm lịnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra ở Iwo Jima. Thảm họa mà lực lượng chúng tôi chịu đựng ở đó được xếp vào hàng tối mật, và không ai bên ngoài quân đội được biết đến sự thật xảy ra.

Tôi xoay vấn đề, kể về chuyện những chiến đấu cơ mới mà tôi đã bay thử. “Nếu chúng ta có đủ những chiến đấu cơ mới nầy, chúng ta có thể lật ngược tình thế,” tôi nói “Với tốc độ phi thường, võ trang hùng hậu, loại phi cơ mới đủ sức tiêu diệt bất kì loại phi cơ nào của địch quân.” Tôi nói dối, tôi ý thức được điều nầy. Nếu cuộc huấn luyện cứ giữ một mực, với các khoá sinh đâm đầu xuống đất hàng ngày, chúng tôi chỉ có một vài phi cơ may mắn lên được trên không cho tới lúc chiến đấu.

Sau nửa giờ nói chuyện quanh quẩn mọi vấn đề, có một vấn đề cần thiết nhứt mà tôi chưa nói. Tôi liếc nhìn dáng ngồi nghiêng của nàng, nhìn điệu bộ khi nàng nói, đôi mắt ngời sáng khi nàng thích thú, đôi má lúm đồng tiền khi nàng cười.

Tôi muốn nói với Hatsuyo, nói một mạch không cần suy nghĩ. Tôi yêu nàng. Tôi muốn nàng biết tất cả mọi suy nghĩ của tôi. Hai tháng qua, nhưng đối với tôi hình như chỉ một đôi phút đây thôi, khi tôi quay đầu lại và nhìn thấy Iwo Jima tan biến dần ở chân trời thì hình ảnh của nàng hiện đến. Lúc ấy tôi nguyện với lòng rằng, nếu có một phép lạ nào đó mà tôi còn sống sót, tôi sẽ kể cho nàng nghe tất cả những cảm nghĩ của mình.

Bây giờ… tôi không thể nói! Không có gì thay đổi cả! Tôi vẫn là một phi công, cho dù tôi đã bước lên hàng ngũ sĩ quan. Tôi biết, tôi sẽ bay chiến đấu trở lại, và những chiếc Zero bùng cháy mà tôi đã nhìn thấy rơi xuống trước họng súng của những chiến đấu cơ Hellcat vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi. Tôi biết, chúng tôi phải đương đầu với những đối thủ vượt trội. Nếu chiến đấu trở lại, tôi sẽ đâm đầu xuống đất và chết cháy. Không biết giây phút nào.

Bỗng nhiên Hatsuyo làm tôi bừng tĩnh. “Saburo,” nàng dịu dàng nói, “Anh có biết Fujiko đã lấy chồng rồi không ?”

Tôi không biết. “Sau khi mọi chuyện êm lắng,” nàng nói tiếp, “Fujiko kết hôn với một phi công. Một phi công. Giống như anh.” Nàng thêm, giọng châm chọc.

Tôi muốn nói, nhưng nàng tiếp. “Saburo, tại sao anh chưa chịu lập gia đình ? Anh không còn trẻ nữa, anh biết rồi. Anh đã hai mươi bảy tuổi đầu. Anh đã nên người. Anh đã là một sĩ quan. Anh nên lo việc hôn nhân.”

“Nhưng anh đã nói với em, Hatsuyo, anh không quen biết một cô gái nào hợp với anh cả.”

“Anh không yêu Fujiko ?”

Tôi không biết nói sao. Một nỗi im lặng nặng nề vây lấy chúng tôi. Hatsuyo bước đến vặn nút chiếc máy phát thanh, bắt giờ nhạc êm dịu buổi trưa. Âm nhạc phá tan không khí nặng nề.

Nàng quay lại và ngồi xuống bên tôi. “Được rồi,” nàng nói, “dĩ nhiên, Saburo, anh cần phải tìm một người vợ thích hợp với anh mọi mặt.”

Hatsuyo đang làm tôi bối rối. Nàng không chịu nhìn nơi khác, mắt của nàng cứ nhìn tôi đăm đăm. Tôi trở nên luống cuống, định nói nhưng miệng cứ ấp úng mãi.

Tôi đứng ngay dậy và bước đến cửasổ, đưa mắt nhìn ra ngoài. Vườn hoa xinh xắn biến mất, thay vào đó là những gốc rau.

“Còn nhiều người đẹp hơn Fujiko nữa, Saburo,” Hatsuyo nói. Nàng đã đến bước đến phía sau tôi, và hiện tại hầu như thân thể nàng chạm vào tôi.

“Hatsuyo!” Tôi la lớn. “Anh không muốn nói đến chuyện nầy nữa!” Cơn thịnh nộ của tôi khiến nàng hoảng hốt. “Chúng ta đã nói đi nói lại bao nhiêu lần rồi. Nhưng thực tế không hề thay đổi. Không có gì thay đổi hết. Anh vẫn là một phi công, em biết chớ ? Mỗi lần anh cất cánh là có thể anh không bao giờ trở về. Mỗi lần! Điều đó chắc chắn xảy ra, không chóng thì chầy. Không chóng thì chầy!”

Tôi bực bội và phiền não. Tại sao nàng cứ nói đi nói lại về chuyện hôn nhân ? Tôi thấy tôi đáng ghét, do những lời lẽ mà tôi đã thốt ra. Tôi thấy tôi đáng ghét, vì không dám nói ra cảm nghĩ của mình cho nàng nghe.

“Hiện tại không có một phi công nào mà không chuẩn bị để chết, Hatsuyo,” tôi giải thích. “May mắn của chúng anh được đặt ra ngoài. Tài ba vô dụng. Việc nầy…”

“Anh nói giống như trẻ con. Saburo,” Đôi mắt nàng bừng lên nỗi giận dỗi. Tiếng nàng trầm xuống đến nỗi tôi phải cố lắng nghe. “Anh cứ nói vòng quanh, và anh không biết những gì anh đang nói. Anh không biết trái tim của một cô gái.”

Nàng giơ tay lên trong một dáng điệu giận dữ. “Anh nói về chuyện bay bổng, về chuyện chết chóc, Saburo. Anh không biết nói gì khác hơn. Anh không biết nói về sự sống còn.”

Nàng bước đến tắt chiếc máy thâu thanh với một cử động giận dữ. Không thèm để ý đến tôi, nàng ngồi trước chiếc dương cầm, mấy ngón tay uể oải trên phím đàn.

Tôi câm miệng. Nhiều phút trôi qua, tôi đứng chôn chân một chỗ, không nói một lời. Cuối cùng, tôi lên tiếng. “Hatsuyo, anh… anh không biết. Có lẽ, nếu… Đó là lỗi của anh. Anh có thể làm gì được một khi chúng ta đang ở vào thời chiến ?” Tôi nói lớn. “Tại sao em cứ nói mãi vấn đề nầy ?”.

“Gặp em trong ngôi nhà nầy, như vậy đã là quá đủ đối với anh rồi.” Tôi tiếp.
“Anh muốn … ồ, anh không biết,” tôi ấp úng. “Tất cả những gì anh muốn biết, tất cả những gì mà anh ao ước là được thấy em vẫn còn sống sót và hạnh phúc.”

Nàng đập mạnh đôi tay lên phím đàn và quay lại. “Em không muốn sống nữa! sống để làm gì và… và…” Nàng đặt tay lên ngực: “trống rỗng ở đây ? Không một ai trong chúng ta, ngay cả một phi công, ngay cả những người trong ngôi nhà nầy có thể nhìn thấy trước sự sống còn. Anh không hiểu như vậy sao, Saburo ?”

Cơn giận của nàng khiến tôi giật mình. “Một người đàn bà chỉ hạnh phúc,” nàng nói thẳng, “một khi nàng được sống với người đàn ông mà nàng yêu thương. Cho dù, cho dù chỉ một đôi ngày cũng được.”

Nàng quay khuôn mặt bi thiết đi, dồn hết giận dữ lên chiếc dương cầm. Tôi đứng như trời trồng, không biết nói hoặc làm gì.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #68 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:14:18 pm »

Chương XXI


Vào ngày 30 tháng mười, mười ngày sau các bính sĩ đầu tiên của Hoa Kỳ tràn lên bãi biển Philippine, Bộ Tư Lệnh Tối Cao Hoàng Gia đưa ra thông cáo lịch sử nầy:

“Đơn vị Shikishima, thuộc không đoàn Tấn Công Đặc Biệt, vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 25 tháng mười năm 1944 đã thành công trong một cuộc tấn công bất ngờ chống lại lực lượng đặc nhiệm đối phương, trong đó có 4 hàng không mẫu hạm, cách đông bắc đảo Suluan, thuộc quần đảo Phi Luật Tân, ba mươi hải lý. Hai phi cơ tấn công đặc biệt đã đâm nhào xuống một hàng không mẫu hạm địch, gây nhiều đám cháy và tiếng nổ lớn, và có lẽ chiếc tàu đã chìm. Một phi cơ thứ ba đã chúi xuống một hàng không mẫu hạm khác, gây một đám cháy khổng lồ. Một phi cơ thứ tư khác cũng chúi xuống một hàng không mẫu hạm, gây ra một tiếng nổ dữ dội và chiếc tàu đã chìm ngay sau đó.”

Tiếng sấm của của những ngọn Thần Phong đã bắt đầu. Nhiệm vụ tự sát đầu tiên do trung úy Yukio Seki thực hiện. Yukio cầm đầu 5 chiến đấu cơ Zero, mỗi chiếc mang một trái bom 550 cân Anh. Seki là một phi công oanh tạc cơ có khoảng 300 giờ bay, bốn phi công khác cũng không hơn hắn mấy. Tuy nhiên, chỉ có một trong năm chiếc không chúi trúng mục tiêu.

Bốn chiếc Zero bay theo hộ tống năm chiến đấu cơ tự sát. Sau đó tôi biết được người cầm đầu nhóm hộ tống là người bạn Hiroyoshi Nishizawa của tôi, hiện thời là một chuẩn úy. Nishizawa đã khéo léo né tránh sự ngăn chặn của hơn hai mươi chiếc Hellcat, đưa năm phi cơ Thần Phong xuyên qua những trận cuồng phong để tiến đến hạm đội địch quân.

Sau khi năm phi cơ Thần Phong đã chúi xuống, Nishizawa trở về sân bay Mabalacat ở Cebu, và báo cáo kết quả phi thường của nhiệm vụ.

Trong binh chủng hải quân, nơi nào các phi công cũng bàn về cuộc tấn công chưa từng có trước đây. Và cuộc tấn công đã đạt đến một kết quả rực rỡ nầy, trái ngược hẳn những mất mát đầy bi thảm trong cuộc tấn công của chúng tôi ở Iwo Jima. Trong tư cách một phi công chiến đấu, tôi không tán thành nhiệm vụ tự sát, nhưng hiện tại không thể phủ nhận hiệu quả của cú đấm kinh khiếp đã giáng xuống hạm đội Hoa Kỳ ở Philippine. Thật ra, ở hiện tại, tôi ý thức rằng việc bổ nhào xuống để tự sát có vẻ là phương pháp duy nhứt của chúng tôi để đánh trả lại tàu chiến Hoa Kỳ.

Từ ngày đó trở về sau, danh từ Kamikaze nằm trên đầu môi của chúng tôi. Chúng tôi biết mỗi lần Kamikaze cất cánh là mỗi lần đi vào cõi chết. Nhiều Kamikaze không thể nào tiến đến các mục tiêu, vì bị phi cơ nghinh chiến của đối phương bắn hạ hoặc bị những bức tường hỏa lực phòng không kiên cố do các chiến hạm địch tạo ra ngăn chận.

Nhưng luôn có những Kamikaze vượt thoát để rồi nhào xuống chiến hạm địch giống như những hồn ma phục thù, có nhiều chiếc tiến đến mục tiêu với đôi cánh rách te tua hoặc bao trùm trong lửa đỏ. Thỉnh thoảng từng chiếc một, hai chiếc, hoặc cả nhóm từ sáu đến mười sáu chiếc Kamikaze lướt lên không trung cho lần đi cuối cùng.

Thần Phong đã cho chúng tôi một sức mạnh mới đầy kinh khiếp. Hiệu quả được nhìn thấy qua một một số chiến hạm và quân vận hạm địch, có lần là những mục tiêu khó xâm nhập vì được hỏa lực bao che mạnh mẽ, hỗn loạn trong cảnh xăng cháy, bom nổ và tiếng người la hét.

Những Kamikaze đã cào các hàng không mẫu hạm từ mũi đến lái, đánh chìm nhiều hơn bất kì loại vũ khí nào mà chúng tôi đã từng sử dụng để tấn công loại tàu nầy. Còn loại tuần dương hạm và khu trục hạm, mỗi lần Kamikaze chúi trúng thì đó như là một hồi chuông báo tử được gióng lên.

Đối với địch quân, họ coi sự tự sát của phi công Nhật là bị ép buộc. Dĩ nhiên người Mỹ hoặc bất kì người nào thuộc thế giới Tây Phương không thể hiểu biết đầy đủ vấn đề nầy. Họ cho rằng mạng sống của binh sĩ Nhật bị quăng ra một cách rẻ rúng. Trái ngược hẳn, các phi công Kamikaze đã tình nguyện hàng loạt để thực hiện các nhiệm vụ một chiều của họ.

Nhiệm vụ nầy không thể gọi là tự sát! Những phi công, trẻ có già có, họ đã không chết một cách vô ích. Mỗi phi cơ chúi trúng mỗi chiến hạm địch là một cú đấm mà phi công đã dành cho quê hương của họ. Mỗi trái bom Kamikaze rơi trúng các bồn chứa xăng của một hàng không mẫu hạm khổng lồ, sẽ có nhiều kẻ thù bị giết, triệt hạ nhiều phi cơ bay đến thả bom và bắn phá trên mảnh đất quê hương của họ.

Những người nầy có niềm tin. Họ tin vào nước Nhật, họ đánh kẻ thù bằng chính mạng sống của họ, cho nước Nhật. Đó là một cái giá rẻ, một người đánh đổi lấy mạng sống của hàng mấy trăm người đôi khi cả hàng mấy ngàn người. Xứ sở của chúng tôi không thể nào dựa vào sức mạnh của những chiến thuật thông thường hiện tại.

Tuy nhiên, một lần nữa, Thần Phong là một trường hợp quá ít ỏi, quá muộn màng. Ngay cả những thành quả vĩ đại được gặt hái bởi các phi vụ Kamikaze cũng không thể nào chận đứng cú đấm tập trung khủng khiếp của người Mỹ. Họ quá mạnh, quá nhiều, quá tiến bộ. Họ có quá nhiều chiến hạm, quá nhiều phi cơ, súng ống và nhân lực.

Dĩ nhiên, những phi công Nhật thực hiện phi vụ của họ đều ý thức được việc nầy. Chắc chắn có nhiều phi công Thần Phong ra đi với thừa nhận tình thế tuyệt vọng của Nhật Bản trong cuộc chiến. Nhưng họ không co đầu rụt cổ, không do dự. Họ bay và chết cho xứ sở của họ.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #69 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:14:51 pm »

Có những điềm xấu báo trước cho dân tộc chúng tôi. Một trong những chiếc B.29 vĩ đại bay ù ù trên không phận Đông Kinh lần đầu tiên vào ngày 1 tháng 11 năm 1944, xuất phát từ các căn cứ mới trên đảo Saipan. Giờ phút hãi hùng của dân chúng ở kinh đô hầu như đã nằm trong tầm tay, vì điều hiển nhiên chiếc oanh tạc cơ đáng sợ đó chỉ là một phi cơ do thám lót đường cho những chiếc khác nối bước trong tương lai gần. Chiếc siêu pháo đài bay đã lướt một cách nhởn nhơ, xa tít trên không phận Đông Kinh, và các chiến đấu cơ của Lục Quân cũng như Hải Quân cuống cuồng nhảy lên để chận bắt kẻ xâm nhập. Nhưng tất cả đều không thể nào tiến sát để bắn ra một phát đạn.

Vào ngày 5 tháng 11, và một lần nữa vào ngày 7, một chiếc B.29 đơn thân độc mã từ Saipan đến viếng thăm thủ đô Đông Kinh. Lần thứ hai và thứ ba nầy, các chiến đấu cơ Nhật đều ùa lên không, và cố đạt đến cao độ cho bằng phi cơ địch một cách vô ích. Bộ Tư Lệnh Tối Cao nổi nóng, chửi bọn phi công vụng về và ngu xuẩn. “Chỉ có một chiếc phi cơ địch mà không làm nên trò trống gi cả.” Họ thét.

Họ không hiểu sự khó khăn trong việc ngăn chặn các siêu pháo đài bay ở cao độ đó. Một việc nữa, chỉ trong vòng một vài phút giữa thời gian nhận báo động và cất cánh không thể cho phép chiến đấu cơ lên đến nơi thì oanh tạc cơ địch đã bay mất. Cho dù có tiến lên kịp đi nữa, phi công Nhật cũng không chắc có thể đuổi kịp tốc lực đáng kinh sợ của chiếc B.29.

Vào tháng mười hai, những cú đấm chờ đợi từ lâu đã đến. Đông Kinh, Osaka, Nagoya, Yokohama và nhiều thành phố lớn khác của xứ sở chúng tôi nằm khoanh dưới những đợt tấn công khủng khiếp của các oanh tạc cơ Hoa Kỳ. Chúng san bằng các cơ xưởng chế tạo máy bay, và hủy diệt lần lượt mọi cơ xưởng khác.

Những cuộc không tập khủng khiếp trên các thành phố lớn của Nhật Bản đã được lịch sử dành cho những chương vĩ đại nhứt. Đó là một câu chuyện mà cả thế giới đều biết rõ.

Các siêu pháo đài bay đều xuất hiện trong đêm, và hầu hết phi công Nhật chỉ biết ngồi bó gối trên mặt đất, miệng không ngớt nguyền rủa sự yếu kém khả năng hoạt động đêm của chiến đấu cơ Nhật và sự khiếm khuyết huấn luyện dạ chiến của họ. Phi cơ địch chỉ bị hỏa lực phòng không phá rầy mà thôi.

Khắp nơi, chúng tôi đang thua. Mọi nơi, chúng tôi bị đối phương bắt buộc phải thối lui, phải triệt thoái. Các đơn vị không quân của chúng tôi bị cắt ra từng mảnh, phi cơ của chúng tôi rơi như lá rụng, phi công của chúng tôi không chết một người, hai người hoặc ba người lẻ tẻ, họ chết hàng mấy chục trở lên. Vào giữa tháng hai, năng lực phòng thủ Philippine của chúng tôi hấp hối. Mọi phi cơ Nhật trên quần đảo đều biến mất, nếu không bị chiến đấu cơ Mỹ đẩy rớt xuống đất, thì cũng bị các cuộc tấn công Kamikaze thiêu rụi hết. Các cuộc tấn công nầy cứ tiếp tục cho đến khi không còn chiếc phi cơ nào để tiếp tục.

Vào ngày 20 tháng giêng năm 1945, Hải quân Hoàng Gia thành lập một không đoàn chiến đấu cơ mới, không đoàn cuối cùng của cuộc chiến, ở Matsuyama, trên đảo Shikoku. Khi thuyên chuyển đến căn cứ không quân mới, tôi gặp trung tá Nakajima, ông được chỉ định vào chức vụ chỉ huy phó không đoàn. Ông rút khỏi Philippine với mười lăm phi công chiến đấu cơ khác để lập nền tảng cho không đoàn mới. Đây là không đoàn bao gồm những tay chiến đấu tài ba. Chỉ huy trưởng không đoàn là đại tá Minoru Genda, được xem như là một trong những chiến lược gia hải quân sáng chói nhứt của Nhật Bản.

Nakajima là người duy nhứt mà tôi quen biết nhiều. Một hôm có dịp tôi vô văn phòng của ông với ý định nhắc nhở lại những người đã từng chiến đấu với chúng tôi trong quá khứ. Tôi đã lặng người khi ông cho tôi biết tin tức về cái chết của Nishizawa.

“Hắn đã mất”, Nakajima nói, “trong một trường hợp đáng tiếc xảy ra vào ngày 26 tháng mười, ngay sau ngày cuộc tấn công Thần Phong đầu tiên.”

“Nishizawa đã tình nguyện tham dự phi vụ Thần Phong vào ngày kế đó, sau khi hộ tống năm chiến đấu cơ Zero chúi xuống chiến hạm địch trở về. Hắn nói với tôi rằng hắn sẽ chết sớm. Việc nầy thật lạ lùng,” Nakajima nghĩ ngợi, “nhưng Nishizawa nhấn mạnh rằng hắn có một linh cảm. Hắn cảm thấy đời sống của mình chỉ còn một đôi ngày nữa mà thôi.”

“Tôi không cho hắn đi. Một phi công tài ba như vậy, để hắn chiến đấu sẽ có ích cho xứ sở hơn là để hắn chúi xuống một hàng không mẫu hạm. Nhưng hắn cứ nằng nặc xin đi cho được."

“Nhưng, vào ngày chiếc chiến đấu cơ của Nishizawa chuẩn bị sẵn sàng thì hắn được lịnh lái một chiếc vận tải cơ DC3 cũ kỹ và không võ trang, trên đó có một số phi công khác, đến phi trường Clark để nhận một số chiến đấu cơ Zero. Chiếc vận tải cơ cất cánh vào sáng sớm ngày 26 tháng mười từ Mabalacat và mất tích luôn.

“Phi cơ của hắn có lẽ bị chiến đấu cơ Hellcat hoạt động trong khu vực đó bắn hạ. Hình như hắn rớt ở một nơi nào đó ở Cebu. Tôi vẫn không thể nào tin nổi, Saburo, một phi công vĩ đại như vậy lại chết như vậy, bất lực, không thể nào bắn được một phát súng tự vệ…” không còn gì để nói. Như vậy là Nishizawa cũng ra đi. Vị thần sát tinh của các phi cơ địch ở Lae và Rabaul đã đi chung đường với Sasai, Ota và những người khác.

“Ngay cả trong tình trạng chiến đấu ở Philippine gian nan hơn trước đây cũng không thể phá nổi những chiến thắng trên không của hắn.” Nakajima nói, và ông tin rằng Nishizawa đã hạ hơn 100 phi cơ địch trong các trận không chiến. Điều nầy không thể nghi ngờ, cả tôi lẫn Nakajima hay bất kì người nào đã từng biết và chiến đấu với Nishizawa đều phải công nhận hắn là một “Ace” vĩ đại nhứt của Nhật Bản, một phi công có khả năng và tài ba vô tiền khoáng hậu. Vậy mà hắn đã thiệt mạng trong một vận tải cơ không võ trang! Tin tức về cái chết của hắn đã gây cho tôi một sự xúc động kì dị. Tôi trở về chỗ trú khu, lấy giấy và viết ra. Ít nhứt, tôi nghĩ, trước khi chết tôi phải bày tỏ với Hatsuyo những gì mà tôi muốn nói, những gì mà tôi cảm thấy nàng cũng muốn biết.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM